Hệ thống thông tin vi phạm pháp luật hải quan: thu thập thông tin vi
phạm pháp luật hải quan của các cá nhân và tổ chức, hỗ trợ cho việc ra quyết
định kiểm tra hàng hóa. Hệ thống này được triển khai trên toàn quốc.
Hệ thống quản lý loại hình nguyên liệu nhập để xuất khẩu: giúp ngành
Hải quan nâng cao công tác quản lý các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu
để sản xuất hàng xuất khẩu.
Hệ thống đăng ký, quản lý mã số doanh nghiệp xuất nhập khẩu: Các
doanh nghiệp làm thủ tục xin cấp mã số doanh nghiệp tại cơ quan thuế, và mã
số này dùng làm mã số xuất nhập khẩu nếu doanh nghiệp đăng ký hoạt động
xuất nhập khẩu. Nhờ hệ thống này, cơ quan Hải quan có được cơ sở dữ liệu
đầy đủ về các đối tượng tham gia xuất nhập khẩu trên toàn quốc.
103 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 8059 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp triển khai mô hình hải quan điện tử ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệt Nam. Ngoài ra, chương II còn đề cập đến thực trạng
áp dụng Hải quan điện tử ở một số quốc gia tiên tiến trên thế giới, từ đó tạo
cơ sở cho chương III đưa ra những giải pháp hoàn thiện mô hình hải quan
điện tử ở Việt Nam trong thời gian tới.
Đường dây
thuê riêng
Hệ thống
đường
truyền Nhà
nước
Giao thức
quay số
hoặc
Internet
Hệ thống
front-end
VAN Hệ thống
back-end
Tradenet
Hệ thống
back-end
hải quan
67
CHƯƠNG III – XU HƯỚNG ÁP DỤNG MÔ HÌNH HẢI QUAN ĐIỆN
TỬ Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN MÔ HÌNH HẢI QUAN ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
3.1 Xu hướng phát triển của Hải quan thế giới và Việt Nam
3.1.1 Xu hướng phát triển của Hải quan điện tử thế giới
Trong những năm đầu của thế kỷ 21, Hải quan thế giới đã phải đối mặt
với yêu cầu rất mâu thuẫn ngày càng tăng từ xu thế toàn cầu hoá thương mại.
Một mặt, Hải quan phải làm tốt nhiệm vụ đảm bảo an ninh và kiểm soát hiệu
quả dây chuyền cung ứng quốc tế, mặt khác, phải tạo thuận lợi hơn nữa cho
thương mại hợp pháp.
Trong tình hình hiện nay, với đặc tính ưu việt hơn so với thủ tục hải
quan thực hiện bằng phương thức thủ công, thủ tục hải quan điện tử khi được
mở rộng sẽ góp phần đảm bảo việc thống nhất, đơn giản hóa thủ tục; rút ngắn
thời gian thông quan; giảm chi phí cho doanh nghiệp, hạn chế tiêu cực nảy
sinh từ công chức Hải quan, nhân viên của doanh nghiệp làm thủ tục hải quan.
Việc mở rộng thủ tục hải quan điện tử sẽ tạo cơ sở để tiếp tục hoàn thiện cơ
chế, chính sách về thủ tục hải quan điện tử, chuyển đổi từ phương thức quản
lý hải quan thủ công sang phương thức quản lý hải quan hiện đại.
Có thể nói Hải quan trong thế kỷ 21 có một vai trò năng động mới. Tại
Phiên họp Hội đồng tháng 6 năm 2008 tại trụ sở WCO, Hội đồng đã thông
qua Nghị quyết về vai trò của Hải quan trong thế kỷ 21 với tài liệu mang tên
“ Hải quan trong thế kỷ 21 – Tăng cường sự Tăng trưởng và Phát triển thông
qua thuận lợi hoá thương mại và An ninh biên giới (năm 2008)” trong đó nêu
rõ những nguyên tắc và định hướng chiến lược xây dựng vai trò của Hải quan
trong thế kỷ 21. Tài liệu này có thể được xem như tài liệu khung và là cơ sở
68
để WCO và các cơ quan Hải quan cùng suy ngẫm và nhận diện 10 khối chiến
lược đối với Hải quan trong thế kỷ 21. Những khối chiến lược đó là [25]:
1. Mạng lưới Hải quan toàn cầu: với bản chất của dây chuyền cung
ứng quốc tế và quan hệ cộng tác Hải quan – Hải quan và gần đây là mối quan
hệ đối tác Hải quan – Doanh nghiệp, việc xây dựng một mạng lưới Hải quan
toàn cầu trên nguyên tắc hải quan điện tử, tạo điều kiện cho dòng thông tin
phi giấy tờ được kết nối, trao đổi đơn giản và nhanh chóng là một xu hướng
phát triển khách quan của Hải quan thế giới. Công nhận lẫn nhau, bao gồm
công nhận lẫn nhau về các Chương trình Doanh nghiệp ưu tiên (AEO) giữa
các cơ quan Hải quan là một chất xúc tác rất quan trọng trong việc xây dựng
mạng lưới Hải quan toàn cầu. Để thực hiện được ý tưởng này đòi hỏi sự trao
đổi thông tin an toàn, nhanh chóng giữa Hải quan và Doanh nghiệp và giữa
Hải quan với Hải quan trong một chuỗi cung ứng bắt đầu từ cơ quan Hải quan
nước xuất khẩu.
2. Phối hợp quản lý biên giới: Xu hướng chiến lược này đòi hỏi sự phối
hợp nhuần nhuyễn của tất cả các cơ quan thực thi pháp luật tại biên giới. Hải
quan một quốc gia không thể làm việc độc lập mà cần có sự phối hợp kiểm
soát với các cơ quan Chính phủ khác như cơ quan Hải quan nước đối tác hay
cơ quan quản lý xuất nhập cảnh, y tế, nông nghiệp, môi trường quốc gia… để
kiểm soát tốt hơn việc di chuyển của người, hàng hoá và phương tiện qua biên
giới. Áp dụng cơ chế một cửa tại biên giới sẽ cho phép doanh nghiệp cung
cấp tất cả thông tin và chứng từ một lần tới một cơ quan được chỉ định và sau
đó thông tin sẽ được chuyển tới các cơ quan quản lý có liên quan. Cuối cùng
Hải quan sẽ là đơn vị đầu mối tổng hợp và chốt lại thông tin để đưa ra quyết
định thông quan hàng hoá.
3. Quản lý rủi ro trên cơ sở thông tin tình báo: Sau hơn một thập kỷ
kinh nghiệm của Hải quan thế giới về quản lý rủi ro trên cơ sở thông tin tình
69
báo thì một điều rõ ràng là quản lý rủi ro rất quan trọng đối với các cơ quan
Hải quan trong điều kiện nền kinh tế quốc tế đang có những bước phát triển
mạnh mẽ. Vấn đề là các cơ quan Hải quan cần thúc đẩy hơn nữa việc chia sẻ
thông tin, nhận diện rủi ro chủ động hơn, chính xác hơn và có khả năng tiên
lượng những tình huống phức tạp tốt hơn. Điều này đã góp phần thúc đẩy sự
phát triển của ngành Hải quan điện tử, khi mà việc quản lý thông tin, quản lý
rủi ro trên toàn bộ hệ thống toàn cầu trở nên dễ dàng hơn.
4. Phát triển quan hệ đối tác Hải quan – Doanh nghiệp: Hải quan cần
thấu hiểu những băn khoăn của doanh nghiệp và doanh nghiệp cũng cần nắm
rõ những yêu cầu của Hải quan. Điều quan trọng nhất là cần chuyển đổi mối
quan hệ này thành mối quan hệ đối tác mang lại những kết quả có lợi cho cả
hai bên.
5. Áp dụng các phương pháp làm việc, các quy trình, thủ tục và kỹ
thuật hiện đại: Yêu cầu thông quan nhanh hàng hoá đòi hỏi việc áp dụng các
phương pháp, kỹ thuật mới trong công việc hàng ngày của Hải quan. Khai báo
hải quan điện tử, chuyển dịch từ kiểm tra trên cơ sở các giao dịch sang kiểm
tra trên cơ sở hệ thống… là những ví dụ về các phương pháp làm việc hiện
đại.
