Đề tài Thực trạng về việc huy động và giải ngân vốn ODA trong nông nghiệp và phát triên nông thôn ở Việt Nam hiện nay cao học

MỤC LỤC Trang LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ODA 3 I) Nguồn vốn ODA. 3 1) Khái niệm ODA 3 2) Đặc điểm của ODA 4 3) Mục đích của ODA 7 4) Thu hút và giải ngân vốn ODA 8 II) Vai trò của vốn ODA đối với nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Việt Nam 10 CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG THU HÚT VÀ GIẢI NGÂN VỐN ODA TRONG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN 13 I) Tình hình thu hút và giải ngân vốn ODA vào ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Việt Nam trong thời gian qua. 13 II) Tình hình giải ngân vốn ODA vào nông nghiệp và phát triển nông thôn 17 III) Một số nguyên nhân dẫn đến thành công, hạn chế trong thu hút và giải ngân vốn ODA trong nông nghiệp và phát triển nông thôn thời gian qua. 21 CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT VÀ GIẢI NGÂN VỐN ODA TRONG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN 24 I) Một số giải pháp về cơ chế chính sách 24 II) Một số giải pháp trong vận động đàm phán, ký kết điều ước quốc tế khung về ODA cho nông nghiệp và phát triển nông thôn 25 III) Một số giải pháp tăng tốc độ giải ngân vốn ODA. 28 1) Hài hoà thủ tục dự án. 28 2) Giải quyết vốn đối ứng. 29 3) Cải thiện chất lượng đầu vào. 30 KẾT LUẬN 31

doc32 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3088 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng về việc huy động và giải ngân vốn ODA trong nông nghiệp và phát triên nông thôn ở Việt Nam hiện nay cao học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Sự nghiệp công nghiệp hoá (CNH), hiện đại hoá (HĐH) đất nước với mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp đã đi được một chặng đường khá dài. Nhìn lại chặng đường đã qua chúng ta có thể thấy rằng chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng tự hào: về cơ bản chúng ta đã thoát ra khỏi tình hình khủng khoảng kinh tế, đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao và không những đạt được những thành tựu về mặt kinh tế mà các mặt của đời sống văn hoá- xã hội, giáo dục, y tế cũng được nâng cao rõ rệt, tình hình chính trị ổn định, an ninh- quốc phòng được giữ vững, các mối quan hệ hợp tác quốc tế ngày càng được mở rộng. Đạt được những thành công đó bên cạnh sự khai thác hiệu quả các nguồn lực trong nước thì sự hỗ trợ từ bên ngoài cũng đóng một vai trò quan trọng và trong đó viện trợ phát triển chính thức (ODA) của các quốc gia và tổ chức quốc tế giữ vai trò chủ đạo. Thực tế tiếp nhận, thực hiện và giải ngân các dự án ODA thời gian qua cho thấy ODA thực sự là một nguồn vốn quan trọng đối với phát triển đất nước nói chung và phát triển nông nghiệp nói riêng ODA đã giúp chúng ta tiếp cận, tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, phát triển nguồn nhân lực để đẩy mạnh hóa công nghiệp trong nông nghiệp. Tuy vậy, để đạt được mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 chúng ta cần phải huy động và sử dụng hiệu quả hơn nữa các nguồn lực cho phát triển, trong đó ODA có một vai trò quan trọng. Do đó, một câu hỏi được đặt ra là liệu chúng ta có thể huy động được nhiều hơn và giải ngân được mạnh hơn nguồn vốn ODA đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn không? Có thể khẳng định ngay điều đó là hoàn toàn có thể. Vậy những giải pháp nào cần được xúc tiến thực hiện để nâng cao hiệu quả thu hút và giải ngân vốn ODA trong nông nghiệp và phát triển nông thôn. Với mong muốn trả lời câu hỏi trên và có một cái nhìn toàn diện hơn về ODA tôi đã chọn đề tài: Thực trạng về việc huy động và giải ngân vốn ODA trong nông nghiệp và phát triên nông thôn ở Việt Nam hiện nay . CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ODA I) Nguồn vốn ODA. 1) Khái niệm ODA Viện trợ phát triển chính thức (ODA) là nguồn vốn hỗ trợ chính thức từ bên ngoài bao gồm các khoản viện trợ và cho vay với các điều kiện ưu đãi: ODA được hiểu là nguồn vốn dành cho các nước đang và kém phát triển, được các cơ quan chính thức của các chính phủ trung ương và địa phương hoặc các cơ quan thừa hành của chính phủ, các tổ chức liên chính phủ, các tổ chức phi chính phủ tài trợ. Vốn ODA phát sinh từ nhu cầu cần thiết của một quốc gia, một địa phương, một ngành, được tổ chức quốc tế hay nước bạn xem xét và cam kết tài trợ thông qua một hiệp định quốc tế được đại diện có thẩm quyền hai bên nhận và hỗ trợ vốn ký kết. Hiệp định quốc tế hỗ trợ này được chi phối bởi công pháp quốc tế. Các đồng vốn bên ngoài chủ yếu chảy vào các nước đang phát triển và chậm phát triển gồm có: ODA, tín dụng thương mại từ các ngân hàng, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) , viện trợ cho không của các tổ chức phi chính phủ (NGO) và tín dụng tư nhân. Các dòng vốn quốc tế này có những mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Nếu một nước kém phát triển không nhận được vốn ODA đủ mức cần thiết để cải thiện các cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội thì cũng khó có thể thu hút được các nguồn vốn FDI cũng như vay vốn tín dụng để mở rộng kinh doanh nhưng nếu chỉ tìm kiếm các nguồn ODA mà không tìm cách thu hút các nguồn vốn FDI và các nguồn tín dụng khác thì không có điều kiện tăng trưởng nhanh sản xuất, dịch vụ và sẽ không có đủ thu nhập để trả nợ vốn vay ODA. 2) Đặc điểm của ODA Như đã nêu trong khái niệm ODA là các khoản viện trợ không hoàn lại, viện trợ có hoàn lại hoặc tín dụng ưu đãi. Do vậy, ODA có những đặc điểm chủ yếu sau: Thứ nhất, Vốn ODA mang tính ưu đãi Vốn ODA có thời gian cho vay (hoàn trả vốn dài), có thời gian ân hạn dài. Chẳng hạn, vốn ODA của WB, ADB, JBIC có thời gian hoàn trả là 40 năm và thời gian ân hạn là 10 năm. Thông thường, trong ODA có thành tố viện trợ không hoàn lại (cho không), đây cũng chính là điểm phân biệt giữa viện trợ và cho vay thương mại. Thành tố cho không được xác định dựa vào thời gian cho vay, thời gian ân hạn và so sánh lãi suất viện trợ với mức lãi suất tín dụng thương mại. Sự ưu đãi ở đây là so sánh với tập quán thương mại quốc tế. Sự ưu đãi còn thể hiện ở chỗ vốn ODA chỉ dành riêng cho các nước đang và chậm phát triển, vì mục tiêu phát triển. Có hai điều kiện cơ bản nhất để các nước đang và chậm phát triển có thể nhận được ODA là: Điều kiện thứ nhất: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người thấp. Nước có GDP bình quân đầu người càng thấp thì thường được tỷ lệ viện trợ không hoàn lại của ODA càng lớn và khả năng vay với lãi suất thấp và thời hạn ưu đãi càng lớn. Điều kiện thứ hai: Mục tiêu sử dụng vốn ODA của các nước này phải phù hợp với chính sách và phương hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ giữa bên cấp và bên nhận ODA. Thông thường các nước cung cấp ODA đều có những chính sách và ưu tiên riêng của mình, tập trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay có khả năng kỹ thuật và tư vấn. Đồng thời, đối tượng ưu tiên của các nước cung cấp ODA cũng có thể thay đổi theo từng giai đoạn cụ thể. Vì vậy, nắm bắt được xu hướng ưu tiên và tiềm năng của các nước, các tổ chức cung cấp ODA là rất cần thiết. Về thực chất, ODA là sự chuyển giao có hoàn lại hoặc không hoàn lại trong những điều kiện nhất định một phần tổng sản phẩm quốc dân từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Do vậy, ODA rất nhạy cảm về mặt xã hội và chịu sự điều chỉnh của dư luận xã hội từ phía nước cung cấp cũng như từ phía nước tiếp nhận ODA. Thứ hai, vốn ODA mang tính ràng buộc ODA có thể ràng buộc (hoặc ràng buộc một phần hoặc không ràng buộc) nước nhận về địa điểm chi tiêu. Ngoài ra mỗi nước cung cấp viện trợ cũng đều có những ràng buộc khác và nhiều khi các ràng buộc này rất chặt chẽ đối với nước nhận. Ví dụ, Nhật Bản quy định vốn ODA của Nhật đều được thực hiện bằng đồng Yên Nhật. Vốn ODA mang yếu tố chính trị: Các nước viện trợ nói chung đều không quên dành được lợi ích cho mình vừa gây ảnh hưởng chính trị vừa thực hiện xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tư vấn vào nước tiếp nhận viện trợ. Chẳng hạn, Bỉ, Đức và Đan Mạch yêu cầu khoảng 50% viện trợ phải mua hàng hoá dịch vụ của nước mình. Canada yêu cầu tới 65%. Nhìn chung 22% viện trợ của DAC phải được sử dụng để mua hàng hoá và dịch vụ của các quốc gia viện trợ. Kể từ khi ra đời cho tới nay, viện trợ luôn chứa đựng hai mục tiêu cùng tồn tại song song. Mục tiêu thứ nhất là thúc đẩy tăng trưởng bền vững và giảm nghèo ở các nước đang phát triển. Động cơ nào đã thúc đẩy các nhà tài trợ đề ra mục tiêu này? Bản thân các nước phát triển nhìn thấy lợi ích của mình trong việc hỗ trợ, giúp đỡ các nước đang phát triển để mở mang thị trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường đầu tư. Viện trợ thường gắn với các điều kiện kinh tế xét về lâu dài, các nhà tài trợ sẽ có lợi về mặt an ninh, kinh tế, chính trị khi kinh tế các nước nghèo tăng trưởng. Mục tiêu mang tính cá nhân này được kết hợp với tinh thần nhân đạo, tính cộng đồng. Vì một số vấn đề mang tính toàn cầu như sự bùng nổ dân số thế giới, bảo vệ môi trường sống, bình đẳng giới, phòng chống dịch bệnh, giải quyết các xung đột sắc tộc, tôn giáo v.v đòi hỏi sự hợp tác, nỗ lực của cả cộng đồng quốc tế không phân biệt nước giàu, nước nghèo. Mục tiêu thứ hai là tăng cường vị thế chính trị của các nước tài trợ. Các nước phát triển sử dụng ODA như một công cụ chính trị: xác định vị thế và ảnh hưởng của mình tại các nước và khu vực tiếp nhận ODA. Ví dụ, Nhật Bản hiện là nhà tài trợ hàng đầu thế giới và cũng là nhà tài trợ đã sử dụng ODA như một công cụ đa năng về chính trị và kinh tế. ODA của Nhật không chỉ đưa lại lợi ích cho nước nhận mà còn mang lại lợi ích cho chính họ. Trong những năm cuối thập kỷ 90, khi phải đối phó với những suy thoái nặng nề trong khu vực, Nhật Bản đã quyết định trợ giúp tài chính rất lớn cho các nước Đông nam á là nơi chiếm tỷ trọng tương đối lớn về mậu dịch và đầu tư của Nhật Bản, Nhật đã dành 15 tỷ USD tiền mặt cho các nhu cầu vốn ngắn hạn chủ yếu là lãi suất thấp và tính bằng đồng Yên và dành 15 tỷ USD cho mậu dịch và đầu tư có nhân nhượng trong vòng 3 năm. Các khoản cho vay tính bằng đồng Yên và gắn với những dự án có các công ty Nhật tham gia. Viện trợ của các nước phát triển không chỉ đơn thuần là việc trợ giúp hữu nghị mà còn là một công cụ lợi hại để thiết lập và duy trì lợi ích kinh tế và vị thế chính trị cho các nước tài trợ. Những nước cấp tài trợ đòi hỏi nước tiếp nhận phải thay đổi chính sách phát triển cho phù hợp vơí lợi ích của bên tài trợ. Khi nhận viện trợ các nước nhận cần cân nhắc kỹ lưỡng những điều kiện của các nhà tài trợ không vì lợi ích trước mắt mà đánh mất những quyền lợi lâu dài. Quan hệ hỗ trợ phát triển phải đảm bảo tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Thứ ba, ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ Khi tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA do tính chất ưu đãi nên gánh nặng nợ thường chưa xuất hiện. Một số nước do không sử dụng hiệu quả ODA có thể tạo nên sự tăng trưởng nhất thời nhưng sau một thời gian lại lâm vào vòng nợ nần do không có khả năng trả nợ. Vấn đề là ở chỗ vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Do đó, trong khi hoạch định chính sách sử dụng ODA phải phối hợp với các nguồn vốn để tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu. 3) Mục đích của ODA ODA là nguồn vốn quốc tế dành hỗ trợ các nước nghèo phát triển kinh tế - xã hội. Từ Hội nghị Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc ngày 6 tháng 9 năm 2000, ODA được cộng đồng quốc tế xác định để phục vụ sự nghiệp phát triển toàn thế giới đạt được Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDGs) đã được các nhà lãnh đạo cấp cao các nước và chính phủ thông qua với 8 tiêu chí cần phải đạt được cho tới năm 2015 là: Xoá bỏ đói nghèo: cụ thể là giảm cơ bản tỷ lệ số người có mức thu nhập thấp dưới 1USD/ngày và xóa đi tình trạng đói nghèo thường xuyên ở các nước đang phát triển. Phổ cập giáo dục tiểu học: đảm bảo đến 2015 tất cả trẻ em, kể cả nam và nữ, đều được đi học các lớp trong bậc tiểu học. Thúc đẩy công tác bình đẳng về giới và quyền của phụ nữ: cụ thể là loại bỏ sự chênh lệch về giới ở các cấp học cho tới năm 2015. Giảm tỷ lệ chết ở trẻ sơ sinh : đến 2015 giảm 2/3 tỷ lệ chết ở trẻ em dưới 5 tuổi. Nâng cao sức khỏe bà mẹ : giảm ¾ tỷ lệ chết bà mẹ vào năm 2015. Đấu tranh chống bệnh HIV/AIDS, bệnh sốt rét và các bệnh khác: đến năm 2015 loại trừ sự lây lan của bệnh HIV/AIDS và loại trừ phạm vi ảnh hưởng của bệnh sốt rét và một số bệnh quan trọng khác. Đảm bảo sự ổn định về môi trường: Thực hiện các nguyên tắc phát triển bền vững vào các chương trình, chính sách phát triển của quốc gia và bảo tồn các