Đề tài Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang các thị trường chính năm 2009-2011

Đây là có thể là tài liệu tham khảo hữu ích với các bạn học khối Kinh tế chuyên ngành Ngoại thương hoặc QTKDQT. Trong chuyên lộ trình học của mình các bạn sẽ gặp Đề án môn học: Kinh Tế quốc tế, bài đề án này được mình hoàn thành vào tháng 11/2011 với đề tài :" Thực trạng xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang các thị trường chính trong những năm gần đây”. ". Sau đây mình xin trích dẫn sơ bộ lời mở đầu.LỜI MỞ ĐẦU Trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ trên thế giới, theo đó nền kinh tế của các quốc gia cũng từng bước phát triển với sự gắn kết mật thiết với nhau. Để cạnh tranh trên thị trường thế giới, thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế quốc dân, một trong những công cụ chính của mỗi quốc gia đó là tập trung khai thác tối đa những lợi thế so sánh của mình cũng như quyết định đâu là ngành kinh tế chiến lược để từ đó đưa ra những mục tiêu và chính sách hợp lí. Xuất khẩu thủy sản được xem là một trong những ngành then chốt của nền kinh tế nước ta. Kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên qua các năm, hình ảnh thủy sản Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường thế giới. Bên cạnh những thuận lợi, điểm mạnh mà ngành thủy sản Việt Nam nói riêng, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản nói chung đã tận dụng được thì chúng ta cúng không thể không nhắc đến những khó khăn, trở ngại mà ngành xuất khẩu thủy sản nước ta gặp phải trong nền kinh tế toàn cầu luôn tồn tại những biến động bất thường. Vậy làm thế nào để đưa ngành xuất khẩu thủy sản Việt Nam phát triển hơn nữa? Đâu là những thuận lợi và khó khăn chính mà các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản đang mắc phải? Và liệu có những giải pháp gì cho những vấn đề này? Xuất phát từ những câu hỏi trên, em muốn tìm hiểu kĩ hơn, đi sâu nghiên cứu về ngành xuất khẩu thủy sản Việt Nam nên đã chọn đề tài “ Thực trạng xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang các thị trường chính trong những năm gần đây”. Mọi góp ý xin gửi về mail: DOTHANHQUANG1691@gmail.com . Xin chân thành cảm ơn ^^

doc42 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3372 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang các thị trường chính năm 2009-2011, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thị trường khác như Hàn Quốc đạt 386,190 triệu USD( tăng 28,3%), Trung Quốc và Hồng Kông 247,252 triệu USD( tăng 22,2%), v.v...so với năm 2009. Điểm đáng chú ý trong năm 2010 là Đức dù vẫn đạt kim ngạch cao chiếm 209,975 triệu USD nhưng đã có dấu hiệu giảm nhẹ 1% so với năm 2009. Ngược lại, thị trường xuất khẩu thủy sản cũng đã nhận dấu hiệu tích cực từ Pháp với giá trị xuất khẩu đạt 121,902 triệu USD, tăng 68,3% so với năm 2009. b. Xét về mặt hàng xuất khẩu: Năm 2009: Bảng 2.4: Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam năm 2009 Sản phẩm Từ 1/1 – 31/12/2009 So với cùng kỳ 2008 (%) KL GT Tôm đông lạnh 209.567 1675,142 +9,4 +3,0 Cá tra, basa 607.665 1342,917 -5,2 -7,6 Cá ngừ 55.814 180,906 +5,7 -4,1 Cá khác 132.758 347,524 +0,8 -16,1 Mực và bạch tuộc đông lạnh 77.308 274,368 -10,8 -13,8 Hàng khô 42.855 160,261 +31,2 +9,9 Hải sản khác 90.144 270,195 -10,0 -25,7 Tổng cộng 1.216.112 4251,313 -1,6 -5,7 ( Nguồn: VASEP- Hiệp hội Thuỷ sản Việt Nam) Năm nay, Việt Nam xuất khẩu 85 loại sản phẩm thủy sản sang 163 thị trường. Số lượng sản phẩm và thị trường xuất khẩu đều tăng so với năm 2008, nhờ sự linh hoạt đa dạng hóa sản phẩm và thị trường của các doanh nghiệp xuất khẩu. Trong đó, tôm đông lạnh là mặt hàng chiếm tỉ trọng cao nhất (39,4%), cá tra 31,6%, mực, bạch tuộc 6,45%, cá ngừ 4,26%, hàng khô 3,77%, cá biển và các loại hải sản khác chiếm 14,5%. Mặc dù rơi vào tình trạng thiếu nguyên liệu chế biến trầm trọng, trong khi sức tiêu thụ của các thị trường chính giảm, nhưng xuất khẩu tôm năm qua vẫn đạt kết quả khích lệ với 1,675 tỷ USD, tăng 3% so với 1,625 tỷ USD năm 2008. Xuất khẩu tôm sang EU, Hàn Quốc, Trung Quốc và Đài Loan đều tăng trưởng 2 con số. Tuy nhiên, xuất khẩu cá tra trong năm 2009 giảm 7,7% so với cùng kì. Bởi thứ nhất, kim ngạch xuất khẩu cá tra sang thị trường EU giảm 7,3% vì nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến thông tin xấu “bôi bẩn” cá tra ở một số quốc gia như Tây Ban Nha, Ý, Ai Cập. Thế nhưng, đây cũng là hồi chuông cảnh báo đối với vấn đề chất lượng cá tra Việt Nam và sự cạnh tranh không lành mạnh về giá xuất khẩu trong thời gian qua. Giá trung bình xuất khẩu cá tra giảm từ 2,27 USD/kg năm 2008 xuống còn 2,21 USD/kg năm 2009. EU chiếm hơn 40% xuất khẩu cá tra của Việt Nam với 538,7 triệu USD. Sự vắng mặt của thị trường Nga 4 tháng đầu năm do lệnh cấm thủy sản Việt Nam từ cuối năm 2008 cũng là một yếu tố khiến xuất khẩu thủy sản giảm, vì Nga vốn là thị trường đơn lẻ tiêu thụ nhiều nhất cá tra của Việt Nam trong năm 2008. Từ tháng 5 đến hết tháng 12/2009, Nga nhập khẩu 47,5 nghìn tấn thủy sản Việt Nam, trị giá 84,6 triệu USD, giảm lần lượt 62,1% và 61,2% so với cùng kỳ. Xuất khẩu mực, bạch tuộc và cá ngừ, cá biển và các loại hải sản khác giảm đáng kể do sản lượng đánh bắt giảm do ảnh hưởng của các cơn bão lớn, Trung Quốc cấm biển và sự cạnh tranh giá thu mua nguyên liệu của giới thương gia Trung Quốc, dẫn đến tình trạng thiếu nguyên liệu trầm trọng trong các doanh nghiệp chế biến. Xuất khẩu cá ngừ giảm 4,1%, trong khi xuất khẩu mực, bạch tuộc giảm 13,8%. Xuất khẩu các sản phẩm cá khác giảm 16%. Năm 2010: SẢN PHẨM Năm 2010 So với cùng kỳ 2009 (%) KL GT ↑↓KL ↑↓GT Tôm các loại (mã HS 03 và 16) 240.985 2106,824 13,4 24,1 trong đó: - Tôm sú 141.850 1439,261 40,6 56,9 - Tôm chân trắng 62.479 414,593 36,7 52,7 Cá tra (mã HS 03 và 16) 659.397 1427,494 7,4 5,2 Cá ngừ (mã HS 03 và 16) 83.863 293,119 48,9 59,9 trong đó: - Cá ngừ (mã HS 03) 37.823 175,558 70,4 84,6 - Cá ngừ (mã HS 16) 46.040 117,560 35,0 33,3 Cá các loại khác (mã HS 0301 đến 0305 và 1604, trừ cá ngừ, cá tra) 227.940 605,574 27,0 41,6 Nhuyễn thể (mã HS 0307 và 16) 125.011 488,860 3,3 15,0 Cua, ghẹ và giáp xác khác (mã HS 03 và 16) 15.959 111,855 15,2 101,0 TỔNG CỘNG 1.353.156 5033,726 11,3 18,4 Bảng 2.5: Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam 2010 Trong các mặt hàng xuất khẩu, tôm và cá tra vẫn là hai sản phẩm chủ lực quyết định kim ngạch xuất khẩu của cả ngành thủy sản, với mỗi mặt hàng đều có giá trị xuất khẩu vượt qua ngưỡng 1 tỷ USD. Riêng đối với tôm, tổng kim ngạch xuất khẩu lần đầu tiên vượt qua con số 2 tỷ USD; trong đó tôm sú đạt 1439,261 triệu USD, tăng 56,9 % so với năm 2009, tôm chân trắng đạt kim ngạch 414,593 triệu USD, tăng 52,7 % so với năm 2009. Mặc