Đề tài Thuế thu nhập cá nhân – Thực trạng và giải pháp

Mục lục Mở đầu: 2 Phần một: Một số điểm cơ bản Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 I/ Đối tượng chịu thuế 3 II/ Các loại thu nhập chịu thuế 3 III/ Các loại thu nhập được giảm thuế và miễn thuế 5 IV/ Cách thức tính thuế 7 Phần hai: Một số ý kiến đánh giá về Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 I/ Ý kiến của các chuyên gia 9 II/ Ý kiến của Chính phủ 11 Phần ba: So sánh Luật thuế thu nhập cá nhân Việt Nam và Hoa Kỳ 14 Phần bốn: Thực trạng ở Việt Nam 16 Phần năm: Một số giải pháp 18 Lời kết 20 Tài liệu tham khảo 21 Lời mở đầu Ở hầu hết các quốc gia, thuế là một nguồn thu nhập lớn của chính phủ, nhằm mục đích ổn định kinh tế xã hội, xây dựng quốc phòng an ninh. Luật thuế thu nhập cá nhân ra đời từ lâu trên thế giới đã tạo ra một hiệu quả rõ rệt trong việc phân phối lại nguồn thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Tại Việt Nam, luật thuế thu nhập cá nhân đã sớm hình thành và từng bước hoàn thiện để phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra. Tuy nhiên, luật thuế thu nhập cá nhân đang được áp dụng hiện nay còn nhiều bất cập trong việc thi hành, đây là một vấn đề đang được cả xã hội quan tâm. Chính vì lí do đó, nhóm sinh viên chúng em đã lựa chọn đề tài “ Thuế thu nhập cá nhân- Thực trạng và giải pháp” để làm bài Tiểu luận, với mục tiêu tìm hiểu rõ vấn đề, qua đó tìm ra những phương pháp, cách thức giải quyết những mặt kém còn tồn tại, đồng thời nâng cao ý thức trách nhiệm của bản thân, gia đình và xã hội về việc đóng thuế thu nhập cá nhân. Bài tiểu luận bao gồm những phần sau đây: - Một số nét chính trong Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 - Các ý kiến phản hồi về Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 - Vài nét so sánh về Luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam và Hoa Kỳ - Những tồn tại căn bản trong Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 - Một số giải pháp khắc phục

docx22 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5669 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thuế thu nhập cá nhân – Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG ----------***---------- TIỂU LUẬN TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Đề tài: THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN– THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Nhóm sinh viên: Nguyễn Thị Thanh Hà Nguyễn Thị Thúy Nga Vũ Hoàng Yến Lớp: Anh 4 – TCQTB – K46 Giảng viên hướng dẫn: ThS. Đặng Chí Thọ Mục lục Mở đầu: 2 Phần một: Một số điểm cơ bản Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 I/ Đối tượng chịu thuế 3 II/ Các loại thu nhập chịu thuế 3 III/ Các loại thu nhập được giảm thuế và miễn thuế 5 IV/ Cách thức tính thuế 7 Phần hai: Một số ý kiến đánh giá về Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 I/ Ý kiến của các chuyên gia 9 II/ Ý kiến của Chính phủ 11 Phần ba: So sánh Luật thuế thu nhập cá nhân Việt Nam và Hoa Kỳ 14 Phần bốn: Thực trạng ở Việt Nam 16 Phần năm: Một số giải pháp 18 Lời kết 20 Tài liệu tham khảo 21 Lời mở đầu Ở hầu hết các quốc gia, thuế là một nguồn thu nhập lớn của chính phủ, nhằm mục đích ổn định kinh tế xã hội, xây dựng quốc phòng an ninh. Luật thuế thu nhập cá nhân ra đời từ lâu trên thế giới đã tạo ra một hiệu quả rõ rệt trong việc phân phối lại nguồn thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Tại Việt Nam, luật thuế thu nhập cá nhân đã sớm hình thành và từng bước hoàn thiện để phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra. Tuy nhiên, luật thuế thu nhập cá nhân đang được áp dụng hiện nay còn nhiều bất cập trong việc thi hành, đây là một vấn đề đang được cả xã hội quan tâm. Chính vì lí do đó, nhóm sinh viên chúng em đã lựa chọn đề tài “ Thuế thu nhập cá nhân- Thực trạng và giải pháp” để làm bài Tiểu luận, với mục tiêu tìm hiểu rõ vấn đề, qua đó tìm ra những phương pháp, cách thức giải quyết những mặt kém còn tồn tại, đồng thời nâng cao ý thức trách nhiệm của bản thân, gia đình và xã hội về việc đóng thuế thu nhập cá nhân. Bài tiểu luận bao gồm những phần sau đây: Một số nét chính trong Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 Các ý kiến phản hồi về Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 Vài nét so sánh về Luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam và Hoa Kỳ Những tồn tại căn bản trong Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 Một số giải pháp khắc phục Phần một: Một số điểm cơ bản Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 I/ Đối tượng chịu thuế Theo Điều 2 luật thuế thu nhập cá nhân quy định: 1. Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân là cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế quy định tại Điều 3 của Luật này phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam và cá nhân không cư trú có thu nhập chịu thuế quy định tại Điều 3 của Luật này phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam. 2. Cá nhân cư trú là người đáp ứng một trong các điều kiện sau đây: a) Có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch hoặc tính theo 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam; b) Có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi ở đăng ký thường trú hoặc có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn. 3. Cá nhân không cư trú là người không đáp ứng điều kiện quy định tại khoản 2 Điều này. II/ Các loại thu nhập chịu thuế Theo Điều 3: Thu nhập chịu thuế Thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân gồm các loại thu nhập sau đây, trừ thu nhập được miễn thuế quy định tại Điều 4 của Luật này: 1. Thu nhập từ kinh doanh, bao gồm: a) Thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ; b) Thu nhập từ hoạt động hành nghề độc lập của cá nhân có giấy phép hoặc chứng chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật. 2. Thu nhập từ tiền lương, tiền công, bao gồm: a) Tiền lương, tiền công và các khoản có tính chất tiền lương, tiền công; b) Các khoản phụ cấp, trợ cấp, trừ các khoản phụ cấp, trợ cấp theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công, phụ cấp quốc phòng, an ninh, phụ cấp độc hại, nguy hiểm đối với những ngành, nghề hoặc công việc ở nơi làm việc có yếu tố độc hại, nguy hiểm, phụ cấp thu hút, phụ cấp khu vực theo quy định của pháp luật, trợ cấp khó khăn đột xuất, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, trợ cấp một lần khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi, trợ cấp do suy giảm khả năng lao động, trợ cấp hưu trí một lần, tiền tuất hàng tháng, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm theo quy định của Bộ luật lao động, các khoản trợ cấp khác do Bảo hiểm xã hội chi trả, trợ cấp giải quyết tệ nạn xã hội; c) Tiền thù lao dưới các hình thức; d) Tiền