nguồn tài nguyên bị đánh mất ở các nước đang phát triển. Đồng thời giảm tỷ lệ người dân không được dùng nước sạch và nâng cao chất lượng cuộc sống cho ít nhất khoảng 100 triệu người dân hiện đang phải sống trong các khu nhà ổ chuột. Phát triển quan hệ đối tác toàn cầu: Mở rộng quan hệ hợp tác, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững các nền kinh tế đang phát triển. Xây dựng hệ thống quản lý nhà nước có hiệu quả trên cơ sở pháp luật và mở cửa với bên ngoài. Phát triển hệ thống tài chính và thương mại trở thành một hệ thống không có sự phân biệt, có thể dự đoán và liên kết với hệ thống tài chính, thương mại quốc tế. Đẩy mạnh phát triển khu vực tư nhân, đào tạo dạy nghề và tạo việc làm cho giới trẻ. 4) Thu hút và giải ngân vốn ODA Thu hút ODA là hoạt động bao gồm các nội dung chuẩn bị danh mục chương trình, dự án ưu tiên vận động ODA, xúc tiến vận động các nhà tài trợ xem xét cung cấp ODA và cuối cùng là đàm phán, kí kết điều ước quốc tế khung về ODA. Liên quan đến vấn đề thu hút ODA có một số khái niệm: + Danh mục chương trình, dự án vận động ODA: là danh mục chương trình, dự án ưu tiên đầu tư có sử dụng nguồn vốn ODA được các ngành và địa phương xây dựng đề cương trong đó nêu rõ sự cần thiết, mục tiêu, kết quả dự kiến đạt được, các hoạt động chủ yếu, thời hạn thực hiện, mức vốn ODA và vốn đối ứng, cơ chế tài chính trong nước đối với việc sử dụng vốn ODA của chương trình, dự án để trình Chính phủ xem xét đưa vào vận động ODA tại các Hội nghị Thường niên Nhóm tư vấn các Nhà tài trợ. + Vận động ODA: là các hoạt động xúc tiến quan hệ và đàm phán với các nhà tài trợ là các tổ chức quốc tế, các nước cung cấp ODA của các cơ quan có trách nhiệm của Chính phủ để được tiếp nhận ODA. + Điều ước quốc tế về ODA: là thoả thuận bằng văn bản được ký kết giữa đại diện của Nhà nước hoặc Chính phủ Việt Nam với đại diện của Nhà tài trợ về các vấn đề có liên quan đến ODA, bao gồm các Hiệp định, Nghị định thư, văn kiện chương trình, dự án và các văn bảo trao đổi giữa các bên có giá trị tương đương. + Điều ước quốc tế khung về ODA: là điều ước quốc tế về ODA có tính nguyên tắc, có nội dung liên quan tới chiến lược, chính sách, khung khổ hợp tác, phương hướng ưu tiên trong cung cấp và sử dụng ODA, những nguyên tắc về thể thức và kế hoạch quản lý thực hiện các chương trình, dự án ODA. + Điều ước quốc tế cụ thể về ODA: là điều ước quốc tế về ODA thể hiện cam kết về nội dung chương trình, dự án cụ thể được tài trợ về mục tiêu, hoạt động, kết quả đạt được, kế hoạch thực hiện, điều kiện tài trợ, vốn, cơ cấu vốn, nghĩa vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên cũng như các nguyên tắc, chuẩn mực cần tuân thủ trong quản lý, thực hiện chương trình, dự án và điều kiện giải ngân, điều kiện trả nợ đối với khoản vay. Giải ngân ODA: Giải ngân ODA là hoạt động phối hợp giữa Nhà tài trợ và bên tiếp nhận ODA để (thực hiện quá trình đưa vốn vào) sử dụng/chi tiêu vốn cho chương trình, dự án đầu tư theo những điều kiện đã được hai bên kí kết. Giải ngân đối với bên tiếp nhận ODA là quá trình rút vốn và sử dụng vốn/ tiêu vốn từ Nhà tài trợ. Do đó khái niệm giải ngân ODA đề cập ở đây không chỉ đơn thuần nội dung tài chính là thủ tục giải ngân hay điều kiện giải ngân mà nó bao gồm tất cả những nội dung liên quan đến quá trình giải ngân đó là nội dung quản lý, kỹ thuật, đầu tư và tài chính của dự án. II) Vai trò của vốn ODA đối với nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Việt Nam Đối với lĩnh vực phát triển nông nghiệp nông thôn nước ta, do đất nước còn nghèo, dân số làm nông nghiệp và sống ở nông thôn chiếm tỷ lệ lớn hơn 70%, sản xuất nông nghiệp còn lạc hậu. Vì vậy thúc đẩy thu hút và giải ngân ODA trong NN&NT ngoài ý nghĩa chung còn có những ý nghĩa phục vụ cho PTNN&NT như: Tận dụng hiệu quả điều kiện ưu đãi của nguồn vốn ODA để đầu tư các công trình công cộng mà ngoài Nhà nước và các tổ chức phi lợi nhuận ra không có thành phần kinh tế nào làm như các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng lớn thủy lợi, đường giao thông, điện nông thôn, nước sạch. Thúc đẩy thu hút ODA sẽ tạo ra nguồn vốn khá lớn để đầu tư cho các chương trình, dự án phát triển nông nghiệp nông thôn dài hạn và cần nguồn vốn lớn như chương trình xóa đói giảm nghèo, phát triển mạng lưới điện nông thôn, nước sạch nông thôn… trong điều kiện vốn ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp và phải bố trí cho nhiều mục tiêu và lĩnh vực. Nông thôn là khu vực lãnh thổ có điều kiện tự nhiên phân dị phức tạp gồm nhiều vùng cảnh quan sinh thái, nhiều vùng phát triển kinh tế- xã hội có trình độ khác nhau, nhiều dân tộc. Phát triển nông nghiệp nông thôn là lĩnh vực tổng hợp, phức tạp bao gồm nhiều vấn đề phải giải quyết trên tất cả các ngành, lĩnh vực (kinh tế- xã hội- môi trường). Đây là đặc điểm rất phù hợp với các dự án ODA từ nhiều nguồn, nhiều Nhà tài trợ khác nhau nên có qui mô đầu tư, mục tiêu dự án và các dự án ưu tiên đa dạng. Do đó thúc đẩy thu hút ODA vào phát triển nông nghiệp nông thôn chính là khai thác hiệu quả không chỉ nguồn vốn mà còn là tính chất đa dạng về hình thức, qui mô, mục tiêu, phương pháp dự án từ nhiều nguồn khác nhau. Thúc đẩy thu hút ODA vào phát triển nông nghiệp nông thôn còn thể hiện sự quan tâm của Chính phủ đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường, cải thiện đời sống nhân dân ở nông thôn, thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị. Từ đó giữ ổn định xã hội, chính trị, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. Thúc đẩy các dự án giải ngân nhanh và đúng kế hoạch có tác dụng đảm bảo phục vụ kịp thời mùa vụ thu hoạch, phòng tránh thời tiết mưa bão, hạn hán xảy ra trong năm. Giải ngân nhanh góp phần giải quyết kịp thời những vấn đề cấp thiết cho nhân dân ở các vùng nông thôn, các vùng sâu vùng xa như nước sạch, phòng chống bệnh dịch,cứu hạn, chống lũ lụt, ... mà nếu chậm trễ có thể ảnh hưởng đến an toàn tính mạng và thiệt hại nặng nề về tài sản của nhân dân. Giải ngân nhanh các dự án ODA trong nông nghiệp nông thôn cũng có nghĩa tăng nhanh tốc độ dòng vốn, dự án đầu tư vào nông nghiệp nông thôn từ đó thúc đẩy nhanh hơn tốc độ phát triển và cải thiện đời sống nông dân phần lớn đang còn gặp rất nhiều khó khăn ở nước ta. CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG THU HÚT VÀ GIẢI NGÂN VỐN ODA TRONG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN I) Tình hình thu hút và giải ngân vốn ODA vào ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Việt Nam trong thời gian qua. Thời gian qua, song hành và đóng góp lớn vào thành công chung của ngành nông nghiệp có hiệu quả từ sử dụng nguồn vốn ODA của cộng động quốc tế. Cho đến thời điểm này, các dự án ODA đã rất phù hợp với các chiến lược, kế hoạch phát triển của ngành NN&PTNT. Đó là nguồn lực bổ sung quan trọng và không thể thiếu với một bộ đa ngành và chịu nhiều rủi ro với những tác động tiêu cực của thiên nhiên và điều kiện ngoại cảnh. Thực tế, giai đoạn 2003 – 2008, nguồn vốn ODA đã đóng góp lớn vào công cuộc phát triển nông nghiệp Việt Nam như: xây dựng, nâng cấp, sửa chữa các công trình thuỷ lợi, giao thông nông thôn, nước sạch nông thôn, các chương trình dự án xoá đói giảm nghèo, tăng cường hệ thống khoa học nông nghiệp… Theo số liệu thống kê của Bộ NN-PTNT, 15 năm qua ngành nông nghiệp đã thu hút được 41 nhà tài trợ tham gia với tổng số vốn 5,5 tỷ USD, chiếm 15,66% tổng vốn ODA dành cho Việt Nam. Số vốn này chủ yếu được Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Ngân hàng Thế giới (WB), Cơ quan Phát triển Pháp (AFD), Tổ chức Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) và Ngân hàng tái thiết Đức (KWF) thực hiện. Hầu hết vốn ODA tập trung vào lĩnh vực thủy lợi (40%), nông nghiệp (23%), lâm nghiệp (19%)... Cụ thể : Tình hình thu hút các dự án ODA trong ngành lâm nghiệp Các dự án ODA thu hút vào ngành lâm nghiệp thời kỳ vừa qua có số lượng đúng bằng số các dự án thu hút vào nông nghiệp với 44 dự án. Về số lượng các dự án ODA lâm nghiệp cũng như nông nghiệp chỉ đứng thứ hai sau lĩnh vực phát triển nông thôn. Các dự án ODA về lâm nghiệpchủ yếu tập trung vào các mục tiêu bao gồm: đầu tư trực tiếp hỗ trợ và phát triển sản xuất lâm nghiệp như trồng rừng có 9 dự án chiếm 20,5% số lượng dự án, xây dựng vùng đệm và bảo vệ rừng có 10 dự án chiếm 22,7% số lượng dự án. các dự án mục tiêu hỗ trợ công tác quản lý và xây dựng chính sách có số lượng lớn nhất gồm 12 dự án chiếm 27,3% số dự án lâm nghiệp. Các mảng khác như chuyển giao kỹ thuật, lâm nghiệp xóa đói giảm nghèo và phát triển cộng đồng có tổng số 13 dự án chiếm 29,5% số dự án ODA thu hút vào lâm nghiệp. Nhìn chung cơ cấu thu hút các dự án ODA theo mục tiêu trong ngành lâm nghiệp khá hài hòa. Hạn chế lớn nhất đối với thu hút các dự án ODA trong lâm nghiệp là chưa có các dự án về tín dụng lâm nghiệp phục vụ cho trồng rừng sản xuất, mặc dù đây đang là vấn đề khó khăn cho phát triển sản xuất lâm nghiệp ở nhiều nơi hiện nay do đầu tư cho trồng rừng kinh tế cần vốn lớn và thời gian hoàn vốn lâu. Nếu có được dự án tín dụng ưu đãi từ nguồn ODA sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ nông dân tích cực phát triển làm kinh tế rừng. Ngoài ra để bảo vệ rừng công tác định canh định cư là rất quan trọng, tuy nhiên số dự án ODA lâm nghiệp có hợp phần định canh định cư còn ít mới chiếm 11,4% số lượng dự án lâm nghiệp do đó phần nào làm hạn chế đến hiệu quả của nguồn ODA vào phát triển lâm nghiệp nói chung và trong mục tiêu bảo vệ rừng nói riêng. Tình hình thu hút các dự án ODA trong ngành thủy lợi Tổng số các dự án ODA được thu hút vào thủy lợi đến đầu năm 2003 có 19 dự án trong đó về đầu tư xây dựng các công trình thủy lợi có 13 dự án chiếm 68,4% số lượng dự án và về hỗ trợ quản lý đào tạo, xây dựng chính sách có 6 dự án chiếm 31,6% số dự án. Thu hút các dự án ODA về thủy lợi có sự chênh lệch khá lớn giữa các vùng. Phần lớn số lượng dự án và vốn đầu tư tập trung vào vùng ĐBSH sau đó là ĐBSCL. Vùng MNTDPB, Tây Nguyên và ĐNB là những vùng thiếu nước cho sản xuất nông nghiệp nhưng lại không có dự án nào ngoại trừ Tây Nguyên có 1 dự án. Các dự án ODA nhóm A về xây dựng công trình thủy lợi được thu hút và phân bổ tập trung cho hai vùng sản xuất nông nghiệp trọng điểm của cả nước là ĐBSH và ĐBSCL. Song giữa hai vùng cũng có sự chênh lệch khá lớn về số lượng dự án và số lượng vốn đầu tư. Cụ thể vùng ĐBSH có các dự án về khôi phục hệ thống thủy lợi (ADB, 1995- 2001) và thủy lợi lưu vực ĐBSH (ADB, 2002-2007 và Pháp, 2002- 2008) với tổng vốn ODA là 160 triệu USD trong khi đó vùng ĐBSCL chỉ có 1 dự án phát triển thủy lợi ĐBSCL (WB,1999- 2004) với số vốn 101,8 triệu USD. Vùng ĐBSH sản xuất nông nghiệp gắn với hệ thống đê điều lớn và phức tạp do đó việc củng cố đê điều, kênh mương là cần thiết, song đối với vùng ĐBSCL vấn đề mặn hóa, phèn hóa cần đầu tư cho thủy lợi để mở rộng sản xuất nông sản hàng hóa cho vùng đồng bằng giàu tiềm năng nhất cả nước về sản xuất nông nghiệp này cũng không kém phần quan trọng. Vì vậy, thu hút các dự án ODA về thủy lợi vào vùng ĐBSCL ở mức như hiện nay là chưa hợp lý, cần phải ưu tiên đẩy mạnh hơn nữa trong thời gian tới. Tình hình thu hút các dự án ODA trong ngành Thủy sản: Về số lượng vốn đầu tư, thủy sản là ngành thu hút được ít vốn ODA nhất trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Từ 1994 đến hết 2002, toàn ngành mới thu hút được 26 dự án với tổng số vốn 142,67 triệu USD chiếm 5,13% tổng số ODA thu hút vào phát triển nông nghiệp nông thôn trong cùng thời kỳ. Cơ cấu các dự án ODA phân theo mục tiêu trong ngành thủy sản có sự mất cân đối lớn về số lượng. Các dự án mục tiêu hỗ trợ quản lý và xây dựng chính sách có tới 10 dự án chiếm 38,5% tổng số dự án. Số lượng dự án mục tiêu dịch vụ chế biến sau thu hoạch có 9 dự án chiếm 34,6% tổng số dự án. Các mảng khác về xây dựng cơ sở hạ tầng có 3 dự án, chuyển giao kỹ thuật có 2 dự án và hỗ trợ phát triển sản xuất có 2 dự án. Như vậy về số lượng, các dự án mục tiêu về chuyển giao kỹ thuật và đầu tư hỗ trợ sản xuất còn chiếm tỷ lệ quá thấp và chưa tương xứng so với yêu cầu thực tế hiện nay trong ngành thủy sản. Mặt khác, thủy sản tuy là ngành đang phát triển mạnh, song sản phẩm tăng nhanh chủ yếu do nuôi trồng. Khai thác đánh bắt nhất là đánh bắt xa bờ vẫn tăng rất chậm và gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên thời kỳ vừa qua ngành thủy sản chưa thu hút được dự án ODA nào đầu tư cho mảng chuyển giao kỹ thuật và hỗ trợ khai thác đánh bắt xa bờ, đây là một hạn chế lớn trong thu hút các dự án ODA của ngành thủy sản. Tình hình thu hút các dự án ODA về phát triển nông thôn: Phát triển nông thôn là lĩnh vực thu hút được số lượng dự án và số lượng vốn ODA lớn nhất trong phát triển nông nghiệp nông thôn. Tính