Toàn cầu hoá đang diễn ra nhanh chóng và có tác động mạnh mẽ đến
mọi nền kinh tế. Việt Nam đang tăng tốc để hội nhập kinh tế quốc tế. Tiến
trình này tạo cho DNV&N Việt Nam những cơ hội phát triển mới, nhưng
cũng có không ít thách thức dưới sức ép của sự cạnh tranh, của những diễ n
biến mau lẹ của nền kinh tế thế giới. DNV&N Việt Nam có cơ hội mở rộng
thị trường và tăng cường xuất khẩu; có cơ hội tiếp cận nhiều và nhanh hơn
với các nguồn thông tin về thị trường, công nghệ, đối tác; hàng hoá và dịch
vụ của doanh nghiệp được đối xử bình đẳng hơn; môi trường đầu tư cú sức
hấp dẫn hơn. Tuy vậy, toàn cầu hoá nói chung và việc Việt Nam gia nhập
WTO cũng đã đặt các DNV&N trước những thách thức không nhỏ như: mở
cửa thị trường làm cho cạnh tranh trở nên gay gắt hơn, cạnh tranh trên thị
trường nội địa tăng lên khi hàng rào thương mại bị cắt giả m; các nước có xu
hướng áp đặt nhiều biện pháp bảo hộ thông qua các hàng rào kỹ thuật như
chống bán phá giá, trợ cấp, tự vệ, tiêu chuẩn môi trường làm cho DNV&N
vấp phải nhiều tranh chấp quốc tế và nguy cơ phá sản.
113 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2518 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trung quốc thời kỳ hậu WTO bài học cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ển doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
2.1. Xu hƣớng các chính sách bên ngoài, các cam kết và các lực lƣợng
thị trƣờng tác động tới doanh nghiệp vừa và nhỏ
2.1.1. Các cam kết trong khuôn khổ WTO
Khi gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam tham gia sâu hơn vào tiến
trình toàn cầu hoá kinh tế. Tiến trình bày giúp Việt Nam tận dụng được lợi
thế so sánh để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách ổn định và bền vững.
Sức cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ và phúc lợi xã hội sẽ được nâng cao
nhờ nguồn lực được phân bổ một cách hợp lý. Tiến trình này cũng giúp Việt
Nam đẩy mạnh công nghiệp hoá và tham gia sâu hơn vào phân công lao
động quốc tế.
Có thể thấy các cam kết trong khuôn khổ WTO tác động tích cực đối
với khu vực DNV&N ở một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, khi gia nhập WTO, Việt Nam phải điều chỉnh, hoàn thiện
khung pháp lý cho phù hợp với cam kết hội nhập và các chuẩn mực kinh tế
thị trường. Việc gia nhập WTO cũng đòi hỏi tính chuyên nghiệp, minh bạch
và khả năng giải trình của bộ máy Nhà nước, minh bạch hoá toàn bộ các
chính sách liên quan đến thương mại, hoàn thiện các thị trường yếu tố sản
xuất (thị trường tài chính, thị trường đất đai, thị trường lao động…). Những
yêu cầu này chính là động lực cải cách nội tại nền kinh tế, hướng tới môi
trường đầu tư kinh doanh thuận lợi với hệ thống pháp lý minh bạch, phù hợp
thông lệ quốc tế, chính trị xã hội ổn định. Đây là những yếu tố quan trọng
nhất cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế
và đặc biệt có ý nghĩa đối với các DNV&N còn non yếu.
78
Thứ hai, gia nhập WTO, các DNV&N Việt Nam có cơ hội tiếp cận
thị trường toàn cầu trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng, không bị rào cản thuế
quan và phi thuế quan, điều mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng mong muốn
Thứ ba, WTO là diễn đàn thương mại mà ở đó mọi thành viên đều có
quyền bảo vệ mình khi xảy ra tranh chấp. Trở thành thành viên của WTO,
các DNV&N Việt Nam có lợi hơn trong các tranh chấp thương mại do tiếp
cận được hệ thống giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả của WTO,
tránh tình trạng bị các nước lớn gây sức ép trong các tranh chấp thương mại
quốc tế.
Thứ tư, WTO hoạt động dựa trên mục tiêu chính là nâng cao mức sống
của nhân dân các nước thành viên, đảm bảo việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
thương mại và sử dụng hiệu quả nhất nguồn nhân lực của thế giới. Chính vì
thế gia nhập WTO các nước thành viên sẽ có động lực thúc đẩy nền kinh tế
phát triển nhanh và hiệu quả. Gia nhập WTO cũng mở đường cho các nguồn
vốn đầu tư vào Việt Nam; khoa học, kỹ thuật, công nghệ và nguồn nhân lực
đều có cơ hôi học hỏi và tham gia vào sự phân công lao động toàn cầu.
Thứ năm, việc thực hiện những cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ
góp phần kéo theo một làn sóng đầu tư nước ngoài vào nhiều ngành kinh tế
dịch vụ, theo đó đem lại những lợi ích lan toả cho nền kinh tế mà các doanh
nghiệp hoạt động trong đó cũng được hưởng lợi như: tạo động lực tăng trưởng
sản xuất công nghiệp, tác động mạnh mẽ tới tăng trưởng kim ngạch xuất
khẩu, góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh năng
động sáng tạo, thúc đẩy chuyển giao công nghệ nghiên cứu và phát triển.
Tuy nhiên, việc tham gia các cam kết trong khuôn khổ WTO cũng đặt
ra những thách thức không nhỏ đối với nền kinh tế nói chung và các
DNV&N Việt Nam nói riêng:
WTO là sân chơi chung cho thị trường toàn cầu, các doanh nghiệp Việt
Nam buộc phải tuân theo những luật chơi mà ở đó người thắng cuộc là những
79
doanh nghiệp mạnh và hoạt động có hiệu quả hơn. Khi Việt Nam gia nhập
WTO, một số ngành, sản phẩm và doanh nghiệp phải chịu sức ép cạnh tranh và
đào thải vô cùng khắc nghiệt không chỉ ở thị trường nước ngoài mà ngay cả thị
trường nội địa khi các rào cản thương mại bị cắt giảm và dỡ bỏ. Các DNV&N
với năng lực cạnh tranh kém có nguy cơ phá sản hoặc giảm lợi nhuận vì tác
động của giảm thuế và mở cửa thị trường. Các DNV&N sẽ thường xuyên gặp
phải các tranh chấp trong thương mại quốc tế và ở thế yếu hơn.
Thực hiện cam kết WTO cũng có nghĩa là doanh nghiệp không được
Nhà nước bao cấp, bảo hộ. Các DNV&N với những hiểu biết hạn chế về thị
trường nước ngoài gặp khó khăn do các nước có xu hướng áp đặt các biện
pháp bảo hộ thông qua các rào cản kỹ thuật, chống bán phá giá, trợ cấp, tự
về, tiêu chuẩn môi trường…
Ngoài ra, Việt Nam còn phải mở cửa mạnh mẽ để doanh nghiệp nước
ngoài tham gia sâu hơn vào các lĩnh vực dịch vụ. Hầu hết các dịch vụ tài
chính phải mở cửa rộng rãi dể doanh nghiệp nước ngoài tham gia thị trường
với hình thức đầu tư 100% vốn trong thời gian tối đa 5 năm, lĩnh vực kế
toán, kiểm toán đã mở cửa thị trường hoàn toàn. Các DNV&N với năng lực
cạnh tranh yếu sẽ rất khó đứng vững trước sức ép của các doanh nghiệp
nước ngoài có tiềm lực tài chính, trình độ quản lý hiện đại.
