Giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu đóng vai trò là một ngành kinh tế
quan trọng trong nền kinh tế thị trường, và trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay
thì vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của nó lại càng lớn. Hoạt động giao 
nhận quốc tế có tác dụng to lớn trong việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng 
hóa trên thị trường nước ngoài và đẩy nhanh tốc độ giao lưu xuất nhập khẩ u 
với thế giới. Phát triển ngành giao nhận quốc tế có  ý nghĩa hết sức quan trọng 
đối với sự phát triển của thương mại và vận tải quốc tế.
Cùng với sự phát triển của logistics, phạm vi hoạt động giao nhận đã
được mở rộng. Từ chỗ chỉ thay m ặt khách hàng để thực hiện các khâu rời rạc 
như thuê tàu, lưu cước, chuẩn bị hàng, đóng gói hàng, làm thủ tục thông 
quan, . các doanh nghiệp giao nhận tiến dần tới cung cấp dịch vụ trọn gói từ
kho đến kho (Door to door). Với việc chuyên nghiệp hóa các công đoạn từ
người bán đến người mua, hoạt động giao nhận giúp cho hàng hóa lưu chuyển 
dễ dàng, nhanh chóng, tiết kiệm chi phí và tăng hiệu quả của hợp đồng mua 
bán ngoại thương.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 97 trang
97 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2607 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp tăng cường quản lý nhà nước về hoạt động giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t động của các doanh nghiệp. Ví dụ nhƣ VIFFAS đã kiến nghị với 
ban soạn thảo Nghị định 140/2007/NĐ-CP để bỏ quy định điều kiện doanh 
nghiệp phải có vốn pháp định là 10 tỷ VNĐ để đƣợc phép kinh doanh dịch vụ 
logistics trong dự thảo của Nghị định vì điều kiện đó là không thực tế với các 
doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy, Nghị định chính thức ban hành đã không quy 
định về mức tài sản tối thiểu doanh nghiệp phải có để đƣợc phép kinh doanh 
dịch vụ logistics. 
- Tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp giao nhận, 
hỗ trợ và bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp. Trong vai trò của mình, 
Khóa luận tốt nghiệp 
Đỗ Thu Trang Lớp Anh 9 - K42C – KT&KDQT 
66 
VIFFAS đã tích cực giúp đỡ các hội viên tiếp cận, gia nhập và tham gia vào 
các hoạt động của các tổ chức nghề nghiệp khác có liên quan. 
- Nâng cao trình độ nghiệp vụ, uy tín kinh doanh của ngƣời giao nhận. 
VIFFAS đã thƣờng xuyên tổ chức những buổi hội thảo, những lớp bồi dƣỡng 
nghiệp vụ về giao nhận và vận tải đa phƣơng thức. Qua đó, VIFFAS đã kịp 
thời cung cấp những thông tin về tình hình phát triển hoạt động giao nhận và 
những thay đổi theo cam kết khi Việt Nam tham gia những tổ chức quốc tế 
nhƣ WTO. 
- Tăng cƣờng hợp tác trên phạm vi quốc tế và khu vực, góp phần phát 
triển kinh tế đối ngoại. VIFFAS hiện là thành viên của các tổ chức giao nhận 
quốc tế nhƣ FIATA, AFFA. Ngoài ra VIFFAS còn liên kết hợp tác với các 
Hiệp hội quốc gia khác, đặc biệt là trong khu vực ASEAN nhƣ IFF (Indonesia 
Freight Forwarders) của Indonesia, TIFFA (Thai International Freight 
Forwarders Association) của Thái Lan v.v.... 
Nhìn chung, Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam (VIFFAS) giữ vai trò 
quan trọng trong việc định hƣớng và phát triển thị trƣờng giao nhận và là cầu 
nối giữa Nhà nƣớc với cộng đồng các doanh nghiệp giao nhận kho vận ở Việt 
Nam. 
2.3 Những yếu kém cần khắc phục 
Hiệp hội Giao nhận kho vận Việt Nam VIFFAS chƣa phát huy đƣợc vai 
trò của mình là hạt nhân trung tâm trong điều phối kinh doanh và ổn định thị 
trƣờng. Thực tế cho thấy hoạt động của VIFFAS nhiều khi quá nhạt nhòa và 
thiếu đi sự năng động cần thiết, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập 
WTO nhƣ hiện nay. Có thể nói, VIFFAS chƣa làm đƣợc nhiệm vụ là liên kết 
các hội viên lại với nhau để tăng tiềm lực tài chính, năng lực, nhân lực, kỹ 
thuật và phƣơng tiện từ đó có thể cạnh tranh giành thị phần với các hãng nƣớc 
ngoài. Thực trạng này đã và đang góp phần làm giảm tiếng nói và hình ảnh 
của chính cộng đồng các doanh nghiệp. Mặt khác, VIFFAS còn thiếu năng 
động cần thiết trong việc theo sát những vận động của thị trƣờng và phản ánh 
Khóa luận tốt nghiệp 
Đỗ Thu Trang Lớp Anh 9 - K42C – KT&KDQT 
67 
những hiện tƣợng trên thị trƣờng với cơ quan quản lý Nhà nƣớc, vì vậy chƣa 
kịp thời giúp Nhà nƣớc đƣa ra những giải pháp quản lý có hiệu quả toàn diện. 
Ngoài ra, các điều kiện kinh doanh chuẩn của VIFFAS tuy ra đời từ 
trƣớc nhƣng vẫn không đƣợc phổ biến rộng rãi và thƣờng không đƣợc đƣa ra 
sử dụng trong các hợp đồng. Về số lƣợng thành viên, cho đến nay Hiệp hội 
mới chỉ có khoảng trên 100 thành viên, tính cả hội viên chính thức và hội viên 
liên kết. Con số này chỉ chiếm hơn 1/10 số lƣợng các doanh nghiệp hoạt động 
trong lĩnh vực giao nhận vận tải hiện nay, thiết nghĩ là khá nhỏ bé, phản ánh 
thực trạng là sự ảnh hƣởng của Hiệp hội còn chƣa cao. Đó là một trong những 
hạn chế của VIFFAS trong bối cảnh các doanh nghiệp giao nhận đang phát 
triển rất nhanh hiện nay. 
Tóm lại, Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam VIFFAS cần năng động 
hơn và phát huy vai trò tích cực hơn trong việc giúp đỡ Nhà nƣớc quản lý 
hoạt động kinh doanh giao nhận kho vận trong tình hình hiện nay. 
Khóa luận tốt nghiệp 
Đỗ Thu Trang Lớp Anh 9 - K42C – KT&KDQT 
68 
CHƢƠNG III 
MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC 
VỀ HOẠT ĐỘNG GIAO NHẬN HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP 
KHẨU Ở VIỆT NAM 
I. SỰ CẦN THIẾT TĂNG CƢỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ HOẠT 
ĐỘNG GIAO NHẬN HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM 
1. Về lý luận 
Trong giai đoạn hiện nay, tiến trình mở cửa hội nhập và xu thế toàn cầu 
hoá đã tác động mạnh mẽ tới thị trƣờng giao nhận vận tải ở Việt Nam nói 
chung và mỗi doanh nghiệp giao nhận nói riêng. Cùng với tài chính ngân 
hàng, viễn thông, bảo hiểm, công nghệ thông tin..., giao nhận vận tải trở thành 
một trong những ngành phát triển rất nhanh. 
Việc gia nhập các tổ chức quốc tế và khu vực mà mới đây nhất là sự kiện 
Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức thƣơng mại thế giới WTO cùng 
những liên kết song phƣơng và đa phƣơng đặt ra những vấn đề mới cho thị 
trƣờng giao nhận vận tải của nƣớc ta. Bƣớc vào sân chơi toàn cầu, các doanh 
nghiệp giao nhận vận tải sẽ có cơ hội phát triển cùng với những thách thức 
không nhỏ. Nhà nƣớc phải có chiến lƣợc và lộ trình phát triển ngành giao 
nhận vận tải sao cho phù hợp với những cam kết quốc tế, cụ thể là cam kết 
của Việt Nam khi gia nhập tổ chức Thƣơng mại thế giới WTO. 
Theo cam kết khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ mở cửa thị trƣờng giao 
nhận vận tải bằng cách cho phép nhà đầu tƣ nƣớc ngoài thành lập liên doanh 
với tỷ lệ vốn góp không quá 51% ngay từ khi gia nhập, và đƣợc thành lập 
doanh nghiệp 100% vốn nƣớc ngoài sau 5-7 năm. 
Trƣớc mắt sau 2 năm trở thành thành viên chính thức WTO, nhà đầu tƣ 
nƣớc ngoài có thể góp vốn 49% trong liên doanh để kinh doanh giao nhận, 
dịch vụ hỗ trợ ngành vận tải. 
