Đề tài Thực trạng triển khai chế độ trợ cấp ốm đau tại bảo hiểm xã hội giai đoạn 2005 - 2009

MỤC LỤC MỞ ĐẦU CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BHXH VÀ CHẾ ĐỘ TRỢ CẤP ỐM ĐAU 1.1. Tổng quan về BHXH 1.1.1. Khái niệm về BHXH 1.1.2 Vai trò của BHXH 1.1.3 Chức năng và tính chất của BHXH 1.1.4 Đặc trưng của BHXH 1.1.5. Các quan điểm cơ bản về BHXH 1.1.6. Nguyên tắc hoạt động của BHXH 1.2. Chế độ trợ cấp ốm đau trong hệ thống BHXH 1.2.1. Khái niệm và bản chất của chế độ trợ cấp ốm đau 1.2.2. Nội dung của chế độ trợ cấp ốm đau 1.2.2.1 Vị trí vai trò của chế độ ốm đau trong BHXH 1.2.3. Một số công ước quốc tế về trợ cấp ốm đau CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI CHẾ ĐỘ TRỢ CẤP ỐM ĐAU TẠI BHXH VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2005-2009 2.1. Khái quát về BHXH Việt Nam 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của BHXH Việt Nam 2.1.2. Nhiệm vụ và quyền hạn của BHXH Việt Nam 2.2.Thực trạng triển khai chế độ trợ cấp ốm đau ở BHXH Việt Nam giai đoạn 2005-2009 2.2.1 Quy định pháp lý liên quan đến chế độ trợ cấp ốm đau tại Việt Nam 2.2.2. Cơ sở chi trả 2.2.3. Quy trình chi trả 2.2.4. Về tổ chức phương thức chi trả 2.3. Đánh giá kết quả đạt được và hiệu quả thực hiện chế độ trợ cấp ốm đau 2.3.1.Kết quả công tác quản lý chi trả các chế độ BHXH ngắn hạn từ năm 2005 đến 2009 2.3.2. Đánh giá chung về công tác quản lý chi trả chế độ trợ cấp ốm đau trong thời gian qua CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÁC CHẾ ĐỘ TRỢ CẤP ỐM ĐAU Ở VIỆT NAM 3.1. Định hướng phát triển của BHXH Việt Nam đến năm 2020 3.1.1 Mục tiêu 3.1.2 Định hướng phát triển 3.2 Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình xây dựng và hoàn thiện chế độ trợ cấp ốm đau 3.2.1 Thuận lợi 3.2.2 Khó khăn 3.3. Các giải pháp chủ yếu hoàn thiện chế độ trợ cấp ốm đau 3.3.1. Về công tác quản lý nguồn chi trả 3.3.2. Về phương thức chi trả 3.3.3. Giải pháp về thanh tra, kiểm tra 3.3.4 Tăng cường tuyên truyền, phổ biến chính sách , chế độ đến người lao động và người sử dụng lao động 3.3.5. Một số giải pháp khác 3.4. Một số kiến nghị 3.4.1. Đối với cơ quan BHXH 3.4.2. Đối với các cơ quan chức năng khác có liên quan KẾT LUẬN

doc73 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6525 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng triển khai chế độ trợ cấp ốm đau tại bảo hiểm xã hội giai đoạn 2005 - 2009, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uản lý do doanh nghiệp được giữ lại 2% để tự chi trả nhằm đảm bảo tính kịp thời khi chi trả trợ cấp. Trên đây là những nguyên nhân chính khiến cho số đối tượng hưởng trợ cấp ốm đau tăng lên nhanh chóng như vậy trong gian đoạn 2006-2008. Đặc biệt là năm 2007 với tốc độ tăng lên tới gần 60% thì ngoài các nguyên nhân trên còn do một số các nguyên nhân khác: trong năm này nước ta đã có sự tăng trưởng nhanh chóng và tốc độ tăng trưởng được đánh giá là cao nhất trong mười năm qua (8,5%). Vậy nên trong thời gian này công nhân trong các nhà máy, đặc biệt là các nhà máy sản xuất hàng xuất khẩu luôn phải làm tăng ca, thêm giờ trong những áp lực lớn về thời gian giao hàng, chất lượng sản phẩm do người chủ sử dụng lao động yêu cầu. Điều này cũng gây ảnh hưởng không nhỏ tới sức khỏe của người lao động làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp này do điều kiện lao động không được đảm bảo... Sang đến năm 2009 thì tốc độ tăng đã giảm đáng kể chỉ còn 3,8% . Có được điều này là do trong năm này công tác phòng chống dịch bệnh của nước ta đã được nâng cao và thực hiện rất tốt nên dã kĩm hãm được sự phát triển của các dịch bệnh. Nguời lao động đã có ý thức tốt hơn trong việc giữ gìn vệ sinh, sức khỏe của chính mình. Việc thực hiện an toàn vệ sinh thực phẩm trong các nhà máy xí nghiệp cũng được thực hiện nghiêm ngặt hơn. Và tình hình kinh tế nước ta đã bắt đầu thoát khỏi cuộc khủng hoảng nên tình trạng làm giả hồ sơ để trục lợi BHXH đã giảm đáng kể. 2.3.1.2 Về công tác thực hiện chi trả: Bên cạnh sự tăng của đối tượng hưởng thì số tiền chi trả cũng không ngừng được tăng lên. Trong thời gian qua, thực tế tình hình chi trả BHXH như sau: Bảng 2.2: Tổng hợp chi chế độ ốm đau (2005-2009) Năm 2005 2006 2007 2008 2009 Số tiền(tr.đ) 209.031 401.173 428.666 474.717 635.832 Tốc độ tăng (%) - 91,92 6,8 10,74 33,93 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm – BHXH Việt Nam) Theo số liệu trên ta thấy, trong 5 năm (2005-2009), BHXH Việt Nam đã chi hơn 2,1 tỷ đồng cho chế độ ốm đau. Do sự biến động của đối tượng hưởng mà tình hình chi trả chế độ này cũng biến động tương ứng theo 2 thời kỳ: - Từ năm 2005 đến 2006, số tiền chi trả cho chế độ tăng lên rất nhanh, sự tăng lên này là do : Thứ nhất là do số lượng đối tượng hưởng các chế độ BHXH trong thời gian qua tăng lên nên số chi trả trợ cấp cũng tăng lên. Thứ hai là do Nhà nước đã thực hiện cải cách tiền lương, nâng mức tiền lương tối thiểu nên mức trợ cấp BHXH cũng được điều chỉnh cao hơn, cụ thể: Từ tháng 01/2005 đến tháng 9/2005, áp dụng mức tiền lương tối thiếu 290.000 đ/tháng theo Nghị định 203/2004/NĐ-CP. Từ tháng 10/2005 đến tháng 9/2006, áp dụng mức tiền lương tối thiểu là 350.000 đ/tháng theo Nghị định số 117/2005/NĐ-CP. Từ tháng 10/2006 đến tháng 11/2007 áp dụng mức lương tối thiểu là 450.000 đ/tháng theo Nghị định số 94/2006/NĐ-CP. Đến năm 2007, khi bắt đầu áp dụng Luật BHXH, tình hình chi trả chế độ ốm đau có tăng, nhưng tốc độ tăng thấp (tăng 6,8%) lí do là : Trong thời gian này có sự điều chỉnh trong việc hưởng trợ cấp ốm đau, cụ thể: Với trường hợp hết thời hạn 180 ngày mà vẫn còn tiếp tục điều trị thì theo chế độ cũ sẽ được hưởng 60% lương nếu đóng dưới 15 năm; 65% nếu đóng từ 15-30 năm; 70% nếu đóng trên 30 năm, còn theo Luật BHXH điều chỉnh mức hưởng giảm còn 45% nếu đóng dưới 15 năm; 55% nếu đóng từ 15-30 năm; 65% nếu đóng từ 30 năm trở lên. Như vậy, theo quy định mới thì mức hưởng trợ cấp đã giảm so với trước đó khiến cho số tiền chi trả cũng giảm theo. Hai là, hoạt động chi BHXH và quản lý đối tượng ở nhiều địa phương được quản lý chặt chẽ hơn từ khi ra đời luật BHXH nên đã giảm bớt các trường hợp định làm giả hồ sơ để trục lợi tiền trợ cấp của chế độ này. Sang đến năm 2008, cùng với sự tăng lên của đối tượng hưởng, Nhà nước đã thực hiện sự điều chỉnh nâng mức lương tối thiểu lên nhằm nâng cao quyền lợi cho người hưởng, đảm bảo và đáp ứng các nhu cầu thiết yếu cho đối tượng hưởng, cụ thể: tháng 10/2006, mức lương tối thiểu chung tăng 450.000 đồng/tháng; đến tháng 1/2008, lương tối thiểu chung đã tăng lên là 540.000 đồng/tháng. Sự điều chỉnh thay đổi này cũng góp phần làm tăng tổng số tiền chi trả cho chế độ trong năm này. Và đến năm 2009 thì mức tiền lương tối thiểu đã được đưa