đến tháng 12/2002 lĩnh vực này đã thu hút được 114 dự án ODA các loại với tổng số vốn 1.357,11 triệu USD chiếm 46,2% tổng số dự án và 48,8% số lượng vốn ODA trong nông nghiệp nông thôn. Các dự án ODA về phát triển nông thôn khá đa dạng, từ đầu tư hỗ trợ phát triển sản xuất đến xây dựng cơ sở hạ tầng, bảo vệ môi trường, xóa đói giảm nghèo, xây dựng chính sách đến phát triển văn hóa xã hội như xây dựng hệ thống phát thanh, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe sinh sản, hỗ trợ các hoạt động của đại biểu dân cử ở một số tỉnh và địa phương trong nước. Về số lượng các dự án ODA phát triển nông thôn tập trung vào 3 mảng lớn là phát triển văn hóa- xã hội có 28 dự án chiếm 24,6% số lượng dự án, hỗ trợ quản lý xây dựng chính sách các ngành liên quan đến phát triển nông thôn có 26 dự án chiếm 22,8% số lượng dự án và hỗ trợ xóa đói giảm nghèo có 13 dự án chiếm 11,4% số lượng các dự án. Đặc biệt trong số các dự án phát triển nông thôn có 9 dự án tín dụng nông thôn như về xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, tín dụng cho người nghèo, phát triển quĩ tín dụng vừa và nhỏ ở nông thôn, tín dụng dành cho phát triển nông thôn với tổng số vốn 391,7 triệu USD. Số lượng các dự án ODA thu hút vào phát triển nông thôn tuy nhiều nhưng nhìn chung còn manh mún, nhỏ lẻ, số dự án có vốn đầu tư dưới 1 triệu USD có đến 40 dự án chiếm 35,1% số lượng các dự án PTNT. Số dự án phát triển nông thôn tổng hợp như phát triển toàn diện mô hình một xã còn ít. Phát triển nông thôn hiệu quả thường phải là các dự án đa mục tiêu có nhiều hợp phần đầu tư nhưng số dự án có vốn đầu tư từ 5 triệu USD trở lên vào PTNT chưa nhiều mới chỉ có 34 dự án chiếm 29,8% tổng số các dự án ODA phát triển nông thôn. II) Tình hình giải ngân vốn ODA vào nông nghiệp và phát triển nông thôn Tổng nguồn vốn ODA dành cho ngành nông nghiệp khá lớn nhưng quy mô các dự án nhỏ, những dự án có số vốn 70 - 100 triệu USD chỉ chiếm 1,7%; trên 100 triệu USD chiếm 1,3%. Việc thực hiện các dự án ODA còn rất nhiều hạn chế, như thiếu định hướng tổng thể về thu hút và sử dụng ODA cho ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn; phân bổ nguồn vốn chưa đều giữa các vùng trong cả nước; chưa có đội ngũ chuyên môn quản lý nguồn vốn ODA; năng lực quản lý vốn, tạo sự liên kết giữa việc lập kế hoạch, ngân sách... của cán bộ địa phương các cấp còn yếu kém. Những hạn chế trên đã dẫn tới căn bệnh kinh niên của các dự án ODA trong ngành nông nghiệp: giải ngân chậm. Đây chính là yếu tố khiến một số nhà tài trợ nản lòng, thậm chí đòi cắt giảm cam kết ODA cho nông nghiệp trong thời gian tới. Năm 2009, trong số 10 dự án ODA dùng vốn WB chậm giải ngân, riêng bộ NN-PTNT có tới 4 dự án. Một ví dụ điển hình là dự án nguồn tài nguyên nước 157,8 triệu USD, mới giải ngân được gần 20% sau hơn 5 năm thực hiện, do thiếu nguồn vốn đối ứng cho đền bù và tái định cư; lạm phát đã khiến nguồn vốn thực hiện dự kiến thiếu khoảng 93 triệu USD. Phần lớn các dự án ODA cho nông nghiệp WB thực hiện ở Việt Nam chậm ít nhất 2 năm, bởi thời gian để thành lập các ban quản lý dự án quá chậm. Tình hình giải ngân vốn ODA trong lâm nghiệp Ngành lâm nghiệp đến tháng 12/2002 có 14 dự án GNC không đúng kế hoạch, chiếm 29,8% số dự án ODA CGN trong lĩnh vực NN&NT. Đây là ngành đang xảy ra tình trạng giải ngân chậm ODA nặng nề nhất, chỉ đứng sau lĩnh vực PTNT về số lượng dự án GNC và là ngành ngành có tỷ lệ dự án CGN trên số dự án kí kết cao nhất trong các ngành PTNN&NT là 31,8%. Nguyên nhân cơ bản của tình hình này là do dặc thù của các dự án lâm nghiệp thường triển khai ở diện rộng, điều kiện địa bàn khó khăn về đi lại, dân cư chủ yếu là đồng bào dân tộc trình độ lạc hậu. Trong số các dự án lâm nghiệp GNC có 9 dự án đầu tư theo vùng và 5 dự án liên vùng. Các dự án lâm nghiệp GNC theo vùng nằm ở các vùng Miền núi trung du phía bắc có 4 dự án, Bắc Trung Bộ có 2 dự án và vùng ĐBSCL có 3 dự án. Các dự án lâm nghiệp GNC phần lớn đều là các dự án phát triển lâm nghiệp kết hợp PTNT tổng hợp, dự án có nhiều hợp phần phức tạp. Đối với các dự án liên vùng số vốn đầu tư thường lớn, nhiều dự án nhỏ triển khai ở nhiều tỉnh như dự án Phát triển khu vực lâm nghiệp (ADB, 40 triệu USD) thực hiện ở các tỉnh Thanh Hóa, Quảng Trị, Gia Lai, Phú Yên nằm trên 3 vùng khác nhau trong nước do đó việc tổ chức triển khai dự án và hoàn tất các thủ tục về quản lý dự án như tài chính, đấu thầu liên quan đến nhiều đầu mối, nhiều nội dung thực hiện vì vậy khó đảm bảo được tiến độ đề ra trong khi thời gian thực hiện chỉ trong 5 năm. Ngoài ra đối với các dự án lâm nghiệp GNC theo vùng, nguyên nhân giải ngân chậm một phần còn do năng lực tổ chức và quản lý của các Ban quản lý dự án nhất là ở các Ban quản lý dự án ở địa phương còn hạn chế. Tình hình giải ngân các dự án ODA trong thủy lợi: Thủy lợi là ngành có số dự án ODA được kí kết ít nhất trong các ngành PTNN&NT, song các dự án ODA về thủy lợi là các dự án có số lượng ODA rất lớn. Vì vậy các dự án ODA thủy lợi giải ngân chậm có ảnh hưởng nhiều đến tốc độ giải ngân ODA nói chung trong lĩnh vực NN&NT. Với 5 dự án GNC thủy lợi là ngành có số dự án GNC chiếm tỷ lệ thấp nhất 10,6% trong tổng số các dự án GNC trong NN&NT nhưng tỷ lệ dự án GNC trên tổng số dự án kí kết lại ở mức cao 26,3% đứng thứ hai sau lâm nghiệp. Như vậy, cùng với lâm nghiệp thủy lợi là ngành mà vấn đề chậm giải ngân đang là vấn đề lớn cần nhanh chóng có biện pháp giải quyết. Nguyên nhân chủ yếu làm các dự án thủy lợi GNC là do các dự án đều phải xây dựng công trình với vốn đầu tư lớn hàng chục triệu USD, tổng vốn đầu tư của các dự án cũng rất lớn như dự án Phát triển thuỷ lợi Đồng bằng sông Cửu Long (WB, 101,8 triệu USD) cộng thêm vốn đối ứng trong nước 25,2 triệu USD, dự án Khôi phục thuỷ lợi miền Trung và TP.HCM (WB, 100 triệu USD) với vốn đối ứng trong nước 18,6 triệu USD. Thêm vào đó, quá trình triển khai dự án liên quan đến nhiều cơ quan, đối tác và phải thực hiện nhiều nội dung, thủ tục như di dân, giải phóng mặt bằng, thiết kế, xây dựng, cung ứng vật tư, đấu thầu, tính giá. Vì vậy, quá trình giải ngân của các dự án thủy lợi chịu ảnh hưởng nhiều các yếu tố khách quan và chủ quan như giá cả vật tư lên xuống, thời tiết, giao thông đi lại, giải phóng mặt bằng, cơ chế thủ tục tài chính, đầu tư do đó việc triển khai xây dựng công trình cũng như giải ngân dự án theo đúng tiến độ gặp