nhận được từ tham gia hiệp hội kinh doanh, hội đồng quản trị, ban kiểm soát, hội đồng quản lý và các tổ chức; đ) Các khoản lợi ích khác mà đối tượng nộp thuế nhận được bằng tiền hoặc không bằng tiền; e) Tiền thưởng, trừ các khoản tiền thưởng kèm theo các danh hiệu được Nhà nước phong tặng, tiền thưởng kèm theo giải thưởng quốc gia, giải thưởng quốc tế, tiền thưởng về cải tiến kỹ thuật, sáng chế, phát minh được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận, tiền thưởng về việc phát hiện, khai báo hành vi vi phạm pháp luật với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 3. Thu nhập từ đầu tư vốn, bao gồm: a) Tiền lãi cho vay; b) Lợi tức cổ phần; c) Thu nhập từ đầu tư vốn dưới các hình thức khác, trừ thu nhập từ lãi trái phiếu Chính phủ. 4. Thu nhập từ chuyển nhượng vốn, bao gồm: a) Thu nhập từ chuyển nhượng phần vốn trong các tổ chức kinh tế; b) Thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán; c) Thu nhập từ chuyển nhượng vốn dưới các hình thức khác. 5. Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, bao gồm: a) Thu nhập từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; b) Thu nhập từ chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc sử dụng nhà ở; c) Thu nhập từ chuyển nhượng quyền thuê đất, thuê mặt nước; d) Các khoản thu nhập khác nhận được từ chuyển nhượng bất động sản. 6. Thu nhập từ trúng thưởng, bao gồm: a) Trúng thưởng xổ số; b) Trúng thưởng trong các hình thức khuyến mại; c) Trúng thưởng trong các hình thức cá cược, casino; d) Trúng thưởng trong các trò chơi, cuộc thi có thưởng và các hình thức trúng thưởng khác. 7. Thu nhập từ bản quyền, bao gồm: a) Thu nhập từ chuyển giao, chuyển quyền sử dụng các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ; b) Thu nhập từ chuyển giao công nghệ. 8. Thu nhập từ nhượng quyền thương mại. 9. Thu nhập từ nhận thừa kế là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng. 10. Thu nhập từ nhận quà tặng là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng. III/ Các loại thu nhập được giảm thuế và miễn thuế Theo Điều 4. Thu nhập được miễn thuế 1. Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau. 2. Thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền với đất ở của cá nhân trong trường hợp cá nhân chỉ có một nhà ở, đất ở duy nhất. 3. Thu nhập từ giá trị quyền sử dụng đất của cá nhân được Nhà nước giao đất. 4. Thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là bất động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau. 5. Thu nhập của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối, nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản chưa qua chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường. 6. Thu nhập từ chuyển đổi đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao để sản xuất. 7. Thu nhập từ lãi tiền gửi tại tổ chức tín dụng, lãi từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. 8. Thu nhập từ kiều hối. 9. Phần tiền lương làm việc ban đêm, làm thêm giờ được trả cao hơn so với tiền lương làm việc ban ngày, làm trong giờ theo quy định của pháp luật. 10. Tiền lương hưu do Bảo hiểm xã hội chi trả. 11. Thu nhập từ học bổng, bao gồm: a) Học bổng nhận được từ ngân sách nhà nước; b) Học bổng nhận được từ tổ chức trong nước và ngoài nước theo chương trình hỗ trợ khuyến học của tổ chức đó. 12. Thu nhập từ bồi thường hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ, tiền bồi thường tai nạn lao động, khoản bồi thường nhà nước và các khoản bồi thường khác theo quy định của pháp luật. 13. Thu nhập nhận được từ quỹ từ thiện được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập hoặc công nhận, hoạt động vì mục đích từ thiện, nhân đạo, không nhằm mục đích lợi nhuận. 