Khóa luận tốt nghiệp 
Đỗ Thu Trang Lớp Anh 9 - K42C – KT&KDQT 
69 
Trong bối cảnh đó, vai trò quản lý của Nhà nƣớc càng phải đƣợc tăng 
cƣờng để định hƣớng thị trƣờng phù hợp với các cam kết của nƣớc ta khi gia 
nhập các tổ chức tài chính, thƣơng mại, kinh tế khu vực và thế giới, đồng thời 
phù hợp với những thay đổi nhanh và mạnh của thị trƣờng giao nhận hàng 
hóa xuất nhập khẩu hiện tại và trong những năm tới. 
2. Về thực tiễn 
Theo dự báo, trong tƣơng lai không xa dịch vụ giao nhận kho vận và 
logistics sẽ trở thành một ngành kinh tế quan trọng tại Việt Nam, đóng góp tới 
15% GDP cả nƣớc. Cùng với khối lƣợng hàng hoá xuất nhập khẩu tăng mạnh, 
hoạt động tại các cảng biển, sân bay, nhà ga trở nên tấp nập thì nhu cầu về 
giao nhận vận tải quốc tế ngày càng lớn. Dự báo đến năm 2010, hàng 
container qua cảng biển Việt Nam sẽ đạt từ 3,6-4,2 triệu TEU. Con số này đến 
năm 2020 sẽ lên đến 7,7 triệu TEU. 
Nhu cầu về giao nhận vận tải quốc tế ngày càng tăng, cùng với đó là số 
lƣợng các doanh nghiệp giao nhận không ngừng tăng lên. Việt Nam trở thành 
thị trƣờng khai thác đầy hứa hẹn đối với các nhà đầu tƣ, các tập đoàn lớn 
nƣớc ngoài. 
Tuy nhiên, thực tế hoạt động ngành đã đi nhanh hơn các quy định của 
luật pháp. Hoạt động của thị trƣờng thì vẫn còn lộn xộn, thiếu hệ thống, vì 
vậy lại càng tạo sức ép lớn lên phía các cơ quan quản lý Nhà nƣớc của Việt 
Nam. 
Các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài gia nhập thị trƣờng Việt Nam ngày càng 
nhiều. Phần lớn họ có tiềm lực kinh doanh mạnh về vốn và kinh nghiệm quốc 
tế, đồng thời có hệ thống đại lý ở nƣớc ngoài rộng. Các doanh nghiệp Việt 
Nam thì phần nhiều còn ở quy mô nhỏ, yếu thế và thiếu sự hợp tác hỗ trợ lẫn 
nhau. Vấn đề đặt ra là Nhà nƣớc vừa có biện pháp giúp đỡ các doanh nghiệp 
trong nƣớc mà không đƣợc tiếp tục bảo hộ, vừa mở cửa thị trƣờng cho nhà 
đầu tƣ nƣớc ngoài theo cam kết quốc tế. 
Khóa luận tốt nghiệp 
Đỗ Thu Trang Lớp Anh 9 - K42C – KT&KDQT 
70 
 Việc kiểm soát các thƣơng nhân nƣớc ngoài tham gia hoạt động kinh 
doanh giao nhận vận tải tại thị trƣờng Việt Nam cũng là một thách thức cho 
các cơ quan quản lý Nhà nƣớc của Việt Nam. Nếu để các thƣơng nhân nƣớc 
ngoài ngay lập tức lập chi nhánh hoặc thành lập doanh nghiệp 100% vốn 
nƣớc ngoài tại Việt Nam thì họ sẽ lấn át các doanh nghiệp Việt Nam tiềm lực 
còn yếu và biến chúng ta thành ngƣời làm thuê. Trong tình hình đó, vai trò 
quản lý của Nhà nƣớc càng cần phải đƣợc phát huy trong việc điều phối các 
nhóm chủ thể kinh doanh trên thị trƣờng một cách hiệu quả và đảm bảo sự 
phát triển ổn định của thị trƣờng. 
Tóm lại, việc tăng cƣờng quản lý Nhà nƣớc về hoạt động giao nhận hàng 
hóa xuất nhập khẩu trở thành một đòi hỏi cần thiết. Sự quản lý đó phải phù 
hợp với tiến trình hội nhập mạnh mẽ và sâu sắc hiện nay và ngày càng phát 
huy hiệu quả trƣớc những thay đổi của thị trƣờng giao nhận. 
II. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC 
1. Về điều kiện kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu 
Dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế là một ngành nghề mới phát triển 
nhanh ở Việt Nam trong khoảng hơn 10 năm trở lại đây. Có thể nói đây là 
một loại hình kinh doanh đƣa lại công ăn việc làm cho ngƣời lao động mà 
không cần nhiều vốn đầu tƣ cũng nhƣ trang thiết bị kỹ thuật hiện đại tiên tiến. 
Do đặc điểm nghề nghiệp của dịch vụ này mang lại tỷ suất lợi nhuận cao 
nên nhìn chung ở các nƣớc có nền kinh tế thị trƣờng phát triển Nhà nƣớc vẫn 
có sự can thiệp nhất định để bảo vệ các doanh nghiệp trong nƣớc và đảm bảo 
cho thị trƣờng phát triển trong khuôn khổ. 
Điển hình là Hoa Kỳ, một quốc gia có nền kinh tế thị trƣờng hùng mạnh 
nhất thế giới nhƣng đạo luật US Ocean Shipping Act ban hành năm 1984, sửa 
đổi năm 1998 quy định các công ty giao nhận vận tải nƣớc ngoài muốn kinh 
doanh ở thị trƣờng Hoa Kỳ phải thoả mãn các điều kiện sau: 
- Phải xin giấy phép của Bộ hàng hải Hoa Kỳ (FMC) 
Khóa luận tốt nghiệp 
Đỗ Thu Trang Lớp Anh 9 - K42C – KT&KDQT 
71 
- Phải ký quỹ 150.000 USD (Surety Bond) với những thƣơng nhân chƣa 
đƣợc FMC cấp phép và 75.000 USD với những thƣơng nhân đã đƣợc FMC 
cấp phép 
- Phải đăng ký vận đơn với FMC 
- Phải xuất trình hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp 
- Phải xây dựng Biểu giá cƣớc về dịch vụ mà mình kinh doanh và Biểu 
giá cƣớc này phải đƣa lên mạng Internet. 
Có thể nói quy định trên của Mỹ là khá khắt khe, khiến cho các doanh 
nghiệp giao nhận vận tải nƣớc ngoài có tiềm lực không đủ mạnh sẽ gặp khó 
khăn khi thâm nhập vào thị trƣờng Mỹ, đồng thời nƣớc Mỹ sẽ kiểm soát tốt 
hơn cơ chế về giá cả, về lợi nhuận v.v... 
Trung Quốc tuy đƣợc kết nạp vào WTO từ 2001 nhƣng cho đến 2002 đã 
ban hành Nghị định 335 điều chỉnh các quan hệ pháp lý liên quan tới điều 
kiện kinh doanh các dịch vụ giao nhận vận tải nhƣ sau: 
- Phải đăng ký mẫu vận đơn và mẫu các chứng từ vận tải đa phƣơng thức 
với cơ quan có thẩm quyền của Vụ Giao thông Công chính. 
- Phải có các chuyên viên nghiệp vụ cao cấp với trình độ chuyên môn 
thích hợp theo quy định của cơ quan có thẩm quyền của Vụ Giao thông Công 
chính. 
- Phải có một số tiền đảm bảo (Surety) là 800.000 Nhân dân tệ (tƣơng 
đƣơng 100.000 USD) ký gửi tại một ngân hàng chỉ định ở Trung Quốc. Nếu 
doanh nghiệp này muốn lập chi nhánh thì mỗi chi nhánh phải có một khoản 
tiền đảm bảo là 200.000 Nhân dân tệ. 
- Nếu liên doanh với nƣớc ngoài thì phía Trung Quốc phải chiếm 51% 
(trừ kinh doanh kho bãi) và giám đốc phải là ngƣời do phía Trung Quốc chỉ 
định. 
- Nƣớc ngoài muốn kinh doanh logistics tại Trung Quốc phải có vốn 
10.000.000 USD trở lên. 
Khóa luận tốt nghiệp 
Đỗ Thu Trang Lớp Anh 9 - K42C – KT&KDQT 
72 
Có thể thấy một điều là theo lộ trình cam kết với các tổ chức thƣơng mại, 
tài chính quốc tế mà điển hình là WTO thì Chính phủ của các quốc gia mới 
gia nhập vẫn có thể đƣa ra các chính sách khuyến khích hỗ trợ phù hợp cho 
các doanh nghiệp trong nƣớc, cho phép thƣơng nhân nƣớc ngoài tham gia thị 
trƣờng nhƣng phải đảm bảo những tiêu chuẩn đặt ra về vốn, về đăng ký, về 
bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, về tỷ lệ góp vốn trong liên doanh v.v...Nói 
cách khác Chính phủ các quốc gia tùy thuộc vào điều kiện cụ thể để có lộ 
trình mở cửa thị trƣờng dịch vụ này một cách phù hợp và dần dần để các hãng 
tàu, đại lý vận tải, đại lý giao nhận... trong nƣớc và ngoài nƣớc cùng phát 
triển song song và ổn định. 
