Đề tài Thực trạng và những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển ngành nghề truyền thống ở tỉnh Hà Nam

Các ngành nghề truyền thống ở Hà Nam nói riêng và cả nước nói chung là những “tài sản” vô giá không chỉ mang ý nghĩa kinh tế mà còn chứa đựng trong đó những giá trị văn hoá văn minh của cả dân tộc . Tuy nhiên, quá trình phát triển của nó cũng trải qua những bước thăng trầm khác nhau. Sự đổi mới từ cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước từ năm 1986 đã tạo ra bước ngoặt quan trọng để phát triển sản xuất nói chung và ngành nghề nông thôn nói riêng.

doc38 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2406 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển ngành nghề truyền thống ở tỉnh Hà Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tỉnh có truyền thống sản xuất nông nghiệp từ lâu đời, năng suất lúa đạt cao. Nguồn nguyên liệu cho phát triển ngành nghề rất phong phú như: lương thực thực phẩm, đay.... Do nhiều thuận lợi về điều kiện tự nhiên, giao thông... nên các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp ở Hà Nam đã phát triển từ rất lâu đời, có nhiều ngành nghề đang phát triển rất mạnh, trong mấy năm qua các ngành nghề truyền thống đã đóng phóp to lớn vào quá trình phát triển kinh tế, xã hội của địa phương. 2. Đặc điểm kinh tế - xã hội 2.1. Phương hướng sản xuất - Cơ cấu sản xuất. Hà Nam là một tỉnh nông nghiệp.Trong mấy năm qua nền kinh tế có bước phát triển khá, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm từ 6 - 10%, tuy nhiên vẫn chưa thoát khỏi tình trạng trì trệ lạc hậu. Bảng 04: Tỷ trọng các ngành trong GDP toàn tỉnh (theo giá hiện hành) ĐV:(%) Cơ cấu GDP 1997 2000 2002 Nông nghiệp 40,02 37,03 35,93 Công nghiệp 28,62 30,75 32,48 Dịch vụ 31,36 32,22 31,59 Nguồn: Niêm giám thống kê tỉnh Hà Nam Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP của tỉnh đã giảm đáng kể 4,09% trong 5 năm từ khi tách tỉnh(1997). Công nghiệp tăng rất chậm, chỉ tăng 3,86% trong 5 năm, Điều này chứng tỏ quá trình chuyển dịch cơ cấu của tỉnh diễn ra rất chậm.Vì vậy, trong thời gian tới cần phải có các biện pháp đẩy mạnh tốc độ phát triển công nghiệp thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hưiứng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 2.2. Dân số - Lao động. Trong cơ cấu lao động, lao động nông chiếm tỷ lệ 76% thể hiện một nền sản xuất thấp kém. Dân số tập trung quá nhiều ở nông thôn (chiếm trên 90% dân số) và không ngừng tăng lên, trong khi diện tích đất canh tác thấp và ngày càng giảm, hậu quả là tình trạng thất nghiệp trầm trọng. Bảng 05: Cơ cấu lao động 3 khu vực của Hà Nam. Đơn vị 1997 2000 2002 Tổng số lao động LĐ 306 258 388 903 410 708 - Nông nghiệp % 83,30 81,45 76,00 - Công nghiệp % 7,80 8,20 12,30 - Dịch vụ % 8,90 10,35 11,70 Nguồn: Niên giấm thống kê tỉnh Hà Nam Lao động nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn là một thách thức trên con đường phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn thì phải từng bước thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động ngay tại vùng nông thôn, phải chú trọng phát triển công nghiệp nông thôn mà trước hết là tạo điều kiện cho các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, thủ công nghiệp phát triển. Tuy nghiên, lực lượng lao động của tỉnh Hà Nam khá dồi dào, trẻ, cần cù chịu khó... là tiềm năng cho phát triển các ngành kinh tế của tỉnh nói chung và ngành nghề nông thôn nói riêng. 2.3. Cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thật. Tỉnh Hà Nam là một trong những tỉnh sớm hoàn thiện hệ thống đường giao thông nông thôn. Hiện nay, 100% số xã có đường ô tô đến tận trung tâm xã, 100% số xã có điện lưới quốc gia. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống lưới điện, đường giao thông nông thôn đang xuống cấp trầm trọng. Tỉnh Hà Nam là một trong những tỉnh được Nhà nước công nhận phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở sớm so với cả nước. Trình độ dân trí cao thì khả năng tiếp thu công nghệ mới, thay đổi mẫu mã có nhiều sản thuận lợi, đáp ứng nhu cầu về chất lượng sản phẩm ngày càng tăng của quá trình hội nhập kinh tế. 2.4. Phong tục, tập quán. Hà Nam là một trong các tỉnh thuộc khu vực kinh tế Đồng bằng sông Hồng. Do đó có những nét chung về phong tục tập quán cổ truyền của cả vùng. Cũng là vùng mang đặc trưng của nền văn hoá lúa nước, dân số chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn làm nông nghiệp. Văn hoá của các làng nghề với các thể chế cộng đồng chứa đựng những quan hệ huyết thống, láng giềng, nghề nghiệp với các phong tục tập quán, tín ngưỡng, lễ hội mang đậm những sắc thái riêng, đã tạo nên bản sắc truyền thống văn hoá phong phú của dân tộc. Mỗi làng nghề đều thờ phục một thành hoàng làng hoặc ông tổ nghề. Làng nghề mây giang đan Ngọc Động hiện có đền thờ ông tổ của nghề, nơi đây cũng là nơi các hộ tham gia sản xuất tập chung. Tóm lại: Hà Nam là một tỉnh có vị trí rất thuận lợi cho phát triển, giao lưu kinh tế nói chung và phát triển ngành nghề nông thôn phát triển. Hà Nam có hệ thống đường giao thông rất thuận lợi cho việc mở rộng thị trường tiêu thụ, rất thuận lợi cho việc cung cấp nguyên vật liệu cho sản xuất ngành nghề. Hà Nam hiện nay vẫn là một tỉnh lao động chủ yếu làm nông nghiệp, do đó tỷ lệ lao động thất nghiệp vẫn cao: khoảng 6% - 10%/năm. Đặc biệt là tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn mới đạt 80,65% (2005), nên thời gian nhàn rỗi của người dân là rất nhiều. Do đó việc thu lao động vào sản xuất ngành nghề là rất thuận lợi.