6. Tạo điều kiện để áp dụng các công nghệ mới: Khối chiến lược thứ
sáu này cũng không kém phần quan trọng trong việc đưa mạng lưới Hải quan
toàn cầu trở thành hiện thực. Hải quan thế giới cần không ngừng học hỏi,
không ngừng sáng tạo và tận dụng các công nghệ mới để tăng cường công tác
xử lý hàng hoá, quản lý rủi ro.
7. Tăng cường quyền hạn thực thi pháp luật cho Hải quan: Để đấu
tranh chống lại tội phạm có tổ chức một cách hiệu quả và để đảm bảo an toàn
cho công chức Hải quan trong thực thi nhiệm vụ, thẩm quyền của Hải quan
thế giới cần được pháp luật quy định mạnh mẽ hơn. Những quy định pháp lý
70
về thông tin và chia sẻ thông tin giữa các quốc gia cũng cần được quan tâm,
củng cố hơn nữa.
8. Định hình văn hoá công sở chuyên nghiệp:
Công chức Hải quan ngày nay không chỉ cần có trình độ nghiệp vụ tốt,
phẩm chất đạo đức tốt mà còn phải rất nhanh nhạy với công nghệ mới, có khả
năng ngoại ngữ và thích nghi nhanh với những thay đổi của môi trường. Văn
hoá tổ chức đòi hỏi sự nhất quán, minh bạch, trung thực và công tâm. Những
kỹ năng quản lý sự thay đổi và kỹ năng lãnh đạo cũng cần được đầu tư phát
triển.
9. Xây dựng năng lực: Trong thời gian qua, xây dựng năng lực đã trở
thành trụ cột trong việc tăng cường sức mạnh của cộng đồng Hải quan. Đây
cũng là chìa khoá thành công cho mạng lưới Hải quan toàn cầu. Vấn đề đặt ra
là làm thế nào để các cơ quan Hải quan và Ban thư ký WCO có thể tăng
cường hiệu quả thực hiện Chương trình Columbus, một nỗ lực quốc tế nhiều
hoài bão trong xây dựng năng lực cho Hải quan. Với hạn chế về nguồn lực,
việc đảm bảo xây dựng năng lực một cách bền vững cũng là thách thức không
nhỏ đối với Hải quan các nước.
10. Liêm chính hải quan: Cuộc chiến chống lại nạn tham nhũng vẫn
còn là nhiệm vụ quan trọng phải thực hiện trong những năm tới. Tuyên bố
Ashura của WCO vẫn giữ nguyên giá trị và là văn bản tham khảo của tất cả
các cơ quan Hải quan trên thế giới. Liêm chính hải quan cũng là xu hướng và
là mục tiêu rất quan trọng để phát triển hệ thống Hải quan toàn cầu chuyên
nghiệp, tạo cơ sở cho kinh tế quốc tế có những bước tiến vững chắc.
Có thể nói, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của sự phát triển toàn cầu về công
nghệ thông tin và thương mại điện tử, Hải quan thế giới cũng đã và đang có
những thay đổi để phù hợp với nền kinh tế và chính trị toàn cầu. Kể từ khi có
sự giao thương giữa các quốc gia trên thế giới, Hải quan các nước đã đạt được
71
nhiều thành tựu, góp phần đảm bảo sự phát triển thương mại đồng thời vẫn
giữ vững ổn định kinh tế, văn hóa, chính trị trong nước. Tuy nhiên, trước sự
thay đổi chóng mặt của công nghệ thông tin, xu hướng chung của Hải quan
thế giới là cải cách, hiện đại hóa hệ thống Hải quan quốc gia, từ đó, tạo lập
mạng lưới Hải quan toàn cầu, đưa Hải quan thế giới thành một khối thống
nhất, tạo điều kiện tốt nhất cho ngoại thương các nước phát triển.
3.1.2 Xu hướng phát triển của Hải quan điện tử Việt Nam
Bộ Tài chính là một trong những đơn vị bộ, ngành đi đầu cả nước trong
ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động. Hiện nay, 100% các đơn vị
trong ngành Tài chính có mạng cục bộ; 100% máy tính được kết nối mạng
cục bộ; 95% đơn vị được kết nối internet băng thông rộng. Tính đến đầu năm
2010, Bộ Tài chính đã triển khai 31 dịch vụ công trực tuyến phục vụ người
dân và doanh nghiệp. Xu hướng phát triển không thể phủ nhận của Tài chính
công Việt Nam là đẩy mạnh các dịch vụ tài chính công trực tuyến. Dự kiến từ
nay cho đến 2015 sẽ có khoảng 93 dịch vụ tài chính công được cung cấp cho
người dân, tổ chức, doanh nghiệp qua mạng Internet ở mức 3 trở lên theo
bảng phân loại của Bộ Thông tin và Truyền thông [34]. Ví dụ: khai Hải quan
điện tử, nộp tờ khai thuế qua mạng Internet…
Trước xu thế hội nhập với kinh tế quốc tế, trước xu hướng phát triển
của dịch vụ tài chính công nước nhà, một điều dễ nhận thấy là xu hướng phát
triển của Hải quan Việt Nam cũng theo hướng áp dụng công nghệ thông tin
vào hoạt động, cụ thể là áp dụng mô hình thông quan điện tử. Tiếp theo giai
đoạn thực hiện thí điểm thủ tục hải quan điện tử tại một số địa phương từ năm
2005, hiện nay, Tổng cục Hải quan đang tiếp tục mở rộng thực hiện thí điểm
thủ tục hải quan điện tử trên quy mô địa bàn rộng hơn, đối tượng doanh
nghiệp thực hiện thủ tục hải quan điện tử cũng sẽ không còn hạn chế mà được
mở rộng cho tất cả mọi doanh nghiệp có nhu cầu tham gia thủ tục hải quan
72
điện tử. Ngày 25/3/2011, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ban
hành Quyết định số 448/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược phát triển Hải
quan đến năm 2020. Với mục tiêu tổng quát là xây dựng Hải quan Việt Nam
hiện đại, chuyên nghiệp, có cơ chế, chính sách đầy đủ, minh bạch, thủ tục hải
quan đơn giản, hài hòa đạt chuẩn mực quốc tế, trên nền tảng ứng dụng công
nghệ thông tin hiện đại, xử lý dữ liệu tập trung, đạt trình độ tương đương với
các nước tiên tiến trong khu vực Đông Nam Á, Quyết định số 448/QĐ-TTg
đã đề ra những mục tiêu cụ thể như sau:
a) Mục tiêu tổng quát đến năm 2015:
Kế hoạch phát triển công nghệ thông tin phục vụ dịch vụ công trong
ngành Hải quan đến năm 2015 cũng được đưa ra trong Hội thảo Triển lãm
thường niên “Ứng dụng Công nghệ thông tin trong lĩnh vực tài chính -
Vietnam ICT in Finance 2010” (ICTF’10) do Bộ Tài chính và Tập đoàn Dữ
liệu Quốc tế IDG tại Việt Nam phối hợp tổ chức ngày 22/06/2010. Mục tiêu
Chính phủ đặt ra cho việc triển khai Chính phủ điện tử đến năm 2015 có
100% các Cục Hải quan, 100% các Chi cục Hải quan tại các địa bàn trọng
điểm (cảng biển, cảng hàng không, cửa khẩu đường bộ quốc tế, các khu kinh
tế trọng điểm), 60% các loại hình hải quan cơ bản, 70% kim ngạch xuất nhập
khẩu, 60% doanh nghiệp thực hiện thủ tục hải quan điện tử, trong đó liên
quan đến dịch vụ tài chính công là 80% người dân và doanh nghiệp nộp hồ sơ
khai thuế qua mạng và 90% Cục Hải quan các tỉnh, thành phố triển khai thủ
tục hải quan điện tử [31]. Thời gian thông quan hàng hóa đến 2015 bằng với
mức trung bình của các nước tiên tiến trong khu vực Đông Nam Á tại thời
điểm 2010. Tỷ lệ kiểm tra thực tế hàng hóa đến năm 2015 là dưới 10% và tỷ
lệ các giấy phép xuất nhập khẩu thực hiện trong cơ chế một cửa Hải quan
quốc gia đến năm 2015 là 50% [20].
73
b) Mục tiêu tổng quát đến năm 2020:
- Hệ thống pháp luật, các thủ tục và chế độ quản lý hải quan đơn giản,
hiệu quả, hài hoà, minh bạch và tuân thủ các chuẩn mực, thông lệ quốc tế…
- Lực lượng Hải quan đạt trình độ chuyên nghiệp, chuyên sâu.