2. Về quy định đối với kinh doanh các dịch vụ vận tải 
Các quốc gia trong hệ thống luật của mình đều ban hành những văn bản 
(luật, văn bản dƣới luật, pháp lệnh, nghị định, quy chế...) điều chỉnh hoạt 
động kinh doanh vận tải trong các lĩnh vực vận tải đƣờng biển, đƣờng hàng 
không, đƣờng bộ, đƣờng sắt và vận tải đa phƣơng thức, cụ thể trong đó có 
điều chỉnh về quyền và nghĩa vụ, về cơ sở trách nhiệm, về thời hạn trách 
nhiệm, về giới hạn trách nhiệm.... của ngƣời chuyên chở. 
Ví dụ nhƣ nƣớc Mỹ, chỉ riêng trong lĩnh vực vận tải biển, Mỹ đã ban 
hành 6 đạo luật điều chỉnh các nội dung khác nhau: Tariff Act-1789; 
Cabotage Law-1817; Harter Act-1893; Shipping Act-1916,1984,1998; 
Merchant Marine Act-1920; COGSA-1936,1999. 
Trong các nguồn luật đó có quy định cụ thể về phạm vi áp dụng, đối 
tƣợng hàng hóa điều chỉnh, thời hạn trách nhiệm, cơ sở trách nhiệm, giới hạn 
trách nhiệm của ngƣời chuyên chở, thông báo tổn thất và thời hiệu tố tụng. 
Dựa vào các nguồn luật đó mà các cơ quan quản lý của mỗi quốc gia sẽ có 
những điều chỉnh theo hƣớng phù hợp với thị trƣờng và nhắm tới những mục 
đích chiến lƣợc. 
Khóa luận tốt nghiệp 
Đỗ Thu Trang Lớp Anh 9 - K42C – KT&KDQT 
73 
Ví dụ nhƣ luật COGSA của Mỹ, áp dụng cho mọi hợp đồng vận chuyển 
hàng hóa bằng đƣờng biển đến và đi từ các cảng của Mỹ, có thể thấy là bảo vệ 
quyền lợi cho ngƣời chuyên chở. Cụ thể là, COGSA quy định về thời hạn 
trách nhiệm, ngƣời chuyên chở phải chịu trách nhiệm đối với hàng hóa kể từ 
khi hàng hóa đƣợc xếp lên tầu ở cảng đi cho đến khi hàng hóa đƣợc dỡ khỏi 
tầu tại cảng đến. Về cơ sở trách nhiệm, COGSA đƣa ra 3 trách nhiệm và 17 
miễn trách cho ngƣời chuyên chở. Về giới hạn trách nhiệm, COGSA 1936 
quy định là 500 USD cho một kiện hàng hay một đơn vị tính cƣớc thông 
thƣờng. COGSA 1999 quy định là 666,67 SDR/ kiện hoặc 2 SDR/kg tùy mức 
nào cao hơn cho quá trình chuyên chở hàng hóa cả trên đất liền và trên biển. 
Khi tổ chức lo liệu việc vận chuyển hàng hóa từ nơi nhận hàng đến nơi 
giao hàng và phát hành vận đơn thì ngƣời giao nhận đã đóng vai trò của ngƣời 
chuyên chở theo hợp đồng. Vì vậy, kinh nghiệm của các quốc gia là Nhà nƣớc 
thông qua các nguồn luật sẽ điều chỉnh các quan hệ pháp lý phát sinh từ hoạt 
động vận tải từ đó quản lý có hiệu quả hơn hoạt động giao nhận hàng hóa xuất 
nhập khẩu. 
3. Về quản lý vận đơn và chứng từ ngƣời giao nhận phát hành 
Hiện nay ở nhiều nƣớc, luật pháp đều quy định những ngƣời kinh doanh 
dịch vụ vận tải đa phƣơng thức, kinh doanh giao nhận vận tải đều phải đăng 
ký mẫu vận đơn của mình với cơ quan có thẩm quyền. Việc đăng ký này 
nhằm đảm bảo kiểm soát các vận đơn đó đƣợc phát hành sao cho phù hợp với 
thông lệ quốc tế nhƣng cũng phải phù hợp với luật pháp nƣớc sở tại. Ví dụ 
nhƣ ở Trung Quốc, theo Nghị định 335, thƣơng nhân muốn kinh doanh giao 
nhận vận tải phải đăng ký mẫu vận đơn và mẫu chứng từ vận tải đa phƣơng 
thức với cơ quan có thẩm quyền của Vụ Giao thông công chính trực thuộc Bộ 
Vận tải Trung Quốc. Theo điều 42 Nghị định này, nếu ai kinh doanh dịch vụ 
giao nhận mà không đăng ký vận đơn hoặc không đóng tiền bảo đảm thì sẽ bị 
đóng cửa và thu nhập bất hợp pháp sẽ bị tịch thu. Theo điều 51, nếu các hãng 
Khóa luận tốt nghiệp 
Đỗ Thu Trang Lớp Anh 9 - K42C – KT&KDQT 
74 
tàu nƣớc ngoài thỏa thuận giá cƣớc với ngƣời giao nhận mà ngƣời giao nhận 
không đăng ký vận đơn và không đóng tiền bảo đảm thì sẽ bị cảnh cáo và bị 
phạt từ 20.000 đến 100.000 Nhân dân tệ. 
4. Về việc thành lập các Hiệp hội giao nhận và logistics 
Hiện nay trên thế giới đã và đang hình thành các Hiệp hội giao nhận 
trong phạm vi một cảng, một khu vực hay một nƣớc. Các Hiệp hội này ra đời 
và thu hút đƣợc đông đảo hội viên tham gia sẽ đóng vai trò hỗ trợ Nhà nƣớc 
trong việc quản lý các doanh nghiệp giao nhận. 
Ví dụ nhƣ ở Anh, Hiệp hội vận chuyển hàng hóa quốc tế của Anh (The 
British International Freight Association) gọi tắt là BIFA đƣợc thành lập. 
Ngoài ra, ở Ý thì có Hiệp hội vận chuyển hàng hóa quốc tế của Ý (IFA), ở 
Canada thì có Hiệp hội giao nhận kho vận quốc tế của Canada (CIFFA). 
Các Hiệp hội này có cơ cấu tổ chức riêng, điều lệ hoạt động và đồng thời 
có những tiêu chuẩn riêng cho các hội viên để đƣợc gia nhập. Ví dụ nhƣ 
BIFA quy định hội viên phải đáp ứng những tiêu chuẩn nghiêm ngặt sau: 
- Tuân thủ các Điều kiện kinh doanh chuẩn của Hiệp hội 
- Tôn trọng Điều lệ của Hiệp hội 
- Báo cáo tình hình tài chính hàng năm 
- Có khả năng tham gia bảo hiểm hàng hóa đầy đủ 
- Thực hiện đầy đủ quy chế quản lý của Hiệp hội 
- Nhân viên giao nhận phải đƣợc đào tạo đầy đủ 
Việc đặt ra những tiêu chuẩn nhƣ vậy chính là một biện pháp để có thể 
kiểm soát tốt hơn và minh bạch hơn về tình hình hoạt động của các công ty 
giao nhận kho vận, hạn chế những hiện tƣợng tiêu cực trên thị trƣờng. 
Khóa luận tốt nghiệp 
Đỗ Thu Trang Lớp Anh 9 - K42C – KT&KDQT 
75 
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC ĐỐI VỚI 
HOẠT ĐỘNG GIAO NHẬN HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU 
1. Về chủ thể quản lý 
Hiện nay, việc quản lý Nhà nƣớc về hoạt động giao nhận hàng hóa xuất 
nhập khẩu cần phải đƣợc cải thiện sao cho khoa học hơn và phù hợp hơn với 
xu thế hội nhập, tự do hóa thƣơng mại và đầu tƣ nói chung. 
Một là, các doanh nghiệp cần phải đƣợc tập trung về đầu mối quản lý. 
Tổ chức quản lý hoạt động của thị trƣờng giao nhận hàng hoá xuất nhập 
khẩu ở Việt Nam trong những năm qua còn chồng chéo và nhiều bất cập. Vì 
vậy, Nhà nƣớc cần phải tiến hành biện pháp điều chỉnh để đƣa các doanh 
nghiệp về cùng một đầu mối quản lý. Ví dụ nhƣ cần thiết phải có sự thống 
nhất quản lý giữa trung ƣơng và địa phƣơng (Bộ, cơ quan ngang bộ là cơ quan 
quản lý chuyên ngành và cơ quan quản lý ở địa phƣơng là UBND tỉnh), tránh 
tình trạng các doanh nghiệp cùng một loại hình và phƣơng thức kinh doanh 
nhƣng có doanh nghiệp lại thuộc quản lý của Bộ Thƣơng mại (nay là Bộ 
Công thƣơng), có doanh nghiệp lại thuộc quản lý của UBND tỉnh. Vì thế, điều 
cần làm hiện nay là điều chỉnh bộ máy quản lý sao cho gọn nhẹ, giảm bớt số 
lƣợng các bộ và cơ quan ngang bộ, tiến hành sáp nhập để đƣa về một đầu mối 
quản lý. 