Việc thực hiện các quy định của Hiệp định TRIMS theo đó doanh
nghiệp FDI không bị ràng buộc phải chuyển giao công nghệ và Hiệp định
TRIPS theo đó phải trả phí bản quyền sở hữu trí tuệ cũng khiến các DNV&N
gặp khó khăn trong việc khai thác, tận dụng chuyển giao công nghệ từ phía
nước ngoài trong các dự án FDI. Các DNV&N cũng khó có khả năng biến
công nghệ nguồn và công nghệ tiên tiến đi theo FDI thành tài sản của mình.
2.1.2. Tiến triển trong kinh doanh quốc tế
80
Lịch sử kinh doanh hiện đại phần lớn tập trung vào sự phát triển của
các doanh nghiệp lớn vì các doanh nghiệp này có lợi thế kinh tế nhờ quy mô
và phạm vi hoạt động. Quá trình công nghiệp hoá nhanh chóng cũng như
những tiến bộ khoa học kỹ thuật ở nhiều quốc gia đã có tác dụng hỗ trợ cho
sự phát triển của cac doanh nghiệp lớn. Toàn cầu hoá cũng có những ảnh
hưởng tích cực khi doanh nghiệp mở rộng hoạt động ra ngoài biên giới quốc
gia, trở thành các tập đoang xuyên quốc gia. Tất cả dường như còn ở phía
trước đối với DNV&N. Tuy nhiên thị trường ngày càng phân đoạn đã giúp
DNV&N trở nên quan trọng hơn. Các DNV&N có thể có lợi thế cạnh tranh
dựa trên sự linh hoạt và khả năng thích nghi với thị trường, đặc biệt trong
lĩnh vực kinh doanh, lợi thế kinh tế nhờ quy mô ngày càng ít quan trọng.
Vấn đề phát triển DNV&N không chỉ nổi lên trong bối cảnh chuyển
đổi và tăng trưởng kinh tế mà còn phát sinh trong điều kiện môi trường kinh
tế quốc tế thay đổi. Là một thành viên của WTO, cộng đồng các doanh
nghiệp Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào cộng đồng kinh
doanh quốc tế. Nếu trước đây, phần lớn các DNV&N hoạt động chủ yếu trên
thị trường nội địa thì ngày nay, ngày càng có nhiều doanh nghiệp có bạn
hàng và nhà cung cấp ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Thêm vào đó, ngày càng có nghiều DNV&N địa phương có bạn hàng
là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Một số DNV&N hiện đang
cung cấp các phụ kiện và dịch vụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài xuất khẩu sản phẩm chế tạo, qua đó các DNV&N Việt Nam trở
thành nhà xuất khẩu gián tiếp thông qua cơ chế “liên kết ngược”. Do cộng
đồng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng mở rộng và phát
triển, nhu cầu tìm kiếm nguồn đầu vào từ các nhà cung cấp sở tại càng tăng,
điều này tạo cơ hội cho hoạt động kinh doanh của các DNV&N địa phương
thông qua việc cung cấp đầu vào cho hoạt động của các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài.
81
Bên cạnh những vấn đề trên, xu hướng chung của hoạt động kinh
doanh quốc tế cũng có tác động ngày càng thuận lợi cho các DNV&N ở Việt
Nam. Vấn đề là ở chỗ làm sao để các DNV&N tham gia sâu hơn vào chuỗi
giá trị và cung cấp. Cách tốt nhất để bắt đầu chính là thiết lập mối liên kết
với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang có mặt tại Việt Nam và
tận dụng mối quan hệ này để học hỏi và phát triển. DNV&N ban đầu có thể
cung cấp dịch vụ đóng gói hay các dịch vụ liên quan khác, từ đó tạo thuận
lợi cho DNV&N gia nhập chuỗi giá trị để phát triển lớn mạnh hơn.
2.2. Định hƣớng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
Theo Quyết định số 236/2006/QĐ-TTg ngày 23/10/2006 phê duyệt kế
hoạch phát triển DNV&N 5 năm (2006-2010), quan điểm phát triển
DNV&N của Nhà nước như sau :
- Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
- Nhà nước tạo môi trường về pháp luật và các cơ chế, chính sách
thuận lợi cho DNV&N thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển bình đẳng và
cạnh tranh lành mạnh nhằm huy động mọi nguồn lực trong nước kết hợp với
nguồn lực từ bên ngoài cho đầu tư phát triển.
- Phát triển DNV&N theo phương châm tích cực, vững chắc, nâng
cao chất lượng, phát triển về số lượng, đạt hiệu quả kinh tế, góp phần tạo
nhiều việc làm, xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. Phát
triển DNV&N gắn với các mục tiêu quốc gia, các mục tiêu phát triển kinh tế
- xã hội phù hợp với điều kiện từng vùng, từng địa phương, khuyến khích
phát triển công nghiệp nông thôn, làng nghề truyền thống. Chú trọng phát
triển DNV&N ở các vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội
khó khăn, ưu tiên phát triển các DNV&N do đồng bào dân tộc, phụ nữ,
82
người tàn tật… làm chủ doanh nghiệp. Chú trọng phát triển DNV&N đầu tư
sản xuất một số lĩnh vực có khả năng cạnh tranh cao.
- Hoạt động trợ giúp của Nhà nước chuyển dần từ hỗ trợ trực tiếp
sang hỗ trợ gián tiếp để nâng cao năng lực cho các DNV&N.
- Gắn hoạt động kinh doanh với bảo vệ môi trường, bảo đảm trật tự,
an toàn xã hội.
- Tăng cường nâng cao nhận thức của các cấp chính quyền về vị trí,
vai trũ của DNV&N trong phát triển kinh tế - xã hội.
Mục tiêu phát triển DNV&N:
- Số DNV&N thành lập mới khoảng 320.000 doanh nghiệp (hàng
năm tăng khoảng 22%)
- Tỷ lệ tăng DNV&N thành lập mới tại các tỉnh khó khăn là 15% đến
năm 2010
- Tỷ lệ trực tiếp tham gia xuất khẩu đạt từ 3- 6% trong tổng số
DNV&N
- Tạo thêm khoảng 2,7 triệu chỗ làm mới trong giai đoạn 2006-2010
- Có thêm 165.000 lao động được đào tạo kỹ thuật làm việc tại các
DNV&N
Các nhóm giải pháp:
- Đơn giản hoá các quy định nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc
đăng ký kinh doanh, gia nhập thị trường và các hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp
- Tạo điều kiện tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất cho các DNV&N
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các DNV&N tiếp cận các nguồn vốn,
ưu tiên các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, hàng có giá trị gia tăng
cao
- Các chương trình hỗ trợ nhằm nâng cao năng lực và cải thiện khả
năng cạnh tranh của các DNV&N
83
- Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển DNV&N giai
đoạn 2006-2010
- Tạo lập môi trường tâm lý xã hội đối với khu vực DNV&N
- Quản lý thực hiện Kế hoạch phát triển DNV&N giai đoạn 2006-2010
3. Giải pháp vận dụng kinh nghiệm của Trung Quốc nhằm phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
3.1. Những nét tƣơng đồng giữa doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam và
Trung Quốc
Về môi trường kinh tế-xã hội: Việt Nam và Trung Quốc có nhiều nét
tương đồng về văn hoá xã hội cũng như về đặc điểm kinh tế. Chế độ phong
kiến đã có thời gian tồn tại lâu đời ở cả hai quốc gia với hình thức cá nhân
trị, vua nắm mọi quyền hành trong xã hội, cai trị chủ yếu bằng mệnh lệnh,
các mối quan hệ thân quen là nguyên tắc chính chi phối mọi quyết định và
đẩy luật pháp xuống hàng thứ yếu.Trong khi đó, văn hoá truyền thống các
nước phương Tây là thiết lập nên các quy tắc, luật lệ, quản lý xã hội bằng
pháp luật. Sau khi thoát khỏi chế độ phong kiến, cả Việt Nam và Trung
Quốc đều bỏ qua giai đoạn Tư bản chủ nghĩa để bước vào giai đoạn quá độ
đi lên Xã hội chủ nghĩa.