- Thủ tục hải quan đơn giản, hài hòa, thống nhất, đạt chuẩn mực quốc tế
dựa trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, áp dụng kỹ thuật
quản lý rủi ro.
- Đến năm 2020, có 100% các Cục Hải quan, 100% các Chi cục Hải
quan, 100% các loại hình hải quan cơ bản, 90% kim ngạch xuất nhập khẩu,
80% doanh nghiệp thực hiện thủ tục hải quan điện tử. Thời gian thông quan
hàng hóa đến năm 2020 phấn đấu bằng với mức của các nước tiên tiến trong
khu vực Đông Nam Á tại cùng thời điểm. Tỷ lệ kiểm tra thực tế hàng hóa đến
năm 2020 phấn đấu đạt dưới 7% và tỷ lệ các giấy phép xuất nhập khẩu thực
hiện trong cơ chế một cửa Hải quan quốc gia đến năm 2015 là 50% và đến
2020 là 90% [20].
3.2 Những kinh nghiệm từ các mô hình thủ tục Hải quan điện tử trên
thế giới
3.2.1 Kinh nghiệm từ mô hình hải quan điện tử của Hàn Quốc
Hàn Quốc là một trong những quốc gia Đông Bắc Á có nhiều nét tương
đồng với Việt Nam về lịch sử, kinh tế và văn hóa. Hàn Quốc từng được biết
đến là một trong những nước nông nghiệp nghèo nhất thế giới, nhưng đến nay
đã đạt được nhiều thành tựu vượt bậc, trở thành một trong những nền kinh tế
mạnh của thế giới.
Qua nhiều giai đoạn phát triển, đến thời điểm này, có thể nói Hải quan
Hàn Quốc đã trở thành cơ quan Hải quan hiện đại với 100% hàng hóa được
thực hiện thông quan điện tử. Có được thành tựu như vậy là vì Hàn Quốc đã
thực hiện cơ chế một cửa đem lại hiệu quả cao trong hoạt động hải quan. Hệ
74
thống thông tin của Hải quan được kết nối với nhiều nơi liên quan như cơ
quan giao nhận, vận tải, ngân hàng, cơ quan quản lý Nhà nước để cung cấp
các thông tin cần thiết, phục vụ cho công tác thông quan nhanh, gọn, hiệu quả.
Để thực hiện được điều đó, Hàn Quốc đã làm được những điều sau:
Thứ nhất là thành lập nhóm làm việc đủ năng lực và tâm huyết. Cụ thể
là công việc thông quan được thực hiện bởi một nhóm làm việc của cơ quan
quản lý bao gồm Cục thuế, Kho bạc Nhà nước, Hải quan... do cơ quan Hải
quan làm trưởng nhóm. Cách làm việc này giúp Hàn Quốc thực hiện được cơ
chế một cửa khi chưa có cơ sở pháp lý cụ thể về cơ chế này.
Thứ hai là sự thống nhất trong biểu mẫu, tiêu chí quản lý. Thực tế khi
triển khai mô hình hải quan điện tử ở Hàn Quốc cho thấy, khi cơ quan Hải
quan bắt đầu áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý thì một số cơ quan
quản lý Nhà nước khác còn đang thực hiện nghiệp vụ theo phương pháp thủ
công. Hải quan Hàn Quốc đã phải vận động các cơ quan này tham gia cơ chế
một cửa. Việc thay đổi cơ chế, rà soát, thống nhất các tiêu chí, biểu mẫu theo
chuẩn mực quốc tế là một công việc đòi hỏi tốn nhiều thời gian, công sức.
Tuy nhiên, các cơ quan hữu quan Hàn Quốc đã ưu tiên thực hiện, nhờ đó, việc
áp dụng cơ chế một cửa ở Hàn Quốc đã được triển khai một cách có hiệu quả.
Thứ ba, Hải quan Hàn Quốc đã gây dựng được lòng tin từ phía các
doanh nghiệp bằng cách tích cực triển khai các biện pháp tuyên truyền để
doanh nghiệp hiểu được xu thế tất yếu cũng như lợi ích của mình khi tham gia
Hải quan điện tử.
Thứ tư là sự kết hợp hoạt động của hệ thống thông tin cũ và mới. Hải
quan Hàn Quốc không xây dựng hệ thống thông tin hoàn toàn mới mà thực
hiện cơ chế một cửa dựa trên 75 hệ thống thành phần cũ được phối hợp liên
kết, và đang được thống nhất, tích hợp dần. Các cơ quan quản lý có liên quan
75
khi tham gia cơ chế một cửa cũng chạy song song hai hệ thống trong thời gian
đầu rồi mới dần chuyển sang hệ thống mới.
Thứ năm, là với nguồn lực hạn chế, cần phối hợp các nguồn lực để duy
trì và phát triển hệ thống thông tin. Cụ thể, Hải quan Hàn Quốc đã thuê công
ty Samsung SDS vận hành hệ thống thông tin hải quan với độ bảo mật cao.
Đây thực sự là một kinh nghiệm tốt mà Việt Nam nên học hỏi.
3.2.2 Kinh nghiệm từ mô hình Hải quan điện tử của Nhật Bản
Như chúng ta đã biết, hệ thống làm thủ tục hải quan tự động của Nhật
gồm 2 hệ thống riêng biệt dành cho hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường
biển và đường hàng không là SEA-NACCS và AIR-NACCS. Bởi thế, thủ tục
hải quan điện tử ở Nhật có tính chuyên môn hóa cao, hai hệ thống cùng hoạt
động đồng thời giúp giảm bớt khối lượng công việc so với khi chỉ có một hệ
thống xử lý.
Một điểm mạnh nữa của Nhật Bản khi triển khai thủ tục hải quan điện
tử là Chính phủ Nhật đã tích cực hoàn thiện cơ sở vật chất, đồng thời hàng
năm Hải quan Nhật còn tổ chức các chương trình đào tạo tin học và kỹ thuật
nghiệp vụ trong nước và nước ngoài cho các cán bộ Hải quan. Nhờ vậy, nhân
viên Hải quan Nhật đều thành thạo các nghiệp vụ, thao tác, có thể xử lý kịp
thời khi hệ thống có lỗi.
Cũng như Hàn Quốc, Nhật đã xây dựng hệ thống quản lý rủi ro thống
nhất, dựa trên chuẩn mực quốc tế áp dụng cho tất cả các nghiệp vụ từ phân
loại tờ khai, hàng hóa, đến kiểm tra sau thông quan. Việc xây dựng thống nhất
hệ thống quản lý rủi ro này đã đảm bảo yếu tố tập trung nguồn lực, hạn chế
rủi ro trong quản lý.
Thứ tư, việc thu thuế được thực hiện tự động qua hệ thống đa thanh
khoản. Mọi thanh toán cho thuế hàng hóa và dịch vụ đều được doanh nghiệp
76
nộp cho cơ quan Hải quan thông qua hệ thống này, giúp việc thực hiện nghĩa
vụ thuế quan của doanh nghiệp nhanh chóng và tiện lợi.
Thứ năm, chỉ có một nhà cung cấp dịch vụ VAN duy nhất tập đoàn
NTT data.co.ltd cung cấp hệ thống NACCS góp phần đảm bảo sự nhất quán
cho hệ thống cũng như tính an toàn, bí mật trong thông tin của Hải quan và
doanh nghiệp.
Thứ sáu, nhờ có hành lang pháp lý hoàn thiện với những quy định rõ
ràng, cụ thể về các quy trình thủ tục hải quan điện tử cũng như trách nhiệm
các bên, hướng dẫn khi có tranh chấp... mà việc tiến hành thủ tục hải quan
điện tử ở Nhật đã đạt được nhiều thành công. Đây cũng là điểm Hải quan Việt
Nam cần học hỏi.
3.2.3 Kinh nghiệm từ mô hình Hải quan điện tử của Singapore
Để vận hành thủ tục hải quan điện tử, Singapore đã bắt đầu ứng dụng
công nghệ thông tin từ năm 1980. Trải qua 4 giai đoạn phát triển khác nhau,
Hải quan điện tử Singapore hiện nay đã phát triển hiện đại, gắn liền với Chính
phủ điện tử, trở thành một trong những cơ quan Hải quan tiên tiến nhất trên
thế giới.
Cùng là thành viên của ASEAN, Singapore và Việt Nam đều hướng tới
hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước. Từ mô hình thủ tục hải quan điện tử
của Singapore, Việt Nam cũng rút ra nhiều kinh nghiệm.