Đây là một thuận lợi rất lớn cho phát triển ngành nghề phi nông nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi thì việc phát triển ngành nghề truyền thống ở Hà Nam hiện đang gặp khó khăn rất lớn, về cơ sở hạ tầng hiện đang xuống cấp rất trầm trọng mà chưa được tu sửa. Lực lượng lao động tuy dồi dào nhưng chưa được đào tạo nghề một cách đầy đủ. Vấn đề ô nhiễm môi trường cũng đang là một khó khăn nổi lên đối với các làng nghề. II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH NGHỀ TRUYỀN THỐNG Ở TỈNH HÀ NAM Nghiên cứu thực trạng ngành nghề và làng nghề có ý nghĩa rất quan trọng, bởi từ đó có thể định hướng chính xác, tìm ra nguyên nhân, các cơ chế và quy luật vận động, các mối quan hệ sinh thái, xã họi, kinh tế cho sự hình thành, phát triển và biến đổi của các nghề, các trung tâm sản xuất hàng thủ công. Nó sẽ giúp cho chúng ta những căn cứ để suy nghĩ, tính toán và từ đó có cơ sở để hoạch định chính sánh phát triển làng nghề và ngành nghề trong bối cảnh đổi mới mở cửa, đẩy nhanh nhịp độ phát triển nền kinh tế, xã hội theo hướng công nghiệp hiện đại. 1. Số lượng và quy mô làng nghề tỉnh Hà Nam Hiện nay, Hà Nam có tổng cộng là 40 làng nghề, trong đó có 16 làng nghề truyền thống và 24 làng nghề mới. Xét trên tiêu chí chủng chủng ngành nghề, ở Hà Nam bao gồm các ngành nghề chủ yếu sau: + Làng nghề chế biến nông sản thực phẩm + Làng nghề dệt may + Làng nghề thủ công mỹ nghệ + Làng nghề cơ khí Trong đó làng nghề thủ công mỹ nghệ chiếm 65% tổng số làng nghề hiện có ở tỉnh, đây là nhóm làng nghề đang phát triển rất mạnh mẽ trong toàn tỉnh và sản phẩm của các làng nghề này đang rất được ưa chuộng trên thị trường đặc biệt là thị trường nước ngoài. Làng nghề chế biến nông sản thực phẩm cũng chiếm tới 20% tổng số làng nghề trong tỉnh, làng nghề dệt may chiếm 12,5%, làng nghề cơ khí chiếm 2,5% (chỉ có một làng nghề) . Nếu chia theo nhóm nghề ta có như sau: Mây giang đan,Thêu ren,Sản xuất bánh đa nem, Chế biến lương htực phẩm, Cơ khí, Làm trống, Sừng, Nghề dệ, may, ươm tơ … Trong đó thì chỉ có một số làng nghề là làng nghề truyền thống, còn lại là làng nghề mới. Nổi bật nhất và hiệh đang phát triển mạnh là những làng nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống như: dệt lụa Nha Xá (Duy Tiên), mây giang đan Ngọc Động (Duy Tiên), thêu ren Thanh Hà (Thanh Liêm)… ngoài ra một số làng nghề hiện nay đang hoạt động cầm chừng, sản xuất mang tính chất gìn giữ nghề truyền thống do gặp một số khó khăn trong sản xuất, đặc biệt là khó khăn trong khâu tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên, trong tổng số nghề ở Hà Nam thì làng nghề phát triển tốt chiếm khoảng 35%, khá 40% còn lại là hoạt động cầm chừng. Trong một số làng nghề trước đây chỉ có một nghề thì nay có nhiều nghề thể hiện sự tìm tòi, năng động trong nền kinh tế thị trường nhằm hạn chế những rủi ro trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngành nghề nông thôn tỉnh Hà nam chủ yếu là hình thức hộ gia đình kiêm ngành nghề : chiếm tới 88,12% tổng số cơ sở, hộ tham gia hoạt động ngành nghề nông thôn. Hộ chuyên hoạt động sản xuất sản xuất ngành nghề còn chiếm tỷ lệ nhỏ: 10, 3%. Hộ chuyên hoạt động sản xuất ngành nghề chủ yếu thuộc các làng nghề truyền thống, như làng nghề mây giang đan Ngọc Động (Duy Tiên), làng nghề thêu ren Thanh Hà (Thanh Liêm), làng nghề sản xuất bánh đa nem Nguyên Lý (Lý Nhân), làng nghề lụa Nha Xá (Duy Tiên)... Tuy nhiên, ở các làng nghề truyền thống này thì đa số hộ gia đình vẫn làm nông nghiệp kiêm hoạt động ngành nghề. Đây là đặc thù của vùng nông thôn Việt Nam nói chung và Hà Nam nói riêng. Trong vài năm gần đây cơ cấu, tổ chức sản xuất của một số ngành nghề đã thay đổi. Khác với trước kia, các hộ ngành nghề đều là xã viên hợp tác xã ngành nghề, và các hợp tác xã đứng ra tiêu thụ sản phẩm cho toàn làng nghề. Hiện nay, ở một số làng nghề đã xuất hiện các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, các cơ sở tư nhân làm đầu mối thu gom sản phẩm và giao mẫu hàng cho các họ gia đình. Các hộ gia đình tham gia sản xuất ngành nghề làm vệ tinh cho các doanh nghiệp, cơ sở cùng phát triển. Một số nghề trruyền thốmg mà sản phẩm đang được người tiêu dùng ưa chuộc thì không những các hộ trong làng nghề tham gia sản xuất mà đã có xu hướng mở rộng ra các xã khác, vùng khác. Tuy nhiên, hiện nay chưa có một cơ sở lớn nào đứng ra làm đầu mối thu gom sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm cho các hộ trong toàn làng nghề. Đó là khó khăn lớn nhất đối với làng nghề, nó đã ảnh hưởng đến việc tiêu thụ, thu nhập của hộ sản xuất ngành nghề. Tóm lại, cơ cấu ngành nghề nông thôn nói chung ngành nghề truyền thống nói riêng ở tỉnh Hà Nam vẫn còn nhỏ lẻ, đa số vãn là hộ gia đình ngành nghề kiêm làm nông nghiệp. 2. Lao động và chuyên môn, kĩ thuật của lao động ngành nghề truyền thống Trung bình diện tích canh tác trên nhân khẩu toàn tỉnh là 448 m2/nhân khẩu. Đặc biệt ở một số địa còn rất thấp như ở Thanh Hà (Thanh Liêm) diện tích canh tác bình quân là 346 m2/nhân khẩu; ở Ngọc Động (Duy Tiên) diện tích canh tác chỉ là 324 m2/nhân khẩu; ở Nguyên Lý (Lý Nhân) bình quân 342 m2/nhân khẩu. Cũng chính vì diện tích canh tác thấp (chưa đạt 1 sào Bắc Bộ trên một đầu người) nên lực lượng lao động ngành nghề nông thôn rất lớn. Lực lượng lao động ngành nghề tập trung chủ yếu ở hình thức hộ gia đình làm nông nghiệp kiêm hoạt động ngành nghề (chiếm 73,3% tổng lao động ngành nghề), các thành viên trong gia đình tham gia sản xuất ngành nghề trong những lúc nông nhàn; hộ chuyên ngành nghề ở tỉnh hiện vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ (9,5% tổng lao động ngành nghề). Theo loại ngành nghề thì lực lượng lao động ngành nghề nông thôn tập trung ở hai nhóm chính là sản xuất tiểu thủ công nghiệp- công nghiệp (chiếm 50%) và chế biến lương thực thực phẩm (chiếm 16%). Như vậy, sự phát triển của ngành nghề truyền thống ở tỉnh đã tạo ra hàng nghìn chỗ làm việc cho người nông dân những lúc nông nhàn, giải quyết việc làm tại chỗ cho nông dân mà không phải dời quê hương ra các đô thị lớn kiếm việc làm những lúc nông nhàn. Có thể nói các làng nghề đã có những đóng góp tích cực trong việc nâng cao đời sống văn hoá, tình thần của người dân mà trực tiếp là những lao động nghề. Về trình độ chuyên môn kỹ thuật do hầu hết các nghề là đơn giản nên lao động chủ yếu không được đào tạo hoặc chỉ được học tập qua những lớp ngắn hạn. Các làng nghề truyền thống chủ yếu đào tạo bằng phương thức truyền nghề. Tuy nhiên, do các làng nghề phát triển ngày càng mạnh một số lao động đã tách ra tham gia vào đội ngũ lao động quản lý. Một số trong những người này đã qua các lớp trung cấp, một số có trình độ đại học. Mặc dù vậy, trình độ lao động nhìn chung vẫn còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển. Thực tế cho thấy lao động ngành nghề nông thôn tỉnh Hà Nam phần lớn chưa qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật, đặc biệt là lao động sản xuất nghề truyền thống như mây giang đan, thêu ren…. Tổng số lao động đã tăng lên nhưng số lao động không có chuyên môn kỹ thuật ( lao động tự học) vẫn chiếm phần lớn. Điều này có nghĩa là phần lớn lao động ngành của tỉnh là tự học, tự nâng cao tay nghề trong quá trình sản xuất. Việc mở rộng các lớp đào tạo chuyên môn kỹ thuật ngành nghề hoặc cử lao động đi học ở các trung tâm đào tạo nghề của tỉnh, Trung Ương còn hạn chế. Số lao động là công nhân kỹ thuật, thợ giỏi, thợ cả, nghệ nhân còn chiếm tỷ lệ nhỏ chưa đáp ứng đủ cho quá trình