Về kinh tế, trong giai đoạn phong kiến, nông nghiệp là hoạt động kinh
tế chính của hai quốc gia. Sau khi thoát khỏi chế độ phong kiến, cả hai nước
đều xây dựng chế độ tập trung, bao cấp theo mô hình kế hoạch hoá tập trung
của Liên Xô cũ. Do học hỏi mô hình phát triển của Liên Xô cũ cả hai nước
đều tập trung phát triển công nghiệp nặng trong khi chưa chuẩn bị đầy đủ
điều kiện kinh tế cần thiết khiến nền kinh tế hai nước rơi vào kiệt quệ, lãng
phí tài nguyên và các nguồn lực khác. Trong giai đoạn này, kinh tế Nhà
nước chiếm vị trí độc quyền, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh kém phát
triển do không được thừa nhân và chịu sự o ép vì các lý do chính trị.
84
Sau khi thực hiện cải cách và mở cửa nền kinh tế, khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh mới có cơ hội phát triển, Chính phủ cũng dần nhận thức
được vai trò của khu vực kinh tế này và coi đó là một thành phần kinh tế
không thể thiếu. Nhà nước chủ trương phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều thành phần kinh tế và nhiều hình thức sở
hữu. Trong kế hoạch phát triển của cả Việt Nam và Trung Quốc, DNV&N
được coi là động lực phát triển kinh tế. Cả hai nước đều nỗ lực để tạo môi
trường ổn định, bình đẳng, hỗ trợ DNV&N phát triển trong xu thế hội nhập.
Đặc điểm riêng của doanh nghiệp: DNV&N Việt Nam và Trung
Quốc có tiêu chuẩn xác định khác nhau song có nhiều điểm tương đồng.
Trong số các DNV&N, doanh nghiệp tư nhân chiếm một tỷ lệ lớn mà khu
vực này mới được Chính phủ thừa nhận nên chưa có điều kiện tham gia vào
hội nhập kinh tế quốc tế. Cơ cấu DNV&N bao gồm: doanh nghiệp tư nhân,
doanh nghiệp tập thể (hợp tác xã), doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, trong đó chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân. Chủ
doanh nghiệp tư nhân khu vực nông thôn chủ yếu là những người nông dân
thành lập doanh nghiệp sau cải cách nên họ thiếu kiến thức chuyên môn,
quản lý doanh nghiệp chủ yếu nhờ vào khả năng vốn có và sự nhạy bén với
thời cuộc. Công nhân trong các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu là dân địa
phương mà đa số là nông dân. DNV&N hai nước có lợi thế so sánh trong
những ngành sử dụng nhiều lao động. DNV&N cả hai nước đều trong tình
trạng thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, trong khi đó việc huy động vốn lại
khó khăn nên không có điều kiện đổi mới công nghệ. Trong xu thế phát
triển của DNV&N ở Việt Nam và Trung Quốc, tốc độ tăng trưởng của khu
vực ngoài quốc doanh tăng nhanh hơn so với khu vực Nhà nước. Hiẹn
nay, cả hai nước đều đang tiếp tục đẩy mạnh phát triển khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh bằng nhiều biện pháp để DNV&N hoạt động hiệu quả,
có khả năng đứng vững trong hội nhập kinh tế quốc tế.
85
3.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ các biện pháp phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ của Trung Quốc
3.2.1. Thống nhất nhận thức, quan điểm về phát triển doanh nghiệp vừa
và nhỏ
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc các DNV&N hoàn
toàn có thể chủ động tham gia vào môi trường cạnh tranh quốc tế vì các
doanh nghiệp không chỉ được bảo vệ ở thị trường trong nước mà còn được
taoh điều kiện phát triển ở thị trương nước ngoài. Từ sự nhìn nhận đúng đắn
về vai trò của DNV&N mà đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân, Trung Quốc
đã nhanh chóng tiến hành hàng loạt cải cách, thực thi các chính sách hỗ trợ
nhằm tạo môi trường pháp lý bình đẳng cho tất cả các thành phần kinh tế
cùng phát triển. Việt Nam cần phải học tập Trung Quốc trong việc thống
nhất tư tưởng từ Trung ương đến địa phương, cụ thể hoá các chiến lược phát
triển trong từng giai đoạn phù hợp với tình hình thực tiễn để xây dựng được
một khung chính sách hoàn thiện.
Hiện tại Chính phủ Việt Nam đã ý thức được tầm quan trọng của
DNV&N đối với nền kinh tế và cũng đã ban hành một số chính sách hỗ trợ
song việc triển khai các chính sách này vẫn còn chậm chạp, nhận thức về
quan điểm và chính sách của Nhà nước chưa triệt để. Việt Nam cũng chưa
thực sự ý thức được tầm quan trọng của DNV&N đối với sự phát triển của
đất nước trong khi các chính quyền địa phương ở Trung Quốc không chỉ
quán triệt chủ trương của Nhà nước mà còn tự mình tìm ra các giải pháp
riêng để thúc đẩy DNV&N ở địa phương.
3.2.2. Mở cửa thị trường cho các thành phần kinh tế cùng tham gia
Sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc phải mở cửa thị trường cho nhiều
đối tác nước ngoài trong các lĩnh vực sản xuất, tài chính…Tuy nhiên, cho
đến nay không phải tất cả các thành phần kinh tế đều được tham gia vào các
lĩnh vực quan trọng như tài chính, bất động sản. Điều này làm hạn chế khả
86
năng huy động vốn của các DNV&N trong việc tiếp cận các khoản tín dụng
từ phía các ngân hàng.
Từ trường hợp của Trung Quốc, Việt Nam cần rút ra bài học về việc
cần phải mở cửa khu vực tài chính cho các doanh nghiệp nói chung và
DNV&N nói riêng.
3.2.3. Khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư vào khoa học
công nghệ
Các doanh nghiệp Trung Quốc cũng như Việt Nam có trình độ công
nghệ lạc hậu hơn nhiều so với các quốc gia khác trên thế giới. Khi hội nhập
kinh tế quốc tế, nếu các doanh nghiệp không đổi mới khoa học công nghê để
nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm thì sẽ không thể cạnh tranh trên
thị trường quốc tế. DNV&N có lợi thế về quy mô nhỏ nên dễ dàng thay đổi
công nghệ, áp dụng kịp thời các công nghệ tiên tiến trên thế giới. Đổi mới
công nghệ trong DNV&N sẽ là nền tảng để nâng cao trình độ công nghệ của
cả nền kinh tế. Chính vì vậy đổi mới và cải tiến công nghệ được coi là nhiệm
vụ chiến lược của nền kinh tế. Việt Nam nên học tập các biện pháp tích cực
mà Trung Quốc đã làm để đổi mới và cải tiến khoa học công nghệ như thành
lập quỹ khoa học công nghệ, quỹ đầu tư mạo hiểm, hỗ trợ về vốn cho các dự
án công nghệ cao…
3.3. Một số kiến nghị nhằm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
3.3.1. Cải thiện môi trường pháp lý và đầu tư kinh doanh phù hợp
Để phát triển DNV&N, Nhà nước cần tập trung hơn nữa cho việc
hoạch định thể chế, chính sách; tiếp tục tạo lập các loại thị trường, hình
thành đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đối với DNV&N cũng như đối với các doanh nghiệp nói chung, yêu
cầu cơ bản và bức thiết hiện nay là hệ thống pháp luật phải tháo gỡ cho
doanh nghiệp về ba mặt: (1) tự do kinh doanh theo pháp luật; (2) tự chủ, tự
chịu trách nhiệm; (3) bình đẳng trước pháp luật và chính sách Nhà nước.