Trước hết, cũng như Nhật Bản, việc áp dụng cơ chế một cửa và việc chỉ
sử dụng một cơ quan truyền nhận dữ liệu (VAN) là công ty CrimsonLogic với
hệ thống Tradenet đã góp phần giúp thông quan điện tử ở Singapore được tiến
hành một cách thống nhất và thuận lợi. Về cơ bản, hệ thống thủ tục hải quan
của Singapore là hệ thống tương đối hoàn chỉnh.
77
Bên cạnh đó, hệ thống dữ liệu điện tử hải quan còn thường xuyên cập
nhật, chuẩn hóa các thông tin của các cơ quan chức năng liên quan, hướng
dẫn doanh nghiệp thực hiện việc đăng ký cấp phép nên các thủ tục thường
được triển khai nhanh chóng. Đội ngũ cán bộ của Hải quan Singapore với
trình độ chuyên môn cao và sự nhiệt tình với công việc, đã giúp các doanh
nghiệp yên tâm và tin tưởng vào thủ tục hải quan điện tử ngay từ khi mô hình
mới chỉ ở giai đoạn đầu. Hơn nữa, các trang thiết bị, cơ sở phần cứng cũng
được các cơ quan Ban, Ngành Hải quan chú ý và xây dựng, tạo nền tảng vững
chắc cho việc truyền tải và xử lý thông điệp dữ liệu, rất ít trường hợp hệ thống
mạng bị lỗi. Quá trình triển khai tin học hóa của Singapore cũng như hầu hết
các Chính phủ khác đều thực hiện theo cơ chế thuê ngoài (outsourcing), từ
việc thiết kế, xây dựng hệ thống phần cứng, phần mềm đến việc quản lý và
duy trì hệ thống. Điều này giúp Singapore tận dụng được công nghệ và sự
chuyên môn hóa từ bên ngoài. Tuy nhiên, do bối cảnh triển khai Hải quan
điện tử của Việt Nam và Singapore khác nhau, nên mức độ và hình thức thuê
ngoài đến đâu trong các dịch vụ tài chính công cần được Việt Nam cân nhắc
kỹ.
Về lĩnh vực thuế hải quan, việc thu nộp thuế được thực hiện một cách
tự động qua hệ thống liên ngân hàng Giro. Các cá nhân, tổ chức khai thuê sử
dụng hệ thống Tradenet phải sử dụng một số tài khoản theo số đã đăng ký tại
cơ quan Hải quan cho mục đích thanh toán các khoản thuế. Sau khi gửi tờ
khai và hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế, doanh nghiệp được thông quan nhanh
chóng mà Hải quan vẫn đảm bảo được mục tiêu quản lý của mình.
3.3 Những giải pháp hoàn thiện mô hình hải quan điện tử ở Việt Nam
Trên thế giới hiện nay, đã có rất nhiều quốc gia tiên tiến áp dụng thành
công mô hình thông quan điện tử như Nhật Bản, Pháp, Hàn Quốc, Singapore,
Thái Lan... Với vị trí là một nước theo sau, Việt Nam cần căn cứ vào điều
78
kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nước nhà để học hỏi những kinh
nghiệm từ các quốc gia nói trên. Theo ông Nguyễn Bằng Thắng (Ban Cải
cách hiện đại hóa - Tổng cục Hải quan), hiện ngành Hải quan Việt Nam đang
đặt ra mục tiêu đến năm 2015 sẽ đưa thủ tục hải quan điện tử trở thành một
phương thức phổ biến, góp phần hỗ trợ đắc lực cho hoạt động xuất nhập khẩu
[9]. Trong thời gian qua, việc triển khai mở rộng thủ tục hải quan điện tử theo
mô hình Chi cục Hải quan được thực hiện đồng thời cả hai phương thức
truyền thống và điện tử đã đáp ứng được tình hình thực tiễn và yêu cầu mở
rộng, đảm bảo tính lan tỏa, phù hợp với điều kiện hiện tại và làm tiền đề để
triển khai mô hình thông quan tập trung sau này. Tuy nhiên, do nhiều điều
kiện khách quan và chủ quan mà việc áp dụng mô hình thông quan điện tử ở
nước ta còn vấp phải nhiều khó khăn, vướng mắc. Bởi lẽ đó, trong thời gian
tới, cả các cơ quan quản lý Nhà nước và cả doanh nghiệp cần có cái nhìn
khách quan về Hải quan điện tử để mô hình này sớm thành công ở Việt Nam.
Dưới đây, người viết xin trình bày một số giải pháp để hoàn thiện mô hình hải
quan điện tử ở Việt Nam:
3.3.1 Những giải pháp đối với cơ quan quản lý Nhà nước
3.3.1.1 Cần hoàn thiện hành lang pháp lý
Môi trường pháp lý là một yếu tố quan trọng không thể thiếu, góp phần
định hướng cho cơ quan Hải quan và doanh nghiệp thực hiện đúng và đầy đủ
những quy định của pháp luật theo một cách thống nhất và có trật tự. Hiện
nay, Việt Nam về cơ bản đã có những văn bản pháp lý quy định khá cụ thể và
chi tiết về quy trình thủ tục hải quan điện tử cũng như những vấn đề liên quan.
Tuy nhiên, những văn bản pháp lý này chưa thực sự hoàn thiện, còn nhiều
vướng mắc và lỗ hổng, khiến các doanh nghiệp đau đầu. Do vậy, trong thời
gian tới, Chính phủ nên xây dựng và hoàn thiện nền tảng pháp lý, hỗ trợ cho
việc giao dịch điện tử, thông quan điện tử được tự động hóa theo những chuẩn
79
mực quốc tế. Xét về Luật, Việt Nam có thể tham khảo thêm luật của
Singapore, bao gồm Luật Hải quan, Luật giao dịch điện tử, Luật Sở hữu trí tuệ
sửa đổi, Luật sử dụng máy tính sai mục đích và Luật bằng chứng điện tử, học
hỏi sự thống nhất, hoàn chỉnh, đồng bộ và áp dụng đầy đủ các chuẩn mực của
ASEAN, WTO và WCO của những bộ luật ấy. Cụ thể, Chính phủ Việt Nam
nên tiến hành:
Sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn về quy
trình thủ tục hải quan điện tử, kiểm tra sau thông quan, chữ ký số... một cách
cụ thể hơn, mang tính thực tiễn hơn và phù hợp hơn với tiêu chuẩn quốc tế.
Rà soát, đối chiếu luật nước nhà với những cam kết quốc tế có liên
quan. Điều này yêu cầu phải hệ thống hóa các danh mục, điều ước quốc tế
trong lĩnh vực hải quan, đòi hỏi các cơ quan Ban, Ngành đầu tư nhiều thời
gian và công sức để thống nhất các văn bản pháp luật.
3.3.1.2 Cần hoàn thiện mô hình hải quan điện tử ở mức độ sâu, rộng
Mô hình phát triển Hải quan theo hướng hiện đại hóa cần được xây
dựng dựa trên những định hướng cơ bản: hướng theo mô hình hiện đại của
các nước tiên tiến, có phân chia từng giai đoạn thí điểm mở rộng gắn liền với
hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam, thể hiện sự ưu tiên đối với những doanh
nghiệp tham gia thủ tục hải quan điện tử so với thủ tục hải quan truyền thống.
Hiện nay, thủ tục hải quan điện tử đã được thí điểm cho 9 loại hình xuất nhập
khẩu. Với phạm vi áp dụng rộng như thế, chắc chắn còn nhiều bất cập cần
khắc phục trong quá trình thông quan. Các cơ quan hữu quan cần phải theo
dõi sát sao, và tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp kinh doanh ở 9 loại
hình này .
Thêm vào đó, học hỏi kinh nghiệm của Nhật Bản và Singapore, chúng
ta nên lựa chọn một tổ chức truyền nhận dữ liệu duy nhất có tính chuyên môn
cao, kỹ thuật tiên tiến. Lựa chọn một tổ chức truyền nhận dữ liệu (VAN) như
80
vậy vừa tạo tính chuyên môn hóa cao vừa đảm bảo sự thông suốt cũng như
bảo mật trong quá trình xử lý dữ liệu hải quan. Chính phủ cũng cần quy định
rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của VAN về mặt pháp lý cũng như xây dựng
một lộ trình triển khai phù hợp, phân định rõ trách nhiệm của Hải quan và
VAN trong quy trình thông quan điện tử. Ngoài ra, cũng cần yêu cầu VAN
tiến hành nâng cấp hệ thống đường truyền, cải tiến phần mềm, cung cấp nhiều
chuẩn kết nối để có thể đáp ứng nhu cầu khác nhau cho doanh nghiệp và tránh
tình trạng báo lỗi như hiện nay.