14. Thu nhập nhận được từ nguồn viện trợ nước ngoài vì mục đích từ thiện, nhân đạo dưới hình thức chính phủ và phi chính phủ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Theo Điều 5: đối tượng được giảm thuế Đối tượng nộp thuế gặp khó khăn do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn, bệnh hiểm nghèo ảnh hưởng đến khả năng nộp thuế thì được xét giảm thuế tương ứng với mức độ thiệt hại nhưng không vượt quá số thuế phải nộp. Theo Điều 19. Giảm trừ gia cảnh 1. Giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế đối với thu nhập từ kinh doanh, tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú. Giảm trừ gia cảnh gồm hai phần sau đây: a) Mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng (48 triệu đồng/năm); b) Mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 1,6 triệu đồng/tháng. 2. Việc xác định mức giảm trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc thực hiện theo nguyên tắc mỗi người phụ thuộc chỉ được tính giảm trừ một lần vào một đối tượng nộp thuế. 3. Người phụ thuộc là người mà đối tượng nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng, bao gồm: a) Con chưa thành niên; con bị tàn tật, không có khả năng lao động; b) Các cá nhân không có thu nhập hoặc có thu nhập không vượt quá mức quy định, bao gồm con thành niên đang học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hoặc học nghề; vợ hoặc chồng không có khả năng lao động; bố, mẹ đã hết tuổi lao động hoặc không có khả năng lao động; những người khác không nơi nương tựa mà người nộp thuế phải trực tiếp nuôi dưỡng. Chính phủ quy định mức thu nhập, kê khai để xác định người phụ thuộc được tính giảm trừ gia cảnh. IV/ Cách thức tính thuế Theo điều 22 Luật thuế thu nhập cá nhân 2007: 1. Biểu thuế luỹ tiến từng phần áp dụng đối với thu nhập tính thuế 2. Biểu thuế luỹ tiến từng phần được quy định như sau: Bậc thuế Phần thu nhập tính thuế/năm (triệu đồng) Phần thu nhập tính thuế/tháng (triệu đồng) Thuế suất (%) 1 Đến 60 Đến 5 5 2 Trên 60 đến 120 Trên 5 đến 10 10 3 Trên 120 đến 216 Trên 10 đến 18 15 4 Trên 216 đến 384 Trên 18 đến 32 20 5 Trên 384 đến 624 Trên 32 đến 52 25 6 Trên 624 đến 960 Trên 52 đến 80 30 7 Trên 960 Trên 80 35 Theo Điều 23. Biểu thuế toàn phần Biểu thuế toàn phần được quy định như sau: Thu nhập tính thuế Thuế suất (%) a) Thu nhập từ đầu tư vốn 5 b) Thu nhập từ bản quyền, nhượng quyền thương mại 5 c) Thu nhập từ trúng thưởng 10 d) Thu nhập từ thừa kế, quà tặng 10 đ) Thu nhập từ chuyển nhượng vốn quy định tại khoản 1 Điều 13 của Luật này Thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán quy định tại khoản 2 Điều 13 của Luật này 20 0,1 e) Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản quy định tại khoản 2 Điều 14 của Luật này 25 2 Phần hai: Một số ý kiến đánh giá về Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 I/ Ý kiến của các chuyên gia Trong khi Quốc hội cũng vẫn còn những băn khoăn, thì người dân cũng lo ngại vì những rào cản đã được nhìn thấy Ông Tuấn Anh - cán bộ Bộ Công Thương - cho biết: Đại đa số người có thu nhập cao là