87
Để đáp ứng yêu cầu đó chúng ta phải phấn đấu lành mạnh hoá môi
trường kinh doanh thông qua việc xây dựng và hoàn chỉnh toàn bộ hệ thống
thể chế, chính sách kinh tế bởi vì như thực tiễn đã cho thấy, nếu không có
sân chơi bình đẳng thì không thể có sự phát triển lành mạnh, hiệu quả cũng
như liên kết, liên doanh giữa các doanh nghiệp. Tuy nhiên, để đạt được cả ba
mặt nêu trên còn là một quá trình phấn đấu lâu dài.
Nhà nước cần chú ý vai trò quan trọng của mình đối với DNV&N
(chủ yếu là kinh tế tư nhân) trên ba mặt sau:
- Khuyến khích: Vì DNV&N chủ yếu thuộc thành phần kinh tế tư
nhân cho nên trong các thể chế, chính sách Nhà nước cần thể hiện rõ quan
điểm khuyến khích kinh tế tư nhân, thực sự coi kinh tế tư nhân là bộ phận
cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; kinh tế tư nhân bình đẳng
với tất cả các thành phần kinh tế khác trong sản xuất, kinh doanh, không
phân biệt đối xử (như về mặt bằng, doanh nghiệp Nhà nước cũng như doanh
nghiệp tư nhân phải bình đẳng như nhau, hoặc bình đẳng trong vay vốn tín
dụng…). Những chủ trương, chính sách có tác dụng khuyến khích phát triển
DNV&N cần được Nhà nước hỗ trợ để đưa vào thực hiện trong thực tế.
- Trợ giúp: DNV&N Việt Nam chưa quen với nền kinh tế thị trường,
nhất là trong cạnh tranh với khu vực và trên thế giới nên rất cần sự trợ giúp
của Nhà nước trong việc tiếp cận thị trường, nâng cao kỹ năng quản lý, trình
độ khoa học công nghệ trong việc thực hiện các cuộc tham quan, khảo sát,
dự hội chợ, triển lãm ở nước ngoài…Nhà nước phải đẩy mạnh việc xây dựng
kết cấu hạ tầng, nhất là đường sá, bảo đảm giao thông thông suốt, tạo điều
kiện cho doanh nghiệp phát triển thị trường. Quan trọng không kém là mặt
bằng sản xuất kinh doanh: cơ quan hành chính ở các địa phương phải giúp
đỡ DNV&N trong các công việc như đền bù, giải toả, giải phóng mặt
bằng…
88
- Hướng dẫn: trước hết Nhà nước cần hoàn chính khung pháp lý để
giúp DNV&N kinh doanh đúng hướng, không vi phạm các quy định về quản
lý Nhà nước như các quy chế, thủ tục về đăng ký kinh doanh, quy hoạch và
thuê mặt bằng, nộp thuế, bảo vệ môi trường, quy định về quản lý đô thị…Vai
trò của các cơ quan chức năng là hướng dẫn DNV&N kinh doanh đúng pháp
luật, ngăn ngừa vi phạm chứ không phải là đợi cho họ phạm luật rồi xử phạt;
việc thanh tra, kiểm tra cũng nhằm mục đích trước hết là hướng dẫn doanh
nghiệp kinh doanh đúng pháp luật chứ không phải nhằm vào xử phạt là chính.
Trong thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương chính
sách trợ giúp DNV&N, nhiều chính sách đã phát huy tác dụng tốt. Dưới đây
là một số kiến nghị liên quan đến những chính sách tiêu biểu và quan trọng
nhất:
Về tín dụng:
Thiếu vốn đầu tư kinh doanh đang là một trong những khó khăn lớn
nhất của DNV&N. DNV&N thiếu vốn và cũng rất khó khăn trong việc
tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng chính thức do không có tài sản thế
chấp khi vay vốn.
Nhà nước và các chính quyền địa phương phải có chính sách rất cụ thể
và thiết thực để hỗ trợ mặt bằng sản xuất ổn định, lâu dài cho các doanh
nghiệp nhỏ và vừa. Trước thực trạng thiếu vốn do nhu cầu sản xuất kinh
doanh của DNV&N Việt Nam, Nhà nước cần xác lập và triển khai chương
trình hỗ trợ vốn cho các DNV&N. Trong đó hỗ trợ vốn cho cả hai loại: hỗ
trợ vốn đầu tư ban đầu để hình thành doanh nghiệp và hỗ trọ vốn vay khi
doanh nghiệp thiếu vốn, có nhu cầu đầu tư mở rộng kinh doanh. Hiện tại,
Nhà nước đã có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là các DNV&N vay
vốn với lãi suất ưu đãi 4%/năm. Cơ chế thành lập và hoạt động của Quỹ bảo
lãnh tín dụng cho DNV&N cũng cần được xem xét hoàn chỉnh để đẩy nhanh
việc thành lập quỹ ở các địa phương, đảm bảo cho quỹ này thực sự trở thanh
89
công cụ hữu hiệu trợ giúp cho DNV&N tìm kiếm vốn cho sản xuất kinh
doanh
Bên cạnh đó, các ngân hàng cần đổi mới cơ chế, chính sách tín dụng
theo nguyên tắc thị trường và nâng cao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm
của các tổ chức tín dụng, cải tiến thủ tục cho vay đối với các doanh nghiệp
nhỏ và vừa theo hướng đơn giản, rõ ràng hơn, tiếp tục cải tiến quy trình cho
vay nhằm rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay của các ngân hàng thương
mại hiện nay. Đồng thời cần đa dạng hoá hơn nữa các hình thức bảo đảm tín
dụng để thích ứng với đặc điểm của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, tiếp tục
nghiên cứu và triển khai mạnh việc phát triển và hoàn thiện các dịch vụ ngân
hàng mới như dịch vụ tư vấn, môi giới đầu tư chứng khoán, bảo quản vật có
giá, cung cấp các dịch vụ sản phẩm bảo hiểm, uỷ thác... cùng với đó là chú
trọng tới hoạt động marketing, quảng bá sản phẩm dịch vụ ngân hàng đến
quảng đại công chúng cũng như tới cộng đồng các doanh nghiệp, đặc biệt là
doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Để nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ tín dụng ngân hàng, các
DNV&N cũng cần phải chủ động tìm hiểu, nghiên cứu kỹ để nắm và hiểu rõ
tính năng, tiện ích của các sản phẩm dịch vụ cũng như cách thức tiếp cận và
sử dụng các dịch vụ mà các ngân hàng cung ứng; minh bạch hóa thủ tục sổ
sách kế toán; lập kế hoạch dự án chặt chẽ chính xác để tăng tính thuyết phục
ngân hàng xem xét thẩm định cho vay.