3.3.1.3 Cần xây dựng cơ sở hạ tầng tiên tiến, hiện đại
Một trong những điều kiện tiên quyết để thực hiện thành công thông
quan điện tử ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới là trình độ công nghệ thông
tin và cơ sở hạ tầng hiện đại và tiên tiến. Khác với các quốc gia như Nhật Bản,
Hàn Quốc hay Singapore đã có nền tảng cơ sở hạ tầng vững chắc, Việt Nam
là quốc gia đang phát triển với trình độ công nghệ thông tin còn yếu kém, nên
trước mắt, Việt Nam cần có những biện pháp sau:
Về triển khai dịch vụ chữ ký số:
Hiện nay, chữ ký số ở Việt Nam đã được công nhận giá trị pháp lý. Tuy
nhiên, chúng ta cần đẩy mạnh hơn nữa việc ứng dụng chữ ký số trong quá
trình thông quan, bởi dịch vụ này còn khá mới, nhiều doanh nghiệp chưa quen,
và lo ngại về tính pháp lý cũng như sự an toàn của chữ ký điện tử nên chưa áp
dụng nhiều. Chính phủ cần có những văn bản, tuyên truyền nhằm thúc đẩy
nhanh ứng dụng chữ ký số, vì đó là một mắt xích quan trọng trong quá trình
thông quan điện tử.
Về xây dựng phần cứng:
Để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp tham gia thủ tục hải quan điện tử,
cũng như cho cán bộ Hải quan triển khai được suôn sẻ, lãnh đạo các Cục Hải
81
quan cho rằng: Tổng cục Hải quan sớm bổ sung các thiết bị tin học dự phòng
như: máy chủ, router, switch, máy trạm, hệ thống làm mát cho phòng máy
chủ... đồng thời trang bị các máy chủ có cấu hình mạnh để chuẩn bị cho việc
triển khai thông quan điện tử theo mô hình tập trung dữ liệu tại Cục, đảm bảo
vận hành hệ thống ổn định. Ngoài ra, các cơ quan quản lý Nhà nước cần chú ý
nâng cấp đường truyền mạng, hệ thống an ninh, lắp đặt hệ thống dự phòng khi
đường truyền có sự cố, lắp đặt hệ thống mạng, có kết nối, cài đặt phần mềm
hải quan điện tử tại các cổng cảng nơi có giám sát hải quan để phục vụ công
tác thông quan hàng hóa.
Ngoài ra, các Chi cục Hải quan còn cần được trang bị đầy đủ các thiết
bị, công cụ hỗ trợ nghiệp vụ như máy soi container, cân điện tử, camera quan
sát, hệ thống thu thập và trao đổi thông tin toàn ngành... nhằm giảm thiểu tối
đa những rủi ro trong quá trình thông quan điện tử.
Về đảm bảo an ninh mạng:
Các chương trình phần mềm được sử dụng trên hệ điều hành Windows
cần có các biện pháp an ninh mạng để đảm bảo an toàn dữ liệu, chống lại sự
tấn công của các hacker. Do đó, các cơ quan quản lý Nhà nước cần hoàn thiện
cơ chế vận hành, bảo trì, bảo dưỡng cho toàn bộ hệ thống; nhanh chóng nâng
cấp đường truyền nội mạng từ Chi cục Hải quan điện tử đến các Chi cục Hải
quan cửa khẩu. Ngoài ra, hệ thống quản lý rủi ro cần được hoàn thiện hơn nữa
theo tiêu chuẩn quốc tế; tích hợp các ứng dụng cơ bản phục vụ quy trình thủ
tục tại Chi cục như hệ thống thông tin quản lý tờ khai, quản lý phân luồng
hàng hóa... đảm bảo việc truyền nhận dữ liệu của ngành hoạt động thông suốt
tới các cấp Hải quan với độ an toàn và bảo mật cao.
Về nâng cấp phần mềm và hệ thống xử lý dữ liệu tự động:
Ngành Hải quan, với sự hỗ trợ của Nhà nước, cần sớm tiến hành nâng
cấp, cài đặt các chương trình phần mềm còn bất cập, chưa hoàn thiện của các
82
khâu trong thông quan điện tử. Thay vì xây dựng một Trung tâm xử lý dữ liệu
tập trung tại Tổng cục Hải quan, ngành nên đầu tư nâng cấp xây dựng 2 Trung
tâm xử lý dữ liệu ở miền Bắc, và miền Nam để phân tán rủi ro, và tiến hành
quản lý theo khu vực.
Bên cạnh đó, đối với việc nâng cấp phần mềm thông quan điện tử,
Tổng cục Hải quan nên thông báo cụ thể bằng văn bản để các Cục Hải quan
địa phương nắm bắt kịp thời, triển khai thuận tiện. Hơn nữa, Tổng cục Hải
quan cần chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án hiện đại hóa công nghệ
thông tin, thực hiện kết nối liên thông dữ liệu giữa các chương trình hải quan
điện tử với các chương trình thanh lý hàng sản xuất xuất khẩu, gia công,
KT559, quản lý rủi ro, giữa dữ liệu cũ và mới...
Ngoài ra, Chính phủ cũng cần đặt mục tiêu xây dựng hệ thống công
nghệ thông tin hải quan hiện đại trên nền tảng tập trung hoá xử lý dữ liệu, tích
hợp đầy đủ các chức năng, xử lý hồ sơ hải quan điện tử, manifest điện tử,
thanh toán điện tử, giấy phép điện tử; xây dựng các trung tâm xử lý dữ liệu
cấp vùng đạt mức độ 2+ trở lên, trung tâm xử lý dữ liệu ngành đạt mức độ 3+
trở lên, đảm bảo hệ thống công nghệ thông tin đạt tiêu chuẩn an ninh, an toàn
cao (24/24 và 7/7) và quản lý theo hướng dịch vụ; xây dựng cổng thông tin
điện tử kết nối, trao đổi thông tin với các cơ quan liên quan; thực hiện cơ chế
hải quan một cửa quốc gia và một cửa khu vực ASEAN [46].
Đặc biệt, tại các quốc gia như Nhật Bản, Singapore, việc liên kết thông
tin qua mạng điện tử giữa các cơ quan Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng
trong sự phát triển của Hải quan điện tử. Để giải quyết vấn đề này ở Việt Nam,
chúng ta cần gấp rút nâng cấp viễn thông tối thiểu ở 2 mức vùng và mức liên
ngành theo hệ thống cột sống. Cụ thể là:
83
+ Ở mức vùng:
Ngành Hải quan hiện đang nâng cấp hệ thống viễn thông của một số đơn
vị có lưu lượng hàng hóa lớn có liên quan đến nhiều địa phương khác như ở
thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Vũng Tàu, Đồng
Nai... Hệ thống viễn thông vùng nếu được nâng cấp, sẽ hỗ trợ rất nhiều cho
Hải quan trong các vấn đề liên quan đến nợ thuế, vấn đề về các thông tin vi
phạm, vấn đề đảm bảo thông tin tập trung và liên thông tốt ở cấp vùng; đồng
thời giúp cho các doanh nghiệp và cơ quan Hải quan cập nhật nhanh chóng
các chính sách mới cũng như tình hình biến động xuất nhập khẩu trên thị
trường trong và ngoài nước.
+ Ở mức liên vùng theo hệ thống cột sống:
Điều đáng mừng hiện nay là các cơ quan quản lý Nhà nước đã có sự kết
nối thông tin dữ liệu với nhau, ví dụ như Hải quan, Kho bạc Nhà nước, Chi
cục thuế, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Bộ Kế hoạch và đầu tư và
các Ngân hàng thương mại. Mặt khác, các doanh nghiệp sẽ được kết nối với
cơ quan Hải quan thông qua cột viễn thông liên vùng để tìm hiểu thông tin về
Hải quan điện tử. Tuy nhiên, sự kết nối đó còn đang trong giai đoạn hoàn
thiện, cần sự hỗ trợ hơn nữa của Nhà nước để hệ thống đi vào ổn định, thống
nhất.