đẩy mạnh phát triển ngành nghề một cách nhanh chóng. Các nghệ nhân, thợ giỏi người có trình độ cao đẳng, đại học trong sản xuất ngành nghề truyền thống của tỉnh hầu như rất ít… Nhìn chung, chất lượng lao động ngành nghề truyền thống của tỉnh còn thấp, thiếu lực lượng lao động có tay nghề cao,đặc biệt là lao động quản lý có trình độ cao. Năng lực đội ngũ lao động quản lý trong các cơ sở ngành nghề có nhiều hạn chế, còn thiếu những hiểu biết về kinh tế thị trường. Trong thời gian tới cần phải có những biện pháp nâng cao chất lượng lao động, nhất là những người quản lý trong các cơ sở chuyên ngành nghề, có như thế thì ngành nghề nông thôn nói chung và ngành nghề truyền thống nói riêng mới có thể phát triển vững chắc được. 3. Vốn đầu tư cho sản xuất ngành nghề. Vốn là yếu tố quan trọng đảm bảo cho các làng nghề, ngành nghề truyền thống hoạt động được trong cơ chế thị trường. Nhu cầu về vốn cho sản xuất ở các làng nghề đòi hỏi ngày càng lớn. Trước đây, vốn của các hộ sẳn xuất kinh doanh trong các làng nghề rất nhỏ bé, thường là vốn tự có của các hộ gia đình hoặc vay mượn bà con họ hàng, láng giềng, nên quy mô sản xuất không được mở rộng. Ngày nay, trong trong điều kiện của nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt, nhu cầu về vốn đã khác trước, đòi hỏi các hộ, cơ sở sản xuất kinh doanh trong các làng nghề phải có lượng vốn khá lớn để đầu tư cải tiến công nghệ, đưa thiết bị máy móc tiên tiến vào một số khâu, công đoạn, khâu công việc có thể thay thế kỹ thuật lao động thủ được. Nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị trường. So với các làng nghề trong cả nước ở Hà Nam mức vốn đầu tư không lớn. Hầu như ở Hà Nam ngành nghề đều có mức đầu tư thấp như: mây giang đan, thêu làm nón.... nhưng đối với các cơ sở thì mức đầu tư tương đối cao đối với các nghề này. Tỷ lệ hộ/cơ sở phải đi vay vốn chiếm từ 25 - 60% trong đó, đối với cơ sở chuyên ngành nghề tỷ lệ vay ngân hàng đạt tỷ lệ cao 76,9% so với 28,53% hộ chuyên và 21,52% hộ kiêm. Như vậy, tỷ lệ vốn vay từ ngân hàng còn rất thấp đối với hộ gia đình hoạt động ngành nghề, nguồn vốn từ các chương trình Nhà nước không đáng kể, mặc dù phát triển ngành nghề nông thôn là một chương trình kinh tế lớn của Hà Nam song xem ra còn thiếu những biện pháp cụ thể như hỗ trợ vốn cho người sản xuất. Yêu cầu về vốn đầu tư ban đầu cho các ngành nghề ở Hà Nam thường không lớn, đây là một thuận lợi cho việc phát triển các làng nghề. Tuy nhiên, để sản phẩm của các ngành nghề có chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường thì chúng ta phải đầu tư nhiều hơn nhất là đầu tư đổi mới công nghệ, xây dựng nhà xưởng. Trong số vốn đầu tư cho trang thiết bị sản xuất không tính đầu tư cho nhà xưởng ở các hộ vì hầu hết ở các làng nghề người ta lấy nhà ở làm nơi sản xuất. Như vậy, vốn đầu tư cho sản xuất ngành nghề nông thôn của các hộ gia đình chủ yếu là vốn lưu động. Như vậy, để tham gia sản xuất ngành nghề nào đó trong tỉnh thì hộ không phải huy động lượng vốn lớn. Trung bình mỗi hộ có khoảng 300 000 đồng- 1 triệu đồng là có thể tham gia sản xuất một nghề nào đó cho một cơ sở. Đây là một thuận lợi nhất lớn cho việc phát triển ngành nghề truyền thống của tỉnh Hà Nam. Tóm lại, hiện nay ngành nghề truyền thống của tỉnh Hà Nam đang gặp khó khăn về vốn để mở rộng sản xuất, lượng vốn hiện vẫn chưa đủ đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh ngành nghề. Do đó tỉnh cần có những biệp pháp hỗ trợ về vốn cho các cơ sở, hộ gia đình nhằm tạo động lực thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của ngành nghề truyền thống trong toàn tỉnh. 4. Sản phẩm, thị trường của sản xuất ngành nghề. 4.1 Sản phẩm. Sản phẩm của ngành nghề nông thôn tỉnh Hà Nam khá phong phú đa dạng, đáp ứng theo yêu cầu của thị trường. Các sản phẩm của ngành nghề chủ yếu đã ở dạng thành phẩm, có thể đem tiêu thụ ngay đến tay người tiêu dùng tong và ngoài nước. Thực tế hiện nay cho thấy một số sản phẩm chủ yếu của ngành nghề truyền thống ở Hà Nam là: sản phẩm mây, giang đan; sản phẩm thêu ren, bánh đa nem; sừng mỹ nghệ, may mặc quần áo, khăn mặt, khăn bông, bún bánh, rượu, sen hồng, sen trắng, dũa cưa, gốm sứ; hương đen, giường tủ, ươm tơ, dệt lụa, thảm đay; đậu phụ, làm nón, làm lông ni giả, làm trống, làm cót... ngoài ra còn có một số loại sản phẩm khác. Trong đó hiện nay phát triển nhất là: thêu ren và mây giang đan với những chủng loại mặt hàng rất phong phú đa dạng. Mặc dù chủng loại sản phẩm ngành nghề rất phong phú đa dạng nhưng chất lượng sản phẩm chưa cao; một số nghề chưa có sản phẩm mạng tính nghệ thuật, truyền thống và đòi hỏi tay nghề của người thợ. Như sản phẩm gốm sứ, mây giang đan, thêu ren... vẫn là những sản phẩm rất giản đơn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lượng sản phẩm của ngành nghề đó. Nhìn chung chất lượng sản phẩm là do trình độ của người lao động quyết định trực tiếp vì hầu hết ngành nghề ở Hà Nam là nghề thủ công, tiếp đến là yếu tố công nghệ, thiết bị (mẫu mã hàng hoá) cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Vậy, nhìn chung sản phẩm của ngành nghề nông thôn tỉnh Hà Nam tuy phong phú, đa dạng nhưng chất lượng sản phẩm không cao, nhiều sản phẩm của làng nghề truyền thống nhưng lại rất giản đơn, chưa mang được tính nghệ thuật, truyền thống. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới việc cạnh tranh trên thị trường đối với sản phẩm cùng loại của điạ phương khác. Nhiều khi các cơ sở chỉ chạy theo những hợp đồng mua bán sản phẩm trước mắt mà không nghĩ tới những sản phẩm có chất lượng cao, đòi hỏi tính nghệ thuật cao, độ tinh xảo của bàn tay người thợ và mang nét đặc trưng của nghề truyền thống, của làng nghề. Đây là một hạn chế rất lớn vì để phát triển lâu dài và bền vững thì cần phải hướng tới những sản phẩm đó. Vì vậy, các cấp, các ngành của tỉnh phải có các biện pháp khuyến khích, tìm thị trường tiêu thụ cho những sản phẩm này, giúp các làng nghề phát triển manh mẽ hơn. 4.2.Thị trường tiêu thụ Việc tiêu thụ sản phẩm cho ngành nghề truỳen thống ở tỉnh Hà Nam chủ yếu được thông qua các cơ sở lớn tập trung ở các làng nghề truyền thống. Đây là những người có vốn, có tay nghề giỏi, có kinh nghiệm buôn bán đứng ra thu gom sản phẩm rồi chuyển đến nơi tiêu thụ hoặc chuyển đến đầu mối tiêu thụ lớn hơn. Hầu hết các sản phẩm của ngành nghề như: thêu ren, mây giang đan, sừng mỹ nghệ... hầu hết được sản xuất theo các hợp đồng xuất khẩu, các cơ sở chưa chủ động được nguồn hàng xuất khẩu. Còn hầu hết các ngành nghề khác chủ yếu là tiêu thụ trong nước. Sau khi thị trường Đông Âu, Nga gặp khủng hoảng sản phẩm làn ra được ứ đọng không tiêu thụ được, nhưng gần đây đã khai thông được một số thị trường lớn: Nhật, Pháp, Đài Loan, Xingapo, Hồng Công... tuy vậy lượng hàng hoá xút khẩu còn nhỏ bé. Nhìn chung thị trường trong nước cũng như thị trường xuất khẩu chưa thật sự ổn định, rất ít mặt hàng tạo ra được ưa thế cạnh tranh lớn trên thị trường thị trường quốc tế. Hơn nữa chúng ta lại chưa có được một chiến lược thị trường lâu dài, các đơn vị sản xuất hoạt động theo kiểu “chộp giật”, thiếu chủ động trong việc tìm kiếm mở rộng thị trường. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế như hiệh nay, đời sống của người dân nhất là ở các thành thị sẽ tăng nhanh, yêu cầu về chất lượng, hình dáng mẫu mã sản phẩm ngày càng cao. Cùng với sức ép cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp thành thị và hàng ngoại nhập thị trường của các làng nghề có nguy cơ bị thu hẹp, vì vậy các làng nghề phải nhanh chóng nghiên cứu, xây dựng chiến lược thị trường lâu dài. Chú ý khai thác các thị trường ngách mà công nghiệp đô thị còn để lại để có thể phát triển mạnh mẽ các loại nghề. III. NHỮNG ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CÁC LÀNG NGHỀ, NGÀNH NGHỀ Ở NÔNG THÔN HÀ NAM 1. Những thành công đã đạt được và kinh nghiệm rút ra từ sự phát triển các ngành nghề, ngành nghề ở tỉnh Hà Nam Từ sự phân tích hình hình phát triển ngành nghề ở nông thôn Hà Nam trong những năm qua ta thấy. Ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở Hà Nam phát triển tương đối ổn định, năm sau cao hơn năm trước trong một khoảng thời gian dài. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo, giúp đỡ của các cấp các ngành, các hoạt động sản xuất ngành nghề truyền thống được khuyến khích phát triển mạnh mẽ. Làng nghề tồn tại và phát triển đã góp phần không nhỏ vào việc nâng cao đời sống của nhân dân trong tỉnh, đặc biệt là nâng cao thu nhập của người nông dân. Những chỉ tiêu kinh tế xã hội mà các làng nghề đã đạt được, khẳng định vai trò to lớn của làng nghề trong việc đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, tiến lên thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn. Số lao động ngành nghề nói chung, ở trong các làng nghề nói riêng không ngừng tăng lên. Các ngành nghề ở nông thôn Hà Nam đã góp phần huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân để đầu tư sản xuất. Chúng khai thác tốt các nguồn lực sẵn có ở địa phương, để tạo thành những sản phẩm có chỗ đứng trên thị trường. Đạt được những kết quả trên là do các yếu tố sau. - Cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp đã quán triệt sâu sắc, nhận thức rõ vai trò, vị trí phát triển nghề và làng nghề trong mối quan hệ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, nên đã tích cực xây dựng các chương trình, các dự án phát triển sản xuất, huy động mọi tiềm lực, tạo điều kiện cho các làng nghề phát triển. - Vốn đầu tư cho cho một chỗ làm việc trong các làng nghề thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp lại tận dụng được cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có của địa phương và mỗi gia đìmh. Sự liên kết, hợp tác sản xuất, tiêu thụ giữa doanh nghiệp và các hộ trong các làng nghề được tăng cường, có tác động tích cực tới tìm kiếm thị trường, kể cả xuất khẩu. - Sức ép ngày càng tăng của việc giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho dân cư, tình trạng mất đất canh tác trong khi dân số ngày càng tăng chính là động lực bên trong quan trọng nhất, thôi thúc người lao động và gia đình họ tìm kiếm việc làm, thậm chí họ chấp nhận mức tiền công rất thấp chỉ 4000-5000 đ/ngày - Đạt được kết quả đó phải kể đến sự mạnh dạn đầu tư dám nghĩ, dám làm năng động bươn trải tìm kiếm thị trường của một số gia đình cũng như cơ sở làm nghề. Chính họ là người có đóng góp lớn vào việc khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống ở mỗi địa phương - Ngoài ra sự phát triển của làng nghề trong những năm qua còn do tốc độ phát triển chung của toàn nền kinh tế tác động lên, thị trường trong nước được mở rộng, cơ sở hạ tầng khá hoàn chỉnh, thuận tiện cho vận chuyển nguyên liệu, giao lưu buôn bán trong tỉnh và toàn quốc. 2. Những khó khăn và vướng mắc chủ yếu Bên cạnh những thành tựu mà các làng nghề đã đạt được, hoạt động của các làng nghề trong những năm qua còn gặp không ít khó khăn, yếu kém. Mặc dù có tốc độ phát triển khá, song thiếu sự ổn định, thiếu cơ sở vững chắc - thị trường trong nước còn nhỏ bé, thị trường quốc tế bị cạnh tranh mạnh mẽ một phần do sản phẩm của ta chưa thật sự đặc sắc, còn đơn điệu,hơn nữa khả năng tiếp thị, giới thiệu sản phẩm của mình với khách hàng còn kém. Nhiều làng nghề phần lớn sản phẩm đang gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ, làm cho sản xuất bị đình trệ cầm chừng. Do số đông dân làng nghề làm ăn tự phát nên chưa nắm bắt nhanh được thị trường, còn hạn chế về dự báo cung- cầu vì vậy ít làng nghề, hộ sản xuất có phương pháp điều tiết mẫu mã, chất lượng, số lượng sản phẩm một cách nhanh chóng theo thay đổi của thị trường. Trong các làng nghề chưa hình thành được sản phẩm mũi nhọn có tính ổn định, giá trị cao chiếm lĩnh được thị trường. Sự phát triển mạnh của các doanh nghiệp tư nhân, Công ty TNHH có nhiều mặt tốt song còn có tình trạng chèn ép gây thiệt hại cho các hộ gia đình sản xuất nghề. Hơn nữa trong tỉnh chưa có sự đồng bộ trong quản lý đối với ngành nghề tiểu thủ công nghiệp nói chung và ngành nghề truyền thống nói riêng. Suốt một thời gian dài gần như không có một cơ quan quản lý và có trách nhiệm với các làng nghề thủ công, vốn đầu tư của Nhà nước chưa nhiều. Có thể nói, từ sản xuất đến tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm đều do các doanh nghiệp, tư nhân, cá thể, hoặc hộ gia đình tự lo liệu, xoay xở. Do vậy, diễn ra tình trạng khá phổ biến là cùng một mặt hàng hoặc sản phẩm nhưng làng nghề nào có được hợp đồng hoặc thị trường tiêu thụ sản phẩm thì nơi đó phát triển được và ngược lại. Một số làng nghề trong quá trình sản xuất gây ô nhiễm môi trường trầm trọng, do công nghệ lạc hậu, hầu hết chưa có thiết bị xử lý chất thải lại sản xuất xen kẽ với dân cư. Những tồn tại trên là do các nguyên nhân sau: -Chúng ta có thể thấy rằng cả nước hiện nay đã có hàng trăm Viện nghiên cứu khoa học nhưng chưa có một Viện chuyên nghiên cứu nghề thủ công mỹ nghệ, chưa có một trường dạy thủ công mỹ nghệ, đào tạo hoặc nghiên cứu kinh tế, kỹ thuật phục vụ cho việc phát triển sản xuất kinh doanh