Về mặt bằng cho kinh doanh:
Việc trợ giúp về mặt bằng sản xuất kinh doanh cho DNV&N ở nhiều
địa phương đã có những cải thiện đáng kể. Để khuyến khích và hỗ trợ
DNV&N Uỷ ban nhân dân một số tỉnh thực hiện các ưu đãi như: kéo dài thời
gian thuê đất, áp dụng mức thấp nhất trong khung giá thuê đất… Tuy vậy tại
một số tỉnh, thành phố có số lượng lớn DNV&N, các DNV&N vẫn thiếu mặt
bằng sản xuất, có nơi do tình trạng quá tải của các khu, cụm công nghiệp
90
nhỏ và vừa, đồng thời cũng không đủ khả năng đầu tư vào các cụm công
nghiệp lớn. Để khắc phục tình trạng này, cần phải:
- Nâng cao chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất: Công khai
quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch cụm công nghiệp, cụm công nghiệp; thực
hiện đấu thầu các dự án có sử dụng đất, đấu giá quyền sử dụng đất công
khai, minh bạch
- Ngoài việc lựa chọn hình thức giao đất, cho thuê đất, doanh nghiệp
được tự thoả thuận với người có đất về việc mua lại đất để làm mặt bằng sản
xuất
- Rà soát các chính sách bồi thường, giải phóng mặt bằng và tuyên
truyền để người dân hiểu và hợp tác với chính quyền trong việc đền bù, giải
phòng mặt bằng
- Thực hiện giãn hoặc giảm giá thuê đất đối với các DNV&N có hợp
đồng thuế đất với cơ quan quản lý Nhà nước (Cơ quan quản lý tài nguyên
môI trường, đất đai các tỉnh, thành phố; ban quản lý các cụm công nghiệp…)
nhằm chia sẻ khó khăn với DNV&N hiện nay
- Hình thành tổ chức phát triển quỹ đất, có trách nhiệm giải phóng
mặt bằng ngay khi có quy hoạch được duyệt và công bố, giúp doanh nghiệp
chủ động hơn trong việc xin giao đất, thuê đất làm mặt bằng sản xuất
Về thị trường xuất khẩu:
Thời gian qua, nhiều DNV&N đã năng động đầu tư vào các ngành
nghề có nhiều lợi thế, chủ động tìm kiếm và khai thác thị trường quốc tế, qua
đó góp phần tích cực tằn kim ngạch xuất khẩu, nhất là các mặt hàng thủ
công mỹ nghệ, chế biến nông lâm thuỷ sản…Ngoài các chương trình xúc
tiến thương mại quốc gia, một số hiệp hội doanh nghiệp, tổ chức xúc tiến
thương mại của một số Bộ, ngành, địa phương cũng đã triển khai các hoạt
động xuất khẩu. Tuy vậy, các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm
quốc gia được phê duyệt thường chưa cân đối với nhu cầu của doanh nghiệp,
91
chủ yếu dành cho đối tượng là doanh nghiệp lớn, tổng công ty Nhà nước. Do
vậy, vấn đề đặt ra là Nhà nước cần nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi các cơ chế,
chính sách xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia, đồng thời thống nhất
chỉ đạo triển khai các chương trình xúc tiến thương mại, xúc tiến xuất khẩu
để nâng cao tính hiệu quả, tạo thuận lợi cho các DNV&N trong hoạt động
sản xuất, kinh doanh, đồng thời phải tăng cường thu thập, phổ biến thông tin
về thị trường, mấu mã, giá cả… giúp cho việc dự báo, kinh doanh của
DNV&N.
Cải cách hành chính:
Việc đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao năng lực và ý thức của
mọi cơ quan Nhà nước và mọi công chức để thực hiện hệ thống thể chế,
chính sách đối với DNV&N có ý nghĩa rất quan trọng nhằm đưa thể chế,
chính sách vào cuộc sống, bảo đảm hiệu lực thực tế của thể chế, chính sách.
Để việc thi hành pháp luật được thực hiện nghiêm minh cần thiết phải
tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra việc thi hành công vụ của cơ quan,
công chức Nhà nước nhằm góp phần giảm dần và đi đến xoá bỏ những hành
vi của công chức sách nhiễu doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cần công khai minh
bạch các hoạt động kinh tế, tài chính trong các cơ quan hành chính, đơn vị
cung ứng dịch vụ công, tức là những công việc liên quan đến DNV&N nhằm
đảm bảo cho cơ quan và công chức phục vụ doanh nghiệp tốt hơn, đẩy lùi tệ
quan liêu, tham nhũng. Công khai minh bạch cũng nhằm bảo đảm quyền làm
chủ, quyền được thông tin của dân và của DNV&N trong việc hiến kế, đóng
góp ý kiến và giám sát hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước.
3.3.2. Hình thành và củng cố các đầu mối hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ
Hiện nay có rất nhiều tổ chức tài trợ song phương và đa phương đã
hoạt động tại Việt Nam và ngày càng tham gia nhiều hơn vào các lĩnh vực,
đóng góp có ý nghĩa cho sự phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam. Các quỹ
tài trợ đa phương lớn như: WB, IMF, ADB, UNDP, EU…; các nhà tài trợ
song phương tiêu biểu như: AussAid (Autralia), CIDA (Canada), DANIDA
92
(Đan Mạch), AFD (Pháp), GTZ (Đức), JICA, JBIC (Nhật Bản), SNV (Hà
Lan), NORAD (Na Uy), SIDA (Thụy Sỹ), SDC, SECO (Thụy Điển), DFID
(Anh), USAID (Hoa Kỳ)…; nhiều quỹ tín thác đa phương như MPDF và các
tổ chức phi chính phủ Quốc tế như OXFAM cũng có nhiều hoạt động tại
Việt Nam.
Trong những năm gần đây, các đối tác phát triển này đã giới thiệu
những khái niệm, nhận thức cũng như những bài học kinh nghiệm về hỗ trợ
DNV&N- một vấn đề nhận được sự quan tâm rất lớn của các nền kinh tế
phát triển và đang phát triển. Hầu hết đối tượng hưởng lợi trực tiếp từ dự án
là khu vực tư nhân hay các DNV&N. Nhiều dự án có tiêu đề rõ ràng là “khu
vực tư nhân” hay “DNV&N” trong khi các dự án khác lại cung cấp hỗ trợ
nhiều hơn tới những đối tượng thụ hưởng mục tiêu được xác định từ trước
như những nữ doanh nhân, các công ty xuất khẩu nhỏ, các hộ sản xuất đồ
gốm, tăng trưởng kinh tế cho người nghèo.
Bên cạnh các tổ chức tài trợ quốc tế, các tổ chức xã hội như hội, hiệp
hội doanh nghiệp… có vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng, được coi như một
trong “ba trụ cột của nền kinh tế thị trường” (là Nhà nước, doanh nghiệp và
xã hội dân sự). Vai trò của các hội, hiệp hội doanh nghiệp được thể hiện trên
bốn mặt sau:
- Là nơi đông đảo doanh nghiệp cùng ngành nghề hoặc cùng địa bàn
(hiện nay chủ yếu là DNV&N) giúp đỡ nhau kịp thời nắm bắt những thể chế,
chính sách kinh tế của Nhà nước, cùng nhau nâng cao tính tự giác trong việc
chấp hành pháp luật, tuân thủ những nguyên tắc đạo đức, văn hoá trong kinh
doanh, đồng thời thảo luận dân chủ, cùng nhau tranh luận để đi đến nhất trí,
thậm chí đấu tranh chống những biểu hiện lệch lạc, giúp nhau xác định cung
cách làm ăn đúng luật pháp.
- Là nơi các DNV&N cùng nhau thương thảo, thống nhất nhận thức và
hành động trong việc khắc phục những khiếm khuyết của kinh tế thị trường
93
mà mỗi doanh nghiệp riêng lẻ không thể tự xử lý được, có khi vì lơi ích riêng
tư hoặc không đủ sức mạnh để xử lý, nhằm bảo đảm lợi ích toàn xã hội
- Trong các hiệp hội, DNV&N cùng nhau thực hiện việc liên kết, hỗ
trợ, hợp tác trong sản xuất kinh doanh, cùng giúp nhau xử lý các vấn đề cụ
thể về kinh tế, kỹ thuật trong kinh doanh, ví dụ như giúp nhau xúc tiến
thương mai, xác định chiến lược cạnh tranh, tìm kiếm thị trường, hỗ trợ về
vốn, làm các dịch vụ môi giới, tư vấn, giúp nhau kỹ năng quản lý doanh
nghiệp, áp dụng công nghệ mới, đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao
động…
- Là cầu nối giữa DNV&N với Nhà nước, là nơi phản ánh tâm tư
nguyện vọng của doanh nghiệp, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của doanh
nghiệp. Hiệp hội tham gia với cơ quan Nhà nước trong việc soạn thảo các
văn bản pháp quy mà doanh nghiệp là đối tượng thi hành để văn bản pháp
quy phản ánh đúng thực trạng cuộc sống, giải pháp đúng những vấn đề bức
xúc cuộc sống đang đặt ra.