Để tăng cƣờng thể chế quản lý, nên chăng Bộ Giao thông vận tải và Bộ 
Công thƣơng cần phối hợp thành lập một Uỷ ban quốc gia về dịch vụ giao 
nhận và cao hơn là dịch vụ logistics, hoặc giao nhiệm vụ cho một vụ hay cục 
quản lý về giao nhận và logistics. Nói một cách khác đi là phải có một cơ 
quan quản lý thống nhất cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải 
giao nhận ở Việt Nam. Cơ quan quản lý này sẽ chịu trách nhiệm: 
- Hoạch định các chính sách và các biện pháp để phát triển thị trƣờng vận 
tải giao nhận Việt Nam trong điều kiện hội nhập 
Khóa luận tốt nghiệp 
Đỗ Thu Trang Lớp Anh 9 - K42C – KT&KDQT 
76 
- Nghiên cứu và đề xuất các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động vận 
tải giao nhận và logistics 
- Xét đăng ký và cấp phép kinh doanh dịch vụ giao nhận và các dịch vụ 
logistics 
- Giúp đỡ và hỗ trợ việc thành lập và phát triển các doanh nghiệp kinh 
doanh vận tải giao nhận và logistics đồng thời giám sát hoạt động của 
các doanh nghiệp 
- Phối hợp với các tổ chức quốc tế và khu vực để phát triển thị trƣờng vận 
tải giao nhận và logistics 
Hai là, sự phối hợp chặt chẽ giữa những cơ quan bộ ngành ở cấp trung 
ƣơng và cấp địa phƣơng, giữa cơ quan quản lý chuyên ngành (Bộ Công 
thƣơng, Bộ Giao thông vận tải) và cơ quan quản lý liên quan cũng cần phải 
đảm bảo từ đó nâng cao hiệu quả công tác hƣớng dẫn, thanh tra, kiểm tra, 
giám sát, khen thƣởng và xử lý vi phạm đối với các doanh nghiệp giao nhận 
vận tải. 
Ba là, các cơ quan chủ quản hiện nay cần giảm dần việc quản lý các 
doanh nghiệp trực thuộc, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có quyền chủ động 
hơn, thay vào đó là tập trung vào việc lập ra chính sách, cơ chế quản lý Nhà 
nƣớc. 
Bốn là, hoạt động quản lý của các cơ quan ban ngành Nhà nƣớc nhất 
thiết phải có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Đồng thời, Nhà nƣớc cần chú ý 
hơn đến công tác và hoạt động của đội ngũ cán bộ thừa hành quản lý thuộc 
các cơ quan, ban ngành khác nhau. Thực tế cho thấy nếu nhƣ hệ thống luật có 
vẻ hoàn thiện mà công tác quản lý của đội ngũ cán bộ thừa hành không tốt thì 
hiệu quả sẽ giảm sút rất nhiều. Vì vậy, đội ngũ cán bộ kiểm tra, giám sát và 
hƣớng dẫn doanh nghiệp, nhất là những ngƣời phải tiếp xúc thƣờng xuyên với 
doanh nghiệp nhƣ nhân viên hải quan, thanh tra, công an, nhân viên 
Khóa luận tốt nghiệp 
Đỗ Thu Trang Lớp Anh 9 - K42C – KT&KDQT 
77 
thuế...phải làm việc chính trực liêm minh, hiệu quả, có trách nhiệm với công 
việc, tránh tình trạng quan liêu, tham nhũng. 
Tuy nhiên vấn đề nâng cao chất lƣợng cán bộ viên chức làm công tác 
quản lý Nhà nƣớc cũng là một thách thức. Công tác tuyển dụng nhân sự làm 
việc trong các cơ quan Nhà nƣớc phải đƣợc cải thiện. Cần định hƣớng, xây 
dựng và củng cố công tác cán bộ, phát triển đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nƣớc 
am hiểu chuyên ngành và có kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế, cụ thể là 
các quy định liên quan đến WTO, AFTA và các tổ chức quốc tế khác. Đội 
ngũ cán bộ này sẽ là nòng cốt hƣớng dẫn và tạo điều kiện cho các doanh 
nghiệp trong ngành phát triển theo đúng những quy định của pháp luật và 
những chuẩn mực, cam kết quốc tế. 
Ngoài ra, Nhà nƣớc phải kiên quyết ngăn chặn và kịp thời có biện pháp 
xử lý đối với những hành vi phạm pháp gây ảnh hƣởng xấu trong cán bộ viên 
chức nhƣ quan liêu, nhũng nhiễu doanh nghiệp và tham nhũng, có nhƣ vậy 
mới đảm bảo mục tiêu tạo đƣợc môi trƣờng kinh doanh thuận lợi cho sự phát 
triển của các doanh nghiệp giao nhận vận tải nói riêng và các doanh nghiệp 
hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu nói chung. 
2. Về công cụ quản lý 
2.1 Xây dựng một chiến lược, định hướng phát triển ngành giao nhận vận 
tải quốc tế 
Nhà nƣớc cần đƣa ra một chiến lƣợc, một kế hoạch tổng thể, đúng đắn 
và có cơ sở khoa học để phát triển ổn định thị trƣờng giao nhận vận tải sao 
cho phù hợp với bối cảnh của Việt nam đồng thời tuân theo những cam kết 
quốc tế, đặc biệt là cam kết khi gia nhập tổ chức Thƣơng mại thế giới WTO, 
trong đó tập trung vào những vấn đề nhƣ: 
- Cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng (đƣờng biển, đƣờng sông, đƣờng bộ, 
đƣờng sắt...), đầu tƣ hợp lý cho các cảng, sân bay, cảng thông quan nội địa 
Khóa luận tốt nghiệp 
Đỗ Thu Trang Lớp Anh 9 - K42C – KT&KDQT 
78 
ICD, xây dựng các cảng chuyển tải hàng hoá nƣớc ngoài và cảng nƣớc sâu 
với công nghệ tiên tiến, hoàn thiện hệ thống kho bãi, trang thiết bị. 
- Lập trung tâm phân phối tại các vùng trọng điểm kinh tế để tập trung 
hàng xuất và phân phối hàng nhập khẩu hay thành phẩm ; xây dựng một mạng 
lƣới phân phối giữa chủ hàng, công ty giao nhận hệ thống chi nhánh và nơi 
phân phối cuối cùng, đồng thời với các trung tâm phân phối là các hệ thống 
kho gom hàng. 
- Chuẩn hoá các quy trình dịch vụ giao nhận vận tải, thống kê về giao 
nhận vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu. 
- Nâng cao chất lƣợng và đa dạng hoá các dịch vụ cung cấp cho khách 
hàng: dịch vụ bao bì đóng gói hàng, dịch vụ kiểm kiện, dịch vụ lƣu kho và 
bảo quản hàng hoá, dịch vụ giao nhận hàng triển lãm và công trình và cao hơn 
là dịch vụ logistics nhƣ dịch vụ "door to door", dịch vụ kho hàng và phân 
phối... 
- Nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực bằng các chƣơng trình đào tạo tại 
các trƣờng đại học, các khoá nghiệp vụ do VIFFAS tổ chức và đào tạo trong 
nội bộ doanh nghiệp với mục tiêu là tăng năng lực chuyên môn, ngoại ngữ, 
kinh nghiệm về giao nhận và logistics và kiến thức hội nhập quốc tế. 
- Cải thiện môi trƣờng kinh doanh, cụ thể là chính sách xuất nhập khẩu, 
chính sách đầu tƣ, chính sách ngoại hối...., nâng cao hiệu quả của Luật cạnh 
tranh đã đƣợc Chính phủ thông qua. 
- Có các chính sách giúp đỡ các doanh nghiệp giao nhận vận tải trong 
nƣớc thông qua việc quy định dịch vụ giao nhận là loại hình kinh doanh có 
điều kiện, có những hạn chế nhất định đối với các thƣơng nhân nƣớc ngoài 
nhƣng phải phù hợp với cam kết quốc tế. 
- Thúc đẩy sự liên kết các doanh nghiệp giao nhận kho vận với nhau để 
có những doanh nghiệp đủ quy mô, đủ điều kiện cạnh tranh với các doanh 
nghiệp cùng loại trong khu vực và trên thế giới. 