lên là 650.000 đồng/tháng (theo Nghị định 110/2008/NĐ-CP).Việc tăng mức lương tối thiểu là hợp lý nhằm nâng cao mức sống của người lao động và thực hiên theo đúng lộ trình chiến lược đề ra của Chính phủ và nhằm đảm bảo an sinh xã hội. Tuy nhiên việc điểu chỉnh cũng đã tạo ra một áp lực không nhỏ đối với cơ quan BHXH Việt Nam trong việc chi trả và cân đối quỹ. Và ngoài ra thì việc số đối tượng hưởng trợ cấp ốm đau lên tăng nhanh chóng cũng là nguyên nhân khiến cho số tiền chi trả trợ câp tăng lên. Bảng2.3 : Mức chi trả bình quân cho một lượt người bị ốm đau (2005-2009) Năm 2005 2006 2007 2008 2009 Số tiền 199.610 317.486 215.437 188.969 243.685 Tốc độ tăng (%) - 59,05 -32,14 -12,2 28,95 (Nguồn:Báo cáo tổng kết hàng năm – BHXH Việt Nam) Tuy nhiên, trong khi số lượt người ốm tăng lên, tổng số tiền chi trả trợ cấp tăng lên thì mức chi trả bình quân cho mỗi lượt người bị ốm đau lại có những biến động khác chiều : tăng mạnh vào năm 2006 đây là do mức lương tối thiểu trong thời gian này liên tục tăng và giảm dần từ năm 2007- 2008 mặc dù trong thời gian này mức lương tối thiểu vẫn tăng lên, nguyên nhân là do: thứ nhất là do từ năm 2007 bắt đầu áp dụng luật BHXH mới nên mức hưởng trợ cấp đã được điều chỉnh giảm xuống với các quy định trước đó, thứ hai là do trong thời gian này các ca ốm đau số đông là do nhiễm dịch bệnh hoặc do người lao động có con nhỏ bị đau ốm nên thời gian nghỉ ốm ngắn dẫn mức trợ cấp bị kéo xuống và nhiều trường hợp các bệnh có sự tái phát lại sau khi điều trị. Đến năm 2009 thì mức trợ cấp bình quân đã tăng lên. Do trong năm này công tác dập dịch đã được thực hiện tốt nên đã làm giảm tốc độ tăng của những người bị mắc dịch bệnh.Và ngoài ra cũng do mức lương tối thiểu được tăng lên trong năm này khá cao Nhìn chung, trong 5 năm công tác chi trả chế độ trợ cấp ốm đau luôn được thực hiện tốt, đảm bảo đủ số chi cho các đối tượng. Và Luật BHXH ra đời có những quy định mới về việc trích lập nguồn chi trả cho chế độ này cụ thể: Từ năm 2005-2006, nguồn chi trả cho chế độ ốm đau được lấy từ 5% tổng quỹ tiền lương, tiền công: Bảng 2.4: So sánh số tiền chi trợ cấp ốm đau với 5% tổng quỹ tiền lương, tiền công (2005 - 2006) Năm Quỹ TL đóng BHXH (tỷ đồng) 5% Quỹ lương Chi chế độ trợ cấp ốm đau(tỷ đồng) Tỷ lệ (%) 2005 87.396 4.369 209.031 4,78 2006 98.762 4.938 401.173 8,12 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của BHXH Việt Nam) Qua số liệu bảng trên ta thấy, nguồn chi trả cho chế độ trợ cấp ốm đau được lấy từ 5% tổng quỹ tiền lương, tiền công mà chủ sử dụng lao động đóng luôn đảm bảo đủ để thanh toán các chế độ, thậm chí chỉ chiếm một tỷ lệ không lớn ( trung bình mỗi năm tỷ lệ chi chỉ chiếm 4,78% nguồn chi trả của chế độ ốm đau). Như vậy, mỗi năm đều có sự kết dư khá cao, mặc dù 5% còn dùng để chi trả trợ cấp chế độ TNLĐ-BNN hàng tháng và các chế độ khác, trong khi đó việc chi trả trợ cấp cho chế độ hưu trí ngày càng tăng và có nguy cơ mất cân đối trong tương lai. Để điều chỉnh sao cho phù, Luật BHXH ra đời đã quy định nguồn chi trả các chế độ ngắn hạn như sau: + Chi cho chế độ ốm đau, thai sản: 3% tổng quỹ tiền lương, tiền công đóng BHXH do chủ sử dụng lao động đóng; Trong đó 2% chi cho chế độ ốm đau, thai sản và DS-PHSK. + Chi cho chế độ TNLĐ-BNN: 1% quỹ tiền lương, tiền công đóng BHXH. Với sự điều chỉnh như trên, việc thực hiện chi trả các chế độ trợ cấp ốm đau trong ba năm 2007, 2008, 2009 như sau: Bảng 2.5: Tình hình chi trả trợ cấp ốm đau từ 2007 đến 2009 Năm Quỹ TL đóng BHXH (tỷ đồng) Ốm đau 3% TQL (tỷ đồng) Chi chế độ (triệu đồng) Tỷ lệ (%) 2007 111.755 2.961 428.666 14,7 2008 144.834 4.345 474.717 9,25 2009 195.525 5.865 635.832 8,411 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hằng năm-BHXH Việt Nam) Qua bảng số liệu trên ta thấy chi trả các chế độ ốm đau luôn được đảm bảo đủ số chi. Tỷ lệ chi các chế độ trợ cấp ốm đau so với 3% tổng quỹ lương ở một số tỉnh, thành phố trên cả nước có sự khác nhau: một số tỉnh có tỷ lệ chi cao như: Bắc Giang, Bắc Ninh, Đồng Nai, Hưng Yên, Phú Thọ có tỷ lệ chi hàng năm trên 40%. Như vậy, tại các tỉnh này 2% tổng quỹ lương mà doanh nghiệp dữ lại dùng để chi trả cho người lao động được sự dụng hết, thậm chí một số nơi còn thiếu. Một số tỉnh, thành phố có tỷ lệ chi thấp, dưới 35% như: Bà Rịa Vũng Tàu, Trà Vinh, Vĩnh Long, An Giang... * Tóm lại, sau 5 năm thực hiện chính sách trợ cấp ốm đau đã được thực hiện nghiêm chỉnh thể hiện sự đúng đắn của chính sách, lợi ích chính đáng của người lao động được bảo vệ. Nhất là khi Luật BHXH ra đời đã quy định mức trợ cấp một cách hợp lý, đảm bảo được nguyên tắc mức hưởng trên cơ sở mức đóng BHXH do vừa xác định theo mức suy giảm khả năng lao động vừa theo số năm đó đóng BHXH và tiền lương, tiền công đóng BHXH. Tuy nhiên, số người bị ốm đau, bệnh tật vẫn không ngừng gia tăng theo các năm với tỷ lệ cao. Điều này đặt ra vấn đề về công tác bảo hộ lao động cho người lao động cần phải thực hiện tốt hơn, có các biện pháp cải thiện điều kiện lao động, biện pháp phòng ngừa, tuyên truyền giáo duc, nâng cao nhân thức, hạn chế tối đa các tác hại có thể ảnh hưởng đến sức khỏe đối với người lao động. 2.3.2. Đánh giá chung về công tác quản lý chi trả chế độ trợ cấp ốm đau trong thời gian qua. Ở thời kỳ này, công tác quản lý chi trả trợ cấp ốm đau đã có những bước đổi mới rõ nét và dần đi vào hoàn thiện cả về cơ cấu lẫn việc tổ chức quản lý. Dưới sự chỉ đạo và quản lý của Chính phủ, các Bộ, Ban, Ngành và của BHXH Việt Nam thì công tác chi trả trợ câp ốm đau đã đạt được những kết quả cũng như còn tồn tại những hạn chế cần khắc phục, cụ thể : Một số kêt quả chủ yếu : Trong 5 năm qua (2005-2009), công tác quản lý chi trả trợ cấp ốm đau đã thực hiện tốt và không ngừng cải tiến, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Sự phối hợp đồng bộ giữa BHXH các cấp được thực hiện tốt tao sự quản lý của BHXH Việt Nam. Luôn đảm bảo thực hiện tốt công tác quản lý chi trả các chế độ, cụ thể : - Quy trình chi trả hợp lý, áp dụng linh hoạt các phương thức chi trả phù hợp với điều kiện hiện tại của từng địa phương, của các đơn vị sử dụng lao động và đối tượng hưởng trợ cấp BHXH. - Thực hiện phân cấp chi trả một cách rõ ràng giữa các cơ quan BHXH các cấp trong công tác quản lý chi; quy định cụ thể về việc quản lý và sử dụng nguồn kinh phí. Từ đó công tác chi trả luôn thực hiện tốt, đảm bảo nguyên tắc chi đúng, chi đủ, chi kịp thời cho các đối tượng hưởng, góp phần đảm bảo ổn định cuộc sống cho các đối tượng. - Hoạt động cải cách hành chính của Ngành tiếp tục có những bước chuyển biến tích cực. Với việc thực hiện cơ chế “ một cửa liên thông”đã giảm thiểu các thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người tham gia BHXH. - Công tác kiểm tra, thanh