3.4.1.4 Cần hoàn thiện kỹ thuật nghiệp vụ hải quan
Yếu tố con người đóng vai trò rất quan trọng trong việc điện tử hóa thủ
tục hải quan, đặc biệt là yếu tố liên quan đến hiểu biết về công nghệ thông tin,
về nghiệp vụ hải quan và trình độ ngoại ngữ. Trước yêu cầu đó, Nhà nước cần
có những chính sách đào tạo nguồn nhân lực thích hợp. Cụ thể là:
Thứ nhất, cần xây dựng đội ngũ chuyên gia được đào tạo chuyên sâu về
lĩnh vực công nghệ thông tin, có hiểu biết về các nghiệp vụ hải quan và quy
84
trình thủ tục hải quan hiện đại. Đội ngũ này sẽ có nhiệm vụ phối hợp với các
đối tác trong và ngoài ngành thiết kế, xây dựng và triển khai các hệ thống ứng
dụng, và sửa chữa kịp thời khi các hệ thống gặp sự cố.
Thứ hai, cần xây dựng đội ngũ chuyên gia được đào tạo chuyên sâu về
nghiệp vụ hải quan hiện đại, có kinh nghiệm quản lý thực tiễn và có hiểu biết
chung về công nghệ thông tin. Nhiệm vụ của đội ngũ này là quản lý và điều
hành một cách thống nhất các thủ tục hải quan theo đúng quy định của pháp
luật.
Để có được đội ngũ chuyên gia như vậy, ngành Hải quan cần chú trọng
công tác tuyển dụng và đào tạo đội ngũ cán bộ. Ví dụ như, cần có những
chính sách hấp dẫn về thu nhập, những đãi ngộ tốt để thu hút nhân tài vào
ngành Hải quan; đồng thời, thường xuyên tổ chức những chương trình tập
huấn, bồi dưỡng đào tạo, nâng cao chất lượng ngoại ngữ, kiến thức nghiệp vụ
của các cán bộ hiện có; giảm thiểu tối đa tình trạng nhũng nhiễu doanh nghiệp
của một số cán bộ Hải quan. Cơ quan Hải quan cần tạo điều kiện thuận lợi
cho quá trình làm việc của cán bộ, làm tốt công tác thưởng phạt, sớm đưa tiêu
chuẩn sử dụng thành thạo công nghệ thông tin là tiêu chuẩn bắt buộc trong
quy định chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức. Ngoài ra, các lớp tập huấn về
công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại, các lớp học chuyên đề về phân
loại, áp mã, áp giá tính thuế, đơn giản hóa thủ tục... cũng cần được tiếp tục và
tổ chức thường xuyên. Cục Hải quan cũng nên tiếp tục kết hợp với các trường
Đại học như Đại học Ngoại thương, Học viện Tài chính... mở thêm các lớp
học ngoại ngữ, lớp kế toán văn bằng hai, vi tính quản trị mạng... nhằm nâng
cao hơn nữa trình độ của cán bộ Hải quan hiện nay.
3.4.1.5 Cần tổ chức tốt công tác tuyên truyền
Không chỉ tổ chức đào tạo các cán bộ trong ngành, ngành Hải quan
cũng cần lưu ý đến việc tổ chức tốt công tác tuyên truyền cho doanh nghiệp,
85
thay đổi nhận thức của doanh nghiệp cho phù hợp với xu thế phát triển của
Hải quan. Có thể nói, những tồn tại hiện nay trong quá trình thông quan điện
tử đã gây ra không ít khó khăn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, khiến
họ có tâm lý e ngại và chưa muốn đăng ký tiến hành thủ tục này. Cái khó nhất
là nhận thức từ đội ngũ cán bộ công chức và cả doanh nghiệp tham gia hoạt
động xuất nhập khẩu. Bởi lẽ, những người làm công tác hải quan và cả phía
doanh nghiệp chưa hình dung đầy đủ hình thức, hoạt động, vận hành... của
Hải quan điện tử như thế nào, thì chưa thể tin tưởng tuyệt đối. Điều này chưa
nói đến tâm lý sợ rủi ro của doanh nghiệp. Vì từ xưa đến nay, giải quyết các
thủ tục xuất nhập khẩu theo phương thức quản lý hải quan truyền thống, tất cả
hồ sơ là giấy tờ, nhìn bằng mắt thường. Ngay cả việc khai báo hải quan từ xa,
các doanh nghiệp cũng phải đến Hải quan để nộp các hồ sơ, chứng từ bằng
giấy. Nhưng khi thực hiện thủ tục hải quan điện tử, tất cả hồ sơ toàn là những
dữ liệu điện tử, nằm hoàn toàn trên mạng... Theo thống kê từ Cục Hải quan
thành phố Hồ Chí Minh, trong 6 tháng đầu năm 2010, có 1111 doanh nghiệp
đăng ký tham gia thủ tục hải quan điện tử, chỉ chiếm tỷ lệ 2,63% số lượng
doanh nghiệp thực hiện thủ tục hải quan trên địa bàn [35].
Ở Việt Nam cũng đã có những doanh nghiệp tiên phong trong lĩnh vực
điện tử hóa thủ tục hải quan, tuy nhiên, đến nay, con số đó vẫn không phải là
nhiều. Công ty TNHH Intel Products Vietnam là doanh nghiệp đầu tiên được
làm thủ tục hải quan điện tử ưu tiên, với các quyền lợi như: thực hiện thủ tục
hải quan điện tử 24 giờ/ngày và 7 ngày/tuần; được khai hải quan đối với hàng
hóa nhập xuất khẩu trên tờ khai rút gọn; được thông qua hệ thống dữ liệu điện
tử hải quan tiếp nhận đăng ký; kiểm tra và chấp nhận ngay trên tờ khai điện tử
đơn giản mà không cần phải ra cảng làm thủ tục trực tiếp...Toàn bộ quy trình
được thực hiện bằng giao thức kết nối AS2, sử dụng chứng thư số và chữ ký
số có tính bảo mật cao [37].
86
Trước tình hình đó, ngành Hải quan cần nỗ lực hơn nữa trong công tác
tuyên truyền pháp luật và tăng cường quan hệ với doanh nghiệp, mở ra những
buổi tọa đàm, hội thảo giữa Hải quan và doanh nghiệp để giải đáp những thắc
mắc, lắng nghe nguyện vọng của doanh nghiệp, qua đó nâng cao sự hiểu biết
và ý thức của doanh nghiệp về thủ tục hải quan điện tử. Thêm vào đó, để tạo
điều kiện cho doanh nghiệp, ngành Hải quan cần phát triển các đại lý làm thủ
tục hải quan điện tử để giúp doanh nghiệp chuyên môn hóa trách nhiệm và
nghĩa vụ của mình đồng thời ban hành các chính sách ưu tiên đối với doanh
nghiệp chấp hành tốt pháp luật khi tham gia thủ tục hải quan điện tử.
3.3.2 Những giải pháp đối với doanh nghiệp
3.3.2.1 Cần chủ động trang bị cơ sở vật chất đầy đủ, hiện đại
Mô hình thủ tục hải quan điện tử ở Việt Nam có thành công được hay
không phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có cả yếu tố chủ quan từ phía
doanh nghiệp. Một khó khăn chung cho các nhà xuất nhập khẩu Việt Nam
hiện nay là cơ sở hạ tầng chưa đủ hiện đại để đáp ứng yêu cầu điện tử hóa thủ
tục hải quan. Bởi thế, các doanh nghiệp cần cố gắng chủ động đầu tư các
trang thiết bị tiên tiến, hiện đại kết nối mạng với cơ quan chức năng như Cục
Hải quan, Kho bạc Nhà nước, Ngân hàng...
Cũng như ngành Hải quan, các doanh nghiệp cần phải có những điều
kiện cần thiết về cơ sở vật chất kỹ thuật để có thể thực hiện được thủ tục hải
quan điện tử như máy tính, đường truyền internet ổn định, tốc độ cao, liên tục
cập nhật phần mềm phục vụ cho việc thực hiện thủ tục hải quan điện tử. Hệ
thống máy tính của các doanh nghiệp cũng cần được trang bị đồng bộ và phải
được kết nối trực tiếp với hệ thống xử lý dữ liệu của cơ quan Hải quan.