dù, xuất khẩu tôm năm 2010 có nhiều thuận lợi hơn so với con cá tra nhưng không phải là không có khó khăn. Để đạt kim ngạch xuất khẩu trên 2 tỷ USD, xuất khẩu tôm Việt Nam đã phải vượt qua rất nhiều trở ngại, nhất là vào những tháng cuối năm. Trước hết là vấn đề dịch bệnh xảy ra hàng loạt ở các tỉnh ĐBSCL như: Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, … với diện tích hàng chục ngàn hecta, đã làm cho sản lượng tôm nuôi giảm mạnh. Cộng với việc các thương nhân Trung Quốc tăng cường thu mua tôm đem về nước đã làm các nhà máy chế biến thủy sản thiếu nguyên liệu chế biến. Kế đến là tình trạng tôm bị bơm chích tạp chất, nhiễm dư lượng hóa chất, kháng sinh dẫn đến việc một số thị trường NK tăng cường các biện pháp kiểm soát. Đặc biệt, sự kiện con tôm Việt Nam xuất khẩu vào Nhật Bản bị nhiễm dư lượng Trifluralin, một loại hoá chất có nguồn gốc từ thuốc diệt cỏ dùng trong xử lý nước ao nuôi tôm, đã làm cho quốc gia này tăng cường kiểm soát lên 100% đối với tôm Việt Nam vào cuối năm. Những khó khăn này đã tạo ra nhiều sức ép lên các doanh nghiệp chế biến vốn đã và đang phải đối phó với sự cạnh tranh gay gắt trên các thị trường xuấtkhẩu. Đối với cá tra, kim ngạch xuất khẩu của ngành hàng này chỉ đạt 1427,494 triệu USD, tăng 5,2% so với năm 2009. Thiếu nguyên liệu chế biến, bởi vì nông dân nuôi cá tra không còn vốn để nuôi hoặc “e dè” vì giá cả. Bên cạnh đó, những bất cập nội tại cũng được bộc lộ rõ qua mối liên kết lỏng lẻo giữa các mắc xích trong ngành nuôi và chế biến cá tra xuất khẩu; nhiều doanh nghiệp cạnh tranh không lành mạnh bằng cách giảm giá bán, hạ chất lượng; các chương trình quảng bá hình ảnh con cá tra đến người tiêu dùng thế giới chưa đủ mạnh dẫn đến họ dễ bị ảnh hưởng bởi các thông tin không chính xác; các biện pháp quản lý nhà nước vẫn còn những bất cập từ khâu quy hoạch nuôi, sản xuất giống đến quản lý chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Trên thị trường thế giới, doanh nghiệp cá tra liên tục phải hứng chịu những “trận đánh hội đồng”, nào việc Mỹ áp thuế chống bán phá giá cá tra Việt Nam, nào là “chiến dịch” tung tin bôi nhọ cá tra Việt Nam trên các phương tiện truyền thông ở nhiều nước, và gần đây là việc WWF tại 6 nước Châu Âu đưa con cá tra vào “danh sách đỏ” trong Cẩm nang hướng dẫn tiêu dùng thủy sản năm 2010 - 2011 nhằm làm giảm giá trị của con cá này. Bộ Thương mại Mỹ vừa có quyết định chính thức về việc nâng mức thuế chống bán phá giá đối với cá tra Việt Nam lên 130% có hiệu lực từ tháng 3/2011. Đây là nỗi lo lớn nhất của nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản hiện nay vì sản lượng xuất khẩu cá tra sang thị trường Mỹ sẽ giảm mạnh sau khi quyết định này có hiệu lực. Một điểm đáng chú ý trong năm nay là xuất khẩu cá ngừ tăng trưởng ấn tượng, đạt giá trị 175,558 triệu USD, tăng 84,6 % so với năm 2009. Bên cạnh đó phải nói rằng góp phần vào thắng lợi chung của ngành thủy sản Việt Nam còn có các mặt hàng thủy sản xuất khẩu khác nữa như: mực và bạch tuộc, giáp xác khác. Năm nay, giá trị xuất khẩu các sản phẩm này đã đạt hơn 1 tỷ USD trong tổng giá trị xuất khẩu thủy sản, trong đó rất ấn tượng là xuất khẩu cá ngừ với tốc độ tăng trưởng ấn tượng, gần 50% về khối lượng và hơn 62% về giá trị tính đến hết tháng 11 vừa qua. Những con số về tốc độ tăng trưởng này càng có ý nghĩa khi các doanh nghiệp chế biến thủy sản từ nguyên liệu khai thác “vướng” phải quy định Chứng nhận thủy sản khai thác theo yêu cầu của EC nhằm phòng ngừa và ngăn chặn khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo và không được kiểm soát (khai thác IUU). 2.3. Những thuận lợi và khó khăn còn vướng mắc của các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam: 2.3.1. Thuận lợi: - Việt Nam có điều kiện thuận lợi về tự nhiên, môi trường, khí hậu cho chăn nuôi thủy hải sản, mang lại năng suất nuôi trồng cao, chất lượng thịt cá thơm ngon, đặc biệt trong ngạch cá da trơn đã khẳng định được thương hiệu trên thị trường. - Chính phủ đã thực hiện các chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản như thuế (các doanh nghiệp được hưởng ưu đãi thuế 15%), vốn vay ưu đãi, chuyển đổi ngoại tệ để gia tăng kim ngạch xuất khẩu. - Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA) có hiệu lực kể từ ngày 1/10/2009 sẽ giúp kích thích một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào Nhật Bản, đặc biệt là sản phẩm thủy sản. Theo Hiệp định, sẽ có ít nhất 86% hàng nông - lâm – thủy sản của Việt Nam được hưởng ưu đãi về thuế, trong đó mặt hàng tôm sẽ được giảm thuế suất nhập khẩu xuống 1 - 2% ngay khi Hiệp định có hiệu lực, các mặt hàng chế biến từ tôm cũng được giảm mức thuế nhập khẩu. Sản phẩm thủy hải sản chủ yếu xuất sang thị trường Nhật Bản bao gồm các loại cá như cá tra, cá basa, cá hồi, cá đuối, cá bò, cá ghim, cá ngừ hun khói, mực, bạch tuộc, ghẹ. Mức thuế mà Nhật Bản áp dụng đối với thủy sản Việt Nam được chia ra thành 3 nhóm: là nhóm mặt hàng được hưởng thuế 0% (gồm 64/330 mặt hàng) ngay khi Hiệp định có hiệu lực (chiếm tới 71% xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Nhật Bản). Trong đó, tôm là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất. Ngoài ra, có 28 mặt hàng (chiếm 71% kim ngạch xuất khẩu) đã có thuế ưu đãi từ trước khi ký Hiệp định; : là nhóm các mặt hàng có lộ trình giảm thuế trong 3 năm, với 8 dòng thuế phổ biến ở mức 3,5 - 7,2%; : sẽ có lộ trình giảm thuế trong 5-10 năm tiếp theo. So với các thị trường xuất khẩu thủy sản khác như Indonesia, Malaysia..., thủy sản Việt Nam vẫn yếu thế hơn vì những nước này đã ký hợp tác song phương từ trước với Nhật Bản. Việt Nam ký Hiệp định sau nên lộ trình giảm thuế sẽ bị chậm hơn. Ví dụ, cá đông lạnh xuất khẩu của Malaysia vào Nhật Bản hiện ở mức thuế 0 – 0,6%, trong khi Việt Nam chịu thuế từ 0 - 2,9%. Xuất khẩu cá ngừ sang Nhật Bản của các nước láng giềng đã được hưởng mức thuế suất ưu đãi khiến sản phẩm thủy sản của Việt Nam bị cạnh tranh mạnh hơn. Kể từ tháng 4/2010, xuất khẩu cá ngừ của Thái Lan đã được hưởng mức thuế suất ưu đãi là 3,2% (tiếp đó giảm xuống còn 1,6% kể từ tháng 4/2011; giảm xuống còn 0% từ tháng 4/2012). Mức thuế tương tự được giảm theo lộ trình đối với Philippines là 3,6% giảm xuống còn 2,4% từ tháng 4/2011 ở mức 0% từ tháng 4/2013. Trong khi đó, doanh nghiệp xuất khẩu cá ngừ Việt Nam vẫn đang phải chịu mức thuế cao hơn 40% so với các nước này, tương đương 7,2% sang thị trường Nhật Bản. - Các doanh nghiệp xuất khẩu còn được hưởng lợi từ chênh lệch tỷ giá giữa Việt Nam đồng và đồng ngoại tệ, như USD, Yên Nhật, Euro. Đồng Việt Nam có xu hướng yếu đi so với các đồng ngoại tệ khác. Điều này có lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu khi quy đổi doanh thu sang Việt Nam đồng. Trong