nhiều khó khăn. Tình hình giải ngân các dự án ODA trong ngành thủy sản: Về dự án GNC ngành thủy sản có số lượng dự án bằng với nông nghiệp là 6 dự án chiếm 12,8% số dự án GNC trong lĩnh vực NN&NT. Tuy nhiên tỷ lệ dự án GNC trên dự án kí kết của ngành lại khá cao 23,1% đứng thứ ba sau lâm nghiệp và thủy lợi. Các dự án GNC trong ngành Thủy sản đáng chú ý phần lớn đều là các dự án có số vốn đầu tư nhỏ và do trực tiếp Bộ Thủy sản quản lý, trong đó có 5 dự án về hỗ trợ kỹ thuật phục vụ công tác đào tạo, quản lý và xây dựng thể chế chính sách. Lý do chính làm các dự án này giải ngân chậm là do các báo cáo kết quả nghiên cứu của dự án phải chỉnh sửa nhiều lần và thời gian chờ phê duyệt kéo dài. Nguyên nhân chủ yếu do chất lượng điều tra, nghiên cứu của các dự án chưa bảo đảm và khâu tổ chức thực hiện dự án còn yếu. Tình hình giải ngân các dự án về phát triển nông thôn: Phát triển nông thôn là lĩnh vực có số lượng dự án và ODA đầu tư lớn gấp nhiều lần các ngành khác vì vậy đây cũng là lĩnh vực có số dự án GNC lớn nhất trong số các ngành PTNN&NT. Số dự án GNC về PTNT đến đầu năm 2003 có 16 dự án, chiếm 34% tổng số các dự án GNC trong PTNN&NT. Tuy nhiên đáng chú ý, PTNT lại là lĩnh vực có tỷ lệ thấp so với các ngành khác về số lượng dự án GNC trên tổng số dự án được kí kết là 14%. Trong 16 dự án PTNT giải ngân chậm có 4 dự án về tín dụng và tài chính, 4 dự án gắn với đầu tư xây dựng CSHT, 3 dự án về XĐGN, 3 dự án về hỗ trợ các đối tượng chính sách xã hội phát triển sản xuất, 1dự án về văn hóa thông tin và 1 dự án về môi trường. Nguyên nhân làm các dự án PTNT giải ngân chậm một phần do hầu hết các dự án này đều tập trung hoặc có hợp phần phải triển khai thực hiện ở vùng MNTDPB là vùng có điều kiện địa bàn khó khăn cho thực hiện các dự án. Phần khác chủ yếu nằm ở khâu kỹ thuật thiết kế và thực hiện dự án chưa hợp lý và đảm bảo tính khả thi. Chẳng hạn như các dự án XĐGN giải ngân chậm là do việc xây dựng các mô hình XĐGN còn chưa hoàn toàn phù hợp ở một số địa bàn hoặc xây dựng mô hình sản xuất thiếu tính toán hợp lý đầu ra dẫn đến khi nhân rộng ít thu hút được sự tham gia hưởng ứng của nông dân phải thay đổi, làm lại tốn nhiều thời gian. Đối với các dự án tín dụng nông thôn việc cho vay đồng bào gặp nhiều vướng mắc về thủ tục cho vay và mắc ở khâu sản xuất, đồng bào không biết làm gì trong khi đó các dự án tín dụng lại không có hợp phần hỗ trợ phát triển sản xuất và xây dựng mô hình. III) Một số nguyên nhân dẫn đến thành công, hạn chế trong thu hút và giải ngân vốn ODA trong nông nghiệp và phát triển nông thôn thời gian qua. Phát triển NN&NT là một trong những lĩnh vực được Nhà nước ta và các Nhà tài trợ rất quan tâm và ưu tiên dành cho nhiều dự án ODA. Việc thu hút các dự án ODA trong phát triển NN&NT thời kỳ vừa qua cũng được các Bộ, ngành liên quan và các địa phương nỗ lực đẩy mạnh và ở nhiều nơi đã thu được những kết quả tích cực về phát triển NN&NT như xóa đói giảm nghèo, đảm bảo ANLT, phát triển sản xuất nông sản hàng hóa, bảo vệ và phát triển rừng, tăng cường các điều kiện về cơ sở vật chất hạ tầng nông thôn. Song bên cạnh đó, thu hút và giải ngân ODA trong NN&NT còn có những hạn chế nhất định, nổi lên một số vấn đề như sau: - Ngành nông nghiệp chưa chủ động trong việc lập kế hoạch, đưa ra danh mục ưu tiên kêu gọi đầu tư. Hầu hết các dự án ưu tiên đều do các nhà tài trợ đưa ra, sau đó phía Việt Nam mới xây dựng kế hoạch thực hiện, nên sau khi hiệp định ký kết tài trợ có hiệu lực mới bắt đầu triển khai các hoạt động, xây bộ máy quản lý nên cần có tiền để nuôi bộ máy này hoạt động. Nếu WB chưa ứng tiền, sẽ không thể hoạt động được", số tiền đó phải và mượn máy móc, thiết bị của dự án khác để hoạt động. Tuy nhiên, đây chỉ là một trong những lý do dẫn đến việc hấp thụ nguồn vốn ODA vào nông nghiệp khó khăn. Nhiều phân tích đã chỉ ra rằng việc thiếu vốn đối ứng, cũng như năng lực thực hiện của phía Việt Nam còn yếu là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tiến độ giải ngân bị chậm. Một nguyên nhân nữa ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện chương trình, dự án ODA là năng lực nhà thầu và tư vấn không đáp ứng được yêu cầu công việc. Trong khi đó, tác động của lạm phát trong các năm 2007 - 2008 dẫn đến tình trạng thiếu hụt vốn ODA và vốn đối ứng. Cơ chế bố trí vốn đối ứng giữa trung ương và địa phương chưa phù hợp. Trong các hiệp định ký kết, địa phương cam kết tự cân đối vốn đối ứng được thực hiện theo các tỷ lệ khác nhau (100%, 80%, 60%,...) tùy theo từng vùng (Tây Nguyên, ĐBSCL...) trên cơ sở các quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, vốn về địa phương đã chưa được sử dụng đúng mục đích. Thời gian chuẩn bị thực hện các dự án đầu tư bằng vốn ODA thường kéo dài từ 2 - 3 năm dẫn đến việc dự án phải điều chỉnh và chịu tác động của nhiều yếu tố, đặc biệt về giải phóng mặt bằng, tái định cư và biến động về giá cả, chi phí làm cho tổng đầu tư tăng lên rất nhiều so với mức ban đầu. Trong điều kiện nguồn vốn ODA đã ký kết không thay đổi, đây sẽ là một sức ép lớn đối với việc bố trí vốn đối ứng, làm ảnh hưởng đến tiến độ triển khai thực hiện dự án. Việc xúc tiến, vận động ODA cho PTNN&NT còn chưa được tổ chức và đầu tư thích đáng ở một số địa phương, nhất là ở nhiều tỉnh miền núi. Đối với các Bộ, ngành hoạt động xúc tiến vận động ODA còn tập trung quá nhiều vào Bộ KH&ĐT và trông chờ phụ thuộc vào tư vấn quốc tế và các Nhà tài trợ. Việc chuẩn bị dự án về điều tra, thiết kế lập dự án tiền khả thi còn yếu ở các địa phương kể cả trong một số ngành. Nhiều dự án khi đưa lên trình duyệt thiếu tính thuyết phục, luận chứng không rõ ràng và không đúng trọng tâm mục đích, yêu cầu của Nhà tài trợ. Một số tỉnh, ngành trình dự án còn chậm, không đúng thời gian qui định do đó bở lỡ cơ hội vận động ODA. Việc tổ chức thu hút và điều phối các dự án ODA trong NN&NT theo qui hoạch, kế hoạch ở góc độ cả nước còn chưa chặt chẽ và hoàn thiện. Thiếu qui hoạch về ODA dài hạn cho PTNN&NT nhất là việc lồng ghép qui hoạch ODA với qui hoạch phát triển tổng thể NN&NT, kế hoạch về ODA với kế hoạch ngân sách và chương trình đầu tư công cộng. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT VÀ GIẢI NGÂN VỐN ODA TRONG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN I) Một số giải pháp về cơ chế chính sách Thứ nhất, phải tiến hành xây dựng chính sách tổng thể về quản lý, giám sát vay và trả nợ nước ngoài được hoạch định trong mối tương quan chặt chẽ với các chính sách và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô và vi mô, việc quản lý vay và trả nợ nước ngoài phải tính đến các chỉ tiêu cơ bản về nợ nước ngoài như: khả năng hấp thụ vốn vay nước ngoài (tổng số nợ nước ngoài/ GDP), chỉ tiêu khả năng vay thêm từng năm, chỉ tiêu khả năng hoàn trả nợ (tổng nghĩa vụ trả nợ/thu nhập xuất khẩu). Thứ hai, phải nhanh chóng hoàn chỉnh các chính sách, chế độ về vay và quản lý vay nợ nước ngoài nói chung và nguồn vốn ODA nói riêng Thứ ba, Rà soát lại các định mức, xoá bỏ các định mức lạc hậu, xây dựng các định mức đảm bảo tiên tiến, khoa học phù hợp với thực tiễn và xem xét lại qui trình đấu thầu, xét thầu, giao thầu để giảm sự khác biệt giữa trong và ngoài nước, tuy nhiên phải phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Thứ tư, quản lý vay nợ cần xác định rõ trách nhiệm của người vay và người sử dụng vốn vay, chống ỷ lại vào nhà nước. Đồng thời phải quản lý chất lượng các khoản vay ODA đặc biệt là khâu xây dựng dự án. Cụ thể: + Ban hành các thông tư hướng dẫn thật cụ thể để thực hiện tốt các nghị định của chính phủ về quản lý vay, trả nợ nước ngoài, hoàn chỉnh hình thành quỹ tích luỹ trả nợ nước ngoài nhằm tạo nguồn trả nợ cho chính phủ, đảm bảo trả nợ đúng hạn, không rơi vào chồng chất không có khả năng thanh toán. + Ban hành quy chế chung cho vay lại các nguồn vốn vay nước ngoài, khuyến khích sự tham gia của các ngành, các địa phương, các cơ sở vào khai thác nguồn vốn ODA nhằm khắc phục tình trạng lộn xộn hiện nay trong xác định các điều kiện cho vay lại. Việc ưu tiên sử dụng nguồn vốn ODA cho nông nghiệp phải có những thay đổi. Những năm trước, nguồn vốn này tập trung chủ yếu cho 3 lĩnh vực: bảo vệ tài nguyên thiên nhiên như thủy lợi, rừng; xóa đói giảm nghèo; xây dựng cơ sở hạ tầng. Nhưng trong thời gian tới, vốn ODA trong nông nghiệp được tập trung vào 4 lĩnh vực: thực thi chính sách nông nghiệp, nông dân, nông thôn; xóa đói giảm nghèo; an toàn thực phẩm; an ninh lương thực. Bộ KH-ĐT tiến hành rà soát và đánh giá tình hình thực hện Nghị định 131/2006/NĐ-CP và các văn bản pháp quy liên quan để tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện khung thể chế về ODA phù hợp với điều kiện mới. Muốn vậy, các bộ, ngành, địa phương cần tiến hành cải cách hành chính, tinh giản quy trình, thủ tục trong việc tiếp nhận và thực hiện nguồn vốn ODA, trao quyền nhiều hơn cho các chủ dự án trong việc thẩm định, phê duyệt kết quả đấu thầu; phối hợp với các cơ quan liên quan và nhà tài trợ trong việc giải quyết dứt điểm thiếu hụt vốn ODA do tình trạng lạm phát trước đây, đảm bảo bố trí kịp thời và đầy đủ vốn đối ứng theo tiến độ thực hiện các chương trình, dự án ODA... II) Một số giải pháp trong vận động đàm phán, ký kết điều ước quốc tế khung về ODA cho nông nghiệp và phát triển nông thôn ODA là một nguồn vốn quan trọng trong đầu tư phát triển NN&NT, bởi vậy, việc huy động ODA cho phát triển NN&NT cần có một chiến lược cụ thể trong vận động thu hút ODA vào các lĩnh vực của cả nước. Kiên trì và kiên quyết đấu tranh với các nhà tài trợ để loại bỏ các ràng buộc và hài hòa về thủ tục đối với nguồn ODA cho phát triển NN&NT. Kinh nghiệm trong đàm phán với EU và một số nhà tài trợ khác trong thời gian qua cho thấy đối với các dự án về PTNN&NT nếu chúng ta giữ vững nguyên tắc và kiên trì đàm phán thì sẽ thu được kết quả khả quan vì đây là lĩnh vực ưu tiên của họ. Có sách lược đối thoại với từng nhà tài trợ khác nhau tạo ra sự quan tâm cao của cộng đồng các nhà tài trợ đối với sự phát triển nông nghiệp và nông thôn của Việt Nam. Đa dạng hoá,đa phương hóa các mối quan hệ quốc tế trong thu hút ODA, nhưng cần đặc biệt chú trọng tới các đối tác chủ yếu. Cần tập trung vào 3 đối tác chủ yếu là Nhật Bản, ADB, UNDP, đây là 3 nhà tài trợ lớn rất quan tâm đến lĩnh vực phát triển NN&NT của Việt Nam, họ là các đối tác lâu dài, có năng lực chuyên môn và kinh nghiệm hợp tác phát triển với các nước, có tiềm lực và trên thực tế đã cung cấp một khối lượng lớn ODA cho Việt Nam. Ngoài 3 đối tác nói trên, cũng cần phải mở rộng hoạt động xúc tiến vận động ODA cho phát triển NN&NT với các tổ chức quốc tế và các quốc gia khác đặc biệt là Mỹ, một đối tác có lượng ODA cung cấp vào loại lớn nhất thế giới. Thực hiện đầy đủ các cam kết với các nhà tài trợ đồng thời đa dạng hoá và đa phương hoá các mối quan hệ kinh tế đối ngoại. Để thu hút nhiều hơn các nguồn ODA từ phía các nhà tài trợ cho phát triển NN&NT, trước mắt cần Chính phủ cần quan tâm hơn nữa và có kế hoạch hành động cụ thể về phát triển nông nghiệpnông thôn, xoá đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường đặc biệt là Chương trình hỗ trợ 1.715 xã nghèo trong toàn quốc. Theo qui định việc phối hợp vận động ODA được tổ chức dưới hai hình thức cơ bản là Hội nghị điều phối ODA theo ngành và Hội nghị vận động ODA theo lãnh thổ. Hội nghị điều phối ODA theo ngành: (Hội nghị ODA ngành) được tổ chức nhằm tăng cường vận động và bảo đảm sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA theo ngành và lĩnh vực phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của quốc gia và chiến lược, qui hoạch phát triển ngành, kế hoạch 5 năm của ngành, lĩnh vực. Hội nghị ODA ngành do cơ quan cấp Bộ, ngành chủ trì, chuẩn bị và tổ chức. Bộ KH&ĐT phối hợp chuẩn bị và đồng chủ trì. Hiện nay, Bộ Thủy sản làm còn yếu vấn đề này, việc tổ chức các hoạt động xúc tiến vận động dưới các hình thức như tổ chức hội nghị, khảo sát thực tế có sự tham gia của các đối tác chưa được quan tâm. Hội nghị vận động ODA theo lãnh thổ: Nhằm tăng cường cơ hội thu hút nguồn vốn ODA để phát triển kinh tế- xã hội, do UBND. Tỉnh, Thành phố chủ trì nếu là hai tỉnh trở lên do Bộ KH&ĐT chủ trì. Tuy nhiên các hoạt động này còn rất ít được các tỉnh tổ chức do thiếu quan tâm hoặc thiếu thông tin. Việc vận động thu hút các dự án ODA về PTNN&NT ở các tỉnh hiện nay chủ yếu vẫn mang nặng tính hình thức trình dự án lên Bộ KH&ĐT sau đó trông chờ vào điều phối hoặc kết quả vận động thông qua Bộ KH&DDT. Việc tổ chức các hoạt động xúc tiến chuẩn bị dự án và vận động trực tiếp ở hầu hết các tỉnh đều chưa được quan tâm và tổ chức thực hiện có hệ thống. Đây là một hạn chế rất lớn trong vận động thu hút ODA từ các địa phương, cơ sở từ dưới lên. Nguyên nhân của vấn đề này một phần do