Một số tổ chức địa phương và quốc gia tham gia và việc đại diện và
thúc đẩy các hoạt động hỗ trợ các DNV&N:
94
Hình 3.2: Hệ thống thể chế hỗ trợ DNV&N tại Việt nam hoạt
động dƣới sự chỉ đạo của Thủ tƣớng
Nguồn:
Nhằm tăng cường tính hiệu quả của các tổ chức hỗ trợ, chúng ta cần phải:
Thứ nhất, cần tăng cường năng lực của các tổ chức hỗ trợ. Chính phủ
cần phải tạo ra một khung pháp lý và ban hành những biện pháp nhằm hỗ trợ
các tổ chức này về mặt vật chất và tài chính và cung cấp những sự hỗ trợ về
nhân lực nhằm giúp các tổ chức trên có thể vận hành với vai trò như những
tổ chức phúc lợi xã hội.
Thứ hai, chính phủ cần phải tạo ra những điều kiện thuận lợi để các tổ
chức đại diện và các tổ chức hỗ trợ các DNV&N có thể tham gia vào việc
kiến tạo và lập kế hoạch cho các chương trình hỗ trợ của Chính phủ.
95
Thứ ba, cần phải thống nhất tất cả các tổ chức hỗ trợ DNV&N vào
chung một mạng lưới. Chúng ta có thể củng cố sự hợp tác giữa các tổ chức
và hệ thống hỗ trợ thông qua các hình thức như hội nghị thường kỳ, Ban hợp
tác, và các chương trình cộng tác cùng thực hiện.
3.3.3. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Toàn cầu hoá đang diễn ra nhanh chóng và có tác động mạnh mẽ đến
mọi nền kinh tế. Việt Nam đang tăng tốc để hội nhập kinh tế quốc tế. Tiến
trình này tạo cho DNV&N Việt Nam những cơ hội phát triển mới, nhưng
cũng có không ít thách thức dưới sức ép của sự cạnh tranh, của những diễn
biến mau lẹ của nền kinh tế thế giới. DNV&N Việt Nam có cơ hội mở rộng
thị trường và tăng cường xuất khẩu; có cơ hội tiếp cận nhiều và nhanh hơn
với các nguồn thông tin về thị trường, công nghệ, đối tác; hàng hoá và dịch
vụ của doanh nghiệp được đối xử bình đẳng hơn; môi trường đầu tư cú sức
hấp dẫn hơn. Tuy vậy, toàn cầu hoá nói chung và việc Việt Nam gia nhập
WTO cũng đã đặt các DNV&N trước những thách thức không nhỏ như: mở
cửa thị trường làm cho cạnh tranh trở nên gay gắt hơn, cạnh tranh trên thị
trường nội địa tăng lên khi hàng rào thương mại bị cắt giảm; các nước có xu
hướng áp đặt nhiều biện pháp bảo hộ thông qua các hàng rào kỹ thuật như
chống bán phá giá, trợ cấp, tự vệ, tiêu chuẩn môi trường làm cho DNV&N
vấp phải nhiều tranh chấp quốc tế và nguy cơ phá sản.
Để tăng cường năng lực cạnh tranh cho các DNV&N Việt Nam các
doanh nghiệp cần xây dựng được mạng lưới liên kết. Xét về mặt lý thuyết,
có nhiều hình thức liên kết khác nhau như: (1) Sự liên kết, hợp tác giữa các
doanh nghiệp: có thể đó là sự hợp tác giữa các DNV&N với nhau để cùng
giải quyết một hoặc vài mục tiêu nào đó có thể là sự liên kết giữa DNV&N
với doanh nghiệp lớn; sự liên kết giữa DNV&N với doanh nghiệp nước
96
ngoài; (2) Liên kết ngành (clustering), liên kết theo chuối giá trị (value
chains); (3) Hiệp hội doanh nghiệp.
Để liên kết thực sự là một trong những giải pháp quan trọng giúp các
DNV&N Việt Nam tăng cường năng lực cạnh tranh, thì việc xác định được
mục tiêu của việc liên kết là điều cấp thiết. Liên kết có thể thực hiện được
khi đạt một hoặc một số mục tiêu như: tăng cường khả năng đầu tư mở rộng
sản xuất; phát triển sản phẩm mới; tăng giá trị sản phẩm; phát triển thị
trường, bán hàng; đổi mới công nghệ sản xuất; đổi mới hoạt động quản lý;
tăng cường năng lực cạnh tranh, chống cạnh tranh.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần có những biện pháp thị trường cho
DNV&N thông qua một chính sách chung dành cho DNV&N, không phân
biệt thành phần kinh tế. Chính sách này trước hết phải bảo đảm sự cạnh
tranh bình đẳng, không có hiện tượng độc quyền, hỗ trợ các DNV&N trước
doanh nghiệp lớn. Trong vấn đề thị trường và cạnh tranh, sự hỗ trợ của Nhà
nước có thể tiến hành thông qua một số biện pháp sau:
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các DNV&N tham gia vào dự án xây
dựng cở sở hạ tầng bằng nguồn vốn ngân sách trong khi Trung ương thường
là chủ đầu tư trong các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng cở lớn mà DNV&N rất
ít có khả năng tham gia thực hiện thì các dự án quy mô nhỏ hơn thường do
chính quyền các cấp ở điạ phương làm chủ đầu tư lại có thể thích hợp với
năng lực tài chính, kinh tế và quản lý của một hoặc một số DNV&N tập hợp
lại. Việc giao thầu cho các DNV&N đảm nhiệm những công trình công cộng
là chính sách hỗ trợ rất lớn của Nhà nước đối với DNV&N. Ngay cả trong
các lĩnh vực chi tiêu công cộng khác của chính quyền các cấp, DNV&N
cũng có thể đóng vai trò cung ứng quan trọng.
- Cần có chính sách khuyến khích mối quan hệ giữa doanh nghiệp lớn
với DNV&N để doanh nghiệp lớn có thể hỗ trợ cho DNV&N thông qua việc
97
ký kết các hợp đồng cung ứng nguyên vật liệu, bán thành phẩm, gia công chi
tiết, bộ phận, phân phối sản phẩm. Tăng cường mối quan hệ giữa doanh
nghiệp lớn với DNV&N vừa có tác dụng bảo đảm thị trường, công ăn việc
lầm ổn định cho cả chủ doanh nghiệp và người lao động, vừa tạo điều kiện
thuận lợi để chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý từ doanh nghiệp lớn
sang doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Chống buôn lậu, chống hàng giả, trốn thuế, gian lận thương mại cũng
đang là vấn đề bức xúc ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất- kinh doanh của
các DNV&N, bởi vì các DNV&N có tiềm lực kinh tế thấp sản phẩm hàng
hoá sản xuất ra thường có sức cạnh tranh kém trên thị trường. Điều này cho
thấy Chính Phủ và các cơ quan ban ngành có liên quan phải tổ chức phối
hợp thật tốt để giẩi quyết các vấn đề nêu trên.
3.3.4. Chú trọng phát triển khoa học công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực
Thực tiễn cho thấy thời gian qua, việc đầu tư công nghệ mới trong
DNV&N có dấu hiệu gia tăng, trở thành mối quan tâm của doanh nghiệp.
Một số Bộ và địa phương đã tổ chức các lớp tập huấn về công nghệ mới,
chuyển giao công nghệ, trợ giúp một số hoạt động như đăng ký bảo hộ sở
hữu công nghiệp, quản lý chất lượng sản phẩm dịch vụ. Tuy vậy, nhìn chung
các trợ giúp về mặt này còn hạn chế, DNV&N còn khó khăn trong việc đổi
mới công nghệ, áp dụng kỹ thuật mới; phần lớn phải tự tìm kiếm. Bộ Kế
hoạch và Đầu tư cũng đã thành lập ba “Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật DNV&N.