khi đó, phần lớn nguyên liệu đầu vào (thủy hải sản nguyên liệu, thức ăn chăn nuôi) là do nuôi trồng, mua từ các hộ dân ở trong nước, không ảnh hưởng bởi chênh lệch tỷ giá ngoại tệ. 2.3.2. Khó khăn: - Nguồn nguyên liệu không ổn định. Việc phát triển nhanh chóng của ngành trong những năm gần đây đã gây ra việc nuôi trồng hải sản đại trà nhằm đáp ứng kịp tốc độ chế biến và xuất khẩu. Trong khi chi phí đầu tư cho việc nuôi trồng thủy sản hầu hết là nguồn vốn vay ngân hàng, khó khăn về tín dụng có thể gây khó khăn cho việc chăn nuôi ngành thủy sản, các hộ nông dân có thể bán cá chưa đủ trọng lượng hoặc có thể giải thể do áp lực trả vốn vay, dẫn đến việc thiếu hụt nguyên liệu đầu vào. Các doanh nghiệp tiếp tục đau đầu với bài toán nguyên liệu, khi mà đầu vào cho sản xuất nguyên liệu như vốn, thức ăn thủy sản và chi phí xăng dầu đang còn khó khăn, trong khi thuế nhập khẩu nguyên liệu một số mặt hàng vẫn chưa đưa về mức 0% - Xu hướng bảo hộ thương mại, các hàng rào kỹ thuật, kiểm dịch chặt chẽ và các tiêu chuẩn mới khắt khe về dư lượng kháng sinh và an toàn vệ sinh thực phẩm tại các thị trường sẽ tiếp tục là những trở ngại cho các doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy, song song với việc nâng cao chất lượng sản phẩm để giữ các thị trường truyền thống, các DN thủy sản Việt Nam cần phát triển thị trường tiêu thụ ở các nước mới nổi như Mỹ Latinh, Trung Đông và Châu Phi - những thị trường tiềm năng có nền kinh tế phục hồi nhanh. - Phía Mỹ tiếp tục áp dụng mức thuế suất chống phá giá từ 36%-68% cho các doanh nghiệp Việt Nam sản phẩm cá tra, cá basa được nhập khẩu vào Mỹ từ năm 2010. Như vậy, việc tăng sản lượng nhập khẩu mặt hàng này là vẫn khó khăn, và chỉ các doanh nghiệp được Mỹ đặc cách áp dụng thuế suất thấp mới có thể lấn chân vào thị trường này. - Xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường EU trở nên khó khăn hơn khi quy định chống đánh bắt thủy sản trái phép (IUU) bắt đầu được thực hiện từ năm 2010 gây khó khăn cho người nông dân và DN xuất khẩu thủy sản vào thị trường EU. CHƯƠNG III: Một số giải pháp kiến nghị cho nhành xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Trên cơ sở những khó khăn mà ngành thủy sản Việt Nam đang phải đối mặt như sự biến động của môi trường vi mô và vĩ mô, đặc biệt là môi trường kinh tế, áp lực từ các hành vi bảo hộ thương mại, các hàng rào kỹ thuật, kiểm dịch chặt chẽ và thường xuyên ban hành các tiêu chuẩn mới hơn về dư lượng kháng sinh và an toàn vệ sinh thực phẩm của các nước nhập khẩu. Bên cạnh đó, chưa kể đến nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản hiện nay đang rơi vào tình trạng thiếu nguyên liệu trong nước để sản xuất trong khi thuế nhập khẩu ở mức cao 10% - 20%, vì thế hầu hết các nhà máy chế biến thủy sản chỉ hoạt động được khoảng 70% công suất. Để thúc đẩy ngành thủy sản Việt Nam tăng trưởng bền vững và ngày càng có vị thế trên thị trường thế giới thì cả Nhà nước, hiệp hội các ngành làng, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản đều cố gắng đưa ra các giải pháp để khắc phục những vướng mắc trên. 3.1 Giải pháp cho những vướng mắc chung của ngành thuỷ sản Việt Nam trong giai đoạn 2009-2013: 3.1.1 Giải pháp từ phía doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản: Đầu tiên, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và chủ động mở rộng thị trường xuất khẩu, chuyển hướng xuất khẩu sang các thị trường phi truyền thống ví dụ như những thị trường đáng chú ý có mức tăng trưởng tiêu dùng và có xu hướng ưa thích các sản phẩm cá tra của Việt Nam như các nước Đông Âu cũ, hoặc Bắc Âu như Thụy Điển, Bungaria, Romainia, Hungaria, Bỉ, Anh…Các thị trường mới nổi lên, đầy tiềm năng như Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Bắc Phi, Trung Đông...Thị trường các nước Hồi giáo cũng đang được xem là một “kênh” tiêu thụ tốt, giúp các doanh nghiệp Việt Nam đa dạng hóa thị trường tiêu thụ. Dân số Hồi giáo chiếm gần 25% dân số toàn thế giới. Trung bình hàng năm thế giới chi khoảng 442 tỉ USD để mua thực phẩm, riêng các nước Hồi giáo chi 150 tỉ USD. Vì vậy, xuất khẩu thủy sản sang các thị trường Hồi giáo thông qua các nước có đông người Hồi giáo (Malaysia, Inđônêxia…) cũng đang được chú ý. Các doanh nghiệp cần tìm ra chiến lược, chính sách phats triển cho riêng mình, tiến hành phân đoạn thị trường để có thể tận dụng tối đa những khe hở của thị trường. Hai là tăng cường hoạt động xúc tiến xuất khẩu vào thị trường chính. Xúc tiến thương mại là khâu then chốt trong việc phát triển mặt hàng, thị trường nhằm tăng trưởng xuất khẩu. Trong xu thế hội nhập, thị trường trở thành vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp, tăng cường xúc tiến thương mại phải được thực hiện cả ở tầm vĩ mô và vi mô.Các doanh nghiệp chỉ có thể xúc tiến ở tầm vĩ mô nhằm làm cho phù hợp với đặc điểm, tính chất của thị trường xuất khẩu, thông qua việc giúp các doanh nghiệp tiếp cận với thị trường bằng các cuộc khảo sát thị trường, tham gia hội chợ hàng thuỷ sản, thông qua việc tiếp xúc với các doanh nghiệp. Tổ chức các hội thảo khoa học quốc tế về giống, nuôi trồng, chế biến thuỷ sản nhiệt đới, tìm kiếm các cơ hội để thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào nuôi trồng, chế biến thuỷ sản. Ba là nâng cao sức cạnh tranh về chất lượng của mặt hàng thuỷ sản. Sức cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam hiện còn yếu, xuất khẩu chủ yếu dưới dạng thô, giá thành sản phẩm cao, chất lượng thấp. Để nâng cao sức cạnh tranh chất lượng hàng thủy sản cần: Thứ nhất, tăng cường công tác kiểm tra chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm đối với sản phẩm thuỷ sản bằng các biện pháp như: Xây dựng tiêu chuẩn vùng nuôi an toàn kết hợp tăng cường kiểm soát các cơ sở chế biến; triển khai đồng bộ các tiêu chuẩn quy định quy trình, quy phạm về quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, quy định hoá chất và chế phẩm được phép sử dụng. Có chế tài xử phạt thích đáng đối với các trường hợp vi phạm; xây dựng các quy định về xuất xứ nguyên liệu gắn với vùng nuôi thuỷ sản. Thứ hai, đảm bảo chất lượng nguyên liệu chế biến thủy sản. Các doanh nghiệp phải ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm đối với người nuôi trồng, giúp đỡ ngư dân về kỹ thuật nuôi trồng, về giống, hướng dẫn ngư dân về kỹ thuật bảo quản nguyên liệu sau thu hoạch. Thứ ba, tiếp tục đầu tư nâng cấp công nghệ chế biến hiện đại, tiên tiến, đồng bộ là rất cần thiết góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của chất lượng hàng thuỷ sản Việt Nam. Bốn là tăng cường sự hợp tác, liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu thuỷ sản trong nước với nhau và với các doanh nghiệp nước ngoài. Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn nhỏ bé về quy mô, vốn và kinh nghiệm kinh doanh còn thiếu trong khi lại phải cạnh tranh gay gắt với các đối thủ lớn có nhiều kinh nghiệm. Môi trường cạnh tranh khốc liệt, yêu cầu cao về chất lượng hàng hóa.....Tất cả những điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tăng cường hợp tác với nhau tránh tình trạng mạnh ai nấy làm, tranh mua tranh bán. Liên kết là hướng để phát triển bền vững ngành thuỷ sản.Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nếu chưa liên kết được 4 nhà (nhà nông, nhà khoa học, nhà nước, nhà doanh nghiệp) thì tập trung cho mối liên kết “hai nhà” (nhà nông và nhà doanh nghiệp). Thực tế, nhà nước và nhà khoa học luôn sẵn sàng hỗ trợ để ngành thủy sản phát triển nhưng vấn đề cốt yếu là “liên kết” nhà nông và nhà doanh nghiệp. Doanh nghiệp đóng vai trò nòng cốt, hỗ trợ kỹ thuật, vốn, giống, thức ăn, thu mua nguyên liệu… Liên kết nhằm giải quyết đầu vào-đầu ra về nguyên liệu, đáp ứng đòi hỏi quốc tế chính là vấn đề cấp bách hiện nay để ngành thủy sản tồn tại và phát triển bền vững. Ngoài ra, các doanh nghiệp nên tiến hành liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài từ đó hình thành nên các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài, tạo cho các doanh nghiệp này có thế mạnh về vốn đầu tư, công nghệ cho phép các doanh nghiệp có thể đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu có chất lượng cao, đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường cũng như góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng thuỷ sản. 3.2.2 Giải pháp từ phía Nhà nước: Đầu tiên, Nhà nước nên tăng cường hơn nữa sự hỗ trợ cho nông dân nuôi trồng và đánh bắt thủy sản cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản. Để ngành thuỷ sản hoạt động có hiệu quả thì Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng. Nhà nước không chỉ điều tiết cho ngành thuỷ sản phát triển đúng hướng, mà còn tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi. Doanh nghiệp rất cần sự trợ giúp của Nhà nước trong việc tăng cường khả năng hiểu biết thị trường, khả năng tiếp thị, mở văn phòng đại diện… Bên cạnh đó, Nhà nước cần có đủ các biện pháp hỗ trợ về tài chính tín dụng để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thuỷ sản như miễn giảm thuế xuất khẩu thuỷ sản và nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để chế biến thuỷ sản xuất khẩu, tăng cường hoạt động tài trợ xuất khẩu và thành lập quỹ hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản. Vì vậy, cần có sự tài trợ xuất khẩu của nhà nước, bao gồm tài trợ trước khi giao hàng, tài trợ trong khi giao hàng và tín dụng sau giao hàng. Tài trợ xuất khẩu ngoài việc cung cấp vốn cho giao dịch xuất khẩu như trên còn có tác dụng hạn chế những rủi ro phát sinh trong giao dịch xuất khẩu do đó khuyến khích được các ngân hàng cung cấp các khoản tín dụng xuất khẩu ở mức lãi suất hợp lý. Về phía nông dân, do thuỷ sản thuộc nhóm hàng mà nguồn cung cấp phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên, có tính thời vụ, rủi ro lớn và giá cả đầu ra biến động thất thường, Nhà nước cần đưa ra và thực thi các chính sách quản lý, đầu tư thoả đáng để đảm bảo khai thác tốt nguồn lợi xa bờ cũng như cải tiến kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản để đảm bảo nguồn nguyên liệu chất lượng cao cung cấp cho hoạt động chế biến thuỷ sản xuất khẩu. Hiện nay người dân nuôi trồng thuỷ sản phải vay vốn ngân hàng với lãi suất cao (trên 1%/tháng), thậm chí nếu vay ở ngoài có lúc lên tới 2%/tháng vì thế Nhà nước cũng cần đẩy mạnh và thực hiện nhiều chính sách ưu đãi hơn về vay vốn để nông dân có thể yên tâm nuôi trồng thủy sản trong thời kì kinh tế biến động thất thường. Hai là các cơ quan quản lý và các doanh nghiệp đẩy mạnh công tác kiểm tra, kiểm soát an toàn vệ sinh chất lượng hàng thuỷ sản từ khâu nuôi trồng – nguyên liệu tới thành phẩm để giữ uy tín cho hàng thuỷ sản của Việt Nam cũng như đáp ứng được yêu cầu của thị trường nhập khẩu; nghiên cứu và lai tạo các giống mới có chất lượng cao. Ba là Nhà nước hỗ trợ kinh phí trang bị máy móc, thiết bị và chi phí kiểm tra dư lượng kháng sinh và vệ sinh an toàn thực phẩm (kể cả khâu thu mua nguyên liệu, sơ chế, sản xuất và xuất khẩu). Bốn là Nhà nước xem xét giảm thuế nhập khẩu nguyên liệu thuỷ sản xuống 0-0,5%. Những đối thủ cạnh tranh của ta như Trung Quốc, các nước ASEAN đều áp dụng thuế nhập khẩu nguyên liệu thuỷ sản bằng 0-0,2%. Trong khi đó mức thuế 10-20% mà các doanh nghiệp Việt Nam phải chịu là quá cao. Mặt khác khi thuế nhập khẩu nguyên liệu bằng 0, thì các thủ tục hải quan sẽ nhanh chóng hơn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp xuác tiến việc nhập khẩu nguyên liệu, góp phần giảm giá thành sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu và tăng khả năng cạnh tranh. Năm là thực hiện xúc tiến ở tầm vi mô nhằm đào tạo cán bộ có năng lực để làm công tác xúc tiến thương mại. Các hỗ trợ xúc tiến thương mại của nhà nước thay vì tập trung vào các thị trường lớn đã bão hòa hoặc có xu hướng suy giảm, nên chú trọng vào các thị trường mới, hỗ trợ doanh nghiệp về thông tin thị trường, thị hiếu tiêu dùng, thông tin doanh nghiệp nhập khẩu, kênh phân phối… 3.2 Một số giải pháp cho các vấn đề đang được quan tâm đối với ngành xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam : 3.2.1 Việc tôm Việt Nam bị phát hiện dư lượng hóa chất, kháng sinh cấm trong hàng thủy sản xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản Trước nguy cơ ngày càng khó xuất khẩu sang Nhật, ngành thủy sản đã có những động tác tích cực, trong đó tập trung vào hai nhóm giải pháp chính. Thứ nhất, đồng nhất cách tiếp cận. Trong của bức thư gửi Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản Nguyễn Tử Cương, Thứ trưởng Bộ Thủy sản Nguyễn Thị Hồng Minh đã đề nghịcơ quan này giải trình cụ thể với phía Nhật Bản một số vấn đề mà theo đó đã dẫn đến những khúc mắc trong thời gian qua.Hiện phương pháp tiếp cận của cơ quan đồng cấp 2 nước đang có một số khác biệt, do đó phía Việt Nam dự kiến sẽ đề xuất phía Nhật Bản thay đổi cách tiếp cận quản lý phù hợp với cách làm của nhiều nước, đồng thời không tập trung kiểm tra hàng hóa tại cửa khẩu như hiện nay. Hai bên cũng cần ký thỏa thuận song phương hoặc cơ chế công nhận lẫn nhau trong việc kiểm soát an toàn vệ sinh thực phẩm thủy sản xuất nhập khẩu giữa hai nước.