năng lực và sự quan tâm của các ban, ngành liên quan thuộc UBND các tỉnh trong đó chủ yếu là các sở NN&PTNT và sở KH&DDT phần khác cũng do sự phối hợp giữa các tỉnh và các Bộ, ngành ở TW làm đầu mối về quản lý và vận động ODA chưa tốt. Để tăng cường hơn nữa việc xúc tiến và vận động ODA cho PTNN&NT của cả nước thời kỳ tới cần tập trung tăng cường các hoạt động xúc tiến chuẩn bị dự án từ các tỉnh với vai trò tổ chức của các sở NN&PTNT và vai trò đầ mối về ODA của các sở KH&DT. Chú trọng từ khâu chuẩn bị dự án đến việc tổ chức các hội nghị xúc tiến vận động ODA ở cấp tỉnh, thành phố. III) Một số giải pháp tăng tốc độ giải ngân vốn ODA. 1) Hài hoà thủ tục dự án. Dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA phải trải qua hai khâu thẩm định. Các quá trình thẩm định và phê duyệt dự án diễn ra từ phía các cơ quan chính phủ và các nhà tài trợ. Để đảm bảo việc phê duyệt dự án được suôn sẻ cần có sự cải tiến thủ tục và phối hợp của cả hai phía. Thực tế hiện nay cho thấy tiến trình thẩm định và phê duyệt vẫn đang còn có những vướng mắc, các văn bản báo cáo nghiên cứu khả thi được chuẩn bị thường không đáp ứng yêu cầu do năng lực chuẩn bị báo cáo nghiên cứu khả thi của chủ đầu tư còn hạn chế dẫn đến sự chậm trễ trong việc trình và phê duyệt báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, còn thiếu sự nhất quán giữa nội dung của báo cáo khả thi được phê duyệt và các kết quả thẩm định của nhà tài trợ. Do đó, cả hai bên cần nghiên cứu, điều chỉnh để thủ tục thẩm định của hai bên tiến tới đồng bộ, thống nhất và phối hợp nhịp nhàng với nhau cả về nội dung và thời điểm thẩm định của một quy trình thẩm định chung nhưng vẫn là hai lần thẩm định độc lập, khách quan. Trong đó, nên để thẩm định của nhà tài trợ sau khi có phê duyệt của chính phủ. Đồng thời, để tránh lãng phí thời gian nên giảm bớt những thủ tục không thật sự cần thiết trong quá trình phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi. Ngoài ra cần được bố trí vốn chuẩn bị đầu tư để lập trước nghiên cứu tiền khả thi và xúc tiến nghiên cứu khả thi cho các dự án nằm trong danh mục các dự án ưu tiên được sử dụng vốn ODA đã được chính phủ phê duyệt và nhà tài trợ có cam kết xem xét tài trợ. 2) Giải quyết vốn đối ứng. Vốn đối ứng cho các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA là phần vốn trong nước tham gia trong từng chương trình, dự án ODA được cam kết giữa phía Việt Nam và phía nước ngoài trong các hiệp định, văn kiện dự án, quyết định đầu tư của cấp có thẩm quyền. Các dự án vay vốn của chính phủ Nhật Bản hay Ngân hàng thế giới, Ngân hàng Châu Á thường yêu cầu vốn đối ứng trong nước chiếm từ 15% đến 30% tổng giá trị dự án, các dự án hỗ trợ của các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc thường đòi hỏi vốn đối ứng trong nước khoảng 20% trị giá dự án. Về nguyên tắc, vốn đối ứng của chương trình, dự án thuộc cấp nào thì cấp đó xử lý từ nguồn ngân sách của mình. Trường hợp một số địa phương có vốn đối ứng phát sinh quá lớn, vượt khả năng cân đối thì cần trình thủ tướng chính phủ để xin hỗ trợ một phần ngay từ khi lập dự án. Tuy nhiên, thực tế vốn đối ứng không phải lúc nào cũng trôi chảy, mà đang là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây nên sự chậm trễ trong việc thực hiện dự án. Cơ chế vốn đối ứng khác nhau cho những dự án cùng loại là câu hỏi đang chờ giải đáp. Bên cạnh đó, một số dự án do vốn đầu tư lớn nên càng khó khăn về vốn đối ứng, đặc biệt là đối với các địa phương. Nhằm tháo gỡ những khó khăn về vốn đối ứng, cần quy định cụ thể hơn về cơ chế vốn đối ứng. Đảm bảo vốn đối ứng được cấp đầy đủ và kịp thời theo tiến độ thực hiện dự án, thống nhất cơ chế quản lý vốn đối ứng đối với những dự án cùng loại. Mặt khác, cần tăng cường quản lý và sử dụng vốn đối ứng cho các dự án ODA phù hợp với quy định của chính phủ và không được sử dụng vốn đối ứng ngoài mục đích, nội dung của dự án. 3) Cải thiện chất lượng đầu vào. Để cải thiện và nâng cao tốc độ giải ngân vốn ODA, giảm thiểu gánh nặng nợ nần, phải quan tâm nhiều hơn nữa đến chất lượng đầu vào của nguồn vốn ODA. Phải lựa chọn các dự án phù hợp, phục vụ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội dài hạn và trung hạn.Cần chú trọng tới cơ cấu và tính bền vững của các nguồn vốn ODA. Để tăng cường chất lượng đầu vào của các chương trình, dự án ODA công tác chuẩn bị, thẩm định và phê duyệt dự án cần được tổ chức chặt chẽ và chất lượng cao trên cơ sở phát triển quan hệ đối tác. Cần phát triển hơn nữa quan hệ đối tác giữa các bên, trên cơ sở quan tâm tới lợi ích chung cả tất cả các bên tham gia và đề cao vai trò làm chủ của bên tiếp nhận. Đồng thời, chia sẻ thông tin cũng là một cơ sở quan trọng để phát trển quan hệ đối tác. Do đó, để có thể phối hợp trong quan hệ hợp tác phát triển nói chung và tạo điều kiện cho việc giải ngân đúng tiến độ các bên cần có thông tin chính xác và tôn trọng lợi ích của nhau. KẾT LUẬN Qua việc nghiên cứu đề tài Thực trạng về việc huy động và giải ngân vốn ODA trong nông nghiệp và phát triên nông thôn ở Việt Nam hiện nay tôi có thể khẳng định vốn ODA có vai trò vô cùng quan trọng trong nông nghiệp và phát triển nông thôn, ODA - với những ưu điểm như quy mô lớn, lãi suất thấp (dưới 3%, trung bình từ 1-2%/năm), thời gian cho vay cũng như thời gian ân hạn dài (25-40 năm mới phải hoàn trả và thời gian ân hạn 8-10 năm), đặc biệt là trong nguồn vốn ODA luôn có một phần viện trợ không hoàn lại, thấp nhất là 25% của tổng số vốn ODA. Bình quân mỗi năm các nhà tài trợ dành cho Việt Nam 2,5 tỉ USD, tương đương 6% GDP, và trong số đó đầu tư vào ngành nông nghiệp là 50-60%. Nguồn vốn này đã đóng vai trò quan trọng trọng chiến lược tăng trưởng, giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải cách thể chế, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Tuy nhiên bên cạnh đó sử dụng ODA là một sự đánh đổi. Việc tiếp nhận ODA nhiều hơn càng cần phải đi đôi với sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả nguồn vốn này. Các nhà quản lý và các đơn vị sử dụng vốn ODA cần phải có những chính sách và hành động cụ thể nhằm phát huy những thế mạnh, hạn chế tới mức thấp nhất những ảnh hưởng bất lợi của ODA. MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng về việc huy động và giải ngân vốn ODA trong nông nghiệp và phát triên nông thôn ở Việt Nam hiện nay <cao học>.DOC
Luận văn liên quan