ở thành phố lớn, nơi có nhiều loại và mức độ chi phí lớn. Tuy nhiên, dự luật đã chưa tính hết được các yếu tố hình thành chi phí trong đời sống thực tế. Với mức 4 - 5 triệu đồng/tháng, một cá nhân ở thành phố chỉ đủ chi tiêu ở mức tối thiểu; trong khi anh ta không thể có chi phí để học tập thêm, tham gia các nhu cầu giải trí, du lịch và đặc biệt là... muôn thuở anh ta không thể có tích luỹ để mua nhà hay giải quyết công việc gì lớn có giá trị vài chục triệu đồng trở lên. Đồng thuận quan điểm này, TS Nguyễn Quang A cho rằng mức khởi điểm chịu thuế thấp sẽ không cho người dân có cơ hội tích luỹ, không mang tính "khoan thư sức dân" mà mang tính "tận thu".Nhưng nếu so sánh với mức thuế suất, sự bất hợp lý còn rõ hơn khi mức thuế đều rất cao. Theo TS Nguyễn Quang A, cách đánh thuế luỹ tiến cao (bậc 7 lên đến 35%) thực chất sẽ phản tác dụng khi làm xói mòn sự hăng say làm giàu chính đáng; giảm năng suất lao động. TS Quang A cho rằng: Sẽ thật bất công nếu như người ta càng vắt óc, vắt sức ra để kiếm được nhiều tiền lại càng bị đánh thuế cao. Tương tự, mức thuế 25% đối với thu nhập từ chứng khoán và bất động sản cũng khiến giới kinh doanh "bị choáng". Anh Hữu Tiến - một nhà đầu tư (NĐT) - nói: Ví dụ rất đơn giản là nếu như trong 1 năm, tôi rủi ro và lỗ 40 triệu đồng thì tôi phải chịu. Nhưng ở năm tiếp theo, nếu tôi lãi được 40 triệu thì mất đứt 10 triệu tiền thuế. Với cách đánh thuế này, rõ ràng NĐT vừa phải chịu rủi ro, vừa phải chịu thiệt thòi. Ngoài ra, theo các chuyên gia kinh tế thì so với tốc độ lạm phát, tiền lãi tiết kiệm thời gian qua chịu "lãi suất âm". Vì thế, nếu phải chịu thêm thuế thu nhập cá nhân thì người gửi tiết kiệm sẽ còn bị... âm nặng. Điểm phức tạp đầu tiên là sự lẫn lộn và nguy cơ đánh thuế trùng khiến người dân không đồng tình. Cụ thể, luật gia Cao Bá Khoát dẫn chứng: Một DN tư nhân khi nộp thuế thì cơ quan thuế coi đó là DN nộp thuế; nhưng rất có thể cá nhân làm chủ DN ấy lại tiếp tục phải nộp thuế thuế thu nhập cá nhân. Cũng cho rằng quá phức tạp, TS Quang A cho rằng, hiện VN có quá nhiều sự "ngoại lệ" miễn, giảm, thưởng, ưu đãi... liên quan đến một cá nhân. Điều đó khiến hệ thống thuế có nhiều kẽ hở, phát sinh tiêu cực, mâu thuẫn và chi phí quản lý trở nên nặng nề. Tuy vậy, điểm phức tạp nhất chính là việc giảm trừ gia cảnh với 1,6 triệu đồng/tháng cho người phụ thuộc. Song các chuyên gia cho rằng: Cơ quan thuế có thể sẽ... đau đầu với khái niệm "người phụ thuộc", bởi với mối quan hệ gia đình của VN thì số lượng có thể sẽ rất nhiều. Còn theo các chuyên gia khác, hình thức xác nhận người phụ thuộc và phương thức giảm trừ gia cảnh cũng là cả một vấn đề nan giải. Trong những lần trả lời báo giới, đại diện ban soạn thảo dự luật từng cho biết, việc xác nhận người phụ thuộc sẽ do cơ quan hành chính thực hiện. Các chuyên gia cho rằng, đây hoàn toàn có thể là "mắt xích" làm nảy sinh tiêu cực; trong khi cơ quan thuế không thể quản lý nổi đối tượng này. Ngoài ra, luật gia Cao Bá Khoát cũng cho rằng, cơ quan thuế cũng cần bổ sung quy định "bù trừ" trong việc chồng thu nhập cao thì có thể bù cho vợ thu nhập thấp hoặc không có thu nhập. Với những rào cản và sự phức tạp trên, các chuyên gia cho rằng vẫn cần tính toán và điều chỉnh, nhằm tăng tính khả thi của dự luật này. Theo ông Trương Chí Trung, Bộ trưởng bộ tài chính Để kiểm soát được sự chuyển dịch tài sản, vừa đảm bảo công bằng xã