Đồng thời, nếu hai bên chưa thống nhất về tiêu chuẩn phương pháp thử tại phòng kiểm nghiệm, phía Nhật Bản cần hỗ trợ Việt Nam trong việc đào tạo cho các kiểm nghiệm viên về phương pháp phân tích dư lượng hóa chất và kháng sinh cấm để có kết quả tương đồng. Thứ hai, kiểm soát chặt chẽ hóa chất và kháng sinh cấm Trong nhóm giải pháp “đối nội”, Bộ Thủy sản gửi công văn đến các doanh nghiệp cùng các trung tâm chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản, yêu cầu thực hiện nghiêm ngặt việc sử dụng các loại hóa chất và kháng sinh trong nuôi trồng, chế biến và bảo quản. Theo đó, Bộ Thủy sản yêu cầu các doanh nghiệp tăng cường giám sát quá trình sản xuất và chế biến. Bởi trên thực tế, cũng đã có những trường hợp công nhân làm việc tại các nhà xưởng vệ tinh sử dụng kem bôi tay khi làm việc tại phân xưởng chế biến hoặc tại công đoạn bóc vỏ dẫn đến việc lây nhiễm kháng sinh có trong kem bôi tay vào sản phẩm. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu, phải thực hiện kiểm tra chứng nhận về dư lượng kháng sinh cấm trong thủy sản theo quy định của cơ quan chức năng Nhật Bản, đồng thời tham khảo kỹ các văn bản và quy định mới của Bộ Thủy sản. Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu, cần phải đăng ký kiểm tra chất lượng theo quy định và chỉ được phép đưa lô hàng vào chế biến, tiêu thụ khi kết quả kiểm tra do Cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản và các trung tâm thuộc cục đạt yêu cầu. Riêng hệ thống cơ quan thuộc Cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh và thú y thủy sản nên yêu cầu các cơ quan này kiểm soát chặt chẽ quá trình sản xuất, chế biến của các doanh nghiệp đồng thời thực hiện nghiêm công tác kiểm tra kháng sinh cấm trong các lô hàng thủy sản xuất khẩu vào Nhật Bản. Trong quá trình triển khai, nếu gặp phải vướng mắc, các trung tâm phải có báo cáo nhanh về cơ quan cấp trên để có biện pháp giải quyết kịp thời. 3.2.2Rào cản bán phá giá: Rào cản chống bán phá giá là một trong những rào cản mang tính bảo hộ, phòng vệ trong thương mại quốc tế được sữ dụng ở nhiều nước trên thế giới, đang có nguy cơ gia tăng tại các thị trường xuất khẩu, đặc biệt là thị trường Hoa Kỳ đã gây thiệt hại lớn và lâu dài đến ngành xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Vì vậy cần đối phó và vượt qua “rào cản” này là công việc cấp bách và đặc biệt quan trọng đối với sản xuất và xuất khầu của các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam. Sau đây là một số giải pháp được kiến nghị: a.Nhóm giải pháp từ phía Nhà nước Chính phủ tích cực đẩy mạnh quá trình chuyển đổi nền kinh tế để sớm được công nhận là nền kinh tế thị trường Khi một nước bị coi là có nền kinh tế phi thị trường thì các nhà xuất khẩu của nước đó sẽ gặp phải sự bất lợi vô cùng lớn trong các cuộc điều tra chống bán phá giá do ba nguyên nhân chính sau: Thứ nhất, việc sử dụng giá và chi phí sản xuất tại nước thay thế sẽ dẫn đến biên độ bán phá giá rất cao. Mức biên độ bán phá giá cao này gần như là chắc chắn, vì các nhà sản xuất tại nước thay thế đang cạnh tranh với các nhà xuất khẩu tại nước bị coi là nền kinh tế phi thị trường và do đó, sẽ không có lợi cho họ trong việc giảm thiểu việc tìm ra yếu tố bán phá giá của các nhà cạnh tranh của họ. Thứ hai, việc sử dụng các số liệu của nước thay thế cũng dẫn đến việc nhiều lợi thế so sánh của nước có nền kinh tế phi thị trường không được xem xét trong quá trình điều tra và các doanh nghiệp của nước này bị áp dụng một mức thuế chống bán phá giá mà lẽ ra, có thể tránh được nếu được coi là một nước có nền kinh tế thị trường . Thứ ba, việc lựa chọn nước thay thế nhiều khi rất tuỳ tiện. Pháp luật của các nước quy định không giống nhau về việc xác định nước thay thế. Ví dụ, theo pháp luật Hoa Kỳ thì nước thay thế là nước có nền kinh tế thị trường, có trình độ phát triển tương đương với nước bị kiện (chủ yếu dựa vào thu nhập quốc dân bình quân đầu người) và là nước sản xuất đáng kể mặt hàng tương tự như mặt hàng đang bị điều tra. Cho đến nay, rất nhiều doanh nghiệp của Việt Nam đã và đang phải chịu nhiều thiệt thòi trong các cuộc điều tra chống bán phá giá vì toàn bộ số liệu về giá cả và chi phí sản xuất tại Việt Nam đều bị cơ quan điều tra của nước nhập khẩu từ chối xem xét. Chẳng hạn, trong vụ kiện chống bán phá giá philê cá da trơn từ Việt Nam vào Hoa Kỳ kết thúc tháng 7 năm 2003, Việt Nam bị coi là nước có nền kinh tế phi thị trường và Bangladesh được chọn là nước thay thế. Quyết định áp thuế được đưa ra sau khi DOC tính toán các sản phẩm philê của Việt Nam sẽ có giá thành bao nhiêu nếu cá nguyên liệu được nuôi ở một trang trại vùng Kishoregonj của Bangladesh với chi phí lao động mà cơ quan này cho là phổ biến ở Việt Nam căn cứ vào thu nhập bình quân đầu người lúc đó. Trong khi đó, đại đa số các nhà sản xuất/xuất khẩu philê cá da trơn của Việt Nam đều áp dụng quy trình sản xuất khép kín từ khâu ươm giống, nuôi cá, chế biến đến xuất khẩu, dẫn đến giá thành philê cá rất thấp. Tuy nhiên, yếu tố này đã không được DOC xem xét trong quá trình điều tra. Như vậy, địa vị nền kinh tế phi thị trường của một quốc gia chắc chắn sẽ mang lại nhiều bất lợi cho các nhà xuất khẩu của quốc gia đó. Tuy nhiên, một quốc gia bị coi là có nền kinh tế phi thị trường không có nghĩa là tất cả các khu vực kinh tế hay tất cả các vùng đều “phi thị trường”. Điều này có nghĩa là, dù cho nước xuất khẩu bị coi là nước có nền kinh tế phi thị trường thì các nhà sản xuất/xuất khẩu của nước này vẫn có quyền yêu cầu được sử dụng các phương pháp kinh tế thị trường nếu chứng minh được rằng, mình hoạt động trong những điều kiện của nền kinh tế thị trường và không bị can thiệp quá nhiều từ Chính phủ. Nếu cơ quan điều tra của nước nhập khẩu chấp nhận thì việc tính toán biên độ phá giá của riêng các nhà sản xuất/xuất khẩu này sẽ được dựa trên giá cả và chi phí sản xuất tại chính nước xuất khẩu mà không cần sử dụng nước thay thế. Tóm lại, quy chế nền kinh tế phi thị trường sẽ mang lại rất nhiều bất lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam trong các cuộc điều tra chống bán phá giá so với các doanh nghiệp thuộc các nền kinh tế thị trường. Để hạn chế sự bất lợi này, trước mắt, các doanh nghiệp là đối tượng của các cuộc điều tra chống bán phá giá cần tích cực hợp tác với cơ quan điều tra để chứng minh rằng, ngành sản xuất của mình hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường và không chịu sự can thiệp của Chính phủ. Chính phủ cần có cơ chế giám sát hàng xuất khẩu Thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, biện pháp tự vệ, các điều kiện kỹ thuật, vệ sinh dịch tễ…là những loại “rào cản” đã và đang được các nước nhập khẩu sử dụng khá phổ biến trong khuôn khổ các nguyên tắc của WTO. Một khi những rào cản này được dựng lên, hoạt động xuất khẩu có thể bị ảnh hưởng rất nghiêm trọng: những mức thuế bổ sung có thể làm triệt tiêu khả năng cạnh tranh, chi phí tuân thủ cao khiến giá bán hàng tăng, những hạn ngạch khắt khe, thậm chí là những lệnh cấm nhập khẩu có thể dẫn tới nguy cơ mất hẳn một thị trường nào