Khóa luận tốt nghiệp 
Đỗ Thu Trang Lớp Anh 9 - K42C – KT&KDQT 
79 
- Tăng cƣờng xúc tiến thƣơng mại, ký kết các hiệp định về hợp tác trong 
lĩnh vực vận tải hàng hải, hàng không..., giao nhận và các lĩnh vực khác liên 
quan để tạo tiền đề phát triển cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp 
giao nhận kho vận. 
- Thành lập một số Hiệp hội mới nhƣ Hiệp hội Chủ hàng (Shipper's 
Council) để làm đối tác với các hãng tàu biển nhằm cùng nhau xây dựng hình 
thành nên một biểu giá cƣớc và phụ phí hợp lý, cùng có lợi cho chủ hàng và 
chủ tàu. 
2.2 Đơn giản hóa thủ tục, hoàn thiện hệ thống văn bản luật, điều chỉnh 
hành lang pháp lý để tránh chồng chéo 
Trong những năm qua, hệ thống các văn bản pháp quy làm cơ sở pháp lý 
cho hoạt động giao nhận vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu ở Việt Nam vẫn cho 
thấy sự thiếu đồng bộ và nhìn chung là còn nhiều bất cập. Việc thiếu đi những 
quy định cụ thể về một số vấn đề có thể phát sinh tranh chấp hoặc làm nảy 
sinh hiện tƣợng tiêu cực trong thực tế là một điểm yếu trong hệ thống pháp 
luật của Nhà nƣớc điều chỉnh hoạt động này. Ngoài ra, sự chồng chéo giữa 
các văn bản đã gây ra không ít những khó khăn cho doanh nghiệp vì vậy đã 
không đạt đƣợc hiệu quả thúc đẩy môi trƣờng kinh doanh lành mạnh và thuận 
lợi cho hoạt động giao nhận vận tải nhƣ mong muốn. 
Vì vậy, nhiệm vụ của Nhà nƣớc là xây dựng hành lang, khung pháp lý 
đảm bảo tính nhất quán, thông thoáng và hợp lý trong các văn bản, quy định 
liên quan đến hoạt động giao nhận vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu. Cụ thể 
một số hƣớng điều chỉnh hệ thống văn bản luật nhƣ sau: 
- Xây dựng một nguồn luật chuyên ngành quy định về giao nhận hàng hóa 
xuất nhập khẩu 
Dựa trên sự tham khảo kinh nghiệm của nƣớc ngoài và vận dụng vào 
hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, các cơ quan của Chính phủ có thể tiến hành 
xây dựng một nguồn luật chuyên ngành điều chỉnh hoạt động giao nhận hàng 
Khóa luận tốt nghiệp 
Đỗ Thu Trang Lớp Anh 9 - K42C – KT&KDQT 
80 
hóa xuất nhập khẩu và cao hơn là hoạt động kinh doanh logistics trong đó quy 
định cụ thể, chi tiết về các khía cạnh cùng những quan hệ pháp lý nảy sinh 
trong hoạt động này nhƣ điều kiện để đƣợc phép kinh doanh, các yêu cầu về 
đăng ký vận đơn và các chứng từ, về bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của 
doanh nghiệp, về biểu giá dịch vụ doanh nghiệp cung cấp cùng những vấn đề 
về cơ sở trách nhiệm, giới hạn trách nhiệm, miễn trách.... của doanh nghiệp 
giao nhận và cao hơn là logistics. 
- Đƣa ra tiêu chuẩn kinh doanh thống nhất 
Một việc cần thiết là Nhà nƣớc tiến hành tiêu chuẩn hoá các quy định (về 
điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn, về vận tải đa phƣơng thức, về các chứng từ 
và giá trị pháp lý của các chứng từ...). Chúng ta có thể tham khảo kinh 
nghiệm của các nƣớc có ngành giao nhận và logistics phát triển để xây dựng 
một bộ tiêu chuẩn cho ngành giao nhận, giúp nâng cao sự minh bạch, cạnh 
tranh lành mạnh và khuyến khích sự phát triển của cả ngành. Bộ tiêu chuẩn 
này sẽ là cơ sở pháp lý và là văn bản hƣớng dẫn cho doanh nghiệp. Muốn làm 
đƣợc điều này thì vai trò của Nhà nƣớc và của Hiệp hội giao nhận kho vận 
Việt Nam VIFFAS là cực kỳ cần thiết. 
- Đƣa ra các văn bản hƣớng dẫn giải thích và sửa đổi những văn bản còn 
bất cập 
Ngoài các bộ luật đã có, Nhà nƣớc cũng cần ban hành các văn bản dƣới 
luật hƣớng dẫn các vấn đề cụ thể trong thực tiễn kinh doanh của doanh nghiệp. 
Nhờ đó doanh nghiệp, với tƣ cách là các chủ thể kinh doanh trên thị trƣờng sẽ 
có cơ sở pháp lý để tiến hành các hoạt động và giải quyết tốt các vấn đề phát 
sinh. 
Đồng thời, Nhà nƣớc cần tiến hành sửa đổi những văn bản đã có nhƣng 
gây ra nhiều bất cập trong quá trình áp dụng hoặc thiếu đi những quy định cụ 
thể dẫn tới phát sinh những tranh chấp hoặc những hiện tƣợng tiêu cực trong 
thực tiễn. 
Khóa luận tốt nghiệp 
Đỗ Thu Trang Lớp Anh 9 - K42C – KT&KDQT 
81 
Nhà nƣớc cần tiến hành tìm hiểu thực tế hoạt động của các doanh nghiệp 
cùng những vấn đề hay phát sinh trong thực tiễn, từ đó có biện pháp kịp thời 
và hữu hiệu để điều chỉnh và sửa đổi văn bản luật, đồng thời đƣa ra những 
văn bản mới theo kịp với yêu cầu của tình hình và xu thế hiện nay. 
Ví dụ: Nghị định 125/2003/NĐ-CP của Chính phủ về vận tải đa phƣơng 
thức quy định thƣơng nhân muốn đƣợc phép kinh doanh vận tải đa phƣơng 
thức phải có tài sản tối thiểu 80.000 SDR. Trong Luật Thƣơng mại 2005 và 
Nghị định 140/2007/NĐ-CP thì không quy định mức vốn pháp định để đƣợc 
phép kinh doanh dịch vụ logistics. Vì thế nên chăng các nhà làm luật phải 
nghiên cứu kỹ và đƣa ra quy định để thống nhất lại vấn đề trên. 
- Cần phân biệt rõ khái niệm hoạt động logistics và hoạt động giao nhận 
Vài năm trở lại đây, trong một số văn bản pháp luật (nhƣ Luật Thƣơng 
mại 2005) và trong các doanh nghiệp trên thị trƣờng giao nhận vận tải ở Việt 
Nam, cụm từ "logistics" đã đƣợc nhanh chóng phổ biến nhƣ các thuật ngữ 
thƣơng mại khác nhƣ vận đơn, thƣ tín dụng, thƣơng mại điện tử, cảng cạn, 
vận tải đa phƣơng thức. Tuy nhiên, về bản chất và nội dung của logistics thì 
không phải ai cũng hiểu rõ. Vì vậy, một việc cần thiết là trong hệ thống văn 
bản điều chỉnh hoạt động giao nhận vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu, Nhà 
nƣớc với vai trò của ngƣời làm luật cần phân biệt rõ ràng khái niệm "giao 
nhận" và khái niệm "logistics". Cần phải nêu bật đƣợc nội dung và phạm vi 
của ngƣời kinh doanh dịch vụ logistics, để tránh tình trạng hiểu sai, hiểu 
nhầm hoạt động giao nhận là hoạt động logistics trong một bộ phận doanh 
nghiệp, báo giới và thậm chí là các cán bộ Nhà nƣớc nhƣ hiện nay. 
Ví dụ nhƣ trong Luật Thƣơng mại 2005 và Nghị định 140/2007/NĐ-CP 
quy định chi tiết Luật Thƣơng mại 2005 về điều kiện kinh doanh dịch vụ 
logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ 
logistics, khái niệm "Dịch vụ logistics" cần đƣợc làm rõ hơn, chứ không chỉ 
quy định nhƣ điều 233 của Luật Thƣơng mại. 
Khóa luận tốt nghiệp 
Đỗ Thu Trang Lớp Anh 9 - K42C – KT&KDQT 
82 
- Hoàn thiện hệ thống văn bản quy định về thủ tục hải quan, thủ tục xuất 
nhập khẩu hàng hóa 
Cụ thể là, cần thống nhất và tiêu chuẩn hoá tên hàng và mã hàng, cải tiến 
quy trình thủ tục hải quan xuất nhập khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh 
nghiệp tiến hành làm thủ tục hải quan cho hàng hóa. Các quy định hải quan 
này cần phải phù hợp với thông lệ quốc tế, cụ thể là các nƣớc ASEAN, khu 
vực Châu Á và WTO. Việc cải cách hoạt động hải quan trong kiểm tra, giám 
sát sẽ giúp Nhà nƣớc quản lý tốt hơn các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và các 
doanh nghiệp giao nhận vận tải. 