Trong thời gian tới, các Bộ, ngành liên quan sẽ phải tập trung hơn nữa
cho công việc này; đồng thời DNV&N cũng phải coi đổi mới công nghệ,
ứng dụng công nghệ mới là một yêu cầu sống còn, một công việc cấp bách
để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh, nâng cao hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp. Phải xây dựng sớm cơ sở dữ liệu quốc gia để cung cấp thông
tin về công nghệ, thiết bị, các tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng, sản
phẩm cho DNV&N. Xúc tiến nghiên cứu mô hình doanh nghiệp công nghệ,
98
cơ chế khuyến khích việc liên kết, hợp tác giữa các cơ sở nghiên cứu và cơ
sở sản xuất của các DNV&N, để các sản phẩm khoa học công nghệ được
mua bán, trao đổi như các hàng hoá khác. Đồng thời phải hoàn chỉnh cơ chế
trợ giúp DNV&N thực hiện đăng ký và bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
cho sản phẩvu và dịch vụ, mua bán, trao đổi, góp vốn và hợp tác đầu tư bằng
giá trị tài sản vô hình là quyền sở hữu công nghiệp.
Bên cạnh vấn đề về khoa học công nghệ, khó khăn về nhân lực đang
là một trong những trở ngại lớn nhất của DNV&N trong việc nâng cao hiệu
quả sản xuất, kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá khi phải đối
mặt với công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế. DNV&N không chỉ thiếu công
nhân kỹ thuật lành nghề mà còn thiếu cả nhân sự cấp cao đủ những kỹ năng
cần thiết để quản lý, điều hành doanh nghiệp.
Trong thời gian qua, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã kêu gọi các nước và
tổ chức quốc tế trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực cho DNV&N thông qua các
dự án hỗ trợ kỹ thuật; một số Bộ, ngành và địa phương đã phối hợp với các
hiệp hội doanh nghiệp như tổ chức các lớp tập huấn nâng cao năng lực quản
trị cho doanh nghiệp như: các lớp tập huấn về Luật Doanh nghiệp, khởi sự
doanh nghiệp, hội nhập kinh tế quốc tế, xúc tiến thương mại, chế độ kế toán
DNV&N… và một số lĩnh vực liên quan. Tuy nhiên, việc định hướng đào
tạo của các cơ quan, tổ chức nói trên chưa thống nhất, mang tính cục bộ theo
chương trình dự án, tổ chức đào tạo còn mang tính tự phát, chưa xác định rõ
nhiệm vụ, mục tiêu của công tác đào tạo, phát triển DNV&N. Chương trình,
nội dung đào tạo còn nhiều bất cập: chất lượng không đồng đều, thường tập
trung vào lý thuyết, đào tạo mang tính đại trà, chưa thực sự đáp ứng đúng
ngu cầu của các DNV&N. Nhiều DNV&N nhất là các doanh nghiệp ở vùng
sâu, vùng xa và các địa bàn kinh tế khó khăn không có khả năng tài chính để
tham gia đào tạo.
99
Để khắc phục tình trạng thiếu nhân lực, ngoài việc tăng cường, mở
rộng và nâng cao chất lượng đào tạo của các trường, lớp (của Nhà nước và
của các tổ chức khác thành lập), nên khuyến khích mở rộng việc đào tạo
theo hướng gắn cơ sở đào tạo với DNV&N có nhu cầu như: liên kết đào tạo;
đào tạo theo đơn đặt hàng; doanh nghiệp liên kết với nơi đào tạo (kể cả các
trường đại học, viện nghiên cứu). Cũng đã có những DNV&N nâng cao
được trình độ công nghệ, học tập kỹ năng quản lý thông qua liên doanh, liên
kết giữa các doanh nghiệp, giữa DNV&N với doanh nghiệp lớn và doanh
nghiệp FDI, bằng các hình thức như gia công, đặt hàng, làm vệ tinh… trong
các khâu sản xuất, thương mại, dịch vụ.
Cần khuyến khích các DNV&N thực hiện các biện pháp đào tạo nhân
lực tại chỗ, vừa bảo đảm nhân lực cho doanh nghiệp vừa khuyến khích
người tài thấy được tương lai phát triển, gắn bó lâu dài với doanh nghiệp.
Đầu tư cho lực lượng kế thừa chính là đầu tư cho sự bền vững của doanh
nghiệp. Thực tế cho thấy doanh nghiệp tư nhân chính là nơi phát hiện nhân
tài chính xác nhất, nơi sử dụng nhân tài hiệu quả nhất và cũng là nơi đãi ngộ
nhân tài thoả đáng nhất. Nơi đây đang tập trung đông đảo nhân tài kinh
doanh được đào tạo bài bản, nơi hình thành đội ngũ doanh nhân ưu tú cho
đất nước đủ sức kinh doanh trong nước và vươn ra thế giới.
Hội nhập sâu vào WTO sẽ tạo thêm nhiều cơ hội cho doanh nghiệp
Việt Nam nói chung và DNV&N thu hút thêm nhiều nhân lực có chất lượng.
Trong điều kiện mới, doanh nghiệp được thành lập nhiều hơn, cơ hội việc
làm tăng nhanh, trên thực tế, người lao động có quyền dịch chuyển đến
những nơi có môi trường làm việc thuận tiện nhất cho họ, bảo đảm cho họ
hướng phát triển trong tương lai. Đây là cơ hội tốt cho những người thực sự
có tài, là cơ hội sàng lọc nhân lực của doanh nghiệp, đồng thời cũng đặt
doanh nghiệp vào cuộc cạnh tranh gay gắt để thu hút, trọng dụng người tài
100
và giữ người tài. Vì vậy, DNV&N cần tìm ra những biện pháp thiết thực để
có thêm lao động có chất lượng, kể cả người nước ngoài.
3.3.5. Thành lập các vườn ươm doanh nghiệp
Vườn ươm doanh nghiệp là tập hợp các doanh nghiệp mới hình thành
nhưng có tiềm năng phát triển tốt để nuôi dưỡng trước khi đưa ra hoạt động
ngoài cộng đồng, giúp chủ doanh nghiệp mới có khả năng tiếp cận các
khoản vay, trợ giúp về mặt quản lý kỹ thuật, tạo điều kiện cho doanh nghiệp
xâm nhập thị trường nội địa và quốc tế. Khi hội đủ các điều kiện, các doanh
nghiệp có thể ra khỏi vườn ươm để khẳng định khả năng hoạt động độc lập
của mình trong cộng đồng doanh nghiệp. Từ trường hợp thành công của các
vườn ươm doanh nghiệp ở Trung Quốc, Việt Nam thực sự nên lấy đó làm
kinh nghiệm quý báu để học hỏi.
Vườn ươm doanh nghiệp khác trung tâm hỗ trợ DNV&N và các khu
công nghiệp ở Việt Nam hiện nay như thế nào? Mặc dù các trung tâm hỗ trợ
DNV&N ở Việt Nam cung cấp các dịch vụ cho DNV&N giống như dịch vụ
mà các vườn ươm doanh nghiệp cung cấp nhưng đó vẫn chưa thể xem là một
vườn ươm doanh nghiệp vì những dịch vụ như tư vấn pháp luật, tư vấn quản
lý hay lập các dự án khả thi để vay vốn mà các trung tâm hỗ trợ doanh
nghiệp cung cấp mang tính chất đại trà, trong khi đó các dịch vụ này nếu do
vườn ươm doanh nghiệp cung cấp sẽ mang tính chất tập trung và chỉ dành
riêng cho một số doanh nghiệp nhất định được nuôi dưỡng trong vườn ươm.
Hơn nữa, sự hỗ trợ của vườn ươm doanh nghiệp hướng tới mục tiêu dài hạn
chứ không chỉ tập trung vào các mục tiêu trước mắt như các trung tâm hỗ trợ
doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp hoạt động trong vườn ươm cùng nhau chia sẻ dịch vụ
thiết bị văn phòng cũng như nhân viên hành chính, và thậm chí cả các thiết
bị sản xuất. Khi đó, chủ các doanh nghiệp trong vườn ươm sẽ trưởng thành
101
rất nhanh thông qua việc chia sẻ kinh nghiệm và các ý tưởng kinh doanh với
nhau. Đây là điều mà rất ít trung tâm hỗ trợ DNV&N hiện nay làm được.