đó. Vì vậy, việc nghiên cứu và áp dụng các biện pháp nhằm đối phó với những nguy cơ này có ý nghĩa thực tiễn quan trọng. Một trong những phương pháp được đề cập khá nhiều trong thời gian gần đây là kiểm soát tự nguyện các hoạt động xuất khẩu từ phía cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam, còn được biết đến dưới tên “Cơ chế giám sát xuất khẩu”. Thực tế, điều mà chúng ta cần không phải là một cơ chế cứng nhắc để kiểm soát từ trên xuống mà là một tập hợp nhiều biện pháp linh hoạt, mềm dẻo, phù hợp với tình hình thực tế . Phát triển một cơ chế cảnh báo sớm Mặc dù không có một cơ chế pháp lý để có thể áp dụng cho mọi ngành, nhưng một cơ chế cảnh báo sớm có thể bao gồm các yếu tố sau: phân tích kinh tế, giám sát hoạt động của các nhà sản xuất nội địa, một mạng lưới quan hệ với các công ty vận động hành lang và các công ty luật ở nước ngoài, và theo dõi báo chí, cụ thể như sau: Thứ nhất, các phân tích kinh tế phải thể hiện cả tình hình xuất khẩu của Việt Nam vào thời điểm hiện tại lẫn tình hình của nền công nghiệp tương ứng ở nước mà vụ kiện có thể xảy ra. Mọi sự tăng trưởng đột xuất của thị phần có thể dẫn tới một vụ kiện vì nếu thị trường bị hàng hoá nước ngoài thống lĩnh thì các nhà sản xuất nội địa cũng có thể đệ đơn kiện. Ngoài ra, sự suy giảm của thị phần cũng có thể là một trong các lý do khiến nhà sản xuất nội địa đệ đơn kiện chống bán phá giá bất chấp việc suy giảm đó là do sự cắt giảm trợ cấp của chính phủ, hay do công nghệ lạc hậu, hay do thiên tai. Thứ hai, việc theo dõi chặt chẽ các hoạt động của các nhà sản xuất nội địa có thể giúp các doanh nghiệp Việt Nam phát hiện một vụ kiện phá giá sắp xảy ra. Trước khi nộp đơn khởi kiện tới cơ quan có thẩm quyền, các nhà sản xuất nội địa cần phải phối hợp với nhau để tạo nguồn tài chính, thuê luật sư và chuẩn bị các thông tin cho việc kiện. Trong hầu hết các trường hợp, những hoạt động này là công khai. Vì khi các doanh nghiệp Việt Nam phát hiện các hoạt động này, họ phải lập tức chuẩn bị cho một vụ kiện. Việc theo dõi báo chí là một trong những cách hiệu quả khi các nhà xuất khẩu Việt Nam không có đại diện thường trực ở nước ngoài. Thứ ba, xây dựng mối quan hệ với các công ty luật và các công ty vận động hành lang là một cách thức tốt cho doanh nghiệp Việt Nam để biết về các công ty này cũng như biết về các dịch vụ mà họ cung cấp.Việc lựa chọn các công ty luật là rất cần thiết trong các vụ kiện chống bán phá giá, vì vai trò của luật sư là hết sức quan trọng. Vì vậy thông thường các doanh nghiệp, đều thông qua nghiệp đoàn hoặc hiệp hội cùng lựa chọn ( hoặc một số) công ty luật tư vấn, đại diện cho mình trong vụ kiện trong các vụ kiện, thường thì trong các vụ kiện tại nước ngoài, khi lựa chọn luật sư cho các vụ kiện chống bán phá giá, các doanh nghiệp thường rất quan tâm đến khả năng sử dụng các chuyên gia về kinh tế, phải có uy tín và kinh nghiệm trong lĩnh vực chống bán phá giá của công ty luật cũng như khả năng sử dụng tiếng Anh của họ (đặc biệt trong các vụ kiện ở nước ngoài) thì mới có thể đáp ứng yêu cầu trong một vụ kiện ở tầm quốc gia. Vận động hành lang Vụ kiên về chống bán phá giá sản phẩm philê cá da trơn và tôm Việt Nam tại thị trường Hoa Kỳ được xem là bài học về sự phối hợp các yếu tố kinh tế, chính trị cũng như sự liên kết chặt chẽ của các doanh nghiệp liên quan với các tổ chức và đồng minh trong và ngoài nước.Vận động hành lang đối với ngành lập pháp có hiệu quả hạn chế. Tuy nhiên vận động là cần thiết vì nó có thể khiến các cơ quan chống bán phá giá áp dụng các biện pháp công bằng và hợp lý trong quá trình điều tra. Vì vậy, vận động hành lang cần một chiến lược với các mục tiêu và mục đích rõ ràng. Trong vận động hành lang, chứng cứ tạo ra sức thuyết phục mạnh hơn là chỉ tiếp cận tới các đối tượng và đưa ra những lập luận cảm tính đối với họ. Hợp tác với báo chí, huy động các lực lượng nước ngoài và đặc biệt là lực lượng người Việt ở nước ngoài vì họ hiểu luật tại nước sở tại, các tổ chức đồng minh nhập khẩu, phân phối bán lẽ, bảo vệ người tiêu dùng, các tổ chức có quyền lợi chung và các tổ chức phi chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc giành sự ủng hộ của dư luận. Các giải pháp khác Vai trò của Chính phủ trong các vụ việc chống bán phá giá cần được xác định một cách đúng mức. Nhà nước cũng nên hỗ trợ các doanh nghiệp trong và các vấn đề liên quan đến thông tin và trợ giúp kỹ thuật, cung cấp dịch vụ tư vấn, và hướng dẫn trả lời bảng câu hỏi do cơ quan điều tra bên khởi kiện nhằm đảm bảo bảng câu hỏi đầy đủ thông tin và phù hợp với các quy định. Tiến hành các hoạt động phổ biến kiến thức, nâng cao nhận thức của doanh nghiệp và công chúng về các vấn đề chống phá giá. Để đối phó thành công ở mỗi vụ tranh chấp về bán phá giá, sự phối hợp nhịp nhàng giữa chính phủ và hiệp hội các doanh nghiệp trong việc đối phó với vụ kiện chống bán phá giá hàng Việt Nam ở nước ngoài. Hiện nay Việt Nam là thành viên của WTO nên khi giải quyết các tranh chấp phát sinh liên quan tới chống bán phá giá ta có thể gởi lên WTO giải quyết. Cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế nói chung và chống bán phá giá nói riêng có uy tín và hiệu quả nhất là cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO. Đây cũng là một nhân tố chúng ta phải tính đến trong quá trình giải quyết các tranh chấp liên quan tới chống bán phá giá và có thể sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp có hiệu quả của tổ chức này. Cần nhanh chóng tổ chức các khóa đào tạo về áp dụng thuế chống bán phá giá cho đông đảo các cán bộ ngành. Nội dung của các khóa đào tạo này sẽ bao gồm những vấn đề kinh tế liên quan tới bán phá giá, những quy định về thuế chống bán phá giá của WTO, kinh nghiệm áp dụng thuế chống bán phá giá của một số nước. Đồng thời, trong phạm vi khả năng của mình Bộ thương mại có thể hỗ trợ doanh nghiệp thông tin về các văn phòng luật sư nước ngoài có kinh nghiệm về chống bán phá giá; giúp các doanh nghiệp bằng việc tổng hợp các kinh nghiệm và bài học của các vụ kiện chống bán phá giá trước đó. Tổ chức các hội thảo hoặc buổi làm việc với các phòng thương mại, các hiệp hội, các viện nghiên cứu, các doanh nghiệp để phổ biến thông tin và giúp đối tượng hiểu đầy đủ về bản chất của các biện pháp bồi thường trong thương mại quốc tế. Cùng với các nổ lực tương tự các Hiệp hôi doanh nghiệp. Các viện nghiên cứu..., bước đầu có thể nói rằng hoạt động tuyên truyền về chống bán phá giá ở Việt Nam đã có những hiệu quả tích cực. Với những nhận thức đúng về bản chất của việc chống bán phá giá ( nhằm đảm bảo cho thương mại công bằng). Cả Chính Phủ và các doanh nghiệp Việt Nam dường như đều xem đây là các vấn đề thuộc về thương mại đơn thuần ( không mang tính