Do khâu đầu tiên của quá trình thông quan điện tử là khai báo hải quan
điện tử, nên doanh nghiệp cần phải cài đật những chương trình phần mềm
khai báo điện tử phù hợp với quy trình thông quan điện tử. Chương trình phần
87
mềm này khi được lựa chọn cũng cần phải có hướng dẫn cài đặt và sử dụng,
đảm bảo vận hành chính xác, thông suốt của hệ thống.
Đây được đánh giá là một trong những khó khăn lớn nhất mà các doanh
nghiệp đang gặp phải và cần thời gian cũng như chi phí để cải thiện.
3.3.2.2 Cần nâng cao ý thức và hiểu biết, tinh thần chấp hành pháp luật hải
quan
Bên cạnh việc cải thiện cơ sở hạ tầng, các doanh nghiệp còn cần chú ý
đến nhận thức và sự hiểu biết về Hải quan điện tử.
Trước hết, doanh nghiệp cần đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhân viên có
trình độ tin học và hiểu biết về nghiệp vụ đăng ký thủ tục hải quan, tránh
những sai sót đáng tiếc trong quá trình thông quan; đồng thời chấp hành tốt
pháp luật hải quan để có đủ điều kiện tham gia thủ tục hải quan điện tử.
Thứ hai, các doanh nghiệp cần nhiệt tình tìm hiểu thông tin về Hải quan
điện tử trong và ngoài nước thông qua cơ sở dữ liệu điện tử của Cục Hải quan,
qua báo đài, phát thanh... để có cái nhìn khách quan và tiến bộ nhất về mô
hình mới này.
3.3.2.3 Một số lưu ý đối với doanh nghiệp khi thực hiện thủ tục hải quan
điện tử
Lưu ý 1:
Có nhiều doanh nghiệp sau khi đã gửi tờ khai điện tử cho Hải quan mới
nhận ra thông tin có sự sai lệch, lúc đó, doanh nghiệp rất lúng túng và mất
nhiều thời gian cũng như công sức để chỉnh sửa, làm thủ tục khai báo lại. Bởi
thế, các doanh nghiệp cần nhớ, các dữ liệu điện tử đều mang tính pháp lý
(theo Luật giao dịch điện tử 2005), đó là những dữ liệu chính thức cho Hải
quan làm việc sau này và doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về tính xác thực
88
của nó. Trước khi nhấn nút gửi tờ khai hải quan điện tử, các doanh nghiệp nên
kiểm tra và rà soát các thông tin một lần nữa.
Lưu ý 2:
Các phần mềm phục vụ cho việc khai báo hải quan điện tử tuy đã có
những cải tiến về mặt kỹ thuật nhưng hiện nay vẫn còn tồn tại một số lỗi trong
quá trình sử dụng. Điều các doanh nghiệp cần chú ý là khi bị sự cố máy tính
làm mất dữ liệu khai báo, họ sẽ không thể xin lại các dữ liệu đó từ trung tâm
Hải quan, bởi vì, dữ liệu khi được chuyển đến cơ quan Hải quan sẽ phải qua
một phần mềm chuyển đổi cho tương thích với hệ thống của Hải quan, khi
chuyển lại cho doanh nghiệp, dữ liệu đã chuyển sang định dạng khác nên
không thể sử dụng lại được. Bởi thế, các doanh nghiệp cần lưu ý tự bảo vệ dữ
liệu bằng cách sao lưu dữ liệu an toàn.
89
KẾT LUẬN
Có thể nói, thủ tục hải quan điện tử hiện nay không còn là vấn đề mới
trong khu vực và các quốc gia trên thế giới. Cùng với sự phát triển của khoa
học công nghệ hiện đại, tiên tiến, Hải quan điện tử đã và đang trở thành một
xu thế tất yếu, tạo tiền đề cho sự phát triển của kinh té, văn hóa, xã hội các
quốc gia. Một số nước trên thế giới đã áp dụng thành công và ngày càng triển
khai sâu rộng thủ tục hải quan điện tử của mình, trong đó tiêu biểu là Hàn
Quốc, Nhật Bản, Singapore…
Với mục tiêu đưa ngành Hải quan Việt Nam trở thành cơ quan Hải
quan hiệu quả, minh bạch, hiện đại, chuyên nghiệp trước năm 2020, ngành
Hải quan Việt Nam đang không ngừng nỗ lực tiến hành cải cách, hiện đại hóa
hệ thống thủ tục hải quan trên phạm vi toàn quốc. Nhờ những lợi ích to lớn
mà Hải quan điện tử mang lại, xuất nhập khẩu Việt Nam đang có những bước
tiến đáng kể. Tuy nhiên, quá trình hiện đại hóa này đang trong giai đoạn đầu,
còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc liên quan đến cơ sở hạ tầng, trang thiết bị,
công nghệ thông tin… rất cần hơn nữa sự nỗ lực từ phía Nhà nước, cơ quan
Hải quan cũng như sự phối hợp của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu để hoàn
thiện hơn mô hình này ở Việt Nam. Để phát huy tối đa những hiệu quả mà
Hải quan điện tử mang lại, các doanh nghiệp và các cơ quan quản lý Nhà
nước cần học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia tiên tiến trên thế giới và áp
dụng một cách linh hoạt trong bối cảnh, điều kiện xã hội, kinh tế Việt Nam
hiện tại.
Dựa trên những thực tiễn đã phân tích, khóa luận đã đề xuất 8 giải pháp
thuộc 2 nhóm: 5 giải pháp đối với Chính phủ và 3 giải pháp dành cho doanh
nghiệp. Với sự nỗ lực không ngừng từ phía Chính phủ và các doanh nghiệp,
trong tương lai không xa, không chỉ Hải quan điện tử mà nền kinh tế quốc gia
Việt Nam cũng sẽ đạt được những thành tựu rực rỡ trên trường quốc tế.
90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I - Giáo trình, văn bản luật
1. Bộ Tài chính (22/06/2007), Quyết định số 52/2007/QĐ-BTC về việc ban
hành quy định về thí điểm thủ tục hải quan điện tử
2. Bộ Tài Chính (24/12/2008), Thông tư 128/2008/TT-BTC hướng dẫn thu
và quản lý các khoản thu ngân sách nhà nước qua Kho bạc Nhà nước
3. Bộ Tài chính (25/11/2009), Thông tư số 222/2009/TT-BTC hướng dẫn thí
điểm thủ tục hải quan điện tử
4. Trần Nguyên Chẩn (2002), “Tham gia Công ước HS – bước hội nhập
quan trọng của Việt Nam với thế giới”, Tạp chí kinh tế đối ngoại số 01 tháng
08/2002, NXB trường ĐH Ngoại thương.
5. Công ty TNHH phát triển công nghệ Thái Sơn (12/2009), Tài liệu hướng
dẫn sử dụng phần mềm khai hải quan điện tử ECUS.
6. Đại học Ngoại thương (09/2008), Giáo trình Thương mại điện tử và ứng
dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp
7. Phạm Duy Liên (2004), Một số vấn đề cơ bản về nghiệp vụ Hải quan –
Sách chuyên khảo, NXB Thống kê.
8. Nguyễn Thừa Lộc (2008), Giáo trình Luật Hải quan Việt Nam và quốc tế,
NXB ĐH Kinh tế quốc dân
9. H.P (03/10/2010), “Giải pháp tăng tốc hải quan điện tử”, Tạp chí Bưu điện
Việt Nam tháng 10/2010, NXB Bưu điện.
10. Nguyễn Văn Thoan (2010), Chuyên đề Hải quan điện tử
11. Quốc hội (14/06/2005), Luật Hải quan số 42/2005/QH11
12. Quốc hội (29/11/2005), Luật giao dịch điện tử số 51/2005/QH11
13. Quốc hội, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 45/2005/QH11 ngày
14/06/2005
91
14. Quốc hội, Luật thuế giá trị gia tăng số 13/2008/QH12 ngày 03/06/2008
15. Quốc hội, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt số 27/2008/QH12 ngày 14/11/2008
16. Quốc hội, Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006
17. Thủ tướng Chính phủ (23/02/2007), Nghị định 27/2007/NĐ-CP về giao
dịch điện tử trong hoạt động tài chính
18. Thủ tướng Chính phủ (12/08/2009), Quyết định số 103/2009/QĐ-TTg về
sửa đổi bổ sung một số điều Quyết định 149/2005/QĐ-TTg
19. Thủ tướng Chính phủ (20/06/2005), Quyết định số 149/2005/QĐ-TTg về
việc thực hiện thí điểm thủ tục hải quan điện tử.