Đồng thời, Chính phủ cần điều chỉnh quy định về thuế xuất nhập khẩu, 
về giá phí dịch vụ cảng biển, cƣớc vận chuyển nhƣ phí xếp dỡ container, phí 
CFS, phí thủ tục hải quan và các loại phí khác liên quan đến các chứng từ 
thƣờng dùng trong giao nhận. 
Thủ tục hành chính tại các cảng ở Việt Nam cũng cần đƣợc tiếp tục điều 
chỉnh để giảm bớt sự phức tạp, giảm bớt khó khăn cho các doanh nghiệp. 
Quyết định số 88/2004/QĐ-BTC về mức thu phí, lệ phí hàng hải tuy đã là 
bƣớc tiến bộ so với các văn bản trƣớc đó nhƣng vẫn còn phải đƣợc tiếp tục 
sửa đổi hoàn thiện theo hƣớng giảm phí cho ngang bằng khu vực và giảm bớt 
các loại phí không còn phù hợp trong tình hình hiện nay. 
- Công nhận giá trị pháp lý của chứng từ điện tử 
Thực tế cho thấy các doanh nghiệp có tiềm lực tốt đã dần dần áp dụng 
công nghệ tiên tiến của thƣơng mại điện tử nhƣ chứng từ điện tử, chữ ký điện 
tử và đặc biệt là hệ thống truyền thông dữ liệu EDI- Electronic Data 
Interchange để khai thác và cập nhật tới các đại lý trong nƣớc và nƣớc ngoài, 
các bộ phận khác có liên quan nhƣ hải quan, hãng hàng không, hãng tầu..., 
phần mềm quản lý xếp dỡ và giao nhận container. Vì vậy Nhà nƣớc cần có 
quy định để công nhận về mặt pháp lý của các chứng từ điện tử, chữ ký điện 
tử và các hình thức điện tử khác. 
Khóa luận tốt nghiệp 
Đỗ Thu Trang Lớp Anh 9 - K42C – KT&KDQT 
83 
Mặt khác, một hình thức quản lý mới mà Nhà nƣớc có thể nghiên cứu áp 
dụng tại Việt Nam đó là Chính phủ điện tử trong đó có Hải quan điện tử đã và 
đang đƣợc áp dụng, dần dần sẽ thay thế hình thức hải quan truyền thống. Việc 
đó sẽ tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp tiến hành làm thủ tục hải quan cho 
hàng hóa, giảm thời gian và chi phí các khâu không cần thiết. Đồng thời Nhà 
nƣớc cũng sẽ thuận tiện hơn trong việc cập nhật cơ sở dữ liệu về doanh 
nghiệp và hàng hóa xuất nhập khẩu, quản lý thu nộp thuế xuất nhập khẩu và 
đảm bảo kiểm tra giám sát hải quan đối với hàng hóa. 
Tóm lại, việc nâng cao hiệu quả của hệ thống văn bản luật là nhiệm vụ 
quan trọng Nhà nƣớc phải thực hiện nhằm tạo ra một môi trƣờng thuận lợi 
cho hoạt động kinh doanh giao nhận vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu ở Việt 
Nam hiện nay. Nắm vững luật pháp quốc tế và vận dụng linh hoạt vào thực tế 
ở thị trƣờng Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm của nƣớc ngoài, đồng thời lấy 
ý kiến của Hiệp hội giao nhận và các doanh nghiệp là điều kiện cần thiết để 
cho ra đời những nguồn luật khả thi, hiệu quả và phù hợp với tình hình mới. 
2.3 Chuẩn hoá các chứng từ người giao nhận phát hành 
Nhà nƣớc cần chuẩn hóa các chứng từ mà ngƣời giao nhận phát hành 
nhƣ vận đơn, các chứng từ vận tải đa phƣơng thức. Cụ thể là phải chuẩn hoá 
vận đơn thứ cấp (House Bill of lading hoặc House Airway Bill) hoặc sử dụng 
mẫu chung, thống nhất nhƣ mẫu chứng từ của FIATA, AFFA... để tránh tình 
trạng sử dụng chứng từ một cách khá tuỳ tiện ở một bộ phận các doanh 
nghiệp hiện nay, nhất là các doanh nghiệp tƣ nhân quy mô nhỏ. Trên vận đơn 
thể hiện đƣợc là ngƣời giao nhận đã đóng vai trò của ngƣời thầu chuyên chở, 
để có cơ sở pháp lý phát hành vận đơn và những chứng từ khác liên quan, để 
vận đơn của ngƣời giao nhận phát hành cũng có chức năng nhƣ vận đơn 
ngƣời chuyên chở thực tế phát hành, nhất là trong việc chấp nhận thanh toán 
tín dụng thƣ của các ngân hàng. 
Khóa luận tốt nghiệp 
Đỗ Thu Trang Lớp Anh 9 - K42C – KT&KDQT 
84 
Ngoài ra cần đẩy mạnh công tác kiểm tra việc đăng ký chứng từ của các 
thƣơng nhân kinh doanh giao nhận vận tải (thƣơng nhân Việt nam và thƣơng 
nhân nƣớc ngoài) với các cơ quan quản lý Nhà nƣớc của Việt Nam nhất là 
việc thẩm định nội dung chứng từ chứ không chỉ dừng lại ở việc chấp nhận 
đăng ký chứng từ. Ngoài ra cơ quan có trách nhiệm của Nhà nƣớc cần tiến 
hành hƣớng dẫn cho các chủ thể đăng ký phải đảm bảo vận đơn của mình phù 
hợp với thông lệ quốc tế và pháp luật Việt Nam, tránh tình trạng sao chép 
mẫu vận đơn mà lại thêm bớt sửa đổi một cách tùy tiện nhƣ hiện nay. 
2.4 Quản lý giá cả một số dịch vụ giao nhận 
Nhà nƣớc cần đƣa ra đƣợc quy định nhằm kiểm soát chặt chẽ việc xác 
định biểu giá cƣớc của doanh nghiệp giao nhận, trong đó có thể quy định giá 
trần, giá sàn, cơ chế thay đổi giá. Ngoài ra có thể đặt ra khoảng thời gian tối 
thiểu phải giữ nguyên giá cƣớc, tránh tình trạng thay đổi quá nhanh và có 
nhiều biểu giá khác nhau. 
 3. Về đối tƣợng quản lý 
3.1 Tạo 1ập và duy trì một môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng 
Nhà nƣớc với vai trò quản lý của mình cần tạo lập một môi trƣờng cạnh 
tranh bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giao nhận 
vận tải và các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics nói chung. Các 
thƣơng nhân nƣớc ngoài đƣợc tạo điều kiện tham gia thị trƣờng Việt Nam tuy 
hiện có những hạn chế nhất định. Các doanh nghiệp trong nƣớc thì đƣợc 
khuyến khích phát triển, cạnh tranh lành mạnh bằng những biện pháp nhƣ 
nâng cao chất lƣợng và đa dạng hóa dịch vụ, tăng cƣờng hoạt động marketing, 
ngoài ra còn đƣợc khuyến khích hội nhập và tham gia thị trƣờng nƣớc ngoài 
thông qua các biện pháp cung cấp thông tin, xúc tiến, hƣớng dẫn, điều phối và 
hỗ trợ. 
Tuy nhiên, sự bình đẳng trong cạnh tranh trên thị trƣờng xét cho đến 
cùng vẫn luôn đƣợc đo bằng vốn và tiềm lực. Các doanh nghiệp mạnh thì 
Khóa luận tốt nghiệp 
Đỗ Thu Trang Lớp Anh 9 - K42C – KT&KDQT 
85 
thắng, các doanh nghiệp nhỏ yếu thì dần dần sẽ đứng trƣớc nguy cơ bị mất thị 
phần và thua thiệt. 
Vì vậy, ngành giao nhận Việt Nam nên tập trung vào các doanh nghiệp 
lớn có tiềm lực để làm đối trọng với các hãng nƣớc ngoài. Các doanh nghiệp 
nhỏ nên đảm nhận các khâu không qua phức tạp nhƣ vận chuyển nội địa và 
đại lý khai hải quan. Chính phủ cần có biện pháp thúc đẩy các doanh nghiệp 
liên kết lại với nhau để tạo nên sức mạnh. Những mô hình liên kết nên đƣợc 
Chính phủ tạo điều kiện phát triển nhƣ liên kết giữa các công ty dịch vụ giao 
nhận, dịch vụ cảng, dịch vụ kho bãi và vận chuyển. Chính phủ có thể giúp đỡ 
về tƣ vấn cho các doanh nghiệp, giúp đỡ về thủ tục sao cho thuận tiện và giúp 
đỡ về đào tạo nghiệp vụ và tích lũy kinh nghiệm. 