chính trị) và có cách hành xử tương ứng : chủ động khởi kiện khi thấy hàng hóa nước ngoài bán phá giá vào Ấn Độ và cũng bình tĩnh ứng phó với các vụ kiện ở nước ngoài. Chính Phủ cũng có thể giúp đỡ hiệp hội doanh nghiệp trong việc vận hành hệ thống cảnh báo sớm bằng cách trao đổi các thông tin kinh tế vĩ mô và thu thập các thông tin thông qua các mạng lưới quan hệ của mình, ví dụ: Bộ thương mại thông qua hệ thống các tham tán thương mại của mình có thể giúp đỡ các doanh nghiệp Việt Nam thu thập thông tin về thị trường xuất khẩu. Ngoài ra, các cơ quan nhà nước cũng có thể cung cấp các hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo cho các doanh nghiệp, đặc biệt là đào tạo về luật thương mại quốc tế. Cuối cùng, Chính Phủ có thể thông qua các mối quan hệ của mình để tác động tới cơ quan điều tra nước ngoài nhằm thuyết phục họ công bằng trong quá trình điều tra vụ việc. Để giúp các doanh nghiệp Việt Nam vượt qua những khó khăn khi bị nước ngoài kiện bán phá giá, Chính Phủ có thể nghiên cứu thành lập các quỹ trợ giúp theo đuổi các vụ kiện phục vụ cho việc xuất khẩu để giúp đỡ cho các doanh nghiệp kháng kiện về mặt tài chính. Các cơ quan đại diện ở nước ngoài của chính phủ cần giúp đỡ các doanh nghiệp về mặt cung cấp thông tin, nhất là những thông tin liên quan đến việc nước ngoài kiếu kiện doanh nghiệp Việt Nam và thông tin liên quan đến những luật sư giỏi ở nước sở tại có khả năng giúp cho doanh nghiệp thắng kiện. Các cơ quan hữu quan của chính phủ và phương tiện thông tin cần tuyên truyền tình hình để tăng cường lòng tin cho các doanh nghiệp theo đuổi vụ kiện. Một khi Việt Nam đã là thành viên của WTO, Việt Nam sẽ có lợi thế hơn vì được hưởng cơ chế ưu tiên cho các nước phát triển và được hưởng các biệt lệ thi hành các thoả ước về thuế quan chậm hơn. b.Nhóm giải pháp từ phía hiệp hội ngành hàng: Hiện nay, bên khởi kiện bán phá giá ở nước ngoài thường lấy danh nghĩa hiệp hội để đủ tư cách không dưới 50% sản phẩm toàn quốc. Nếu bên hầu kiện chỉ là những doanh nghiệp riêng lẻ thì dễ sơ hở và không kham nổi chi phí kiện tụng. Vì vậy việc đoàn kết với các doanh nghiệp khác trong hiệp hội ngành nghề, hoặc trong các tổ chức nhóm sản phẩm để theo đuổi vụ kiện là cần thiết và mang lại nhiều lợi ích. Từ hai vụ kiện chống bán phá giá filê cá da trơn và vụ kiện tôm ta rút ra bài học vai trò của các tổ chức hiệp hội là rất quan trọng và cần thiết. Vì vậy cần tăng cường hoạt động của các tổ chức, hiệp hội ngành hàng tham gia các vụ kiện bán phá giá. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, muốn đẩy mạnh xuất khẩu cần phải củng cố vai trò của hiệp hội để sẵn sàng và chủ động giải quyết các tranh chấp thương mại có thể phát sinh. Các hiệp hội ngành hàng nên thiết lập cơ quan đại diện ở nước ngoài, trước hết là tập trung vào các thị trường trọng điểm và tổ chức tốt việc nghiên cứu các điều kiện thâm nhập thị trường nhằm mở rộng thị trường nhập khẩu và nâng cao hiệu quả ngành hàng của mình. Hiệp hội cũng cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa đại diện hiệp hội với tham tán thương mại để đạt được kết quả, xử lý và đánh giá thông tin một cách toàn diện. Thông qua hiệp hội quy định hành vi thị trường của các nhà xuất khẩu để bảo vệ lẫn nhau, không bị các doanh nghiệp nước nhập khẩu bắt chẹt trên thương trường. Đồng thời thông qua hiệp hội chuyên ngành để phối hợp giá cả trên thị trường thế giới, phòng ngừa tính cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp xuất khẩu, đặc biệt là ngăn chặn các doanh nghiệp khác bán với giá quá rẻ tạo nguy cơ gây ra bị kiện bán phá giá. Hiệp hội cần tăng cường vai trò hỗ trợ tích cực cho các doanh nghiệp xuất khẩu để giúp doanh nghiệp ngăn ngừa và ứng phó hiệu quả với các biện pháp chống bán phá giá của đối tác thương mại. Hiệp hội có thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu về các thông tin liên quan đến các thị trường xuất khẩu, về chính sách thương mại của quốc gia có vụ kiện chống bán phá giá và chính sách thương mại của Việt Nam, về pháp luật chống bán phá giá.Việc hỗ trợ có thể được thực hiện thông qua các hình thức: hội thảo, tập huấn, cung cấp các tài liệu hướng dẫn về luật chống bán giá cho doanh nghiệp Thiết lập cơ chế phối hợp với nhau tham gia kháng kiện và hưởng lợi khi kháng kiện thành công để khuyến khích các doanh nghiệp tham gia kháng kiện. Tổ chức các doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu lớn, chiếm thị phần lớn liên hiệp với nhau để kháng kiện, chia sẽ chi phí, chia sẽ thắng lợi. Tổ chức cho các doanh nghiệp nghiên cứu những quy định pháp lý của nước ngoài về chống bán phá giá để có biện pháp né tránh hợp lý. Quy định pháp lý về chống bán phá giá của các nước không phải là giống nhau, vì vậy nếu có biện pháp né tránh hợp lý thì sẽ giảm bớt được các trường hợp kiếu kiện bán phá giá ở nước ngoài. Cung cấp các thông tin cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung thiếu sự hiểu biết về việc kháng kiện bán phá giá. Các hiệp hội chuyên ngành cần phát huy vai trò cung cấp thông tin, giảm bớt tổn thất do thiếu thông tin. Đồng thời hiệp hội nên phát triển một cơ chế cảnh báo sớm đối với quá trình chuẩn bị điều tra, theo dõi các hoạt động chuẩn bị kiện của các nhà sản xuất Hoa Kỳ, phân tích tình hình của ngành thuỷ sản của Hoa Kỳ và xu hướng nhập khẩu thuỷ sản vào thị trường Hoa Kỳ của các doanh nghiệp Việt Nam. Việc giúp cho các doanh nghiệp nắm vững và thu thập đầy đủ các thông tin về thị trường, cơ chế, chính sách, pháp luật của nước sở tại là vô cùng quan trọng. Nó giúp cho doanh nghiệp lường trước những rắc rối có thể xảy ra để có kế hoạch chủ động đối phó. Việc chuẩn bị và đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá cần có nguồn lực tài chính lớn. Mặc dù các doanh nghiệp là người phải thanh toán các chi phí này nhưng vẫn cần phải quản lý tập trung các nguồn lực tài chính. Có thể nói Hiệp hội là cơ quan thích hợp nhất để huy động và điều hành mọi nguồn lực tài chính vì hiệp hội là người điều phối các hoạt động chuẩn bị và đối phó với việc điều tra. Trong các vụ kiện chống bán phá giá, vai trò của luật sư là hết sức quan trọng. Vì vậy, thông thường, các doanh nghiệp đều thông qua Hiệp hội cùng lựa chọn một (hoặc một số) công ty luật tư vấn, đại diện cho mình trong các vụ kiện. Thường thì trong các vụ kiện tại nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam thuê luật sư của chính nước đó làm luật sư tư vấn và đại diện. Khi lựa chọn luật sư cho các vụ kiện chống bán phá giá, các doanh nghiệp thường rất quan tâm đến khả năng sử dụng các chuyên gia về kinh tế, phải có uy tín và kinh nghiệm trong lĩnh vực chống bán phá giá của công ty cũng như khả năng sử dụng tiếng Anh của họ (đặc biệt trong