20. Thủ tướng Chính phủ (25/3/2011), Quyết định số 448/QĐ-TTg về việc phê
duyệt Chiến lược phát triển Hải quan đến năm 2020.
21. Tổ chức Hải quan Thế giới, Công ước Kyoto 1973.
22. Tổ chức Hải quan Thế giới, Công ước Kyoto sửa đổi 1999 (Nghị định thư
sửa đổi Công ước quốc tế về đơn giản hóa và hài hòa thủ tục hải quan).
23. Tổng cục Hải quan (30/01/2011), Công văn 547/TCHQ–CCHĐH về việc
thủ tục hải quan điện tử đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu đăng ký tờ
khai hải quan một lần.
24. Tổng cục Hải quan, Báo cáo tổng kết thực hiện thí điểm thủ tục hải quan
điện tử năm 2006, 2007, 2008, 2009, 2010
25. Tổng cục Hải quan, Phụ lục số liệu kết quả thực hiện thủ tục hải quan giai
đoạn 2001-2009
II - Các tài liệu tiếng Anh
26. Dr. Chong Yoke Sin (Chief Operating Officer, NCS Pte Ltd, 18 March
2005), Single Window Development and Implementation - Experience of
Singapore, truy cập ngày 08/04/2011
27. Hội nghị cấp cao APEC 2009 (06-08/04/2009), Introduction of Japanese
Single Window, truy cập ngày 20/04/2011
<
WKSP4/09_sccp_swwg_wksp4_008.pdf>
92
28. NACCS, Overview of NACCS, Inc. (09/09/2010), trang 3, truy cập ngày
08/04/2011
<
Window.pdf>
29. K Sathasivam, Regional Manager (15 July 2009), The Single Electronic
Window –Singapore’s TradeNet –Scope of Services And Pricing Model, truy
cập ngày 07/04/2011
<
Development/SW-TradeNet.pdf>
30. Tổng cục Hải quan Hàn Quốc (2011), E-customs, trang 41, truy cập ngày
14/04/2011
31. Tổng cục Hải quan Malaysia (2009), Import and export, truy cập ngày
27/03/2011
<
export>
III - Các bài viết trên website:
32. Bộ Tài chính Việt Nam (22/06/2010),, Hội thảo triển lãm thường niên
“Ứng dụng Công nghệ thông tin trong lĩnh vực tài chính - Vietnam ICT in
Finance 2010” (ICTF’10), truy cập ngày 25/03/2011
<
page_url=http%3A%2F%2Fwww.mof.gov.vn%2Fportal%2Fpage%2Fportal%2Fm
of_vn%2F1539781&p_itemid=14264810&p_siteid=33&p_persid=2177082&p_lan
guage=vi>
33. Công ty TNHH dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán AASC
(24/09/2010), Chữ ký số: Điều kiện cần để cải cách thuế, hải quan, truy cập
ngày 17/04/2011
93
34. Cục Hải quan Hà Nội (04/01/2011), Sau 1 năm triển khai thủ tục Hải
quan điện tử tại Cục Hải quan TP Hà Nội: Kết quả khả quan, truy cập ngày
14/03/2011
35. P. Diễm (23/09/2010), Phát triển tài chính điện tử đến năm 2015, truy cập
ngày 20/04/2011
36. Nguyễn Bá Định – Chi Cục Hải quan cảng Sài gòn KV1 (26/07/2010),
Mục tiêu mở rộng thủ tục Hải quan điện tử đến năm 2011 của TCHQ, sự thử
thách lớn cho CBCC Cục Hải quan thành Phố Hồ Chí Minh (Phần 1), truy
cập ngày 10/04/2011
<
utuchaiquan/chitiet/-
/ext/articleview/article/115063/14?_EXT_ARTICLEVIEW_version=1.0&_EXT_A
RTICLEVIEW_redirect=%2Fweb%2Fhaiquan%2Fsearch%3Fp_p_id%3DEXT_C
USTOM_JOURNAL_SEARCH%26p_p_lifecycle%3D0%26p_p_state%3Dmaximi
zed%26p_p_mode%3Dview%26p_p_col_count%3D2%26_EXT_CUSTOM_JOUR
NAL_SEARCH_struts_action%3D%252Fext%252Fcustom_journal_search%252Fs
earch>
37. Kim Hoa, Tạp chí Tài chính điện tử số 89 ngày 15/11/2010, Nhận diện
“khó khăn” trong triển khai hải quan điện tử, truy cập ngày 17/03/2011
<
quan-dien-tu/20111/105719.dfis>
38. Minh Khánh (18/11/2010), Lần đầu khai trương thủ tục hải quan điện tử
ưu tiên, truy cập ngày 12/04/2011
<
tien/21305>
39. Phương Lê (17/09/2010), Cục Hải quan Hải Phòng: thêm 1 Chi cục triển
khai hải quan điện tử, truy cập ngày 14/03/2011
<
-6620-4748-aee7-07b0233fdae6&ID=17879>
94
40. Phương Liên (Tổng cục Hải quan, 25/02/2009) Giới thiệu về Công ước
Kyoto sửa đổi – Hướng phát triển của Công ước và tác động của Công ước
đối với Việt Nam, truy cập ngày 13/03/2011
<
c903807cc7ea&ID=209>
41. Văn Lượng (14/01/2011), Kênh thông tin đối ngoại của Phòng thương
mại và Công nghiệp Việt Nam, Cục Hải quan Đồng Nai đẩy mạnh ứng dụng
CNTT trong cải cách thủ tục hành chính, truy cập ngày 14/03/2011
42. Hải Nam (04/03/2011), Triển khai sâu rộng hải quan điện tử phục vụ xuất
nhập khẩu, truy cập ngày 14/03/2011
<
tu-phuc-vu-xuat-nhap-khau.htm>
43. Diệu Quang (16/03/2011), Thương mại hàng hóa toàn cầu tăng 17%
trong năm 2010, truy cập ngày 16/03/2011.
<
egory=Tin%20n%E1%BB%95i%20b%E1%BA%ADt>
44. Tư Sương (09/11/2010), Hải quan điện tử: Doanh nghiệp chưa mặn mà,
truy cập ngày 17/03/2011
<
ma.htm>
45. V.Thái (13/01/2011), Năm 2011, Hải quan TP. HCM triển khai hải quan
điện tử tại 100% chi cục, truy cập ngày 14/03/2011
<
hai-quan-dien-tu-tai-100-chi-cuc/20111/105269.dfis>
46. Nguyễn Bằng Thắng (18/10/2010), Hải quan điện tử - vai trò quan trọng
trong bối cảnh hội nhập nền kinh tế thế giới, truy cập ngày 10/04/2011
95
47. Đức Thành (30/03/2011), Chiến lược phát triển Hải quan đến năm 2020,
truy cập ngày 10/04/2011
48. Nguyễn Văn Thoan (2007), Chuyên đề Ứng dụng thương mại điện tử
trong kinh doanh quốc tế, truy cập ngày 20/03/2011
49. An Thông (27/01/2011), Tổng cục hải quan, Mở rộng thủ tục hải quan
điện tử một năm nhìn lại, truy cập ngày 13/03/2011
50. Tổng cục Hải quan Việt Nam, Hợp tác quốc tế, truy cập ngày 13/03/2011
51. Tổng cục Hải quan (18/03/2011), Số liệu thống kê Hải quan Việt Nam
2011, truy cập ngày 19/04/2011
<
ory=Th%E1%BB%91ng%20k%C3%AA%20H%E1%BA%A3i%20quan>
52. Tổng cục thống kê, Số liệu thống kê kinh tế - xã hội năm 2008, truy cập
ngày 18/03/2011
53. Tổng cục thống kê, Số liệu thống kê năm 2009, truy cập ngày 18/03/2011
54. Tổng cục thống kê, Số liệu thống kê kinh tế - xã hội năm 2010, truy cập
ngày 18/03/2011
96
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Đăng ký tham gia thủ tục hải quan điện tử .................................. 35
Phụ lục 2: Công nhận tham gia thủ tục hải quan điện tử .............................. 35
Phụ lục 3: Tờ khai hải quan điện tử xuất khẩu ............................................. 36
Phụ lục 4: Tờ khai hải quan điện tử nhập khẩu ............................................ 36
Phụ lục 5: Phiếu kiểm tra thực tế hàng hóa .................................................. 36
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ban_chinh_thuc_0176.pdf