Ngoài ra, muốn tạo môi trƣờng kinh doanh lành mạnh thì một việc Nhà 
nƣớc luôn luôn phải theo sát đó là chống buôn lậu, gian lận thƣơng mại và 
tham nhũng. Các cơ quan bộ ngành (Bộ công thƣơng, Bộ Giao thông vận tải, 
Hải quan, Cơ quan quản lý thị trƣờng và Cục quản lý cạnh tranh) cần phối 
hợp để ngăn chặn và xử lý các hiện tƣợng tiêu cực trên. 
3.2 Quản lý hoạt động của các doanh nghiệp giao nhận 
Trong xu thế hội nhập mạnh mẽ, cùng với những tín hiệu đáng mừng từ 
phía các doanh nghiệp giao nhận nói riêng và toàn ngành giao nhận nói chung 
là những vấn đề của thị trƣờng trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt, 
những hiện tƣợng tiêu cực đang dần lộ rõ. Vì vậy, điều tất yếu là Nhà nƣớc 
phải tăng cƣờng quản lý giám sát hoạt động của các doanh nghiệp vận tải giao 
nhận ở Việt Nam hiện nay. 
Nhà nƣớc, mà cụ thể là các cơ quan chức năng quản lý của Nhà nƣớc 
phải tiến hành điều tra phân loại các doanh nghiệp giao nhận vận tải và tiến 
hành rà soát hoạt động của các doanh nghiệp trên cơ sở những quy định của 
pháp luật, tránh tình trạng phát triển tự do nhƣ hiện nay. Cụ thể một số biện 
pháp nhƣ sau: 
Khóa luận tốt nghiệp 
Đỗ Thu Trang Lớp Anh 9 - K42C – KT&KDQT 
86 
- Bộ kế hoạch đầu tƣ và Sở kế hoạch đầu tƣ các tỉnh giám sát chặt chẽ 
hơn việc đăng ký kinh doanh dịch vụ và cấp giấy phép cho các doanh 
nghiệp giao nhận vì đây là loại hình kinh doanh có điều kiện. Muốn vậy 
cần điều tra tìm hiểu năng lực tài chính, kinh nghiệm kinh doanh, mục 
đích kinh doanh và kế hoạch kinh doanh dự kiến của doanh nghiệp. 
- Bộ Giao thông vận tải, Cục Hàng hải và Bộ Công thƣơng nên xem xét 
cải tiến lại khâu đăng ký và quản lý vận đơn sao cho hiệu quả và thiết 
thực hơn. Cụ thể là yêu cầu mọi doanh nghiệp ở Việt Nam kinh doanh 
ngành nghề này phải đăng ký mẫu vận đơn thứ cấp và các chứng từ 
khác phù hợp với pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế. 
- Giám sát việc thực hiện các nghĩa vụ của doanh nghiệp nhƣ nghĩa vụ 
tuân thủ các quy định trong kinh doanh, nghĩa vụ nộp thuế... 
- Kiên quyết thu hồi giấy phép kinh doanh đối với doanh nghiệp không 
đƣ tƣ cách kinh doanh, không chấp hành hoặc vi phạm quy định của 
pháp luật ví dụ nhƣ việc doanh nghiệp Việt Nam làm đại lý cho các 
công ty nƣớc ngoài mà chƣa đƣợc cho phép hoạt động kinh doanh tại 
Việt Nam. 
Có nhƣ vậy, Nhà nƣớc sẽ quản lý các doanh nghiệp hiệu quả hơn, chấn 
chỉnh tình trạng làm ăn chụp giật, manh mún, tình trạng cạnh tranh không 
lành mạnh trong một bộ phận doanh nghiệp. 
3.3 Tiếp tục đẩy mạnh công tác cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước 
Nhà nƣớc cần tiếp tục đẩy mạnh xu hƣớng cổ phần hóa các doanh nghiệp 
đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nƣớc hoạt động trong lĩnh vực giao nhận 
kho vận, một mặt để nâng cao tính linh hoạt chủ động cho các doanh nghiệp 
trong nền kinh tế thị trƣờng, mặt khác tạo tiền đề cho khả năng liên kết chiến 
lƣợc giữa những doanh nghiệp có tiềm lực, nhằm tạo ra đối trọng đủ mạnh 
với các thƣơng nhân nƣớc ngoài, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp 
Việt Nam. 
Khóa luận tốt nghiệp 
Đỗ Thu Trang Lớp Anh 9 - K42C – KT&KDQT 
87 
Có thể nói, khi cổ phần hóa thì Nhà nƣớc sẽ không còn giữ vai trò chi 
phối. Nhà nƣớc một mặt để cho các doanh nghiệp tăng thêm quyền chủ động 
mặt khác vẫn tiến hành quản lý các doanh nghiệp thông qua các biện pháp 
kiểm tra, thanh tra giám sát. Đó là quan điểm quản lý phù hợp với tình hình 
hiện nay và phù hợp với những cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức 
Thƣơng mại thế giới WTO. 
IV. GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI HIỆP HỘI GIAO NHẬN KHO VẬN VIỆT NAM 
VIFFAS 
Trong hội nhập, vai trò của các hiệp hội là đặc biệt quan trọng. Vì thế, 
Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam VIFFAS cần đƣợc nâng cao cả về 
lƣợng và chất. VIFFAS cần năng động hơn trong việc quản lý bảo vệ quyền 
lợi hội viên, đặc biệt là trong việc đào tạo, gắn kết, thông tin, điều phối, 
hƣớng dẫn các thành viên tiếp cận và xâm nhập các thị trƣờng nƣớc ngoài. 
Ngoài ra, VIFFAS cần phải phối hợp hoạt động chặt chẽ và tích cực hơn 
với các hiệp hội khác nhƣ hiệp hội đại lý và môi giới hàng hải, Hiệp hội chủ 
tàu, Hiệp hội cảng biển, các hiệp hội của chủ hàng xuất nhập khẩu v.v...để hỗ 
trợ các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp giao nhận và cao hơn 
là các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics. 
Một số giải pháp để tăng cƣờng vai trò tích cực của VIFFAS trong việc 
giúp đỡ Nhà nƣớc quản lý hoạt động giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu nhƣ 
sau: 
- Tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò góp  ý và phản ánh những ý kiến của 
cộng đồng doanh nghiệp cho các cơ quan Nhà nƣớc trong việc hoàn thiện 
hành lang pháp lý, xây dựng những tiêu chuẩn chung cho ngành giao nhận 
vận tải ở Việt Nam 
- Tiếp tục phát triển số lƣợng hội viên của Hiệp hội, kể cả những hội 
viên chính thức và hội viên liên kết để Hiệp hội phát huy vai trò là tổ chức 
Khóa luận tốt nghiệp 
Đỗ Thu Trang Lớp Anh 9 - K42C – KT&KDQT 
88 
định hƣớng, bảo vệ quyền lợi và đảm bảo những nghĩa vụ hội viên phải tuân 
theo. 
- Tích cực liên kết quốc tế, đẩy mạnh hợp tác quốc tế và khu vực để tạo 
tiền đề xúc tiến thƣơng mại, hỗ trợ hơn nữa cho các doanh nghiệp giao nhận 
vận tải. 
- Năng động hơn trong việc quản lý bảo vệ quyền lợi hội viên, đặc biệt là 
trong việc đào tạo, gắn kết, thông tin, điều phối, hƣớng dẫn các thành viên 
tiếp cận và xâm nhập các thị trƣờng nƣớc ngoài. 
- Tổ chức tuyên truyền và hƣớng dẫn cho các hội viên về những văn bản 
pháp luật mới đƣợc sửa đổi hay ban hành của Việt Nam cùng những thông lệ, 
tập quán và luật pháp quốc tế trong lĩnh vực giao nhận vận tải. 
 - Phối hợp hoạt động chặt chẽ và tích cực hơn với các hiệp hội khác nhƣ 
Hiệp hội đại lý và môi giới hàng hải, Hiệp hội chủ tàu, Hiệp hội cảng biển, 
các hiệp hội của chủ hàng xuất nhập khẩu v.v...để hƣớng dẫn và quản lý các 
doanh nghiệp giao nhận và cao hơn là các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ 
logistics. 
Tóm lại, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giao nhận có cơ hội phát 
triển và cạnh tranh lành mạnh, các bộ, ban ngành của Chính phủ và Hiệp hội 
giao nhận kho vận Việt Nam cần phải năng động hơn trong việc áp dụng các 
biện pháp nhƣ đã nói ở trên nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và đƣa ngành 
giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu phát triển theo hƣớng chính quy, hiện đại 
và chuyên nghiệp, sánh vai cùng các nƣớc khu vực và thế giới. 