sản phẩm thủ công mỹ nghệ, tương xứng với vị trí, vai trò và tiềm năng to lớn của chúng trong nền kinh tế quốc dân. Có thể nói, các nghề thủ công và các làng nghề vẫn gần như nằm ngoài sự quan tâm của các chương trình khoa học và công nghệ. -Phần lớn các hộ ở nông thôn Hà Nam vẫn coi làm nghề tiểu thủ công nghiệp là một nghề phụ mặc dù có nghề mang lại thu nhập chính cho kinh tế gia đình. Quy mô sản xuất nhỏ vốn đầu tư thấp nên việc cải tiến công nghệ và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tiếp cận thị trường còn hạn chế. -Một thực tế ở các làng nghề hiện nay là mặc dù thiếu vốn song họ không giám mạnh dạn vay vốn của các tổ chức tín dụng, nguyên nhân chính của vấn đề này là do người sản xuất chưa tìm được phương án sản xuất kinh doanh khả thi và có lợi nhuận cao. -Ở hầu hết các ngành tiểu thủ công nghiệp hiện có đầu tư vốn và thiết bị nói chung còn thấp, kỹ thuật sản xuất chủ yếu là thủ công. -Hệ thống quản lý nghề và làng nghề ở nông thôn từ cấp Bộ xuống chưa có sự thống nhất theo ngành dọc. Rõ ràng sự không đồng bộ này sẽ gây nên nhiều khó khăn trong việc triển khai, thực hiện các chương trình hỗ trợ phát triển làng nghề. Sự giúp đỡ của Nhà nước bằng những giải pháp hiện có chưa mang lại hiểu quả mong muốn. Sự chỉ đạo của các cấp quản lý còn nhiều ách tắc PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN NGÀNH NGHỀ TRUYỀN THỐNG TỈNH HÀ NAM I. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH NGHỀ TRUYỀN THỐNG. 1.Quan điểm về phát triển ngành nghề truyền thống. Trước hết cần đánh giá một cách đầy đủ vị trí và vai trò của ngành nghề nông thôn trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội để có chủ trương và chiến lược phát triển đúng đắn. Lịch sử ghi nhận tiểu thủ công nghiệp đã cùng nông nghiệp bảo đảm mọi nhu cầu đời sống của dân tộc từ buổi bình minh dựng nước đến nay. Những sản phẩm của ngành nghề truyền thống là bằng chứng về nền văn hoá, văn minh của dân tộc Việt Nam, dấu ấn vinh quang của lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước. Việc xây dựng một nền công nghiệp của đất nước không thể thiếu vị trí của tiểu thủ công nghiệp. Ngay ở những nước công nghiệp tiên tiến như Mỹ, Anh, Pháp, Nhật...vẫn hết sức coi trọng tiểu thủ công nghiệp và tồn tại với tỷ lệ khá cao. Đối với nước ta, chúng ta bắt đầu đi vào công nghiệp hoá - hiện đại hoá nên càng phải đặc biệt quan tâm đến tiểu thủ công nghiệp, đến ngành nghề truyền thống bởi vì nó có thể kết hợp với đại công nghiệp sản xuất ra một số lượng sản phẩm lớn cho nhu cầu xã hội đáp ứng kịp thời những nhu cầu đa dạng của đời sống kinh tế thị trường, có khả năng thu hút nhiều lao động. Các ngành nghề nông thôn là tiền đề cho phát triển mạnh công nghiệp nông thôn, tiểu thủ công nghiệp cần vốn đầu tư ít, thu lãi nhanh, có sức sống linh hoạt mềm dẻo, có khả năng chuyển hướng sản xuất khi thị trường biến động. Phát triển làng nghề phải gắn với công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Các ngành nghề truyền thống ở nước ta rất đa dạng, được phân bố rộng khắp các vùng trong nông thôn, trong giai đoạn đất nước bước vào công nghiệp hoá - hiện đại hoá đòi hỏi các ngành phải từng bước đổi mới trang thiết bị áp dụng những công nghệ tiên tiến vào sản xuất, dịch vụ. Phát triển các làng nghề, ngành nghề truyền thống phải lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm thước đo. Trước hết nhằm khôi phục lại sản xuất những ngành nghề đã bị mai một, phát triển mạnh những ngành nghề đang còn tồn tại, duy trì và tăng số lượng các ngành nghề tăng số hộ, số lao động trên cơ sở đó tăng sản lượng, sản phẩm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu, về mặt xã hội thì phát triển ngành nghề nhằm tạo thêm nhiều chỗ làm việc mới, góp phần giảm bớt tình trạng thất nghiệp trầm trọng ở nông thôn, tạo điều kiện cho các hộ gia đình và người lao động tăng thu nhập ổn định và cải thiện đời sống... Đi đôi với nâng cao năng suất lao động và phát triển kinh tế của các làng nghề là quá trình không ngừng nâng cao chất lượng của đội ngũ lao động thông qua công tác đào tạo kỹ thuật, tay nghề cho người lao động, bồi dưỡng kiến thức và kinh nghiệm quản lý kinh tế, kiến thức thị trường cho đội ngũ những người quản lý. Chú trọng nâng cao trình độ dân trí văn hoá cho lao động và dân cư trong các làng nghề đặc biệt là lớp trẻ, của các hộ gia đình ngành nghề - đó là lực lượng nòng cốt để duy trì và phát triển các ngành nghề trong tương lai. Phát triển các làng nghề đi đôi với xây dựng và phát triển nông thôn mới, giữ gìn các thuần phong mỹ tục, bảo vệ môi trường sinh thái. Mỗi ngành nghề, làng nghề đều có những nét riêng và đặc trưng riêng cần được giữ dìn bảo tồn. Cùng với phát triển kinh tế, chú ý đến các biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường bảo vệ sức khoẻ, đời sống nhân dân. 2.Mục tiêu, phương hướng chủ yếu Mục tiêu. Phát triển ngành nghề nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và các ngành nghề phi nông nghiệp khác. Góp phần giải quyết việc làm tăng thu nhập cho người lao động, từng bước nâng cao đời sống của nhân dân. Phát triển nghề và làng nghề truyền thống góp phần làm cho công nghiệp - TTCN toàn tỉnh có tốc độ tăng trưởng phấn đấu đến 2010 là 20%/năm công nghiệp và xây dựng vươn lên đạt 35% trong cơ cấu GDP toàn tỉnh. Phát triển ngành nghề nông thôn trong tỉnh hàng năm giải quyết thêm cho từ 7 - 10 nghìn lao động trong khu vực nông thôn. Đến năm 2010 có khoảng 170 - 200 nghìn lao động tham gia sản xuất ngành nghề nông thôn. Đến năm 2010 đạt 800 USD/người/năm. Giá trị sản phẩm ngành nghề nông thôn năm 2010 đạt khoảng 400 - 500 tỷ đồng. Phương hướng chủ yếu Căn cứ vào quan điểm của Đảng và Nhà nước: “Trên cơ sở xúc tiến công nghiệp nói chung, công nghiệp hoá nông thôn nói riêng mà chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng phát triển mạnh, vững chắc, có hiệu quả công nghiệp – dịch vụ ở nông thôn, tăng nhanh tỷ trọng những ngành này trong cơ cấu kinh tế. Phát triển đa dạng công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản với quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, khôi phục phát triển các làng nghề truyền thống…” ( Trích Nghị quyết trung ươngV khóa VII.1993) “ Phát triển ngành nghề, làng nghề truyền thống và các ngành nghề mới, bao gồm tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, công nghiệp khai thác, chế biến nông lâm thuỷ sản, các loại hình dịch vụ phục vụ đời sống nhân dân… Từng bước xây dựng , giữ gìn, phát huy nền văn hoá Việt nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong thời đại mới… ” ( Trích Nghị quyết đai hội Đảng VIII) “ Xây dựng phát triển các làng nghề truyền thồng, làng nghề mớỉ nông thôn chẳng những góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế , phân công lại lao động xã hội, tạo thêm nhiều việc làm mà vấn đề quan trong hơn là làm thay đổi nếp nghĩ, cách nhìn của giai cấp nông dân trong tiến trình phát triển kinh tế xã hội …” Căn cứ vào chủ trương phát triển làng nghề, ngành nghề của tỉnh, dựa trên cơ sở tiềm năng thế mạnh của mỗi huyện thị, mỗi địa phương cùng với nhu cầu thực tế của thị trường trong và ngoài nước… phương hướng phát triển ngành nghề ở nông thôn Hà Nam trong thời gian tới như sau: + Ưu tiên phát triển các nghề thu hút nhiều lao động như: nhóm ngành dệt may thêu, chế biến lương thực thực phẩm, mây tre đan. + Phát triển ngành nghề nông thôn theo hướng đa dạng hoá sản phẩm, đặc biệt chú trọng những sản phẩm có chất lượng cao, mang tính truyền thống đăc trưng của nghề ở tỉnh. + Phát triển ngành nghề nông thôn với tốc độ tăng trưởng nhanh, đồng thời bảo đảm tính phát triển bền vững, bảo vệ được môi trường sinh thái. Trên cơ sở tình hình phát triển ngành nghề của tỉnh trong thời gian qua, hướng phát triển ngành nghề trong thời gian tới năm 2010 của tỉnh Hà Nam tập trung vào vào một số ngành nghề chính sau: + Thêu ren + Mây giang đan + Nghề dâu tằm + Chế biến gỗ - mộc dân dụng, gỗ myc nghệ + Củng cố phát triển một số nghề: dệt, sừng mỹ nghệ, trống, gốm, may. II. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN NGÀNH NGHỀ TRUYỀN THỐNG TỈNH HÀ NAM. 1.Mở rộng thị trường tiêu thụ. Thị trường là vấn đề sống còn quyết định sự thành bại của các làng nghề. Thực tiễn, những cơ sở, những làng nghề đẩy mạnh và phát triển sản xuất đều là những nơi giải quyết tốt được đầu ra. Trong những năm gần đây, thị trường xuất khẩu sang các nước, vùng lãnh thổ như: Hàn Quốc, Đài Loan, Singapo, Nhật Bản và một số nước Tây Âu đã được khai thông, song nhìn chung vẫn chưa tạo lập được các thị trường ổn định và lâu dài. Hầu hết các cơ sở sản xuất vẫn phải tự thân lo liệu tìm kiếm thị trường. Những hạn chế lớn về thị trường đặc biệt là thị trường tiêu thụ sản phẩm đang là nguyên nhân chủ yếu làm giảm tốc độ phát triển của các ngành nghề. Phát triển thị trường ở đây phải căn cứ vào nhiều yếu tố như: Thu nhập của người dân, nhu cầu đối với sản phẩm hiện tại và trong tương lai, cũng như mẫu mã, giá thành sản phẩm... Gắn kết sản phẩm với thị trường là một trong những nội dung quan trọng nhất của chiến lược thị trường. Phát triển thị trường đầu vào (lao động, thông tin, khoa học công nghệ, nguyên vật liệu...) và thị trường sản phẩm cho các làng nghề. Hiện nay doanh nghiệp Nhà nướcbỏ ngỏ thị trường cho các làng nghề, đang để tư thương thao túng. Cần phát triển đa dạng các thành phần kinh tế hoạt động trên thị trường này trong đó nêu cao vai trò của thương nghiệp Nhà nước. Thông qua các hình thức gia công, đặt hàng và hợp tác sản xuất giữa các doanh nghiệp ở thành thị với các cơ sở kinh doanh ở nông thôn để tạo thị trường lớn và ổn định cho các ngành nghề. Tóm lại, để giải quyết tốt vấn đề thị trường cho các ngành nghề truyền thống cần phải có sự nỗ lực từ hai phía, đó là các cơ quan chức năng và các đơn vị sản xuất kinh doanh. - Đối với các cơ quan chức năng. Thứ nhất: Thường xuyên tổ chức hội chợ (trong và ngoài nước), hàng năm dành một phần ngân sách cho hoạt động này. Các huyện, thị nen dành vị trí thuận lợi để tổ chức các trung tâm, các cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm của các ngành nghề. Thứ hai: Tổ chức thông tin, dự báo thị trường tiêu thụ sản phẩm chống ép giá. Sở Thương mại chủ trì phối hợp với các cơ quan quản lý chuyên ngành và các đơn vị sản xuất để có biện pháp cùng nhau tháo gỡ những mướng mắc về thị trường. Tỉnh nên tạo điều kiện cho các đơn vị sản xuất có đủ năng lực được phép xuất khẩu trực tiếp hạn chế các khâu trung gian. Thứ ba: Tỉnh cần có chính sách thông thoáng tạo điều kiện cho việc thành lập các cơ sở chuyên nghề ở nông thôn. Thực tế cho thấy, các cơ sở ngành nghề rất nhanh nhạy trong việc mở rộng tìm kiếm thị trường. Ngành nghề phát triển tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ra đời ngược lại chính các doanh nghiệp đã thúc đẩy các hoạt động ngành nghề phát triển trong thời gian vừa qua. Thứ tư: Cần thực hiện chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất của các ngành nghề, lành mạnh hoá thị trường trong cả nước. Các ngành công an, hải quan, quản lý thị trường cần có biện pháp kiên quyết chống buôn lậu, làm hàng giả và gian lận thương mại. -Đối với các đơn vị sản xuất ngành nghề. Thứ nhất: Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ nhất là cán bộ nghiên cứu thị trường để có được những thông tin nhanh nhất, chính xác nhất về thị trường đặc biệt là thị trường xuất khẩu. Phải chú ý nghiên cứu khai thác các thị trường ngách, phát triển quan hệ gia công cho các doanh nghiệp lớn ở thành thị. Xây dựng một mạng lưới phân phối sản phẩm rộng khắc chú ý tập trung vào các thành phố lớn như: Hà Nội, Hải Phòng.... vì ở đây có sức mua lớn. Thứ hai: Chủ động, tích cực thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã sản phẩm, đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất ngành nghề. Thứ ba: Cùng với kế hoạch tiêu thụ cũng cần quan tâm tới việc bảo đảm nguồn vật tư ổn định lâu dài tại địa phương. Một nguồn nguyên liệu sẵn có tại chỗ, có chất lượng chắc chắn sẽ tạo ra được những sản phẩm có sức cạnh tranh cao trên thị trường. Mối quan hệ giữa người cung cấp nguyên liệu và người sản xuất cũng phải củng cố theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi. 2 Đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất Qua thực tế cho thấy trang thiết bị, công cụ sản xuất đối với các ngành nghề nhìn chung là thô sơ và đơn giản, dùng nhiều sức lao động nên có ưu điểm tận dụng được nhân công rẻ giá thành hạ. Chỉ đổi mới công nghệ sản xuất mới giúp các ngành nghề nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh trên thị trường, mới giúp cho các làng nghề đứng vững và cạnh tranh được với hàng công nghiệp thành thị. Nhưng cũng cần lưu ý rằng việc đổi mới thiết bị và công nghệ mới phải kết hợp chặt chẽ với công nghệ truyền thống thì mới giữ được nét đặc sắc của sản phẩm. Để giúp cho các cơ sở sản xuất có thể đổi mới thiết bị và công nghệ ngoài sự hỗ trợ về vốn để người sản xuất có điều kiện đầu tư mua sắm trang thiết bị Nhà nước cần có sự hỗ trợ trong việc nghiên cứu