So với các khu công nghiệp, các doanh nghiệp trong vườn ươm được
cung cấp các dịch vụ tư vấn, được huấn luyện và đào tạo trong suốt thời gian
hoạt động ở vườn ươm, điều này có rất ít trong các khu công nghiệp. Hơn
nữa, trong khu công nghiệp các doanh nghiệp không được chia nhau sử dụng
các thiết bị văn phòng cũng như nhân viên hành chính.
Tóm lại, vườn ươm doanh nghiệp có những đặc điểm khác biệt tích
cực mà các trung tâm hỗ trợ DNV&N hay các khu công nghiệp không có.
Chính vì vậy việc phát triển vườn ươm doanh nghiệp đối với các DNV&N
là một việc làm tuy còn mới mẻ ở Việt Nam nhưng sẽ thực sự là một việc
làm hữu ích.
102
KẾT LUẬN
Công cuộc phát triển kinh tế và xây dựng một đất nước Việt Nam giàu
mạnh, công bằng, văn minh và tiến bộ trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa
đòi hỏi sự tham gia của mọi cá nhân, mọi tổ chức, mọi thành phần kinh tế
trong xã hội. Trong nhiều năm qua, đóng góp vào sự ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội của nước ta không thể không nói đến vai trò của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
Tuy nhiên, một thực trạng phải được thừa nhận là, tiềm năng dồi dào
của khu vực kinh tế này còn chưa được tận dụng và khai thác triệt để. Trước
hết, do các chủ trương, chính sách của Nhà nước đối với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ chưa được triển khai đồng bộ, sâu rộng và đều khắp cho mọi địa
phương, mọi lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp. Hơn nữa, trong nhận
thức của nhiều cấp Bộ, Ngành, của từng thành viên trong xã hội chưa dành
vị trí xứng đáng cho loại hình doanh nghiệp này, sự đánh giá và sự tôn vinh
dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa xứng đáng với sự đóng góp của
nó đối với xã hội.
Để phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam chúng ta có thể học hỏi
kinh nghiệm từ người láng giềng Trung Quốc xem họ đã có chính sách phát
triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ của mình như thế nào sau khi gia nhập
WTO. Từ những bài học kinh nghiệm đó chúng ta sẽ có những chính sách,
biện pháp thích hợp để phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ đem lại sự phồn
vinh cho đất nước. Trong khi học tập kinh nghiệm phát triển của doanh
nghiệp vừa và nhỏ Trung Quốc, chúng ta cần áp dụng trong điều kiện cụ thể
của đất nước, không áp dụng rập khuôn, máy móc gây lãng phí, triệt tiêu sự
phát triển của nền kinh tế. Có như vậy việc tiếp thu kinh nghiệm của chúng
ta mới thực sự hữu ích, thực sự giúp pháp triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
Việt Nam.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Cục phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Báo
cáo thường niên doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam 2008
2. TS. Nguyễn Thanh Long, Một số vấn đề về phát triển doanh nghiệp vừa
và nhỏ trong ngành Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp
3. Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số 40/2005 CT-TTG ngày 16 tháng 12
năm 2005 về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác trợ giúp phát triển doanh
nghiệp nhỏ và vừa
4. Ari Kokko, Fredrik Sjoholm, Trường kinh tế Stockholm (2004), Sự
quốc tế hoá của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
5. Nguyễn Thị Thanh Bình (2008), Một số giải pháp tài chính hỗ trợ cho
sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, Luận văn thạc sỹ Kinh
tế, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
6. Lê Khắc Hoài Thương (2005), Khoá luận tốt nghiệp, ĐH Ngoại thương,
Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam thực
trạng và giải pháp
7. Hồ Lê Na (2006), Khoá luận tốt nghiệp, ĐH Ngoại thương, Tìm hiểu
chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ Trung Quốc và một số
kinh nghiệm đối với Việt Nam trong tiến trình hội nhập
8. Nguyễn Mai Phương (2006), Khoá luận tốt nghiệp, ĐH Ngoại thương,
Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt nam trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế- Thực trạng và giải pháp
9. Trang web www.agro.gov.vn (9/4/2009), Doanh nghiệp nhỏ và vừa lớn
nhưng chưa mạnh
10. Phước Hà (5/9/2008), trang web: www.vnchannel.net, Tháo gỡ khó
khăn vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
11. Trúc Thanh (1/4/2009), Trang web của Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam: www.cpv.org.vn, Cần kích cầu cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
12. (30/6/2006) Trang web của Bộ Công thương: www.moi.gov.vn, Thực
trạng và giải pháp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta hiện nay.
13. Th.S Phạm Xuân Quốc, Thời báo Sài Gòn online: www.
Thesaigontimes.vn (21/12/2008), Các doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ ra
sao?
14. (3/12/2008),www.agro.gov.vn, Những thành tựu kinh tế của Trung
Quốc sau 30 năm phát triển
15. Th.S Trần Thị Vân Anh, Kinh tế quản lý số tháng 6/2008, Vườn ươm
doanh nghiệp nhỏ và vừa
16. ITG-PC World VN (12/8/2006), www.itgate.com.vn, Kinh nghiệm SME
Trung Quốc
17. Trang web của Cục phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa- Bộ Kế hoạch
và Đầu tư: www.business.gov.vn
18. Trang web của Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam:
www.vinasme.com.vn
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
1. Liu Xiang Feng, SME Development in China: A policy perspective on
SME industrial clustering.
2. Dr. Jian Sheng Wu (February 19, 2006), Status and Promotion Policies
of the Small Medium Size Enterprises in China.
3. Toshiki Kanamori, Jamus Jerome Lim & Tracy Yang ( October
8,2007), China’s SME Development Strategies in the Context of a
National Innovation System.
4. Chris Hall (CESifo Forum February, 2007). When the Dragon awakes:
Internationalisation of SMEs in China and Implications for Europe.
5. Ning Yuan (University of Jilin, China) and Tsvi Vinig (University of
Amsterdam, The Netherlands), Ownership Structure of Chinese SME’s
and the Challenges it Presents to Their Growth.
6. Yan Zhong Wang (China & World Economy, 34-49, Vol. 12, No. 2,
2004), Financing Difficulties and Structural Characteristics of SMEs in
China.
7. CCPIT local consultants (October, 27-30, 2006), Technology Capacity
Building Policies to Enhance Competitiveness of SMEs in China.
8. Yu Jianguo (May 2002 Forum), WTO and the Development Strategies
of Chinese SMEs
9. Jianxin Shi, Ping Li, School of Management, Harbin Institute of
Technology (2006 IEEE International Conference Management of
Innovation and Technology), An Initial Review of Policies for SMEs in
the US, Japan and China.
10. Huang Xue (June 27, 006), Initiatives and Incentives for SMEs’
Technology Innovation in China
12. Yurong Chen, Liuying Xu & Weixing Wang, Jiangsu Polytechnic
University (April, 2009), Innovation Fund: a Booster of Science and
Technology SME Development
13. Yan DI, Research fellow, Chinese Academy of Labour and Social
Security, Ministry of Labour and Social Security, P.R. China, China’s
Employment Policies and Strategies
14. Prof. Yang Yao, China Center for Economic Research, Peking
University, Business Environment for SME Development in China
15. United States Agency for International Development, 22 August 2007,
Boooklet of Standardized Small and Medium Enterprises Definition-2007
16. Website: www.china.org.cn
www.apecsme.org
www.english.chinadaily.com.cn
www.english.peole.com.cn
www.nbs.gov.com
www.shanghaidaily.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4451_3318(1).pdf