Khóa luận tốt nghiệp 
Đỗ Thu Trang Lớp Anh 9 - K42C – KT&KDQT 
89 
KẾT LUẬN 
Giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu đóng vai trò là một ngành kinh tế 
quan trọng trong nền kinh tế thị trƣờng, và trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay 
thì vai trò thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế của nó lại càng lớn. Hoạt động giao 
nhận quốc tế có tác dụng to lớn trong việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng 
hóa trên thị trƣờng nƣớc ngoài và đẩy nhanh tốc độ giao lƣu xuất nhập khẩu 
với thế giới. Phát triển ngành giao nhận quốc tế có ý nghĩa hết sức quan trọng 
đối với sự phát triển của thƣơng mại và vận tải quốc tế. 
Cùng với sự phát triển của logistics, phạm vi hoạt động giao nhận đã 
đƣợc mở rộng. Từ chỗ chỉ thay mặt khách hàng để thực hiện các khâu rời rạc 
nhƣ thuê tàu, lƣu cƣớc, chuẩn bị hàng, đóng gói hàng, làm thủ tục thông 
quan, ... các doanh nghiệp giao nhận tiến dần tới cung cấp dịch vụ trọn gói từ 
kho đến kho (Door to door). Với việc chuyên nghiệp hóa các công đoạn từ 
ngƣời bán đến ngƣời mua, hoạt động giao nhận giúp cho hàng hóa lƣu chuyển 
dễ dàng, nhanh chóng, tiết kiệm chi phí và tăng hiệu quả của hợp đồng mua 
bán ngoại thƣơng. 
Ở Việt Nam, tuy mới thực sự phát triển mạnh trong hơn chục năm trở lại 
đây nhƣng giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu ở Việt Nam đã tỏ ra là một 
lĩnh vực hứa hẹn và đầy tiềm năng phát triển. Đặc biệt trong bối cảnh mở cửa 
và hội nhập mạnh mẽ hiện nay, ngành giao nhận kho vận Việt Nam đã và 
đang phát triển nhanh và mạnh cả về bề rộng và bề sâu với sự tham gia của 
các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế trong nƣớc và cả các thƣơng 
nhân nƣớc ngoài. Các doanh nghiệp giao nhận làm ăn phát đạt đóng góp 
không nhỏ cho ngân sách Nhà nƣớc và tạo ra công ăn việc làm cho nhiều 
ngƣời lao động. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều tiêu cực nhƣ 
cạnh tranh không lành mạnh, gian lận thƣơng mại, liên kết thoả hiệp để lũng 
đoạn thị trƣờng v.v.... 
Khóa luận tốt nghiệp 
Đỗ Thu Trang Lớp Anh 9 - K42C – KT&KDQT 
90 
Có thể nói, thực tiễn hoạt động của ngành giao nhận kho vận tại Việt 
Nam đã đi nhanh hơn các quy định của luật pháp. Công tác quản lý của Nhà 
nƣớc đối với hoạt động này bên cạnh một số điểm tích cực thì vẫn còn tồn tại 
những bất cập, cụ thể là hành lang pháp lý còn chồng chéo, hiệu quả chƣa cao, 
các chủ thể quản lý còn phức tạp mà phối hợp còn chƣa tốt, đồng thời quản lý 
đối với các doanh nghiệp giao nhận còn lỏng lẻo. Vì vậy, đòi hỏi tất yếu là 
phải tăng cƣờng quản lý Nhà nƣớc sao cho thích nghi và bắt kịp với tình hình 
của thị trƣờng. Nhà nƣớc, mà cụ thể là các Bộ, ban ngành phải có sự nhất 
quán về chủ trƣơng, về quan điểm, về kế hoạch, đồng bộ về giải pháp và các 
công cụ quản lý để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động đồng thời 
nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nƣớc. 
Trong những năm tới đây, giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu sẽ trở 
thành ngành kinh tế quan trọng của đất nƣớc. Bƣớc vào sân chơi toàn cầu, 
cùng với những cơ hội là những thách thức không nhỏ đặt ra đối với các 
doanh nghiệp giao nhận và đối với các cơ quan chức năng của Nhà nƣớc 
trong việc quản lý hoạt động này. Vì vậy, Nhà nƣớc cần phải phát huy một 
cách năng động hơn nữa vai trò quản lý của mình nhằm phát triển thị trƣờng 
giao nhận theo hƣớng hiện đại mà quy củ, từng bƣớc đƣa ngành giao nhận 
kho vận trở thành một trong những ngành dịch vụ mũi nhọn của Việt Nam. 
Quản lý hoạt động giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu là một khía cạnh 
khá phức tạp, mặt khác do thời gian nghiên cứu chƣa nhiều, trình độ bản thân 
còn hạn chế nên việc phân tích đánh giá vấn đề và đƣa ra kiến nghị chắc chắn 
không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong đƣợc sự thông cảm và góp ý của 
các thầy cô giáo và các bạn. 
Cuối cùng em xin đƣợc gửi lời cảm ơn tới tất cả các thầy cô giáo trong 
Bộ môn đặc biệt là thầy giáo, PGS.TS Nguyễn Nhƣ Tiến đã giúp đỡ em hoàn 
thành khóa luận này. 
Sinh viên thực hiện 
Khóa luận tốt nghiệp 
Đỗ Thu Trang Lớp Anh 9 - K42C – KT&KDQT 
91 
 Đỗ Thu Trang 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Tiếng Việt: 
1. PGS.TS Nguyễn Hồng Đàm (2005), Vận tải và Giao nhận trong Ngoại 
thương, NXB Lý luận chính trị, Hà nội. 
2. Phạm Mạnh Hiền (2004), Nghiệp vụ giao nhận vận tải quốc tế, NXB 
Thống kê, Hà nội. 
3. Bùi Tiến Quý (2000), Phát triển và quản lý Nhà nước về kinh tế dịch vụ, 
NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà nội. 
4. Trƣờng Đại học Ngoại thƣơng (1999), Các Công ước quốc tế về vận tải và 
hàng hải, NXB Giao thông vận tải, Hà nội. 
5. PGS.TS Đinh Ngọc Viện (2002), Giao nhận vận tải hàng hóa quốc tế, 
NXB Giao thông vận tải, Hà nội. 
6. Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam, Điều lệ của Hiệp hội Giao nhận 
kho vận Việt Nam 
7. Trần Kiên (2007), Vai trò của vận tải biển trong toàn cầu hóa, Tạp chí 
Hàng hải Việt Nam số 08/2007 
8. Phạm Thiết Quát (2007), Cơ hội và thách thức đối với lĩnh vực dịch vụ 
hàng hải khi Việt Nam gia nhập WTO, Tạp chí Hàng hải Việt Nam số 
04/2007. 
9. Võ Nhật Thăng (2004), Một số kiến nghị về việc hoàn thiện các văn bản 
luật điều chỉnh hoạt động dịch vụ đại lý vận tải đường biển, Tạp chí Hàng 
hải Việt Nam 
10. PGS.TS Nguyễn Nhƣ Tiến (2005), Quản lý Nhà nước đối với hoạt động 
logistics ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Hàng hải Việt Nam số 10/2005. 
11. Nguyễn Tƣơng (2004), Nghị định của Chính phủ về vận tải đa phương 
thức, Tạp chí Hàng hải Việt Nam. 
Khóa luận tốt nghiệp 
Đỗ Thu Trang Lớp Anh 9 - K42C – KT&KDQT 
92 
12. Hiệp hội giao nhận kho vận Việt Nam (2006), Một số kiến nghị về quản lý 
dịch vụ giao nhận vận tải hàng hóa xuất nhập khẩu, www.SMEnet.com.vn 
13. Đỗ Xuân Quang (2007), Logistics tại Việt Nam, thực trạng, cơ hội và 
thách thức, www. vcci.com.vn 
14. Nguyễn Hồng Thanh (2007), Cam kết quốc tế về logistics của Việt Nam, 
website của UBQG về hợp tác kinh tế quốc tế www.nciec.gov.vn 
15. Bộ Luật Hàng hải Việt Nam 2005, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội. 
16. Luật Thương mại Việt Nam 1997, 2005, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội. 
17. Luật Hàng không dân dụng Việt Nam 2006, NXB Chính trị quốc gia, Hà 
nội. 
18. Luật Hải quan năm 2001 và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật 
Hải quan năm 2005, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội. 
19. Nghị định 125/2003/NĐ-CP về vận tải đa phương thức quốc tế 
20. Nghị định 140/2007/NĐ-CP về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và 
giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics 
21. Nghị định của Chính phủ số 115/2007/NĐ-CP về điều kiện kinh doanh 
dịch vụ vận tải biển 
22. Các điều kiện kinh doanh chuẩn của Hiệp hội Giao nhận kho vận Việt 
Nam 
Tiếng Anh 
1. Economic and Social Commission for Asia and the Pacific (1992), Manual 
on freight forwarding, United Nations. 
2. VIFFAS (2000), Vietnam freight forwarding handbook 2000-2005, Hanoi 
3. Nomura Research Institute (2004), Vietnam logistics development, trade 
facilitation and the impact on poverty reduction, Ministry of Transport, 
Vietnam and The World Bank 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 3766_8487.pdf 3766_8487.pdf