các vụ kiện ở nước ngoài) thì mới có thể đáp ứng yêu cầu trong một vụ kiện ở tầm quốc gia. Hiệp hội cần hình thành ngay các tổ chức chuyên nghiệp để cùng với doanh nghiệp tham gia quá trình tố tụng, ngay khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO để đánh giá mức khả năng hàng hoá của hiệp hội bị kiện bán phá giá ở nước ngoài, đồng thời giám sát các vụ kiện chống phá giá của các nước nhập khẩu, và điều tra hành vi phá giá của các nhà nhập khẩu nước ngoài trên thị trường Việt Nam. c.Nhóm giải pháp từ phía doanh nghiệp Xây dựng thương hiệu mạnh và đa dạng hoá thị trường, đa dạng hoá sản phẩm Bài học đầu tiên từ vụ cá da trơn là khi ưu thế cạnh tranh của các nhà sản xuất nội địa giảm sút, thị phần của họ bị suy giảm, họ có thể sử dụng mọi biện pháp có thể để ngăn cản hàng nhập khẩu. Chống bán phá giá chỉ là một trong các biện pháp mà người sản xuất nội địa có thể sử dụng. Do đó, các nhà sản xuất nội địa của Hoa Kỳ có nhiều cơ hội trong việc ngăn cản hàng ngoại nhập.Vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam phải có chiến lược đa dạng hoá sản phẩm, đa dạng hoá thị trường xuất khẩu nhằm phân tán rủi ro, bảo đảm hoạt động sản xuất “không nên bỏ tất cả trứng vào một giỏ”. Không nên tập trung xuất khẩu một vài mặt hàng với khối lượng lớn vào một nước vì đây có thể là cơ sở cho các nước khởi kiện bán phá giá. Hệ thống chứng từ sổ sách và hạch toán kế toán theo chuẩn mực quốc tế Hiện nay nước ta đã gia nhập WTO thì vấn đề hạch toán chi phí, quy trình hạch toán kế toán theo chuẩn mực quốc tế. Các doanh nghiệp Việt Nam hiện sử dụng chứng từ sổ sách và quy trình hạch toán kế toán còn nhiều điều chưa hợp lý, chưa phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Qua hai vụ kiện tôm và philê cá da trơn basa ta rút ra kinh nghiệm về chứng từ số liệu kế toán của doanh nghiệp chưa rõ ràng minh bạch, làm cho cơ quan điều tra không chấp nhận những chi phí đó, đã dẫn đến việc khó khăn và bất lợi trong việc điều tra biên độ phá giá của doanh nghiệp.Vì vậy doanh nghiệp cần có những giải pháp sau: Theo hệ thống kế toán của Việt Nam hiện nay, các doanh nghiệp chưa có khoản mục chi phí thuê luật sư. Do đó khi bị kiện bán phá giá doanh nghiệp phải thuê luật sư để bào chữa vụ kiện sao cho được áp mức thuế thấp nhất, hầu hết doanh nghiệp đều phải thuê luật sư ở nước ngoài, các công ty luật có uy tín về chống bán phá giá, vì vậy chi phí thuê luật sư là rất lớn. Đây là một khoản mục chi phí hợp lệ mà doanh nghiệp nên áp dụng, nó phù hợp với chuẩn mực kế toán quốc tế. Đồng thời doanh nghiệp phải hạch toán chi phí rõ ràng, số liệu chứng từ chính xác minh bạch áp dụng đúng theo chuẩn mực kế toán quốc tế. Nghiên cứu đào tạo nâng cao kiến thức về quy trình hạch toán kế toán quốc tế; Doanh nghiệp Việt nam cần nghiên cứu đào tạo nhân viên kế toán các kiến thức chuẩn mực kế toán quốc tế, nâng cao trình độ quản lý, xử lý ghi chép các chứng từ theo đúng quy trình kế toán quốc tế. Đồng thời cần minh bạch rõ ràng số liệu kế toán theo tiêu chuẩn quốc tế. Xây dựng hệ thống thông tin minh bạch và phù hợp chuẩn quốc tế: một hệ thống thông tin minh bạch được kiểm định độc lập theo đúng chuẩn quốc tế chính là các bằng chứng mạnh mẽ nhất để tự bảo vệ. Do vậy các doanh nghiệp cần nghiêm túc đầu tư hệ thống thông tin của mình. Hệ thống này sẽ giúp tiết kiệm thời gian và chi phí trong việc theo đuổi các vụ kiện, cũng như nâng cao tính hiệu quả trong quản lý kinh doanh. Giải pháp về giá xuất khẩu và giá trị thông thường của sản phẩm xuất khẩu Các doanh nghiệp cần phải có chiến lược về định giá xuất khẩu, xuất khẩu với giá cao những sản phẩm có chất lượng tốt, đồng thời các doanh nghiệp cần có một định mức tiêu hao thấp phù hợp với điều kiện thực tế trong doanh nghiệp. Muốn làm được điều này các doanh nghiệp cần phải có chính sách đào tạo nguồn nhân lực, đào tạo những lao động có tay nghề cao và có chính sách đãi ngộ cho những người lao động có kinh nghiệm và có thời gian công tác lâu năm. Nâng cao kiến thức về luật chống bán phá giá của WTO cũng như luật chống bán phá giá Doanh nghiệp chế biến thuỷ sản phải biết tìm hiểu nâng cao kiến thức về luật chống bán phá giá của WTO và của Hoa Kỳ, nhanh chóng bồi dưỡng nhiều chuyên gia thông thạo các quy tắc mậu dịch quốc tế, mời các chuyên gia giỏi, kể cả các chuyên gia nước ngoài đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ quản lý của doanh nghiệp và luật sư lành nghề. Trên cơ sở đó hình thành các tổ chức chuyên phục vụ việc ứng phó với các tranh chấp về ngoại thương, bao gồm đội ngũ luật sư, kế toán, nhà kinh tế và chuyên gia chuyên sâu, có năng lực làm việc về vấn đề này, thì mới có đủ khả năng tư vấn cho doanh nghiệp, hỗ trợ cho chính phủ khi xảy ra vụ kiện chống bán phá giá để đối phó. Các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam cần có tinh thần tích cực theo đuổi vụ kiện khi bị nước ngoài kiện bán phá giá Các doanh nghiệp trong quá trình điều tra phải hợp tác với cơ quan điều tra, cung cấp cho cơ quan điều tra tất cả các thông tin mà cơ quan cần. Điều quan trọng nhất không phải là chứng minh rằng “lẽ phải thuộc về mình” mà là giảm thiểu mức áp thuế chống bán phá giá càng thấp càng tốt.Tôn trọng thời hạn của các Bảng câu hỏi, hợp tác với bị đơn khác trong quá trình điều tra cũng rất quan trọng. KẾT LUẬN Ngành xuất khẩu thủy sản Việt Nam là ngành kinh tế chiến lược của nước ta. Hoạt động xuất khẩu đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân bằng việc phát triển nền sản xuất trong nước, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu , tạo công ăn việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân,v.v… Tuy nhiên môi trường cạnh tranh luôn diễn ra quyết liệt trên góc độ vi mô lẫn vĩ mô, nổi trội là các rào cản thương mại, để có thể đứng vững trên thị trường thế giới và phát triển ngành xuất khẩu thủy sản Việt Nam hơn nữa, Nhà nước và các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần nắm bắt kịp thời những thuận lợi của ta như nguồn nguyên liệu dồi dào, lực lượng lao động, các chính sách ưu đãi, hợp tác song phương, đa phương mà các nước dành cho nhau,v.v..từ đó tháo gỡ được những khó khăn còn vướng mắc. Điều này đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ từ khâu nuôi trồng, đánh bắt đến khâu chế biến và xuất khẩu mà sự hỗ trợ từ phía Nhà nước là không thể thiếu. Vì vậy giải pháp tối ưu nhất cho mọi vấn đề đó chính là sự hợp lực của Nhà nước- Doanh nghiệp và Hộ nông dân. --------------------------------------------- Tài liệu tham khảo: Bài giảng Kinh doanh xuất nhập khẩu- Trần Văn Nghiệp. Dữ liệu VASEP- Hiệp hội Thủy sản Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang các thị trường chính năm 2009-2011.doc
Luận văn liên quan