hội, khuyến khích mọi người lao động tự tạo ra thu nhập, không trông chờ, ỷ lại vào người khác, Ban soạn thảo đã đưa thu nhập từ tài sản thừa kế và quà tặng vào diện chịu thuế. Nhưng để phù hợp với điều kiện thực tế nước ta, dự kiến chỉ đưa vào thu nhập chịu thuế đối với tài sản thừa kế hay quà tặng là cổ phiếu, trái phiếu, quyền sở hữu công ty. Riêng đối với tài sản là nhà, đất chỉ đưa vào diện chịu thuế trong trường hợp người đã có nhà ở nhưng được nhận thêm tài sản thừa kế là quyền sử dụng đất, nhà. Đến nay, số người có thu nhập từ lãi tiền gửi tiết kiệm từ 4 đến 10 triệu đồng/tháng đã tăng lên đáng kể đòi hỏi có sự động viên phù hợp. Chính vì vậy, Dự luật đã dự kiến thu thuế đối với trường hợp có lãi tiền gửi tiết kiệm vượt trên mức tương ứng với mức giảm trừ gia cảnh cho cá nhân người nộp thuế (4-5 triệu đồng/tháng) để đảm bảo công bằng trong động viên thu nhập của cá nhân. Như vậy, với mức lãi suất hiện nay, chỉ những người có số tiền gửi tiết kiệm khoảng 700 triệu đồng trở lên mới thuộc diện chịu thuế. Chẳng hạn, với giảm trừ gia cảnh là 4 triệu đồng/tháng, một người có số tiền gửi tiết kiệm đến 600 triệu đồng, lãi khoảng 3,9 triệu đồng/tháng sẽ chưa phải nộp thuế. Nếu không đánh thuế vào lãi tiền gửi tiết kiệm, những người làm công ăn lương chỉ thu nhập khoảng 6 - 7 triệu/tháng phải đóng thuế, trong khi người gửi tiết kiệm thu được lãi hàng chục triệu hàng tháng chẳng hạn lại không phải đóng thuế thì sẽ mất công bằng. Mà Luật thuế thu nhập cá nhân luôn đòi hỏi tính công bằng cao. Anh đã có thu nhập trên ngưỡng thì anh phải nộp thuế, không thể vì lý do khuyến khích cái nọ hay cái kia mà không phải đóng thuế. Với quan điểm đó, thì việc áp dụng chính sách này là hoàn toàn hợp lý. Các nước trên thế giới họ cũng làm như thế. II/ Ý kiến từ Chính phủ Luật Thuế thu nhập cá nhân là một trong những sắc thuế quan trọng nhằm tiến tới công bằng xã hội khi nó đảm bảo cho mọi người bình đẳng về nghĩa vụ đối với đất nước và tạo điều kiện cho mọi người tự giác đóng thuế để tăng ngân sách nhà nước, củng cố an ninh - quốc phòng, tăng cường an sinh xã hội, xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế... Theo bà Nguyễn Thị Cúc, nguyên Phó Tổng Cục trưởng Tổng Cục Thuế- một trong những “kiến trúc sư” xây dựng nên Luật Thuế thu nhập cá nhân đã được Quốc hội thông qua, thì hiện tại, tiền thuế chiếm tới 97% tổng thu ngân sách nhà nước. Bởi vậy, làm cho các tầng lớp nhân dân hiểu biết sâu sắc về Luật Thuế thu nhập cá nhân, thấy rõ quyền lợi và nghĩa vụ, tự giác chấp hành pháp luật là vô cùng quan trọng và hết sức cần thiết.Luật Thuế thu nhập cá nhân được thông qua khi thị trường giá cả bắt đầu có dấu hiệu của “những cơn bão giá” nên các đại biểu Quốc hội rất thận trọng. Dường như đã “hoá thân” vào vai trò của người chủ gia đình, có con cái, bố mẹ già và những người phụ thuộc phải chu cấp, có những hoàn cảnh éo le cần giúp đỡ nên phần thảo luận về yếu tố “giảm trừ gia cảnh” được các đại biểu Quốc hội đăng kí phát biểu đông nhất . Mức “giảm trừ gia cảnh” mà Quốc hội thông qua, xem chừng đang được thử thách khi giá cả các mặt hàng tăng lên từ sau Tết Nguyên đán. Tuy vậy, với 4 triệu đồng cho bản thân và 1,6 triệu đồng để nuôi một người phụ thuộc và khi số tiền làm ra vượt qua ngưỡng này, người ta mới phải nộp 5% cho Nhà nước thì có lẽ hầu hết mọi người vẫn yên tâm với Thuế Thu nhập cá nhân Tuy còn phải tiếp tục