tra được thực hiện tốt, thường xuyên kiểm tra định kỳ, kiểm tra đột xuất, phối hợp liên ngành và các bộ phận nghiệp vụ trong cơ quan BHXH. Tập trung vào việc quản lý đối tượng thụ hưởng, xử lý nghiêm những trường hợp thay đổi, làm giả hồ sơ để hưởng trợ cấp… Một số vấn đề còn tồn tại : - Mối quan hệ phối hợp công tác giữa các đơn vị nghiệp vụ trên cơ quan BHXH Việt Nam và giữa các phòng chức năng thuộc BHXH các tỉnh, thành phố chưa được thường xuyên, chưa chặt chẽ làm ảnh hưởng đến hiệu quả chỉ đạo và thực thi các chi tiêu, nghiệm vụ của Ngành - Công tác báo cáo, tổng hợp chi trả về chế độ còn chậm, việc quyết toán chế độ ốm đau của nhiều đơn vị sử dụng lao động với cơ quan BHXH còn chậm, có những đơn vị nộp chậm sau một vài quý, thậm chí là 1 năm; vẫn còn tình trạng người lao động vừa hưởng lương, vừa nhận trợ cấp BHXH. - Đối với chế độ ốm đau vẫn còn có tình trạng làm hồ sơ giả, khai khống thời gian nghỉ ốm để hưởng các chế độ BHXH. Trên thực tế cho thấy một số cơ sở y tế không thực hiện nghiêm túc trong việc cấp giấy chứng nhận nghỉ ốm cho người bệnh, đã chứng nhận khống cho người lao động để làm hồ sơ hưởng các chế độ BHXH... - Sau khi Luật BHXH quy định về việc doanh nghiệp được phép dữ lại 2% tổng quỹ tiền lương, tiền công đóng BHXH để chi trả các chế độ ốm đau người lao động thì tại một số doanh nghiệp đã chiếm dụng nguồn quỹ đó. Tình trạng này xảy ra ở một số doanh nghiệp tư nhân, làm ăn thua lỗ, dẫn đến quyền lợi của người lao động không được thực hiện. CHƯƠNG III MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÁC CHẾ ĐỘ TRỢ CẤP ỐM ĐAU Ở VIỆT NAM 3.1. Định hướng phát triển của BHXH Việt Nam đến năm 2020 3.1.1 Mục tiêu Mục tiêu tổng quát mà toàn ngành đặt ra là: Đảm bảo quyền bình đẳng tham gia BHXH đối với tất cả các tầng lớp dân cư trong xã hội. Tổ chức thực hiện các chính sách, chế độ BHXH, BHYT nhằm thực hiện tốt công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, đảm bảo ổn định đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người lao động tham gia BHXH. Từ đó góp phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Các mục tiêu được cụ thể như sau: Từng bước mở rộng vững chắc hệ thống BHXH và an sinh xã hội. Tiến tới áp dụng chế độ BHXH cho mọi người lao động, mọi tầng lớp nhân dân. Đổi mới cơ chế, chính sách quản lý thu và chi trả các chế độ BHXH cho kịp thời và nhanh chóng để đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Mở rộng đối tượng tham gia BHXH, BHYT, trên cơ sở từng bước mở rộng các chế độ trợ cấp BHXH để đảm bảo quyền lợi về BHXH cho người lao động và hòa nhập với quốc tế. Với nguyên tắc thu là thu đúng, thu đủ còn thực hiện chi trả đúng đối tượng, kịp thời, đầy đủ. Giảm dần nguồn chi từ Ngân sách Nhà nước, tăng tích lũy của BHXH để tiến tới cân đối thu - chi quỹ BHXH. Theo quy định của Nhà nước thì những người lao động nghỉ hưu trước năm 1995 thì do NSNN đảm bảo và khi quỹ BHXH thâm hụt thì NSNN hỗ trợ một phần. Nâng cao năng lực quản lý của BHXH Việt Nam theo hướng tinh, gọn bộ máy, hoạt động có hiệu quả nhằm đáp ứng sự phát triển của ngành và không ngừng nâng cao chất lượng, uy tín phục vụ người tham gia BHXH. Đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính trong toàn ngành. Chuyển đổi tác phong làm việc từ hành chính sang phục vụ người dân. Đây cũng là một việc cần làm ngay để tạo bước đột phá trong việc giải quyết nhanh gọn các công việc của dân. Bảo tồn, tăng trưởng quỹ BHXH, BHYT bằng cách: tăng nhanh nguồn thu của quỹ BHXH, BHYT từ sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, BHYT. Thực hiện chi đúng, đủ và kịp thời, giảm dần nguồn chi từ Ngân sách Nhà nước, bảo đảm cân đối quỹ lâu dài, đồng thời góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhằm phục vụ ngày càng tốt hơn, chu đáo hơn cho người lao động khi tham gia và hưởng các chế độ BHXH, BHYT. Tiền tồn tích của Quỹ bảo hiểm xã hội được đầu tư để bảo tồn và tăng trưởng đồng thời góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuyên truyền, phổ biến chính sách, các quy định pháp luật về BHYT, BHXH đến mọi tầng lớp nhân dân. Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền về chế độ chính sách BHXH, BHYT. Đây là một nội dung quan trọng nhằm làm cho mọi người hiểu biết được bản chất cũng như nguyên tắc hoạt động của BHXH, BHYT là đóng và hưởng, cộng đồng chia sẻ rủi ro. Mặt khác làm rõ bản chất của BHXH, BHYT, quyền lợi và nghĩa vụ cụ thể của người tham gia, cũng có nghĩa là làm cho mọi người hiểu và phân biệt được sự giống nhau, khác nhau giữa BHXH, BHYT với các hình thức bảo hiểm thương mại khác. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quy trình thực hiện BHXH, BHYT. Đặc biệt, trong quy trình cải cách hành chính, thực hiện cơ chế “một cửa liên thông”. Tăng cường hợp tác với các nước trên thế giới đặc biệt là các nước trong khu vực trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng 3.1.2 Định hướng phát triển Việt Nam gia nhập WTO chính là sự gắn kết nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới, từng bước đưa nền kinh tế nước ta trở thành bộ phận cấu thành, gắn bó chặt chẽ với nền kinh tế Thế giới. Việc gia nhập WTO sẽ có sự tác động trực tiếp, toàn diện vào toàn bộ hệ thống thị trường như thị trường hàng hoá, thị trường tiền tệ và thị trường lao động trong nước. Sự tác động này sẽ tạo ra một động lực mới, một không gian mới cho sự cạnh tranh và phát triển. Sở dĩ, chúng ta phải bắt đầu từ thị trường lao động vì BHXH là sự đảm bảo các yếu tố lao động trong quá trình sản xuất, hoạt động BHXH là hoạt động điều tiết thu nhập, nhằm ổn định đời sống của người lao động và các thành viên trong gia đình họ trước những rủi ro mang tính xã hội. Sự hội nhập quốc tế của nước ta cũng đồng nghĩa với việc nước ta tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế. Vì vậy, hoạt động BHXH sẽ chịu tác động gián tiếp của quá trình gia nhập WTO, mặt khác nó phải thích ứng chung với các quy chuẩn về chế độ BHXH của các nước trong điều kiện cho phép của kinh tế - xã hội ở nước ta. Chính vì vậy, BHXH Việt Nam đã đề ra một số định hướng sau: Thứ nhất: Tiếp tục mở rộng quy mô, đối tượng tham gia BHXH. BHXH là một hoạt động sự nghiệp, không mang tính kinh doanh như các loại hình bảo hiểm khác. Đối tượng tham gia BHXH là yếu tố quan trọng nhất trong việc đảm bảo an toàn xã hội và tăng nguồn đóng góp vào quỹ BHXH. Với mục tiêu xã hội hóa BHXH để mọi người lao động đều có thể tham gia BHXH. Ngoài ra, BHXH còn góp phần vào việc thực hiện công bằng xã hội là công cụ phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia, mặt khác BHXH còn làm nhiệm vụ san sẻ rủi ro giữa những người tham gia. Chính vì vậy, việc mở rộng quy mô và đối tượng tham gia BHXH là định hướng quan trọng của toàn ngành BHXH và đây cũng là nội dung được Đảng và Nhà nước đặt lên hàng đầu trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa của nước ta. Ở nước ta lực lượng lao động tính đến cuối năm 2008, thì có 47,02 triệu người nhưng chỉ có khoảng 8,53 triệu người tham gia BHXH bắt buộc và 6500 người lao động tham gia BHXH tự nguyện chỉ chiếm 18,14% tổng lực lượng lao động trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước. Số lượng người lao động còn chưa tham gia BHXH còn rất lớn vì vậy cần phải mở rộng đối tượng tham gia. Thứ hai: Hoàn thiện nội dung các chế độ BHXH Ở Việt Nam, đã hình thành lên một hệ thống pháp lý vững chắc nhưng khi thực hiện triển khai cũng xảy ra một số vấn đề bất cập, hạn chế. Vì vậy, cơ quan BHXH định hướng trong thời gian tới cần phải hoàn thiện nội dung của một số chế độ: Chế độ ốm đau: Chế độ ốm đau giúp cho người lao động và gia đình họ có được khoản trợ cấp thay thế thu nhập bị mất do không làm việc. Chế độ này đảm bảo thu nhập liên tục cho người lao động, đảm bảo giữa đóng và hưởng BHXH, đồng thời còn thể hiện san sẻ rủi ro giữa những người tham gia BHXH. Việc thực hiện chế độ ốm đau đã tránh được hiện tượng lạm dụng quỹ, quy định thời gian hưởng tối đa cho người lao động. Nhưng trong xã hội ngày hiện nay, khi thực hiện cần thêm một số bệnh trong danh mục các bệnh cần chữa trị dài ngày. Chế độ thai sản: chế độ này nhằm mục đích thay thế nguồn thu nhập cho người lao động nữ khi họ sinh đẻ và nuôi con. Góp phần thực hiện quyền bình đẳng giữa nam và nữ, đồng thời tái sản xuất sức lao động cho lao động nữ. Khi thực hiện chế độ thai sản cần quan tâm tới chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình, thời gian dự bị trước khi được hưởng chưa có. Chế độ TNLĐ – BNN: Thực hiện chế độ này giúp người lao động và gia đình đảm bảo thu nhập khi họ không may mắn gặp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Đồng thời, đây là chế độ thể hiện trách nhiệm của người chủ sử dụng lao động đối với người lao động mà mình sử dụng. Chế độ TNLĐ- BNN đã quy định cụ thể những trường hợp không may bị tai nạn lao động tương đối đầy đủ nhưng cần quy định thêm một số bệnh vào danh mục bệnh nghề nghiệp. Chế độ hưu trí: Chế độ này thể hiện sự quan tâm của Chính phủ, của người sử dụng lao động đối với người lao động khi họ về già. Ngoài ra, hoạt động thu chi của chế độ hưu trí liên quan tới việc hình thành và sử dụng quỹ. Tuy nhiên, chế độ này đã tách được người hưởng BHXH với chế độ ưu đãi xã hội. Vì thế đảm bảo được sự công bằng, bình đẳng giữa đóng và hưởng BHXH giữa các nhóm đối tượng khác nhau. Hầu hết độ tuổi nghỉ hưu bình quân của người lao động đều thấp hơn so với quy định. Chế độ tử tuất: Đây là chế độ bảo hiểm mang tính nhân đạo nhất trong tất cả các chế độ của BHXH. Thực hiện chế độ này góp phần khắc phục ổn định cuộc sống cho gia đình người lao động không may gặp rủi ro. Tuy nhiên, trong chế độ này còn quy định bố, mẹ (vợ) hoặc bố mẹ (chồng) cũng có thể được hưởng chế độ này là không thỏa đáng mà phải xét xem người thân đó có người nuôi dưỡng hay không. Thứ ba: Định hướng phát triển quỹ BHXH Duy trì quản lý tập trung thống nhất sẽ giúp cho san sẻ rủi ro, san sẻ tài chính giữa các chế độ BHXH theo cả không gian và thời gian được dễ dàng và thuận tiện hơn. Nguồn quỹ nhàn rỗi đem đầu tư tập trung vào các chương trình, các dự án lớn của đất nước từ đó sẽ làm cho quỹ an toàn hơn, đầu tư hiệu quả hơn. Mặt khác, khi thực hiện quản lý tập trung thống nhất còn tạo điều kiện thuận lợi cho sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và quản lý chi tiêu rất chặt chẽ. Ngoài ra, còn tạo điều kiện cho việc xét duyệt hồ sơ, quy trình chi trả và khắc phục hồ sơ giả mạo, … để các đơn vị chức năng làm việc ngày một hiệu quả hơn. Đồng thời, giúp cho việc thanh toán và giải quyết các công việc được nhanh gọn và chính xác Đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH: Do nguồn hình thành của quỹ BHXH được tồn tích qua nhiều thế hệ, do một thời gian đóng dài vì vậy cần phải đầu tư tăng trưởng quỹ. Khi đầu tư quỹ cần phải nắm vững và luôn tuân thủ các vấn đề: - Theo định hướng của Chính phủ và các nguyên tắc quản lý quỹ BHXH. - Ngồn vốn đầu tư bao gồm cả nguồn vốn ngắn hạn và dài hạn - Hình thức đầu tư chủ yếu là đầu tư vào các công trình của Chính phủ, mua trái phiếu Chính phủ, cho Chính phủ vay và cho các ngân hàng thương mại vay,… - Thường xuyên đánh giá hiệu quả đầu tư theo từng hình thức đầu tư và hiệu quả đầu tư nói chung. - Tiếp tục củng cố và hoàn thiện các phương thức chi trả hiện có theo hướng phát huy, nhân rộng các mô hình và giải pháp thực hiện có hiệu quả trong thời gian qua sao cho phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng địa phương. Thứ tư nâng cao công tác quản lý nhà nước về BHXH - Tập trung hoàn thiện văn bản hướng dẫn nghiệp vụ của Ngành, tạo sự đồng bộ và chuyển biến thực sự trong công tác chỉ đạo, điều hành của BHXH Việt Nam. Tiếp tục công tác mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, tiến hành thanh tra, kiểm tra các đơn vị sử dụng lao động, có biện pháp xử lý đối với những đơn vị cố tình không tham gia BHXH bắt buộc cho người lao động. - Tiếp tục rà soát, đơn giản hóa thủ tục hành chính, quy trình giải quyết công việc, tạo thuận lợi cho người tham gia BHXH, BHYT; triển khai thống nhất cơ chế “một cửa liên thông” trong giải quyết các chế độ, chính sách và trong các hoạt đông nghiệp vụ của Ngành. Tập trung chỉ đạo triển khai nhanh ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động của Ngành nhằm đơn giản hóa công tác quản lý mà vẫn đem lại hiệu quả cao. - Kiện toàn tổ chức bộ máy nhân sự của các đơn vị trong Ngành sao cho phù hợp với Nghị định 94/NĐ-CP của Chính phủ, tăng cường phân cấp cho địa phương, cơ sở các hoạt động nghiệp vụ, nâng cao trách nhiệm người đứng đầu. - Đầy mạnh công tác tuyên truyền một cách sâu rộng, thường xuyên để người lao động, chủ sử dụng lao động và mọi người dân hiểu rõ các chế độ, chính sách BHXH để tích cực, tự giác tham gia. - Tăng cường công tác kiểm tra, chấp hành chính sách pháp luật, giữ vững kỹ luật, kỷ cương, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham nhũng… - Đẩy mạnh cải cách hành chính, trước hết các thủ tục hành chính phải được cải tiến theo hướng đơn giản hoá các biểu mẫu, chứng từ, thủ tục hồ sơ và kể cả quy trình chi trả. Mặt khác, hướng tới thống nhất thực hiện cơ chế “một cửa đồng bộ” trên cơ sở xem xét đổi mới toàn diện cả về tổ chức, cán bộ; về quy trình, mối quan hệ phối hợp công tác giữa các bộ phận liên quan; về trang bị phương tiện và điều kiện làm việc... nhằm thiết lập cơ chế kiểm tra, giám sát độc lập, khắc phục tình trạng khép kín, thiếu công khai dễ phát sinh tiêu cực trong giải quyết các thủ tục hành chính. Từ đó hướng tới mục tiêu phục vụ tốt hơn cho người tham gia và thụ hưởng, tạo bước đột phá nhằm thực hiện cải cách hành chính trong toàn ngành. Đồng thời, phải chuyển nhanh lề lối làm việc hành chính quan liêu sang tác phong phục vụ tích cực, lấy hiệu quả công việc làm thước đo thành quả lao động của đội ngũ cán bộ làm công tác này. - Cơ quan BHXH cấp quận, huyện cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao hiểu biết và kỹ năng cần thiết cho đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cho cán bộ BHXH tại đơn vị sử dụng lao động, giúp nâng cao nghiệp vụ về BHXH cho các đơn vị sử dụng lao động để từ đó chủ động giải quyết tốt các chế độ ốm đau cho người lao động. Đồng thời khuyến khích các đơn vị sử dụng lao động giữ lại 2% trên tổng quỹ lương để chi trả kịp thời cho người lao động, đảm bảo đầy đủ quyền lợi cho người lao động. - Đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin trong việc in ấn danh sách, các biểu mẫu chi trả các chế độ và quản lý các đối tượng, giảm thiểu các thao tác thủ công trong nghiệp vụ, nâng cao hiệu suất làm việc nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý trong điều kiện khối lượng công việc ngày càng tăng nhanh. Thực hiện theo dõi, cập nhật chi tiết mọi biến động của từng đối tượng trong quá trình tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH. - Tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện chi trả bằng nhiều hình thức như kiểm tra định kỳ, kiểm tra đột xuất tới các đơn vị sử dụng lao động. Xử lý nghiêm các trường hợp trốn đóng hay chiếm dụng số tiền đóng BHXH. Xử lý các trường hợp làm giả hồ sơ, phối hợp chặt chẽ với các cơ sở y tế, bệnh viện, các cơ quan chức năng có liên quan trong công tác thẩm định hồ sơ … 3.2 Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình xây dựng và hoàn thiện chế độ trợ cấp ốm đau Trước sự biến động của nền kinh tế, xã hộ cũng đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cũng như khó khăn trong quá trình triển khai, tổ thức và quản lý công tác chi trả các chế độ BHXH nói chung và công tác tổ chức, quản lý chi trả trợ cấp ốm đau nói riêng. Cụ thể: 3.2.1 Thuận lợi - Trong những năm qua, BHXH luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, Chính quyền và sự phối hợp có hiệu quả của các ban, Ngành chức năng liên quan từ Trung ương đến địa phương đã tạo thuận lợi cho Ngành BHXH thực hiện tốt, đặc biệt là công các quản lý chi trả các chế độ BHXH ngắn hạn trong đó có chế độ ốm đau. Bởi lẽ, công tác quản lý chi trả các chế độ BHXH ngắn hạn có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của người lao động – nhóm đối tượng nhạy cảm nhất và đang có nhiều đóng góp cho xã hội. Vì vậy mà công tác tổ chức và quản lý chi trả các chế độ BHXH ngắn hạn đặc biệt là chế độ trợ cấp ốm đau luôn được quan tâm, tạo điều kiện trong việc thực hiện, triển khai các chính sách, chế độ nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người lao động. - Công tác quản lý chi trả các chế độ BHXH ngắn hạn đã được BHXH Việt Nam xây dựng một bộ máy quản lý hoàn chỉnh từ Trung ương đến địa phương. Theo đó, công tác quản lý chi trả chế độ ốm đau được phân cấp thực hiện một cách rõ ràng và được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ và khoa học. Điều này đã tạo điều kiện rất lớn cho các tỉnh, thành phố trong quá trình thực hiện chi trả các chế độ BHXH ngắn hạn. - Hệ thống các chính sách, quy định về công tác quản lý chi trả chế độ trợ cấp ốm đau được cụ thể hóa bằng các văn bản pháp quy hướng dẫn cụ thể đến từng Ban, Ngành, địa phương, từ đó tạo cơ sở vững chắc để cơ quan BHXH các cấp thực hiện. - Chính sách BNXH đã đi vào cuộc sống và đang thực sự phát huy tác dụng, làm cho người dân hiểu rõ hơn và tin tưởng vào chính sách BHXH. Do đó, công tác chi trả và quản lý chi trả chế độ trợ cấp ốm đau được tiến hành thuận lợi hơn. - Hệ thống cơ sở vật chất phục vụ công tác quản lý chi trả luôn được nâng cấp, bổ sung và đang từng bước hiện đại hóa. Cho đến nay, cơ sở vật chất tại cơ quan BHXH các tỉnh, thành phố, quận, huyện đã tương đối đầy đủ, cơ bản đáp ứng được nhu cầu cơ sở vật chất thực hiện nhiệm vụ được giao. - Sự phát triển của hệ thống Công nghệ thông tin, hệ thống Ngân hàng, bưu chính, viễn thông đã giúp cho công tác chi trả được thực hiện một cách thuận lợi hơn. Sự ứng dụng của công nghệ Khoa học kỹ thuật đã giúp việc quản lý chi trả các chế độ BHXH nói chung và chế độ trợ cấp ốm đau nói riêng một cách dễ dàng và thuận tiện hơn. 3.2.2 Khó khăn Bên cạnh những thuận lợi trên, công tác quản lý chi trả chế độ trợ cấp ốm đau vẫn gặp phải những khó khăn sau: - Trong 5 năm (2005-2009) đã có rất nhiều sự thay đổi về chính sách, chế độ để phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước, đồng thời cũng ngày càng hoàn thiện hơn chính sách về BHXH. Tuy nhiên, sau mỗi sự thay đổi là việc thực hiện không đồng bộ, có những nội dung chưa phù hợp với tình hình thực tiễn. Cụ thể là Luật BHXH có hiệu lực từ năm 2007 đã có những thay đổi về điều kiện hưởng, mức hưởng và việc quản lý chi trả cũng được sửa đổi bổ sung, nhưng các văn bản hướng dẫn thi hành còn chậm, chưa đồng bộ gây khó khăn, lúng túng cho cơ quan BHXH tỉnh, huyện trong quá trình chi trả, từ đó đã ảnh hưởng đến công tác quản lý chi trả các chế độ BHXH nói chung và quản lý chi trả chế độ trợ cấp ốm đau nói riêng. - Tại một số địa phương có địa hình phức tạp, đối tượng hưởng chế độ BHXH ít, cơ sở vật chất còn nghèo nàn khiến công tác tổ chức chi trả và quản lý chi trả còn gặp nhiều khó khăn. - Đối tượng ngày càng được mở rộng dẫn đến việc giải quyết các chế độ trợ cấp ốm đau ngày càng nhiều. Trong khi đó biên chế Ngành còn hạn chế, lượng cán bộ chuyên trách tại cách tỉnh, huyện, thành phố có khối lượng công việc lớn không đủ để hoàn thành công việc dẫn đến nhiều địa phương quyết toán chậm, không đạt được mục tiêu mà Ngành đề ra. Từ đó ảnh hưởng đến việc chi trả và quản lý chi trả các chế độ BHXH ngắn hạn trong đó có chế độ trợ cấp ốm đau. - Điều kiện kinh tế tại một số địa phương còn hạn chế cho nên công tác thông tin tuyên truyền đến người dân còn gặp nhiều khó khăn, nhất là đối với người dân sống ở nông thôn, các tỉnh, miền núi. 3.3. Các giải pháp chủ yếu hoàn thiện chế độ trợ cấp ốm đau Trong thời gian tiếp theo, công tác quản lý chi trả các chế độ trợ cấp ốm đau tiếp tục được thực hiện trong bối cảnh: Chế độ kế toán và quy chế tài chính cho ngành BHXH thực hiện theo Quyết định số 51/2007/QĐ-BTC ngày 22/6/2007 và Quyết định số 2580/QĐ-BTC của Bộ tài chính, theo đó một số quy trình thực hiện, biểu mẫu sổ sách được thay đổi để đáp ứng yêu cầu mới. Đổi mới, thực hiện theo Nghị định 94/2008/NĐ-CP quy định về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức BHXH Việt Nam. Đồng thời, theo lộ trình cải cách tiền lương, từ năm 2010 sẽ có sự thay đổi về mức lương tối thiểu chung. Năm 2010 và những năm tiếp theo toàn Ngành tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi tác phong làm việc… Những nội dung trên có tác động chi phối quan trọng đến việc triển khai công tác quản lý chi trả chế độ trợ cấp ốm đau. Để thực hiện tốt công tác quản lý chi trả chế độ trợ cấp ốm đau và khắc phục những hạn chế còn tồn tại có thể đưa ra một số giải pháp sau: 3.3.1. Về công tác quản lý nguồn chi trả Để quản lý tốt công tác chi trả trước hết cần quản lý tốt nguồn chi trả, bởi vì nguồn chi trả được đảm bảo thì công tác chi trả mới thực hiện tốt được. Do vậy, để thực hiện tốt công tác quản lý nguồn chi trả cần có các giải pháp chủ yếu sau: - Thực hiện tốt công tác mở rộng đối tượng tham gia, đưa ra các quy định xử phạt với các trường hợp chiếm dụng, nợ hay trốn đóng BHXH. Tuy nhiên, hiện nay các chế tài xử phạt cho các vi phạm này còn thiếu tính răn đe (hình thức xử phạt cao nhất là phạt hành chính 30 triệu đồng) nên cần phải nâng mức xử phạt, và tạo ra cơ chế cho việc xử phạt các vi phạm này. - Áp dụng công nghệ tin học một cách rộng rãi đến BHXH tỉnh, thành phố, quận, huyện trên cả nước để từ đó có thể lưu trữ và khai thác thông tin của tất cả các đối tượng. Đưa chương trình quản lý chi BHXH bằng phần mềm tin học một cách rộng rãi; kết nối mạng vi tính giữa BHXH tỉnh và BHXH các huyện để thực hiện sự quản lý, chỉ đạo kiểm tra, báo cáo một cách thống nhất và đồng bộ để từ đó khắc phục những nhầm lẫn, sai sót trong công tác chi trả…Tuy nhiên việc đưa công nghệ thông tin vào trong việc quản lý chi BHXH cần có một lộ trình rõ ràng và cụ thể do việc áp dụng công nghệ thông tin vào các hệ thống quản lý đang còn là việc rất mới ở nước ta và vẫn đang trong quá trình thử nghiệm. Để làm tốt việc này thì cơ quan BHXH Việt Nam cần phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ có chuyên môn cao, phối hợp với các đơn vị có chức năng xây dựng được một hệ thống quản lý thống nhất từ trên xuống dưới và phải có thời gian thử nghiệm trước khi áp dụng chính thức. - Để đảm bảo công tác chi trả chế độ trợ cấp ốm đau nói riêng và các chế độ khác nói chung được nhanh chóng, đơn giản thì cơ quan BHXH Việt Nam cần xây dựng một kho dữ liệu điện tử về đối tượng tham gia qua đó dễ dàng tra cứu các thông tin về đối tượng hưởng khi cần xác minh để giải quyết, chi trả trợ cấp cho các đối tượng này. Việc xây dựng một kho dữ liệu này với trình độ công nghệ tin học hiện này không khó, nhưng cần rất nhiều thời gian và công sức. Tuy nhiên,hiệu quả mà nó đem lại cũng rất lớn, qua kho dữ liệu này việc quản lý đối tượng tham gia sẽ trở nên dễ dàng hơn rất nhiều, giảm lượng công việc cho các cán bộ quản lý. 3.3.2. Về phương thức chi trả Đối với chế độ ốm đau có thể do BHXH huyện trực tiếp chi trả cho người lao động hoặc doanh nghiệp dữ lại 2% quỹ tiền lương, tiền công đóng BHXH để chi cho người lao động. Việc chọn phương thức chi trả nào là phải phù hợp với điều kiện thực tế của từng doanh nghiệp, từng địa phương. Trong điều kiện hiện nay cũng như trong những năm tới có thể áp dụng các phương thức chi trả như sau: Khuyến khích các doanh nghiệp giữ lại 2% quỹ tiền lương, tiền công đóng BHXH để chi cho người lao động để giải quyết chế độ một cách thuận tiện, nhanh chóng. Việc áp dụng hình thức chi trả này đang được khuyến khích nhân rộng. Để thực hiện tốt được điều đó cần tổ chức các lớp tập huấn nhằm nâng cao trình độ chuyên môn của các cán bộ BHXH tại doanh nghiệp. Bên cạnh đó cần có sự quản lý, giám sát chặt chẽ của cơ quan BHXH các cấp sao cho nguồn chi trả từ 2% quỹ tiền lương, tiền công giữ lại luôn được dùng đúng mục đích, chi trả kịp thời cho đối tượng hưởng. Cơ quan BHXH tỉnh, huyện chi trả trực tiếp cho người lao động: trên thực tế hiện nay gần 90% số doanh nghiệp không giữ lại 2% quỹ tiền lương, tiền công đóng BHXH để chi chế độ cho người lao động mà nộp hết số đó cho BHXH tỉnh hoặc huyện để cơ quan BHXH trực tiếp chi trả cho người lao động. Do vậy cần có các biện pháp nhằm thực hiện tốt công tác chi trả các chế độ BHXH như: phối hợp chặc chẽ giữa chủ sử dụng lao động và cơ quan BHXH để giải quyết một cách nhanh chóng, kịp thời cho người lao động; đào tạo đội ngũ cán bộ BHXH để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn; đảm bảo đủ nguồn nhân lực để kịp thời chi trả… Chi qua tài khoản các cá nhân tại Ngân hàng: phương thức này hiện nay đang dần được đưa vào áp dụng đối với những địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội cùng với hệ thống Ngân hàng phát triển, cơ chế quản lý chi trả đổi mới phù hợp với để thực hiện. Do vậy, BHXH Việt Nam cần phối hợp với hệ thống ngân hàng, kho bạc và vận động các đối tượng mở tài khoản cá nhân, tổ chức thực hiện chu đáo công tác chi trả theo mô hình này. Việc chi trả qua tài khoản ngân hàng hiện đang được thì điểm ở các thành phố lớn và bước đầu đã có những kết quả tích cực. 3.3.3. Giải pháp về thanh tra, kiểm tra Cần xây dựng lịch kiểm tra thường xuyên tại các đơn vị cơ sở; phối hợp với các cơ quan chức năng thực hiện thanh tra liên ngành. Ngoài việc kiểm tra của đơn vị chức năng, các đơn vị nghiệp vụ khác cũng phải kết hợp việc hướng dẫn nghiệp vụ với công tác kiểm tra hoạt động của BHXH các tỉnh, thành phố theo chuyên môn được giao. Cần ban hành những văn bản cụ thể quy định về mức phạt cũng như là các văn bản hướng dẫn BHXH tỉnh, thành phố quy trình khởi kiện các đơn vị sử dụng lao động cố tình vi phạm. Phối hợp chặt chẽ với các tổ chức y tế và đơn vị để kiểm tra, giám sát việc cấp giấy chứng nhận nghỉ ốm, nghỉ thai sản và nghỉ dưỡng sức, khắc phục triệt để hiện tượng làm giả hồ để hưởng chế độ. Phối hợp với cơ quan thanh tra, kiểm toán Nhà nước… để kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện chế độ BHXH và chi các chế độ BHXH cho người lao động tại đơn vị sử dụng lao động có giữ lại 2% quỹ tiền lương, tiền công đóng BHXH hoặc tại các đơn vị sử dụng lao động do BHXH tỉnh, huyện ủy quyền chi trả. 3.3.4 Tăng cường tuyên truyền, phổ biến chính sách , chế độ đến người lao động và người sử dụng lao động Trong các năm qua, công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, chế độ đến người lao động luôn được BHXH Việt Nam trực tiếp chỉ đạo và thực hiện, cụ thể là : - Phối hợp với 10 Bộ, Ngành trong cả nước :Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam,Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, Trung ương Hội phụ nữ Việt Nam,.... tổ chức tuyên truyền tại hàng trăm hội nghị, tập huấn, hội thảo, tọa đàm, tổng kết tại các cơ quan trung ương cho các đối tượng là lãnh đạo ; -Tổ chức tuyên truyền trực tiếp tại 45 khu vực gồm các quận, huyện ,thị xã, thành phố, các khu vực công nghiệp, các hợp tác xã, các trường học ; - Phát hành gần 10.000 cuốn sách Hỏi đáp về BHXH ; trên 100.000 tờ rơi các loại ; -Ngoài việc tuyên truyền thông qua các Báo, Tạp chí của ngành, trong các năm qua BHXH Việt Nam đã phối hợp với 19 cơ quan báo đài : Đài truyền hình Việt Nam, Đài tiếng nói Việt Nam,Truyền hình Hà Nội và Công ty nghe nhìn Hà Nội, Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Lao động xã hội...