hoàn thiện công nghệ mới, chế tạo máy móc thiết bị mới hướng dẫn cung cấp thông tin về thiết bị công nghệ ngoại nhập, để người sản xuất có điều kiện chon lọc cho phù hợp. Tổ chức các trung tâm tư vấn chuyển giao công nghệ và các hoạt động hỗ trợ về mặt kỹ thuật và công nghệ cho các ngành nghề truyền thống. Các trung tâm này sẽ tư vấn cho các làng nghề nên sử dụng công nghệ gì, đổi mới ở khâu nào, sử dụng kỹ thuật ra sao … để giúp các làng nghề có thể áp dụng công nghệ thích hợp vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm . Môi giới tổ chức khâu nối các quan hệ hợp tác giữa làng nghề với các cơ quan nghiên cứu khoa học để giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra. Cần khuyến khích mối quan hệ chắt chẽ giữa những cơ sở nghiên cứu với các làng nghề. Đồng thời trong mối quan hệ này cũng cần tạo ra sự liên kết trao đổi thông tin công nghệ giữa các làng nghề với các hình thức tổ chức thích hợp để liên kết chính ngay những người sản xuất trong các làng nghề với nhau. Tuy vậy, cần phải căn cứ vào từng điều kiện cụ thể của từng ngành nghề để lựa chọn phương hướng đổi mới công nghệ cho phù hợp. Cần phải đổi mới công nghệ ở cả phần cứng và phần mềm. Có nghĩa là song song với việc nhập máy móc thiết bị, cần phải nâng cao khả năng tiếp thu sử dụng thiết bị cho người lao động. Trong đổi mới công nghệ nên theo hướng lựa chọn những công nghệ thích hợp là chủ yếu. Cùng với các hoạt động nhằm đổi mới hoặc cải tiến công nghệ sản xuất, các cơ sở ngành nghề phải kết hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương để có biện pháp xử lý tình trạng ô nhiễm một cách tốt nhất. 3. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực cho ngành nghề Để có thể vừa tăng nhanh về số lượng vừa nâng cao được trình độ kỹ thuật tay nghề cho người lao động đáp ứng yêu cầu mở rộng phát triển sản xuất của các làng nghề, đòi hỏi trước hết Nhà nước cần phải mở rộng quy mô đào tạo và đa dạng các hình thức dạy nghề thành lập các trường dạy nghề truyền thống ở bậc Cao đẳng nhằm tạo ra được một đội ngũ những người quản lý những cố vấn kỹ thuật những giám đốc doah nghiệp nhỏ trong các làng nghề. Thành lập các viện nghiên cứu về nghề truyền thống, tổ chức các dịch vụ tư vấn giúp đỡ các cơ sở về mặt kỹ thuật, quản lý kinh doanh, xuất nhập khẩu hoặc pháp luật. Hàng năm tỉnh nên dành một phần kinh phí đầu tư phát triển để hỗ trợ cho việc đào tạo dạy nghề. Tuỳ theo từng trường hợp cụ thể có thể dùng các hình thức sau đây: - Các trung tâm tự dạy nghề do tư nhân tự mở lớp, đào tạo nghề cho những người có nhu cầu. - Khuyến khích các nghệ nhân thợ giỏi dạy nghề, truyền nghề. - Các hiệp hội nghề nghiệp có thể tổ chức ra các trường lớp đào tạo về kỹ thuật quản lý ở trình độ cao nhằm tạo ra những người có trình độ sản xuất kinh doanh giỏi, có khả năng tiếp nhận những nghề mới, cải tiến nghề truyền thống làm hạt nhân cho các làng nghề ở những vùng thuần nông nên lựa chọn hình thức thích hợp để “cấy nghề”. Hướng phát triển nghề là là dạy cho một số hộ làm điểm sáng để lôi kéo những hộ khác trong làng làm theo theo nguyên lý “vết dầu loang”. - Đối với những nghệ nhân là những người tâm huyết với nghề nắm vững bí quyết và kỹ thuật sản xuất phải có chính sách ưu đãi đặc biệt. Hàng năm hoặc vài năm cần tổ chức xét và công nhận trao tặng danh hiệu cao quý tôn vinh nghề nghiệp cũng như thưởng vật chất xứng đáng cho những người thợ giỏi, nghệ nhân, những nhà kinh doanh có tài làm ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao xuất khẩu nhiều cũng như những người có phát minh sáng kiến cải tiến máy móc thiết bị công nghệ sản xuất, góp phần nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. - Nâng cao trình độ văn hoá cho dân cư trong toàn tỉnh nói chung và các làng nghề nói riêng. Cần nghiên cứu kết hợp dạy văn hoá với dạy nghề ở những năm học cuối cấp II,III sao cho họ có thể sống được bằng nghề đó khi thôi không đi học. - Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh các chủ cơ sở ngành nghề nhất là kiến thức về thị trường. 4. Giải pháp về vốn Với quy mô sản xuất nhỏ như hiện nay, vốn đầu tư sản xuất cho các ngành nghề không lớn nhưng việc đầu tư đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm rất khó khăn. Để có vốn sản xuất kinh doanh thì người sản xuất phải dám mạnh dạn vay vốn, phải có phương án kinh doanh khả thi, có lãi đó là điều quan trong nhất. Như vậy, vốn đầu tư cho các ngành nghề có thể huy động từ các nguồn sau: Thứ nhất, huy động vốn tự có của người lao động, theo thống kê hiện nay mức huy động vốn nhàn rối trong dân mới chỉ đạt 36%. ở những làng, xã nghề tuy mức huy động cao hơn song ta có thể thấy rằng vẫn còn một lượng rất lớn vốn nhàn rỗi chưa được huy động ở nông thôn. Vấn đề ở đây là phải tạo được niền tin để thu hút nguồn vốn tồn đọng đó đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Thứ hai, có thể đi vay từ các tổ chức tín dụng, các quỹ hỗ trợ của Nhà nước. Mở rộng hệ thống dịch vụ tín dụng cho khu vực nông thôn tổ chức các quỹ tín dụng chuyên doanh phục vụ phát triển TTCN nông thôn. Hàng năm tỉnh nên có kế hoạch dành một phần vốn nhất định từ nguồn vốn đầu tư phát triển cho vay với lãi suất ưu đãi cho các cơ sở sản xuất TTCN trong các làng nghề mới khôi phục… Đơn giản hoá thủ tục cho vay vốn của các ngân hàng, các quỹ tín dụng hiện nay, các thủ tục cho vay vốn còn nhiều phiền hà tốn nhiều thời gian. Trong các làng nghề, nên phát triển hình thức cho vay qua các tổ chức đoàn thể ở địa phương, thực tế cho thấy đây là mô hình cho vay có hiệu quả. Các ngân hàng thương mại và các quỹ đầu tư phát triển cần phải nâng cao trách nhiệm và tạo điều kiện cho các cơ sở, hộ gia đình làm nghề vay vốn để phát triển sản xuất trên cơ sở thẩm định hiệu quả của các dự án. Giải pháp cuối cùng rất quan trọng là Nhà nước cần tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô ổn định mà trưóc hết là “hâm nóng lại nền kinh tế ” tạo niềm tin cho các nhà đầu tư. Ngoài việc tăng thêm vốn đầu tư của Ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng hỗ trợ cho các cơ sở sản xuất, cần tranh thủ sự đầu tư giúp đỡ của các tổ chức quốc tế qua các dự án đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn. 5. Nhà nước cần hỗ trợ các làng nghề trong việc giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường Sự phát triển sản xuất của các làng nghề đã và đang làm ảnh hưởng xấu tới môi trường sinh thái ở nông thôn. Không giống như các cơ sở công nghiệp thành thị chúng ta không thể chỉ dùng biện pháp hành chính để sử lý tình trạng ô nhiễm mà trước hết phải tuyên truyền giáo dục cho người dân hiểu để cùng hợp tác tìm biện pháp giải quyết. Thông thường trong các làng nghề chỉ một vài công đoạn có gây ra ô nhiễm vd: làng dệt Nhật Tân, Hoà Hậu thì gây ô nhiễm chủ yếu ở khâu tẩy, nhuộm còn làng Thanh Hà thì chủ yếu ở khâu nhuộm, in. Tình trạng ô nhiễm hiện nay chủ yếu do công nghệ sử dụng thủ công quá lạc hậu chính. Mặc dù vậy, trong điều kiện còn nhiều hạn chế các biện pháp ít phức tạp, đỡ tốn kém như đưa nguồn nước thải ra ngoài cánh đồng, xử lý nguồn nước ô nhiễm qua các ao hồ bằng phương pháp tự nhiên vẫn được coi trọng. Tuy nhiên, khả năng đồng hoá chất thải của tự nhiên chỉ có giới hạn, biện pháp lâu dài và chủ yếu là phải xây dựng được hệ thống công trình sử lý chất thải ở trong từng địa phương. Trong đổi mới công nghệ ưu tiên lựa chọn công nghệ ít gây ô nhiễm. 6. Hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật tạo môi trường lành mạnh cho các ngành nghề tồn tại và phát triển Đầu tư xây dựng phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, nâng cao chất lượng của hệ thống giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc Cần có chính sách miễn giảm thuế cho những cơ sở ngành nghề nông thôn mới được thành lập, hoặc mới được khôi phục tuỳ thuộc vào loại nghề loại sản phẩm. Cần có biện pháp khuyến khích các chủ đầu tư người thành phố hoặc ngươi nước ngoài bỏ vốn đầu tư cho công nghiệp nông thôn Chính quyền địa phương tạo điều kiện thuận lợi cho cho việc thuê đất để phát triển ngành nghề nông thôn, giải quyết việc làm cho người lao động Quy hoạch, xây dựng và thực hiện các chương trình tổng quan phát triển nghề và làng nghề ở nông thôn trong thời kỳ dài cho toàn tỉnh, cho từng làng nghề Cần nâng cao vai trò, năng lực của đội ngũ cán bộ ở các xã vì thực tế cho thấy đây là lực lượng có quyết định rất lớn tới sự phát triển của các làng nghề nhất là việc tiếp thu nghề mới. Kết luận Các ngành nghề truyền thống ở Hà Nam nói riêng và cả nước nói chung là những “tài sản” vô giá không chỉ mang ý nghĩa kinh tế mà còn chứa đựng trong đó những giá trị văn hoá văn minh của cả dân tộc . Tuy nhiên, quá trình phát triển của nó cũng trải qua những bước thăng trầm khác nhau. Sự đổi mới từ cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước từ năm 1986 đã tạo ra bước ngoặt quan trọng để phát triển sản xuất nói chung và ngành nghề nông thôn nói riêng. Trong những năm qua các ngành nghề truyền đã có đóng góp to lớn cho công cuộc phát triển kinh tế xây dựng đất nước. Phát triển ngành nghề ở nông thôn là một bước nhằm thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn, tạo việc làm cho lực lượng lao động dư thừa đông đảo ở nông thôn, thu hẹp và tiến tới xoá bỏ đói nghèo, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng “ly nông bất ly hương” hạn chế di dân tự phát ra thành phố, xây dựng nông thôn mới có đời sống vật chất, văn hoá đầy đủ và phong phú. Hiện trạng công nghiệp nông thôn Thái bình còn nhỏ bé và đang đứng trước những thách thức lớn như: khả năng tiếp thị yếu, công nghệ và thiết bị lạc hậu, thiếu vốn, các doanh nghiệp nhà nước hoạt động còn thiếu hiệu quả, doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH… còn ít và non trẻ. Mặt khác, ngành nghề nông thôn có tiềm năng rất lớn như, bề dày các làng nghề truyền thống, tiềm năng về nguyên liệu, lao động dồi dào… Nếu tạo điều kiện và môi trường thuận lợi bằng các chính sách đồng bộ và các giải pháp vĩ mô, ngành nghề nông thôn sẽ phát triển mạnh mẽ. Kiến nghị của sinh viên UBND tỉnh cần phải tổ chức một bộ phận làm công tác quản lý ngành nghề TTCN từ tỉnh đến huyện, xã. Xác định rõ chức năng nhiệm vụ bộ phận này tránh chồng chéo như hiện nay. Tăng cường chỉ đạo trực tuyến và quản lý Nhà nước giúp các địa phương phát triển TTCN và làng nghề. Kiến nghị Nhà nước và cấp Tỉnh nên xem xét ban hành tiêu chuẩn cụ thể về công nhận làng nghề, xã nghề, tiêu chuẩn về phong tặng dạnh hiệu cao quý nghệ nhân, thợ giỏi, cùng với những nghĩa vụ và những chính sách ưu đãi khác. Chỉ đạo và cấp kinh phí cho các huyện, thị xây dựng chương trình dự án đầu tư cụ thể nhằm khai thác tiềm năng của địa phương và thu hút nguồn lực từ bên ngoài. Hàng năm, tỉnh dành một phần kinh phí để hỗ trợ cho việc phát triển mạnh nghề truyền thống, mở rộng và phát triển nghề đã có, đào tạo dạy nghề tìm kiếm mở rộng thị trường … Một số kiến nghị cụ thể Miễn thuế từ 2-5 năm đầu cho những cơ sở ngành nghề nông thôn mới được thành lập. Đối với chủ đầu tư thành phố hoặc người nước ngoài đầu tư vào TTCN ở nông thôn sau thời gian miễn thuế trên sẽ được giảm thuế 50% cho 2-3 năm tiếp theo. Để khuyến khích đổi mới công nghệ thiết bị, giá trị gia tăng do đổi mới công nghệ, thiết bị không phải chịu thuế 2-3 năm đầu. Thành lập các trung tâm phát triển, đào tạo dạy nghề, chuyển giao công nghệ, giới thiệu sản phẩm, cung cấp thông tin thị trường, môi giới… cho các cơ sở chuyên nghề và các hộ ngành nghề ở nông thôn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình “kinh tế nông nghiệp”, “ kinh tế phát triển” và giáo trình “quản trị kinh doanh nông nghiệp” , “lập dự án đầu tư phát triển nông thôn” của trường đại học KTQD 2. “ Bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống Việt Nam” – NXB Thống kê. 3. Sách giáo khoa địa lý lớp 12 – NXB giáo dục. 4. Các bài giảng tại trang web baigiang.bachkim, vietnamnet.com, nongthonvietnam.com, hocmai.vn… 5. “ Tạo việc làm thông qua khôi phục và phát triển làng nghể truyền thống”. NXB Nông nghiệp 2005 6. Kết quả của cuộc điều tra ngành nghề nông thôn Việt nam.1997. Cục chế biền N-L-TS và ngành nghề nông thôn. 7. Báo điện tử đảng cộng sản việt nam,chuyên mục tin kinh tế – làng nghề việt nam, viết ngày 29/09/2008 8. Niên giám thống kê tỉnh Hà nam. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành đề án này, cùng với những kiến thức đã tích luỹ được trong những năm học vừa qua phải kể đến sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của cô giáo hướng dẫn TH.S Đào Thị Ngân Giang và các thầy cô trong khoa. Qua đề án xin chân thành gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong Khoa và biệt cảm ơn Cô giáo TH.S Đào Thị Ngân Giang đã giúp đỡ nhiều nhất trong quá trình làm đề án. Do thời gian tìm hiểu và vốn kiến thức có hạn nên đề án không khỏi mắc khuýêt đỉêm, kính mong các thầy cô sẽ chỉ bảo thêm. Xin chân thành cảm ơn !

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docphat_trien_nganh_nghetruyen_thong_ha_nam_5711.doc
Luận văn liên quan