tuyên truyền, vận động nhưng bước đầu, Tổng cục Thuế đã đạt được “ý Đảng, lòng dân” khi có nhiều cách thức gửi tới mọi người dân thông điệp: “Dân ta có thu nhập thấp nên Luật không tính thu thuế từ đồng tiền thu nhập đầu tiên”, “Các bạn đừng ngại đóng thuế vì Nhà nước thu thuế là lấy tiền của dân để làm lợi cho dân”, hay “ Nếu trong chiến tranh, người yêu nước dám hy sinh thân mình để bảo vệ Tổ quốc thì trong hoà bình, người yêu nước biết sản xuất, kinh doanh giỏi và tự giác nộp thuế, góp phần làm giàu đất nước”...Ai đó có sự nghi ngờ về tính khả thi của Luật Thuế thu nhập cá nhân, chắc hẳn sẽ yên tâm khi biết rằng công nghệ thông tin và các biện pháp quản lý thuế hiện đại sẽ được áp dụng để đảm bảo tính chính xác của Luật Thuế này. Những dữ liệu về người nộp thuế giúp ngành Thuế không bỏ sót người có thu nhập cao khi tạo nên mã số thuế cho họ. Mặt khác, Hiệp định về tránh đánh thuế hai lần, đảm bảo cho người Việt Nam làm việc ở nước ngoài hay người nước ngoài làm việc ở Việt Nam không bị thiệt thòi, cũng đã được kí kết với 45 nước trên thế giới. Phương án trả lương qua tài khoản, Đề án thanh toán qua ngân hàng mà Chính phủ đang triển khai cùng với các máy rút tiền tự động xuất hiện ngày càng nhiều trên đường phố, có lẽ là dấu hiệu của một phương thức quản lý mới mà nhờ đó người dân có thể tin tưởng rằng, Việt Nam đang quyết tâm xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh...Thực hiện Luật Thuế thu nhập cá nhân, ngân sách nhà nước ta sẽ tăng lên đến mức nào, là một bài toán đang cần lời giải bằng những biện pháp thiết thực, quyết liệt của ngành Thuế, bằng sự ủng hộ nhiệt thành của các tầng lớp nhân dân. Không phải ngẫu nhiên mà đối tượng đầu tiên được học tập để thông suốt về nhận thức, tư tưởng lại chính là đội ngũ cán bộ, công chức ngành Thuế và lãnh đạo Đảng, chính quyền các cấp. Bởi vì, tư tưởng có thông suốt, nhận thức có đúng đắn thì các đối tượng này mới có hành động đúng, chỉ đạo thực thi Luật Thuế thu nhập cá nhân một cách triệt để, kịp thời. Ở những nước phát triển, Thuế thu nhập cá nhân chiếm tới 75% ngân sách nhà nước, đây quả là một con số không nhỏ. Tại Việt Nam, tuy đời sống của một bộ phận dân cư vẫn còn khó khăn, nhưng số người giàu, người có tiềm lực về tài chính không hề nhỏ, mà một dẫn chứng điển hình là đã có người mua được máy bay riêng. Xét về mặt sở hữu hợp pháp tiền bạc, những đối tượng giàu có ở Việt Nam đã khiến không ít “đại gia” ở nước ngoài... cũng phải ngước nhìn! Vậy thì, tạo điều kiện pháp lí cho những người giàu được đóng góp một phần thu nhập của mình vào ngân sách nhà nước thông qua Luật Thuế thu nhập cá nhân là hoàn toàn hợp lẽ và chính đáng... Phần ba: So sánh Luật thuế thu nhập cá nhân Việt Nam và Hoa Kỳ Luật thuế thu nhập cá nhân áp dụng ở mỗi nước có những điểm khác nhau riêng để phù hợp với tình hình, đặc điểm từng nước, Luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam và Hoa Kỳ cũng có những điểm khác nhau, nhưng cơ bản nhất là ở cách tính thuế thu nhập cá nhân như sau: Cách tính thuế thu nhập cá nhân tại Hoa Kỳ Rosen đưa ra biểu đồ tính mức thuế thu nhập cá nhân liên bang như sau: Bước 1 : Cộng thu nhập từ tất cả các nguồn thuế sau: Tiền lương Lợi nhuận Tiền cho vay Cổ tức Lợi nhuận kinh doanh Lãi vốn Trợ cấp thất nghiệp , vv… Trừ đi những chi phí kinh doanh nhất định ta có Tổng Thu Nhập được Điều Chỉnh (Adjustable Gross Income ~ AGI) