Đề tài Thực trạng và những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với các lâm trường quốc doanh trong giai đoạn đến 2010

Lời nói đầu Lâm trường quốc doanh là tổ chức kinh tế có vị trí quan trọng nhất trong hệ thống tổ chức sản xuất của ngành lâm nghiệp, được giao quản lý và sử dụng đại bộ phận tài nguyên rừng tự nhiên hiện còn của nước ta. Lâm trường quốc doanh đã từng giữ vai trò chủ lực trong việc thực hiện nhiệm vụ của ngành lâm nghiệp: khai thác, cung ứng lâm sản đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế quốc dân, trồng rừng mới, bảo vệ rừng và góp phần phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn, miền núi, vùng dân tộc. Trong những năm qua thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước, Lâm trường quốc doanh đã có những chuyển biến quan trọng cả về tổ chức và cơ chế quản lý nhằm góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển nghề rừng bền vững. Tuy nhiên với đặc thù của loại hình doanh nghiệp lâm nghiệp, hoạt động sản xuất kinh doanh liên quan chặt chẽ đến tư liệu sản xuất là rừng và đất rừng, bảo vệ và phát triển môi trường sinh thái, giữ vững an ninh quốc phòng và phát triển kinh tế xã hội nông thôn miền núi. Việc đổi mới tổ chức và quản lý Lâm trường quốc doanh vừa qua vẫn còn nhiều vấn đề chưa rõ dẫn đến tình trạng khó khăn trong hoạt động và phát triển của nhiều lâm trường, hiệu quả khai thác toàn diện tiềm năng tài nguyên rừng và đất lâm nghiệp còn thấp , đời sống của người lao động đang gặp nhiều khó khăn. Lâm trường chưa làm tốt vai trò nòng cốt trong quản sản xuất, trung tâm dịch vụ khoa học kỹ thuật trên địa bàn. Tiếp tục thực hiện các nghiên cứu về đổi mới tổ chức, cơ chế quản lý, chính sách đối với Lâm trường quốc doanh nhằm phát hiện những vấn đề vướng mắc và đề xuất những giải pháp, chính sách nhằm hoàn thiện đổi mới hệ thống Lâm trường quốc doanh là vấn đề cần thiết góp phần thúc đẩy quá trình thực hiện công cuộc cải cách doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực lâm nghiệp. Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài: “Thực trạng và những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với các Lâm trường quốc doanh trong giai đoạn đến 2010” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình. Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, kết cấu luận văn bao gồm: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về đổi mới Lâm trường quốc doanh trong nền kinh tế nhiều thành phần. Chương 2: Thực trạng các Lâm trường quốc doanh trong thời gian qua. Chương 3: Những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với các Lâm trường quốc doanh trong giai đoạn đến 2010. Mục đích nghiên cứu luận văn: Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về đổi mới Lâm trường quốc doanh trong nền kinh tế nhiều thành phần, nêu rõ vị trí, vai trò tầm quan trọng của Lâm trường quốc doanh trong hệ thống lâm nghiệp; Nêu rõ thực trạng của Lâm trường quốc doanh trong giai đoạn đầu thực hiện đổi mới từ đó thấy được sự cần thiết phải thực hiện đổi mới và đề xuất một số giải pháp chủ yếu để hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với các lâm trường quốc doanh trong giai đoạn đến 2010. Trong thời gian qua, em đã cố gắng vận dụng những kiến thức của mình để đi sâu nghiên cứu vào việc hoàn thiện về cơ chế chính sách đối với các Lâm trường quốc doanh. Vì thời gian nghiên cứu và tài liệu tham khảo có hạn, bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong được sự thông cảm và chỉ bảo tận tình các thầy, cô và các cán bộ trong Vụ Kinh tế Nông nghiệp để em có thể khắc phục những thiếu sót của mình. Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của thầy- TS. Nguyễn Thanh Hà và chuyên viên Đinh Ngọc Minh- người đã hướng dẫn em trong quá trình thực tập cùng các cán bộ trong Vụ Kinh tế Nông nghiệp thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã giúp đỡ em hoàn thành bản luận văn này. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo và bạn đọc để bài viết được hoàn thiện hơn.

doc100 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2985 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với các lâm trường quốc doanh trong giai đoạn đến 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m, phương hướng sắp xếp đổi mới và phát triển các Lâm trường quốc doanh 3.1.1 Quan điểm đổi mới. 3.1.1.1 Đổi mới Lâm trường quốc doanh phải đặt trong bối cảnh cải cách doanh nghiệp Nhà nước hiện nay. Đổi mới doanh nghiệp Nhà nước là một chủ trương lớn và nhất quán của Nhà nước. Thực chất của quá trình đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước là đa dạng hoá sở hữu, là quá trình chuyển dịch quyền sở hữu từ phía Nhà nước sang các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân. Mục đích của đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước: Lee Kang Woo, Quá trình đổi mới Doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 1986-2000, 2001. s Góp phần nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp; tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước và của doanh nghiệp. s Huy động vốn của toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp. s Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của các cổ đông, tăng cường sự giám sát của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp; đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động. Theo Nghị quyết 05-NQ- TW, Kỳ họp thứ 3 Đại hội Đảng XI, 24/9/2001 đều nhất trí quan điểm cho rằng: Xu thế hiện nay trong đổi mới doanh nghiệp Nhà nước là thực hiện kế hoạch 5 năm sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước với mục tiêu cổ phần hoá 1/3 tổng số các doanh nghiệp Nhà nước trên toàn quốc, sát nhập hoặc giải thể các doanh nghiệp nhỏ; cấm thành lập các doanh nghiệp mới, trừ các ngành công nghiệp Nhà nước cần giữ độc quyền hay các doanh nghiệp có ý nghĩa lớn về nhiều mặt về xã hội Quản lý đầu nguồn và các khu rừng phòng hộ xung yếu khác thuộc loại này. mà các thành phần kinh tế khác không muốn điều hành quản lý; củng cố tăng cường các ngành công nghiệp chủ lực của Nhà nước “để đảm bảo phát triển cân đối, đảm bảo cung cấp các sản phẩm thiết yếu cho nền kinh tế đất nước và phục vụ xuất khẩu, nâng cao hiệu quả sản xuất và khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế” Nghị quyết 05- TW, Kỳ họp thứ 3 Đại hội Đảng IX, 24/9/2001. . Vì vậy, khi tiến hành sắp xếp và đổi mới Lâm trường quốc doanh không thể áp dụng máy móc dập khuôn những hướng dẫn chung về sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp Nhà nước mà phải xuất phát từ đặc điểm vốn có của Lâm trường quốc doanh, cơ chế tổ chức và quản lý, điều kiện cụ thể của lâm trường hiện tại mà vận dụng những nguyên tắc, quy định chung cho phù hợp. 3.1.1.2 Đổi mới Lâm trường quốc doanh phải gắn liền với đặc thù sản xuất nông, lâm nghiệp. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Dự thảo Nghị định của Chính phủ về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển Lâm trường quốc doanh, 2004. - Bảo đảm cho Lâm trường quốc doanh nâng cao hiệu quả sử dụng bền vững tài nguyên đất đai, tài nguyên rừng, vườn cây lâu năm và cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện có; hình thành các vùng sản xuất nông sản, lâm sản hàng hoá tập trung, thâm canh qui mô lớn gắn liền với chế biến và thị trường tiêu thụ; nâng cao hiệu quả sản xuất và sức cạnh tranh; tăng thu nhập cho người lao động, bảo vệ môi trường sinh thái xoá đói và xoá đói giảm nghèo. - Lâm trường quốc doanh phải chuyển hẳn sang sản xuất và hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự hỗ trợ cần thiết và có điều kiện của Nhà nước. Những Lâm trường quốc doanh phải đảm nhận một phần chức năng xã hội và an ninh, quốc phòng thì Nhà nước có chính sách hỗ trợ thích hợp. - Lâm trường quốc doanh phải có được cơ chế quản lý mới và hình thức tổ chức phù hợp để thúc đẩy ứng dụng nhanh và có hiệu quả các tiến bộ khoa học, công nghệ vào sản xuất lâm nghiệp; tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân bổ lại lực lượng lao động và dân cư; góp phần phát triển kinh tế- văn hoá- xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng ở những vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. - Đổi mới Lâm trường quốc doanh phải gắn với đổi mới về cơ chế quản lý theo hướng phân biệt rõ nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh và nhiệm vụ công ích. 3.1.2 Nguyên tắc sắp xếp, đổi mới Lâm trường quốc doanh. Việc sắp xếp lại các Lâm trường quốc doanh hiện có phải gắn với việc rà soát lại diện tích đất và các loại rừng lâm trường đang quản lý, sử dụng; phân biệt rõ nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh và nhiệm vụ công ích; Kết hợp lợi ích của người dân- lâm trường- xã hội, xã hội hoá việc trồng rừng, giao đất cho dân. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Dự thảo Nghị định của Chính phủ về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển Lâm trường quốc doanh, 2004. - Tiếp tục duy trì, củng cố và phát triển các Lâm trường quốc doanh ở những vùng đất quy hoạch trồng rừng nguyên liệu tập trung quy mô lớn hoặc gắn với các cơ sở chế biến, có tác dụng là hạt nhân phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh trên địa bàn. - Xoá bỏ bao cấp trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của lâm trường, bảo đảm cho lâm trường tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hợp tác và cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo pháp luật. Giải quyết hài hoà mối quan hệ lợi ích giữa người lao động với Nhà nước và lâm trường, giữa lâm trường với địa phương. - Những lâm trường quốc doanh quản lý chủ yếu là rừng tự nhiên và rừng trồng, đất trồng quy hoạch là rừng phòng hộ, rừng đặc dụng thì chuyển thành đơn vị sự nghiệp có thu (Ban quản lý rừng). - Những lâm trường sản xuất, kinh doanh thua lỗ kéo dài, quản lý yếu kém, không có khả năng đổi mới; những lâm trường không có nhu cầu giữ lại thì kiên quyết chuyển đổi sang các loại hình sở hữu khác hoặc giải thể theo quy định chung của Nhà nước. - Chỉ thành lập mới lâm trường quốc doanh ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo để làm nhiệm vụ bức thiết về phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, nơi đó các thành phần khác khó có khả năng thực hiện và cần được Nhà nước quản lý đầu tư. 3.1.3 Phương hướng sắp xếp và đổi mới Lâm trường quốc doanh Căn cứ vào hiệu quả sản xuất, kinh doanh; mục đích sử dụng của từng loại rừng, vai trò của Lâm trường quốc doanh trên điạ bàn để sắp xếp, phát triển theo hướng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Dự thảo Nghị định về tiếp tục sắp sếp, đổi mới và phát triển các Lâm trường quốc doanh, 4-2004. : - Những đơn vị đang quản lý chủ yếu là rừng trồng và đất trồng rừng kinh tế, gắn với chế biến gỗ và lâm sản; sản xuất, kinh doanh có lãi được duy trì, củng cố và phát triển để hoạt động theo cơ chế kinh doanh. - Những đơn vị đang quản lý chủ yếu là đất rừng tự nhiên và đất trống quy hoạch trồng rừng phòng hộ sẽ chuyển thành đơn vị sự nghiệp có thu. - Những đơn vị quản lý diện tích đất lâm nghiệp ít, phân bố xen kẽ với đất nông nghiệp và gần khu dân cư, đang gặp khó khăn trong sản xuất, không gắn với chế biến thì chuyển sang làm dịch vụ cho sản xuất nông, lâm nghiệp, sản xuất cây giống, xây dựng mô hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật. - Những đơn vị nhiều năm sản xuất, kinh doanh không có hiệu quả, không có yêu cầu làm dịch vụ kỹ thuật, nông nghiệp thì giải thể hoặc chuyển đổi sang hình thức sở hữu khác. Theo phương hướng trên dự kiến sắp xếp các lâm trường như sau: Bảng 9: Phương hướng sắp xếp lại các lâm trường quốc doanh. Loại hình sắp xếp Của địa phương Của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Số lượng % Số lượng % Tổng số 368 100 368 100 Duy trì 283 76,9 113 30,7 Loại hình khác 0 0,0 18 4,9 Ban quản lý rừng 68 18,5 214 58,2 Sáp nhập 6 1,6 12 3,2 Giải thể 11 3,0 11 3,0 Nguồn: Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Việc sắp xếp các Lâm trường quốc doanh sang các loại hình khác có sự khác nhau giữa các tỉnh và Trung ương (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn) là do có hai quan điểm: Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn và Ngân hàng thế giới (WB),Hội nghị về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển Lâm trường quốc doanh, 4-2004. s Việc hạn chế về vốn để thực hiện chức năng công ích (bảo vệ rừng) dẫn tới việc lựa chọn phương án Lâm trường quốc doanh theo hướng kinh doanh, dẫn đến bao cấp chéo trong kinh doanh và trồng rừng. Trong khi đó ít tỉnh thấy được cần thiết phải tách biệt chức năng kinh doanh và công ích. Hơn nữa việc Nhà nước nhận thấy việc cần và áp dụng chỉ tiêu khai thác gỗ từ đó làm mất nguồn thu của nhiều Lâm trường quốc doanh (đóng cửa rừng). s Trên tầm vĩ mô, Nhà nước nhận thức rằng chỉ những Lâm trường quốc doanh hoạt động hiệu quả mới đủ tiêu chuẩn chuyển thành Lâm trường quốc doanh kinh doanh và việc tách biệt chức năng công ích (Bảo vệ rừng) khỏi chức năng kinh doanh là cần thiết. Đồng thời, cấp ngân sách thích đáng cho hoạt động của Ban quản lý bảo vệ rừng. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là liệu ngân sách Trung ương có đủ khả năng cấp cho không khi mà “cái bánh” ngân sách Trung ương đã quá nhỏ bé. Thực hiện đổi mới các Lâm trường quốc doanh thì nhiệm vụ chính của lâm trường được xác định như sau: Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Báo cáo tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển các Nông, Lâm trường quốc doanh, 2004. s Gây rừng, bảo vệ môi trường rừng. s Khai thác, chế biến gỗ và lâm sản; cung ứng nguyên liệu cho các cơ sở chế biến công nghiệp và nhu cầu tiêu dùng của nền kinh tế quốc dân. s Dịch vụ vật tư, kỹ thuật, tiêu thụ sản phẩm nông, lâm nghiệp cho các hộ dân trên địa bàn. Ngoài các nhiệm vụ chính, các lâm trường được kinh doanh tổng hợp nông, lâm, ngư, công nghiêp và dịch vụ để sử dụng có hiệu quả lao động, đất đai và vốn rừng được giao. Các lâm trường phải làm nòng cốt trong việc thực hiện ký kết hợp đồng sản xuất, tiêu thụ lâm sản theo Quyết định số 80/ QĐ- TTg ngày 24 tháng 6 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ. 3.2 Những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện cơ chế, chính đối với Lâm trường quốc doanh trong giai đoạn đến năm 2010. Từ những thực trạng của Lâm trường quốc doanh trong quá trình đổi mới đã xuất hiện các vướng mắc cần phải giải quyết cùng với những mục tiêu đặt ra đối với phát triển lâm nghiệp như tỷ lệ đóng góp vào GDP, xoá đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường,… tuy đã có một số văn bản pháp luật ban hành như: Quyết định 187/TTg ngày 16/9/ 1999 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý Lâm trường quốc doanh; Quyết định 178/2001/ QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ về quyền lợi và nghĩa vụ của hộ gia đình và cá nhân được giao, cho thuê và nhận khoán bảo vệ rừng và đất lâm nghiệp; Nghị định số 163/1999/NĐ-CP về việc giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng lâu dài vào mục đích lâm nghiệp; và mới đây là Nghị quyết số 28 NQ- TW ngày 16/6/ 2003 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển Nông, Lâm trường quốc doanh”,…Tuy nhiên vẫn chưa giải quyết thoả đáng các vấn đề đặt ra cho Lâm trường quốc doanh trong thời gian tới. Việc hoàn thiện cơ chế chính sách đối với các Lâm trường quốc doanh cần tập trung vào các vấn đề : s Hoàn thiện về tổ chức và cơ chế quản lý trong lâm trường: Hoàn thiện về tổ chức quản lý Lâm trường quốc doanh; Hoàn thiện cơ chế quản lý. s Hoàn thiện các chính sách trong lâm trường quốc doanh: Chính sách đất đai; chính sách tài chính, tín dụng; chính sách đầu tư; chính sách lao động; chính sách khoa học và công nghệ. Những vấn đề cần giải quyết trong thời gian tới: s Đổi mới Lâm trường quốc doanh phải có lợi cho dân, tách bạch rõ ràng chức năng công ích và chức năng kinh doanh, rừng sản xuất- rừng phòng hộ. s Có tiêu chí cơ cấu lại Lâm trường quốc doanh thật rõ ràng, cụ thể: Đất rừng và rừng tự nhiên, luôn đặt câu hỏi quản lý đất và rừng tự nhiên ai làm tốt hơn: cộng đồng dân cư, lâm trường hay Ban quản lý; Yêu cầu về đất của nhân dân địa phương; Năng lực sản xuất kinh doanh và hiệu quả sản xuất kinh doanh dựa trên kế hoạch sản xuất kinh doanh hợp lý và có tính đến nhu cầu và khả năng thị trường. s Tách dịch vụ công và quản lý rừng tự nhiên khỏi sản xuất kinh doanh và hạn chế tối đa bao cấp chéo. Đồng thời, giải quyết thích đáng các chế độ cho Ban quản lý rừng phòng hộ và rừng đặc dụng (Chỉ thành lập mới Lâm trường quốc doanh ở những nơi thật sự cần thiết). s Rà soát tình hình sử dụng đất và giao đất sử dụng kém hiệu quả cho dân phải là phần chính trong đổi mới Lâm trường quốc doanh- Kế hoạch là năm 2005 hoàn thành. s Phân loại rừng và lập kế hoạch sử dụng đất đai dài hạn (như Quyết định 187 đã thực hiện). s Thí điểm các mô hình đổi mới (Cổ phần hoá, công ty 1 thành viên). s Có kế hoạch hành động với mục tiêu và cơ chế theo dõi, đánh giá cụ thể. 3.2.1 Giải pháp về hoàn thiện tổ chức và cơ chế quản lý trong lâm trường. 3.2.1.1 Giải pháp về hoàn thiện tổ chức. a/ Phân định rõ cấp quản lý và trách nhiệm của các Lâm trường quốc doanh. Các lâm trường đã hình thành vùng tập trung chuyên canh, sản xuất nông sản hàng hoá xuất khẩu hoặc vùng nguyên liệu gắn với công nghiệp chế biến thì tổ chức Tổng công ty Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, nhưng phải gắn với quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội của địa phương. Lâm trường còn lại giao cho cấp tỉnh quản lý. - Đối với các Lâm trường quốc doanh Trung ương do Tổng công ty quản lý, công ty trực thuộc các Bộ, ngành trực tiếp quản lý. - Đối với các Lâm trường quốc doanh địa phương do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trực tiếp quản lý hoặc giao cho các công ty thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quản lý. Việc phân định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền hạn của lâm trường là rất cần thiết, tránh chồng chéo và xác định quyền đích thực của lâm trường. b/ Sắp xếp lại hệ thống Lâm trường quốc doanh hướng đi vào sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường và hoạt động sản xuất kinh doanh phải có lãi. Những lâm trường làm ăn thua lỗ liên tục có thể giải thể giao lại đất cho địa phương, liên kết liên doanh, cổ phần hoá toàn bộ hay từng phần. Các lâm trường (trừ các doanh nghiệp công ích) cũng phải đi vào hoạt động kinh tế, địa giới quản lý rừng, bảo vệ rừng nên gọn trong 1 huyện hoặc 1 xã. Trên cơ sở đánh giá lại tình hình hoạt động, vai trò và hiệu qủa của các Lâm trường quốc doanh đang bố trí ở các khu nguyên liệu công nghiệp để xây dựng các lâm trường trở thành những Lâm trường quốc doanh theo hướng kinh doanh. Đối với những Lâm trường quốc doanh ở những khu vực đã được quy định xây dựng rừng đặc dụng, rừng phòng hộ rất xung yếu và xung yếu, có tầm quan trọng lớn thì chuyển thành các ban quản lý rừng phòng hộ hoặc đặc dụng và hoạt động như một đơn vị sự nghiệp có thu. Cần tách riêng hoạt động sự nghiệp và hoạt động kinh doanh của Lâm trường quốc doanh, tránh tình trạng chồng chéo giữa hai chức năng kinh doanh và chức năng công ích. Thực tế cho thấy nếu hai chức năng này không rõ ràng thì lâm trường sẽ hoạt động không hiệu quả. Hệ thống tiêu chí phân loại Lâm trường quốc doanh cũng cần phải xem xét lại, ngoài diện tích rừng sản xuất và rừng phòng hộ, những tiêu chí xác định năng lực kinh tế và khả năng sinh lời của Lâm trường quốc doanh cần được bổ sung thêm. Đối với hoạt động sự nghiệp hình thành các công ty công ích và Ban quản lý rừng do Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn hoặc Uỷ ban nhân dân các tỉnh quản lý, đối với sản xuất kinh doanh thì hoạt động theo các hình thức công ty theo luật doanh nghiệp Nhà nước. Tiếp tục đổi mới phương hướng kinh doanh của các Lâm trường quốc doanh, chuyển hướng kinh doanh của các lâm trường từ chỗ lấy khai thác tài nguyên rừng làm chính sang tăng cường quản lý, bảo vệ, xây dựng và phát triển vốn rừng làm trọng tâm, chuyển từ sản xuất kinh doanh lâm nghiệp theo kế hoạch Nhà nước giao sang hướng phải có tầm nhìn, chiến lược lâu dài, kinh doanh toàn diện, tổng hợp từ khâu tạo rừng đến khai thác, chế biến lâm sản, nông- lâm kết hợp,… để khai thác hợp lý các nguồn lực lao động, vốn, tài nguyên rừng, đất rừng. Đối với lâm trường có nhiệm vụ sản xuất kinh doanh thì đất đai lâm trường đang quản lý phải chuyển sang thuê đất và được hưởng chính sách quy định tại Nghị định số 51/1999/NĐ- CP, ngày 8/7/1999 của Chính phủ; tổ chức khoán rừng và đất đai cho cán bộ, công nhân viên lâm trường và hộ nông dân trên địa bàn; thực hiện việc tiêu thụ lâm sản thông qua hợp đồng với người nhận khoán và nhân dân trong, ngoài vùng của lâm trường. Đối với lâm trường chuyển sang đơn vị sự nghiệp có thu thì được Nhà nước giao đất để quản lý và tổ chức sản xuất theo quy hoạch. Nhà nước giao biên chế bộ máy quản lý phù hợp với nhiệm vụ và có chính sách đầu tư cho lâm trường, phần thu trong các hoạt động được để lại cho đơn vị. Trong trường hợp Lâm trường quốc doanh làm ăn thua lỗ liên tục từ 3 năm trở lên, quản lý yếu kém; lâm trường không đủ năng lực quản lý, vốn, lao động để sản xuất, kinh doanh có diện tích dưới 1.000 ha và không có nhu cầu chuyển sang các đơn vị hành chính sự nghiệp như: Trạm, trại, trung tâm,… và các đơn vị dịch vụ thì giải thể, tài sản của lâm trường có thể giao lại cho Lâm trường quốc doanh khác và lâm trường này có thể tiếp tục được sát nhập, hay một doanh nghiệp mới có thể tham gia thị trường sau khi lâm trường bị giải thể. Các lâm trường đã hình thành vùng tập trung chuyên canh, sản xuất nông sản hàng hoá xuất khẩu hoặc vùng nguyên liệu gắn với công nghiệp chế biến thì tổ chức Tổng công ty Nhà nước để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, nhưng phải gắn với quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội của địa phương. Lâm trường còn lại giao cho cấp tỉnh quản lý. Việc giải thể các lâm trường làm ăn không có lãi cũng cần được khuyến khích bằng cách đưa ra một quy trình giải thể thật rõ ràng minh bạch. Tài sản quý nhất của Lâm trường quốc doanh là đất đai, cần phải được định giá thoả đáng và phân bổ lại để sử dụng một cách công khai và công bằng. c/ Thực hiện thí điểm cổ phần hoá vườn cây, rừng trồng và các hoạt động chế biến lâm sản trong Lâm trường quốc doanh. Từ thực tiễn cho thấy phần lớn các Lâm trường quốc doanh ở tình trạng thiếu vốn sản xuất, quản lý tài nguyên rừng yếu kém. Tuy một số tỉnh đã mở rộng liên doanh trồng rừng dưới hình thức Lâm trường quốc doanh góp vốn, hộ gia đình góp công và chuyển thành giá trị. Lợi nhuận trong kinh doanh rừng được phân chia theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên. Đây là mô hình xây dựng rừng được nhiều địa phương đánh giá có hiệu quả cao và là hình thức ban đầu để tiến tới thực hiện cổ phần hoá Lâm trường quốc doanh. Việc thực hiện “cổ phần hoá vườn cây, rừng trồng, các hoạt động chế biến lâm sản” được coi là một giải pháp quan trọng để thu hút vốn đầu tư, tạo động lực thúc đẩy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các Lâm trường quốc doanh và phù hợp với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Cần đa dạng hoá các loại hình sản xuất kinh doanh của lâm trường trên cơ sở phát huy lợi thế về đất đai, tài nguyên rừng, lao động, kinh nghiệm sản xuất. Các Lâm trường quốc doanh và các doanh nghiệp lâm nghiệp rất cần được tham gia trong các dự án thí điểm để thử nghiệm mô hình cổ phần hoá dưới công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên, Công ty liên doanh. Cổ phần hoá các nhà máy, cơ sở chế biến của Lâm trường quốc doanh theo Nghị định số 64/2002/NĐ- CP ngày 19 tháng 6 năm 2002 của Chính phủ về “Chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần”; thí điểm cổ phần hoá vườn cây, rừng trồng của lâm trường, không cổ phần hoá rừng tự nhiên vì đó là tài sản quốc gia, không phải là tài sản của lâm trường nên không tiến hành cổ phần hoá loại rừng này, kể cả rừng tự nhiên có mục đích sản xuất; ưu tiên bán cổ phần cho cán bộ, công nhân viên trong lâm trường và cho những người sản xuất, cung ứng nguyên liệu ổn định cho các cơ sở chế biến như cán bộ, công nhân viên nhà máy và cơ sở chế biến. Mô hình cổ phần hoá rừng trồng và các hoạt động chế biến lâm sản trong Lâm trường quốc doanh và được coi là một giải pháp quan trọng thu hút vốn đầu tư, tạo động lực thúc đẩy nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các Lâm trường quốc doanh và phù hợp với quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường. Việc thực hiện thí điểm cổ phần hoá các Lâm trường quốc doanh thì việc lựa chọn tiêu thức cổ phần hoá, các điều kiện để lâm trường có thể có đủ điều kiện để cổ phần hoá cũng là điều quan trọng, có thể đưa ra các tiêu thức như: - Đã được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; - Có nhiệm vụ gây trồng và kinh doanh lâm sản chu kỳ ngắn, đất trồng còn tương đối tốt, có thể sản xuất nông, lâm kết hợp; - Có phương hướng sản xuất, thị trường tiêu thụ sản phẩm được xác định tương đối rõ; - Có sẵn một số vốn nhất định, đang hoặc sắp đưa vào kinh doanh, có kết cấu hạ tầng sản xuất và đời sống tương đối đảm bảo, thuận lợi cho sản xuất kinh doanh; - Đội ngũ cán bộ chủ chốt của lâm trường có năng lực quản lý, năng động nhiệt tình. Hiện nay, đối tượng chủ yếu thu hút vốn liên doanh kinh doanh rừng là các công nhân viên chức lâm trường, hộ nông dân và người lao động khác; họ phần lớn là nghèo và ít vốn. Tiềm năng vốn lớn nhất của họ là sức lao động cùng kỹ năng sản xuất lâm nghiệp. Vì vậy, hình thức góp vốn đóng đủ ngay là không thích hợp. Hơn nữa, trong xây dựng vốn rừng, tuy nhu cầu vốn đầu tư lớn, nhưng lại có thể bỏ vào từ từ theo thời gian phù hợp với nhu cầu của quá trình tạo rừng. Với mục tiêu là thu hút rộng rãi nhân dân vào nghề rừng và do đặc điểm của lâm nghiệp là có thể liên doanh trực tiếp với từng hộ thành viên được. Do đó không nhất thiết là phải quy định mệnh giá cổ phiếu nhất định mà việc góp vốn tuỳ theo khả năng của hộ thành viên, nhằm khai thác tiềm năng tối đa của họ đầu tư vào sản xuất lâm nghiệp. Tỷ lệ góp vốn không nên quy định đồng loạt, nhưng không cần quy định mức tối thiểu. Việc chuyển các Lâm trường quốc doanh thành công ty cổ phần thì bản thân lâm trường phải được cải tổ về tổ chức. Bộ máy quản lý của Lâm trường quốc doanh cũng phải được bố trí, sắp xếp gọn nhẹ, hiệu quả, giảm bớt đầu mối trung gian. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng của các lâm trường là phải ổn định tổ chức. Vì vậy, bộ máy quản lý trên văn phòng không nên thay đổi hoặc thuyên chuyển và ít nhất phải 5 năm như: Giám đốc, Phó giám đốc, Kế toán trưởng. 3.2.1.2 Giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý. a/ Về mặt vĩ mô, Nhà nước phải tăng cường vai trò đối với Lâm trường quốc doanh trong điều kiện của nền kinh tế thị trường. Chức năng nhiệm vụ quản lý kinh tế- xã hội của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường thường gồm những nội dung như: Định hướng, dẫn dắt, khuyến khích, trợ giúp, điều tiết và ngăn ngừa. Các chức năng đó sẽ thay đổi tùy thuộc vào đặc điểm, thực trạng kinh tế phát triển từng ngành và lĩnh vực kinh tế. Lâm nghiệp là ngành sản xuất có tác động vào tài nguyên rừng quốc gia nên sự can thiệp chủ yếu về vai trò của Nhà nước đối với lâm nghiệp và Lâm trường quốc doanh như sau Tổ chức và chính sách đối với Lâm trường quốc doanh: Thực trạng và giải pháp, Bộ Kế hoạch và đầu tư, 2001. : - Xây dựng pháp luật lâm nghiệp và dựa vào pháp luật để điều hành, phát triển lâm nghiệp. - Xây dựng và áp dụng các chính sách ưu đãi về tài chính, tín dụng, đầu tư phù hợp với đặc điểm sản xuất lâm nghiệp. - Xây dựng và áp dụng các chính sách thích hợp về phát triển các ngành nghề trong lâm nghiệp. - Thực hiện các biện pháp có tính chất vĩ mô để điều hành sản xuất lâm nghiệp. - Thực hiện các biện pháp điều chỉnh, khống chế đối với sản xuất lâm nghiệp trong điều kiện của nền kinh tế thị trường như : Xúc tiến cạnh tranh, hoàn thiện và ổn định hệ thống thể chế, giúp đỡ và hỗ trợ tài chính đối với ngành lâm nghiệp. - Trực tiếp quản lý hoặc tổ chức các hoạt động kinh tế có tính chất sự nghiệp để cung ứng các dịch vụ có tính chất công ích của rừng cho toàn xã hội. - Bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của các Lâm trường quốc doanh, các doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần. - Xây dựng và thực hiện các biện pháp bảo vệ rừng, bảo đảm phát triển rừng và nghề rừng bền vững. - Chuyển biến và cải tiến phương thức kế hoạch hoá lâm nghiệp. - Phân tích chức năng quản lý Nhà nước đối với rừng do Lâm trường quốc doanh quản lý kinh doanh. - Thực hiện phân cấp quản lý rõ ràng về rừng và Lâm trường quốc doanh cho chính quyền địa phương các cấp. Đó chính là những vai trò chủ yếu mà Nhà nước cần đảm nhiệm đối với ngành lâm nghiệp và Lâm trường quốc doanh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhận thức được vai trò đó thì việc hoàn thiện cơ chế chính sách đối với các Lâm trường quốc doanh ở nước ta mới được thực hiện để tạo điều kiện thúc đẩy các lâm trường hoàn thành tốt vai trò của mình. b/ Cơ chế khoán trong các Lâm trường quốc doanh. Tổ chức lại sản xuất trong các lâm trường, đẩy mạnh giao quyền sử dụng đất, giao khoán, bán vườn cây, giao bảo vệ rừng, khuyến khích phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại và các thành phần kinh tế, đầu tư phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp. Lâm trường phải đổi mới công tác khoán theo nguyên tắc tăng cường vai trò, trách nhiệm của lâm trường; gắn người lao động với kết quả sản xuất, bảo đảm hài hoà lợi ích của lâm trường với người nhận khoán. Thực hiện cơ chế khoán đất lâm nghiệp đến hộ thành viên và hộ nông dân trên địa bàn ổn định lâu dài (theo Nghị định 01/ CP). Tuy nhiên diện tích khoán theo Nghị định 01/CP chỉ chiếm dưới 10% tổng quỹ đất của các lâm trường. Thay thế việc trả tiền công khoán hàng năm hiện nay bằng cơ chế hưởng lợi từ rừng theo tinh thần của Quyết định số 178/2001/QĐ- TTg ngày 12/11/2001 của Thủ tướng Chính phủ về hưởng quyền lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao, được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp. Như vậy trong những năm tới hình thức khoán kinh doanh rừng lâu dài sẽ được tăng cường hơn và tối thiểu phải chiếm trên 50% diện tích đất lâm nghiệp của các lâm trường. Những diện tích chưa được khoán theo Nghị định số 01/CP, phải tổ chức khoán ổn định, lâu dài cho thành viên của lâm trường và nông dân trong vùng theo định mức về diện tích của địa phương, diện tích trên mức này áp dụng hình thức đấu thầu. Lâm trường quốc doanh sẽ được lựa chọn các hình thức khoán rừng và đất được giao, được thuê cho các hộ công nhân; nông dân trên địa bàn thực sự có nhu cầu và khả năng sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp; các tổ chức và cộng đồng thôn bản theo các quy định của pháp luật. Nhưng khi thực hiện các hình thức khoán phải đảm bảo khoán ổn định, lâu dài theo quy hoạch và kế hoạch, không khoán trắng, phải xác định rõ ràng, cụ thể rừng, đất lâm nghiệp và đối tượng nhận khoán; Đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước, lâm trường và người lao động, đặc biệt nâng cao lợi ích của người lao động để người lao động gắn bó và có trách nhiệm với rừng và đất lâm nghiệp được nhận khoán. Đối với khâu sản xuất kinh doanh, khi giao khoán phải đảm bảo cho bên nhận khoán có thu nhập bằng hoặc cao hơn mức lương tối thiểu theo quy định của pháp luật. Khi thực hiện việc khoán rừng và đất lâm nghiệp phải được thực hiện thông qua hợp đồng giao và nhận khoán. Rừng trồng lâm trường đã bán cho hộ gia đình, cá nhân quy định tại Nghị định số 12/CP ngày 2/3/1993 của Chính phủ, người mua đã mua rừng trồng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai, nhưng phải chuyển sang thuê đất. Mở rộng hình thức liên doanh trồng rừng giữa lâm trường với các hộ gia đình, cộng đồng địa phương và các tổ chức khác trên địa bàn, áp dụng các hình thức đấu thầu đất trống để trồng rừng. Mặt khác, mở rộng hình thức liên doanh, liên kết trồng rừng với các nhà đầu tư nước ngoài theo hình thức các nhà đầu tư nước ngoài hỗ trợ vốn đầu tư ban đầu, cho vay vốn với lãi suất thấp, chịu trách nhiệm tiêu thụ sản phẩm, hoặc các bên cùng góp vốn trồng và chế biến lâm sản,… Nghiên cứu và từng bước thí điểm cho lâm trường thuê các khu rừng tự nhiên tập trung có trữ lượng giàu và trung bình để sản xuất kinh doanh lâu dài. Nhà nước giao quyền quản lý sử dụng rừng lâu dài cho lâm trường trên cơ sở có định giá giá trị rừng theo dự án được phê duyệt, lâm trường phải hoàn trả dần giá trị rừng được giao để sản xuất kinh doanh và có trách nhiệm thực hiện những biện pháp tái tạo rừng theo phương án điều chế rừng được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Hiện nay, Nhà nước giao rừng tự nhiên cho Lâm trường quốc doanh chỉ trên danh nghĩa, còn trên thực tế rừng tự nhiên không phải là tài sản của lâm trường, mà là tài sản quốc gia, lâm trường chỉ có trách nhiệm quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Vì vậy, cần phải có giải pháp tạo điều kiện để lâm trường được hưởng lợi từ rừng, đồng thời có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn rừng tự nhiên. Thực hiện cơ chế cho lâm trường thuê rừng tự nhiên là một trong những giải pháp đáp ứng mục tiêu trên. c/ Cơ chế quản lý sản xuất, kinh doanh. Lâm trường quốc doanh thực hiện các hình thức khoán đối với diện tích rừng và đất của lâm trường được giao, được thuê cho các hộ công nhân; hộ nông dân trên địa bàn thực sự có nhu cầu và khả năng sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, các tổ chức và cộng đồng thôn bản theo quy định của pháp luật. Lâm trường quốc doanh được quyền chủ động tổ chức các hình thức sản xuất thích hợp để thực hiện nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh. Mặc dù Lâm trường quốc doanh là loại hình doanh nghiệp Nhà nước có tính đặc thù riêng, nhưng lâm trường vẫn phải thực hiện quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh như mọi doanh nghiệp Nhà nước khác theo quy định Luật doanh nghiệp Nhà nước. Được thể hiện: - Đối với rừng sản xuất, đất chưa sử dụng quy hoạch cho trồng rừng sản xuất, Lâm trường quốc doanh được sử dụng rừng và đất đó vào sản xuất lâm nghiệp, được quyền quyết định suất đầu tư bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh, trồng rừng theo từng loại cây và theo từng điều kiện lập địa, đồng thời phải tự chịu trách nhiệm về hiệu quả đầu tư. - Đối với rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, đất chưa sử dụng quy hoạch cho rừng đặc dụng, rừng phòng hộ các đơn vị quản lý, sử dụng rừng, đất trồng rừng thực hiện định mức kinh tế- kỹ thuật và suất đầu tư theo quy định của Nhà nước. - Lâm trường quốc doanh được dùng đất chưa có rừng và sử dụng kết hợp với lợi thế của lâm trường (về vốn, kỹ thuật, thị trường,..) để liên doanh, liên kết với các hộ cán bộ, công nhân viên lâm trường, hộ nông dân và các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để trồng rừng, kết hợp với nông, lâm nghiệp, chế biến, tiêu thụ sản phẩm từ rừng đồng thời làm dịch vụ cho các thành phần kinh tế trên địa bàn. Đối với các Lâm trường quốc doanh làm nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh nhưng phải đảm nhận một phần chức năng xã hội, an ninh và quốc phòng: + Nếu các Lâm trường quốc doanh hoạt động kinh doanh có lãi thì các khoản chi cho xã hội, an ninh, quốc phòng hạch toán vào cho chi phí hoạt động sản xuất, kinh doanh trong năm. + Nếu Lâm trường quốc doanh hoạt động kinh doanh gặp nhiều khó khăn, bị thua lỗ thì sẽ được ngân sách Nhà nước hỗ trợ. 3.2.2 Giải pháp hoàn thiện các chính sách trong lâm trường quốc doanh. Việc sắp xếp và đổi mới Lâm trường quốc doanh hiện nay là một việc làm cần thiết và cấp bách. Tuy nhiên, trong các văn bản trước đó như: Quyết định số 187/TTg ngày 16/9/ 1999 của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý Lâm trường quốc doanh và một số thông tư liên quan đã bộc lộ những hạn chế mà cần phải đưa ra những giải pháp hữu hiệu hơn. Việc thực hiện khoán 10 (khoán theo Nghị định 10) trong nông nghiệp thành công, làm cho chúng ta đặt câu hỏi liệu có thực hiện được thành công Nghị định số 163/1999/NĐ-CP về việc giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng lâu dài vào mục đích lâm nghiệp như trong nông nghiệp không. Do đó, việc đổi mới các Lâm trường quốc doanh, cần có sự tổng kết kinh nghiệm những mặt làm được và những điểm chưa làm được của Quyết định 187 trên phạm vi cả nước. Từ đó, có sự kết hợp giữa những mặt làm được của Quyết định 187 và những nội dung trong Nghị định 163 về khoán lâu dài, ổn định cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng vào mục đích lâm nghiệp. Điều đó đòi hỏi phải có một hệ thống chính sách đồng bộ và được thực hiện nhất quán, tránh chồng chéo như: Chính sách đất đai, Chính sách tài chính, tín dụng, Chính sách lao động, Chính sách khoa học công nghệ. 3.2.2.1 Chính sách về đất đai. Trước hết cần khẳng định đất đai là một tư liệu sản xuất không thể thay thế được trong các Lâm trường quốc doanh, có mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố sản xuất và các vấn đề khác. Mỗi lâm trường được Nhà nước giao quản lý một diện tích đất lâm nghiệp (đất có rừng và đất chưa có rừng) với một quy mô nhất định, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng địa phương, từng vùng, từng loại hình sản xuất và khả năng quản lý của lâm trường. Với tình trạng hiện nay, phần lớn các lâm trường được giao quản lý một diện tích đất tương đối lớn (bao gồm cả đất lâm nghiệp, đất nông nghiệp, đất chưa sử dụng) nhưng lại sử dụng và quản lý kém hiệu quả nên trong quá trình tiến hành đổi mới các Lâm trường quốc doanh cần tăng cường quản lý đất đai. Nhà nước cần có chính sách đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ; chính sách giải quyết, xử lý tình trạng di dân tự do, lấn chiếm và sử dụng trái phép đất lâm nghiệp. a/ Rà soát lại quy hoạch. Rà soát làm rõ tình hình đất đai của các lâm trường trên bản đồ và trên thực địa phục vụ cho việc xem xét giải quyết: đất không thuộc chức năng, nhiệm vụ quản lý lâm trường; đất phục vụ cho mục đích khác hoặc cho yêu cầu mới của địa phương; đất không phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội trên địa bàn; đất lâm trường để hoang hoá hoặc sử dụng không có hiệu quả; đất bị lấn chiếm, đang có tranh chấp, diện tích cho thuê, cho mượn; đất có khả năng sản xuất nhưng quá trình sắp xếp, tổ chức lại, không cần thiết giao cho các lâm trường quản lý. Việc rà soát lại quy hoạch đất đai đáp ứng với năng lực sản xuất của lâm trường, đất dôi thừa nhanh chóng bàn giao lại cho địa phương. Diện tích sử dụng tối đa của Lâm trường quốc doanh và ban quản lý rừng phòng hộ do tỉnh quản lý cần được xác định rõ để tránh trùng lặp lại việc sử dụng đất không hiệu quả và tình trạng mất rừng. Khi các Lâm trường quốc doanh hoạt động theo cơ chế kinh doanh trở thành một bộ phận của nhóm công nghiệp (do nhà nước hay tư nhân sở hữu và đầu tư) cần gắn kết với quá trình thúc đẩy giao đất lâm nghiệp ổn định lâu dài cho hộ gia đình, cộng đồng hay các tổ chức khác để khuyến khích đầu tư phát triển lâm nghiệp bền vững. Các lâm trường phải xây dựng phương án quy hoạch sử dụng đất dài hạn, kế hoạch sử dụng đất 5 năm và hàng năm gắn với phương án sản xuất, kinh doanh của lâm trường; định kỳ hàng năm phải phúc tra và bổ sung phương án sử dụng đất cho phù hợp với kế hoạch năm sau và giai đoạn kế tiếp. Quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất của lâm trường phải gắn với quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất của địa phương thành một thể thống nhất trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của địa phương. b/ Giải quyết, xử lý vi phạm pháp luật về đất đai trong lâm trường. Đất lâm trường sử dụng không đúng quy hoạch, không đúng mục đích và kém hiệu quả, Uỷ ban nhân dân tỉnh ra quyết định xử lý, thu hồi, rồi giao hoặc cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuê theo quy định của Nhà nước; khi giao đất, cho thuê đất có ưu tiên xem xét người đang sử dụng đất đó. Đất lâm trường đã cho thuê, mượn, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xử lý theo pháp luật. Trong trường hợp phải thu hồi đất thì ưu tiên giao hoặc cho người đang sử dụng thuê đất nếu phù hợp với quy hoạch sản xuất nông, lâm nghiệp. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang thuê hoặc mượn đất nếu đang sản xuất nông, lâm nghiệp thì được tiếp tục sử dụng đất đó và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng phải chuyển sang thuê đất của Nhà nước. Đất lâm trường bị lấn chiếm, tranh chấp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét giải quyết theo nguyên tắc: Nếu tranh chấp với hộ gia đình, cá nhân sống bằng nghề nông, lâm nghiệp thì giao đất cho chính quyền địa phương để giao cho hộ nông dân theo quy định của địa phương. Nếu tranh chấp với các tổ chức khác thì căn cứ theo quy hoạch của địa phương (tỉnh) và chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức tranh chấp để xem xét giao hoặc cho thuê đất. Khi giải quyết tranh chấp, lấn chiếm đất đai có xem xét đến yếu tố lịch sử, nguồn gốc đất và quá trình sử dụng đất. Đất đai của các lâm trường giao trả lai cho Nhà nước, các địa phương phải có phương án quản lý, có kế hoạch giao trả đất đó cho các dân và các tổ chức khác sử dụng, không được để đất không có người sử dụng. c/ Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trên cơ sở diện tích đất đã được rà soát, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ra quyết định giao đất hoặc cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho lâm trường. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho lâm trường cần phải sớm hoàn thành để tạo điều kiện cho lâm trường có thể đưa ra phương án kinh doanh phù hợp. Cuối cùng cần nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về đất đai, tổ chức tuyên truyền theo dõi kiểm tra thực hiện nghiêm chỉnh Luật đất đai, thực hiện chính sách về quản lý, sử dụng đất phát triển nền nông nghiệp bền vững bảo vệ môi trường sinh thái. 3.2.2.2 Chính sách tài chính, tín dụng. Nhà nước cần có chính sách tài chính ưu đãi đối với Lâm trường quốc doanh, như lãi suất vay vốn trồng rừng, chế biến lâm sản, thuế sử dụng đất, chế độ nộp lợi nhuận, tăng vốn lưu động,… Đối với các lâm trường chuyển sang hoạt động sản xuất kinh doanh phải hạch toán kinh tế theo Luật Doanh nghiệp và thực hiện quy chế tài chính và hạch toán kinh doanh theo Nghị định 59- CP ngày 3/10/ 1996 và Nghị định số 27/1999- NĐ- CP ngày 20/4/1999 về sửa đổi, bổ sung, quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với các doanh nghiệp Nhà nước ban hành kèm theo Nghị định 59-CP của Chính phủ. Riêng đối với hoạt động công ích các lâm trường có thể tham gia dưới hình thức Nhà nước “đặt hàng, giao kế hoạch, đấu thầu theo giá hoặc phí do Nhà nước quy định” Luật doanh nghiệp Nhà nước, Chương 1, điều 3, Khoản 12, 2004. , nếu lâm trường đồng ý với yêu cầu của Nhà nước. Tiền bán rừng trồng, tiền trích khấu hao cơ bản, tiền thuế thu nhập doanh nghiệp Nhà nước ưu tiên để lại cho lâm trường để đầu tư thâm canh, trồng lại rừng, dịch vụ kỹ thuật, mua sắm thiết bị, đổi mới công nghệ, xây dựng cơ sở hạ tầng. Tiến hành rà soát thống kê lại vốn và tài sản của từng lâm trường. Trên cơ sở nhu cầu về vốn cố định, vốn lưu động, vốn đầu tư lâm sinh theo phương án sản xuất kinh doanh của lâm trường. Nhà nước cần bổ sung thêm vốn để các lâm trường có thể tự tổ chức triển khai. Lâm trường được hưởng chính sách hỗ trợ đầu tư của Nhà nước theo quy định tại Nghị định 106/2004/ NĐ- CP ngày 01/4/2004 của Chính phủ về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trong đó được vay vốn ưu đãi với lãi suất thấp có thời hạn tối đa không quá 15 năm, được Nhà nước bổ sung vốn sản xuất và được Nhà nước hỗ trợ đầu tư xây dựng cơ bản. Tuy nhiên, các ngân hàng hiện nay là tự chủ kinh doanh nên họ rất thận trọng trong việc cho các lâm trường vay vốn trong thời hạn dài mặc dù dự án có hiệu quả và việc cho các hộ gia đình vay 20-30 triệu đồng/ hộ để phát triển kinh tế. Nhà nước cần có chính sách tín dụng để hỗ trợ các lâm trường và hộ gia đình, trong trường hợp ngân hàng đồng ý cho vay thì phải cho vay đủ 100% số tiền dự án cần. Các lâm trường khi bàn giao lại khu dân cư, cơ sở hạ tầng công cộng, như đường giao thông, hệ thống điện, bệnh xá… được xây dựng trước đây để phục vụ cho nhu cầu trên địa bàn về cho các địa phương quản lý và được Nhà nước giảm vốn tương ứng với giá trị tài sản khi bàn giao. Nhà nước cấp kinh phí giải quyết các tồn đọng về tài chính như các khoản lỗ, nợ quá hạn, lao động dôi dư. Lâm trường phải lập phương án trình cấp có thẩm quyền phê duyệt để thực hiện, trong đó chú ý các giải pháp về lao động, tài chính , tài sản nhất là về đất đai, rừng và vườn cây theo Nghị định số 64/2002/ NĐ- CP ngày 19/6/2002 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Cồ phần hoá các nhà máy, cơ sở chế biến, của lâm trường, thí điểm cổ phần rừng trồng của lâm trường, không cổ phần hoá rừng tự nhiên và những diện tích đất có khả năng phục hồi thành rừng tự nhiên. Việc chuyển đổi các Lâm trường quốc doanh thành các công ty cổ phần sẽ giúp cho việc huy động vốn, đặc biệt là các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, vốn đầu tư nước ngoài được dễ dàng hơn và sử dụng hiệu quả hơn. Nhà nước nên khuyến khích các hình thức tổ chức liên doanh giữa Lâm trường quốc doanh và các thành phần kinh tế khác trong quá trình đầu tư trồng rừng. Nếu xét trên tổng thể, phần lớn các lâm trường đang ở trong giai đoạn đầu tư chứ chưa bước sang giai đoạn kinh doanh. Nhu cầu đầu tư là rất lớn, trong khi đó khả năng đầu tư của Nhà nước (chủ yếu qua tín dụng) chỉ đáp ứng một phần. Vì vậy, cần kêu gọi vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế khác như: Nhà nước cần có chính sách thu hút vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài để bảo vệ rừng, đặc biệt khuyến khích áp dụng cơ chế liên doanh giữa lâm trường với các tổ chức, hộ gia đình trong tạo rừng và chế biến lâm sản . 3.2.2.3 Chính sách lao động. Chính sách lao động của Nhà nước cần tập trung vào giải quyết các vấn đề như: Đào tạo nguồn nhân lực; Giải quyết đất ở, đất làm kế toán gia đình cho hộ cán bộ, công nhân viên lâm trường; Chế độ bảo hộ lao dộng và đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động, giải quyết lao động dôi dư. a/ Đào tạo nguồn nhân lực. Căn cứ vào kế hoạch phát triển sản xuất, kinh doanh, Lâm trường quốc doanh cần có kế hoạch đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng kỹ thuật nâng cao tay nghề cho lực lượng lao động, đáp ứng yêu cầu mở rộng sản xuất, kinh doanh. Kinh phí đào tạo, bồi dưỡng kỹ thuật nâng cao tay nghề cho lực lượng lao động được hạch toán vào chi phí hoạt động của lâm trường. Nhà nước cũng cần có chính sách đào tạo cán bộ quản lý, kỹ thuật của Lâm trường quốc doanh nhằm nâng cao trình độ, năng lực điều hành, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới; có chính sách hỗ trợ lâm trường đào tạo lao động, đặc biệt đối với người dân tộc thiểu số tại chỗ thành lâm trường viên để giúp đồng bào ổn định cuộc sống, gắn bó với lâm trường. b/ Giải quyết đất ở, đất làm kinh tế cho hộ cán bộ, công nhân viên lâm trường. Về đất ở: Hộ gia đình cán bộ, công nhân viên lâm trường( bao gồm cả những người đang làm việc, người nghỉ mất sức, người nghỉ hưu và những người xin thôi việc) nếu cư trú hợp pháp trên địa bàn, chưa được cấp đất ở thì chính quyền địa phương có trách nhiệm giao đất ở và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho họ. Về đất làm kinh tế: Hộ gia đình, cán bộ, công nhân lâm trường được chính quyền địa phương giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, mức giao đất tuỳ thuộc từng địa phương và phần diện tích vượt hạn mức thì chuyển sang thuê đất. c/ Bảo hộ lao động và đóng góp BHXH cho người lao động. Cán bộ, công nhân viên lâm trường trong danh sách, đang làm việc, nhưng không hưởng lương do lâm trường trả nhưng có thu nhập từ kết quả sản xuất do nhận khoán đất, nhận khoán rừng của lâm trường có nghĩa vụ đóng bảo hiêm xã hội và được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định. Hiện nay, các cơ quan bảo hiểm đang áp dụng nộp bảo hiểm từng tháng một nếu nộp chậm sẽ phải chịu lãi suất mà vốn lưu động để sản xuất kinh doanh của các Lâm trường quốc doanh không nhiều nên Nhà nước cho các lâm trường nộp bảo hiểm 2-4 lần/ 1năm và không phải chịu lãi suất trả chậm. Lâm trường căn cứ vào kế hoạch phát triển sản xuất, kinh doanh, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng kỹ thuật nâng cao tay nghề cho lực lượng lao động đáp ứng yêu cầu mở rộng sản xuất, kinh doanh. d/ Giải quyết lao động dôi dư. Trong quá trình sắp xếp, tổ chức lại sản xuất, những cán bộ, công nhân viên trong lâm trường không được bố trí làm việc đều được giải quyết chính sách theo quy định tại Nghị định số 41/2002/NĐ- CP ngày 11/4/2002 của Chính phủ về chính sách đối với người lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước như giải thể, chuyển hình thức mới,… Nơi nào có điều kiện cần được tổ chức tạo nghề mới, cho vay vốn, giải quyết đất đai để họ sản xuất- kinh doanh. 3.2.2.4 Chính sách khoa học và công nghệ. Các Lâm trường quốc doanh cần được Nhà nước hỗ trợ để phát triển, đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ khoa học- công nghệ mới, công nghệ cao vào sản xuất, chế biến, nhất là về giống cây rừng có năng suất, chất lượng cao, xây dựng các cơ sở nhân giống mới, đưa tiến bộ kỹ thuật mới vào trồng rừng, đặc biệt là tạo giống mới theo công nghệ mô, hom; xây dựng quy trình tạo giống, trồng, chăm sóc một số loại cây trồng chủ lực đối với từng vùng sinh thái; áp dụng các biện pháp kỹ thuật lâm sinh tổng hợp như: khoanh nuôi xúc tiến tái sinh, nuôi dưỡng làm giàu rừng, cải thiện tạo rừng; áp dụng biện pháp trồng rừng thâm canh, trồng các loại cây mọc nhanh, nhằm tăng diện tích rừng sản xuất, đáp ứng nhu cầu lâm sản. Chuyển giao, tiến bộ khoa học- công nghệ mới và làm các dịch vụ khuyến lâm, thông tin thị trường cho nông dân trong vùng. Nhà nước cần hỗ trợ ngân sách cho việc nhập khẩu những nguồn giống tốt có năng suất và sản lượng cao để sản xuất giống cung cấp cho nhu cầu sản xuất của Lâm trường quốc doanh và nông dân, đồng thời có chính sách hỗ trợ phù hợp cho Lâm trường quốc doanh để xây dựng các mô hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, trồng rừng thâm canh và triển khai công tác khuyến nông trong vùng. Ngoài ra, cũng cần có chính sách khuyến khích ứng dụng công nghệ cao trong bảo vệ và phát triển rừng, đặc biệt là giống cây trồng. Tiếp tục nghiên cứu, thực nghiệm để có được tập đoàn cây trồng phù hợp với từng địa phương và từng vùng, phục vụ cho việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, nâng cao hiệu quả sử dụng đất. 3.3 Một số kiến nghị. Các cấp, các ngành chức năng cũng cần phối hợp chặt chẽ giúp các lâm trường giải quyết kịp thời, dứt điểm các vụ chặt phá rừng, lấn chiếm đất đai trái phép; kiểm tra và xử lý kịp thời các trường hợp nhận khoán đất rừng rồi bán, đổi, chuyển nhượng sai với quy định của Nhà nước; giúp các lâm trường thực hiện quyền và trách nhiệm của mình trong việc quản lý, bảo vệ, sử dụng rừng và đất lâm nghiệp theo quy định của pháp luật. Quá trình chuyển doanh nghiệp Nhà nước sang hình thức công ty cổ phần là vấn đề mới ở nước ta. Lâm trường quốc doanh có những đặc thù riêng cho nên việc tiến hành cổ phần hoá cần phải nghiên cứu kỹ và cần có những thử nghiệm để rút kinh nghiệm. Trước tiên tập trung nghiên cứu thí điểm mô hình cổ phần hoá đối với những Lâm trường quốc doanh trong những vùng nguyên liệu tập trung. KẾT LUẬN Lâm trường quốc doanh là loại hình doanh nghiệp Nhà nước chủ yếu, đã tồn tại hơn 40 năm. Quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa đã tác động sâu sắc đến hoạt động của lâm trường. Trong những năm qua, nhiều Lâm trường quốc doanh đã có nhiều cố gắng trong việc quản lý, sử dụng đất đai, góp phần bảo vệ tài nguyên đất, tài nguyên rừng, tạo việc làm và tăng thu nhập cho hàng vạn cư dân ở vùng Trung du và miền núi. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau, việc quản lý và sử dụng đất đai cho các lâm trường còn nhiều tồn tại, hiệu quả sử dụng đất còn thấp; hiệu quả sản xuất kinh doanh của lâm trường liên quan đến rừng và đất rừng vẫn chưa được đầu tư đúng mức; việc áp dụng tiến bộ, khoa học kỹ thuật trong việc trồng rừng còn chậm. Từ thực trạng hoạt động của các Lâm trường quốc doanh đang đặt ra nhiều vấn đề về cơ chế và chính sách đồng bộ để có thể thúc đẩy cho lâm trường hoạt động hiệu quả hơn, thu hút đầu tư, góp phần xoá đói giảm nghèo. Trong quá trình thực hiện đổi mới các Lâm trường quốc doanh Nhà nước cần thừa nhận Lâm trường quốc doanh là một loại hình doanh nghiệp Nhà nước hoạt động theo luật doanh nghiệp, có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, chịu trách nhiệm trước Nhà nước về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo toàn và phát triển vốn rừng được giao. Đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý trong lâm trường, trong đó cần chú ý đến các hình thức khoán kinh doanh rừng lâu dài, liên doanh, liên kết trồng rừng và chế biến lâm sản; áp dụng phương thức đấu thầu khai thác gỗ, đấu thầu đất trống để trồng rừng; thu hút đầu tư nước ngoài. Trong đó cũng đề xuất một số mô hình mới hướng cho Lâm trường quốc doanh phát triển như: Mô hình thí điểm cổ phần hoá vườn cây, rừng trồng, các cơ sở chế biến; công ty một thành viên,… Quan trọng nhất trong quá trình đổi mới là phải có một chương trình, kế hoạch hành động cụ thể. Nhà nước cũng cần nghiên cứu ban hành một số cơ chế chính sách nhằm tạo hành lang pháp lý cho việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất, nâng cao hiệu qủa hoạt động kinh doanh của lâm trường và làm tốt vai trò trung tâm dịch vụ, khoa học- kỹ thuật, công nghiệp chế biến, văn hoá, xã hội trên địa bàn. TÀI LIỆU THAM KHẢO Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX, NXB Chính trị quốc gia. Nguyễn Văn Đẳng, Lâm nghiệp Việt Nam 1945- 2000, NXB Nông nghiệp – 2001. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Văn bản pháp quy về lâm nghiệp, NXB Nông nghiệp – 2000. Ngô Quang Minh, Kinh tế Nhà nước và quá trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, NXB Chính trị quốc gia,1998. Tập thể tác giả, Kinh tế chính trị Mác Lê-nin, NXB Chính trị quốc gia, 2001. Trần Bình Trọng, Kinh tế chính trị tập 2, NXB thống kê 2000. Lee Kang Woo, Quá trình đổi mới Doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 1986-2000, NXB Chính trị quốc gia, 2001. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Dự thảo Nghị định về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển Lâm trường quốc doanh, 4-2004. Nghị định số 106/2004/NĐ- CP về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Tài liệu WB, Tóm tắt về Lâm trường quốc doanh ở Việt Nam, 2001. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Đề án tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển Lâm trường quốc doanh, 9- 2003. Ngân hàng thế giới, Đổi mới Lâm trường quốc doanh ở Việt Nam, phát huy tiềm năng trồng rừng lấy gỗ vì mục đích thương mại, tháng 5-2003. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Báo cáo tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển các Nông, Lâm trường quốc doanh, 2003. Vụ chính sách Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Phạm Xuân Phương, Nghiên cứu thí điểm mô hình cổ phần hoá lâm trường quốc doanh, 2003. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Báo cáo tình hình thực hiện cơ chế khoán bảo vệ rừng, kinh doanh rừng trong Lâm trường quốc doanh, 2003. Vụ chính sách Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngô Đình Ngọ,Tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển Lâm trường quốc doanh, 2003. Bộ Kế hoạch và đầu tư, Trần Hữu Quang, Tổ chức và chính sách đối với Lâm trường quốc doanh: Thực trạng và giải pháp, 2001.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng và những Giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với các Lâm trường quốc doanh trong giai đoạn đến 2010.doc
Luận văn liên quan