để thực hiên tuyên truyền bằng nhiều hình thức như phát tin, phóng sự, chương trình, chuyên mục, chuyên đề, chuyên trang, tin, bài về các nội dung quy định của chính sách, vể thủ tục tham gia BHXH ... Tuy nhiên có thể nói công tác tuyên truyền vẫn chưa thực sự hiệu quả, NLĐ và NSDLĐ vẫn chưa thực sự hiểu biết về luật BHXH cũng như các chế độ. Theo em thì ngoài việc tiếp tục các công việc trên thì cơ quan Bảo hiểm xã hội Việt Nam nên phối hợp với các cơ quan truyền thông xây dựng và thiêt lập một đường dây điện thoại nóng trả lời các vấn đề liên quan đến BHXH và làm một chương trình về BHXH phát sóng trên truyền hình và đài truyền thanh. Nội dung của chương trình này có thể gồm 2 phần là :phổ biến các chính sách, quy định về BHXH và trả lời trực tiếp các câu hỏi từ người xem gửi đến. Vấn để kính phí thực hiện các giải pháp này là khá lớn nhưng cơ quan BHXH Việt Nam có thể hoàn toàn có thể kêu gọi sự hỗ trợ trợ từ các nhà tài trợ là các đơn vị kinh doanh vì :Đây là một chương trình có sức thu hút rất lớn do đây là một vấn đề mà người lao động nào cũng phải quan tâm đến, cho nên với lượng người xem tiềm năng rất đông đảo là toàn bộ những người lao động và người sử dụng lao động đây là những người chiếm một bộ phận không nhỏ trong xã hội và hầu hết đều tự chủ về kinh tế, thì đây là cơ hội rất lớn cho các nhà tài trợ quảng bá thương hiệu của mình đến với người tiêu dùng. Việc này sẽ góp phần giảm rất nhiều chi phí cho việc tuyên truyền phổ biến chính sách những vẫn đem lại hiệu quả cao. 3.3.5. Một số giải pháp khác Cùng với việc củng cố và hoàn thiện bộ máy quản lý cần chú trọng đến công tác tổ chức cán bộ, cần có chiến lược đào tạo cán bộ trên các lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ chi BHXH, nghiệp vụ kế toán, thống kê, tin học… để không ngừng nâng cao chất lượng công tác và trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ BHXH. Xây dựng và ban hành quy trình làm việc, quy định trách nhiệm giữa các phòng nghiệp vụ ở BHXH tỉnh, giữa các bộ phận nghiệp vụ ở BHXH huyện theo quy trình xác nhận hồ sơ và xét duyệt hồ sơ hưởng, lập danh sách chi trả và trách nhiệm báo cáo tình hình biến động tăng, giảm hàng tháng các đối tượng…Quy định thủ tục giao nhận hồ sơ, loại hồ sơ và số lượng hồ sơ giao giữa các phòng, các bộ phận nghiệp vụ trong quá trình giải quyết các chế độ BHXH. Thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin cách có hiệu quả. Tiếp tục hoàn thiện các chương trình phần mềm quản lý, điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện các phần mềm sao cho phù hợp với thực tiễn và những thay đổi trong chính sách BHXH để hỗ trợ các địa phương thực hiện chính xác, đầy đủ và kịp thời các chế độ, chính sách cho người tham gia và thụ hưởng BHXH. Tiếp tục hoạt động cải cách hành chính như: cải cách thể chế; cải cách tổ chức bộ máy; xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ… Tiến hành áp dụng mô hình “một cửa liên thông” một cách rộng rãi tại các tỉnh, thành phố trên cả nước… Phải yêu cầu chủ sử dụng lao động thực hiện ngiêm túc việc khám sức khỏe định kỳ cho người lao động và tổ chức các hoạt động tập thể để góp phần nâng cao sức khỏe cho người lao động. Vấn đề đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm tại các nhà máy, xi nghiệp phải được thực hiện đúng theo tiêu chuẩn của quốc gia để tránh các trường hợp người lao động bị ngộ độc cụ thể do ăn trưa tại nơi làm việc. Các giải pháp trên cần được thực hiện một cách đồng bộ để việc thực thiện chế độ ốm đau được tốt hơn. Ngoài ra, hiện nay với sự phát triển của xá hội và những thành quả của đề án 135 của chính phủ thì việc đưa cổng thông tin điện tử về BHXH đang trở nên dễ dàng hơn. Tuy nhiên hiện nay, thì website về BHXH Việt Nam mới chỉ đưa ra một số các thông tin về chính sách, quy chế về BHXH còn thiếu sót rất nhiều, và trong tháng 3 năm nay thì cơ quan BHXH Việt Nam vừa mới công bố bộ thủ tục hành chính trên website của ngành như vậy cho thấy việc sử dụng cổng thông tin điện tử của ngành vẫn còn nhiều yếu kém, chưa có đội ngũ cán bộ chuyên môn trong lĩnh vực này, thông tin trên website mới chi mang tính chất một chiều. Để có thể thực sự khai thác tốt các tài nguyên mạng thì cơ quan BHXH Việt Nam cần phải đào tạo một đội ngũ cán bộ trẻ có khả năng tiếp cận với các công nghệ mạng mới để có thể xây dựng và quản lý một website về BHXH thực sự đầy đủ hơn, và có thể giải đáp những ý kiến, vần đề thắc mắc của người lao động thông qua thư điện tử ,forum trên mạng xã hội điện tử... 3.4. Một số kiến nghị 3.4.1. Đối với cơ quan BHXH Đối với BHXH Viêt Nam: Cần sớm nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp quy quy định về điều kiện hưởng, mức hưởng các chế độ BHXH ngắn hạn cũng như việc hướng dẫn tổ chức chi trả và quản lý chi trả trợ cấp chế độ ốm đau sao cho phù hợp với tình hình thực tế, đảm bảo tốt nhất cho quyền lợi người lao động. Tăng cường kiểm tra và xử lý các trường hợp giả mạo hồ sơ, khai nam tuổi đời, khai man thời gian công tác và làm giả giấy tờ của cơ quan y tế nhằm hưởng lợi từ chế độ; giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo… Tăng cường đầu tư về cơ sở vật chất kỹ thuật, xây dựng và ứng dụng hệ thống thông tin hiện đại, ứng dụng phần mềm vào công tác quản lý chi trả; luôn đảm bảo cho việc quản lý, điều hành, thống kê, lưu trữ được chính xác… để từ đó có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành Đẩy mạnh hơn nữa công tác triển khai thực hiện mô hình “ một cửa liên thông”, áp dụng linh hoạt các mô hình thí điểm hiệu quả vào từng địa phương sao cho phù hợp. Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ ngành tiếp cận với các chính sách, chủ trương mới của chính phủ và các công nghệ mới về tin học, công nghệ mạng xã hội điện tử... Tăng cường công tác quản lý đối tượng tham gia và đối tượng hưởng các chế độ BHXH ngắn hạn. Cần có các chính sách mở rộng, động viên thêm đối tượng tham gia BHXH, không chỉ đối với lao động thuộc khu vực Nhà nước, các doanh nghiệp mà cả đối với lao động ở các thành phần kinh tế khác. Sớm triển khai và hoàn thiện ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác chi trả trong toàn Ngành như: hoàn thiện website; sử dụng phầm mềm quản lý thu, chi, phần mềm kế toán và nên sớm xây dựng một kho dữ liệu điện tử cho Ngành BHXH nhằm quản lý tốt đối tượng tham gia, tình hình chi trả… nhằm đem lại hiệu quả cao, giúp bộ máy tổ chức quản lý trở lên gọn nhẹ hơn. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm của từng đơn vị, từng cá nhân; có văn bản chỉ đạo, hướng dẫn kịp thời đến các địa phương. Trong xây dựng văn bản, chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ cần có sự đồng bộ tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động, đơn vị sử dụng lao động và mọi người dân khi tham gia BHXH. Cần phối hợp với BHXH các tỉnh, thành phố thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra nhằm kịp thời phát hiện và chấn chỉnh các sai phạm trong công tác chi trả, xử lý nghiêm với các trường hợp vi phạm. Đối với BHXH các tỉnh, thành phố: Tăng cường sự phối hợp chỉ đạo, quản lý cấp ủy, cấp chính quyền các cấp trong tổ chức chi trả, quản lý đối tượng hưởng; tiếp tục chỉ thị 15- CT/TW ngày 26/5/1997 của Bộ Chính trị về tăng cường lãnh đạo thực hiện các chế độ BHXH. Xây dựng, chỉ đạo BHXH các quận, quyện thực hiện tốt công tác chi trả BHXH. Tổng hợp số liệu chi trả các chế độ BHXH ngắn hạn theo định kỳ hàng tháng, hàng quý, hàng năm. Giải quyết các vướng mắc trong quá trình thực hiện chế độ kịp thời báo cáo lên BHXH Việt Nam. Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng cần thiết cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở. Thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra, nắm bắt tình hình tổ chức thực hiện công tác chi trả của BHXH các quận, huyện; kịp thời xử lý các vướng mắc phát sinh. Kỷ luật nghiêm với những hiện tượng tiêu cực lạm dụng quỹ BHXH, đồng thời nhanh chóng chuyển đổi tác phong làm việc, thực hiện “cơ chế một cửa” tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng tham gia BHXH. Đầu tư trang thiết bị, phương tiện một cách hợp lý, tạo điều kiện làm việc và kỹ năng sử dụng vi tính một cách thành thạo nhằm nâng cao hiệu quả làm việc; từng bước đưa công nghệ thông tin vào quản lý, thay thế dần các phương thức quản lý truyền thống đã lỗi thời. Đối với BHXH huyện: Tăng cường phối hợp với các đơn vị sử dụng lao động do mình trực tiếp quản lý trong khâu tổ chức chi trả các chế độ ốm đau, thai sản, dưỡng sức – phục hồi sức khỏe và TNLĐ-BNN. Thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra đột xuất hoặc định kỳ việc thực hiện các chế độ BHXH ngắn hạn tại đơn vị sử dụng lao động; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Lựa chọn phương thức chi trả hợp lý, phù hợp với tình hình thực tiễn và điều kiện cụ thể tại địa bàn quản lý, sao cho luôn đảm bảo nguyên tắc chi đúng, chi đủ, chi kịp thời và đảm bảo an toàn tiền mặt. Thực hiện cải cách hành chính trong công tác chi trả, công khai quy trình, thủ tục, hồ sơ; quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của từng cán bộ, đơn vị. 3.4.2. Đối với các cơ quan chức năng khác có liên quan Đề nghị các Bộ, Ngành có liên quan ban hành những quy định xử phạt hành chính đối với những đơn vị sử dụng lao động chậm nộp hay trốn đóng BHXH; những đơn vị có hành vi chiếm dụng 2% quỹ tiền lương, tiền công đóng BHXH; không thực hiện chi trả trợ cấp cho người lao động… Động viên, khuyến khích và khen thưởng những người phát hiện ra hành vi vi phạm. - Kiến nghị với Bộ Lao động – Thương binh và xã hội về việc xem xét và có hướng giải quyết dứt điểm các vướng mắc trong thực hiện Luật BHXH, nhất là việc phần lớn các đơn vị sử dụng lao động không muốn giữ lại 2% để chi trả các chế độ ngắn hạn . - Để hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, bên cạnh sự nỗ lực phấn đấu của toàn ngành, BHXH Việt Nam cần có sự quan tâm giúp đỡ và chỉ đạo thường xuyên của các cấp chính quyền, các ngành chức năng có liên quan, các cơ quan thông tân báo chí tuyên truyền giải thích, vận động các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hiểu đầy đủ về nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động trong việc thực hiện các chế độ. Bên cạnh đó, cần phải tăng cường phối hợp và giám sát hoạt động của hệ thống cơ quan BHXH trong quá trình thực hiện quản lý chi trả các chế độ BHXH từ khâu ban hành văn bản quy phạm pháp luật đến việc thực hiện các hoạt động nghiệp vụ quản lý chi BHXH. KẾT LUẬN Chuyên đề đã hệ thống một cách đầy đủ, khái quát về Bảo hiểm xã hội và cơ sở lý luận công tác quản lý chi trả chế độ trợ cấp ốm đau trong BHXH; các vấn đề về quản lý chi trả trợ cấp ốm đau ở Việt Nam trong thời gian từ năm 2005 đến 2009. Từ đó thấy rõ được thực trạng quản lý chi trả, các kết quả cũng như những hạn chế còn tồn tại để từ đó đưa ra các kiến nghị, biện pháp phù hợp nhằm giúp công tác quản lý chi trả được thực hiện tốt hơn, hiệu quả hơn. Qua thực trạng quản lý chi trợ cấp ốm đau ở Việt Nam trong thời gian 2005-2009, đã thấy rõ được tình chi trả và quản lý chi trả, những kết quả đạt được trong hoạt động quản lý chi trả cũng như những hạn chế còn tồn tại cần phải khắc phục. Nhìn chung, công tác quản lý chi trả của Ngành luôn thực hiện tốt, đảm bảo chi đúng, chi đủ, chi kịp thời đến tay đối tượng hưởng, từ đó giúp cuộc sống của người lao động được ổn định, người lao động yên tâm sản xuất, gắn bó với công việc, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra trong điều kiện kinh tế - xã hội phát triển như hiện nay là cần phải hoàn thiện và cải cách công tác chi trả cũng như quản lý chi trả sao cho nhanh chóng, thuận tiện, dễ dàng quản lý để từ đó đảm bảo tốt nhất quyền lợi cho người tham gia BHXH. Để làm được điều đó cần có sự nỗ lực chung của toàn ngành, sự chỉ đạo kịp thời của Chính phủ và các cơ quan chức năng có liên quan cùng với sự phối hợp, quan tâm và ý thức của người dân, có như vậy quyền lợi của người dân mới được đảm bảo, từ đó góp phần đảm bao an sinh xã hội của đất nước. DANH MỤC CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT BHXH: Bảo hiểm xã hội NSNN: Ngân sách nhà nước NLĐ : Người lao động NSDLĐ: Người sử dụng lao động TL : Tiền lương DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Trường đại học Kinh tế quốc dân (2005), “Giáo trình Kinh tế Bảo hiểm”, Nxb Thống kê. Trường đại học Kinh tế quốc dân (2008), “Giáo trình an sinh xã hội”, Nxb đại học Kinh tế quốc dân. BHXH – Những điều cần biết 2003 Luật BHXH Cuốn sách: “Phát triển hệ thống An sinh xã hội phù hợp với bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa” năm 2006 Tạp chí Bảo hiểm xã hội các năm 2006, 2007, 2008, 2009. Một số luận văn và chuyên đề thực tập của các năm trước. Báo cáo tổng kết hàng năm của BHXH Việt Nam MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc46116.doc
Luận văn liên quan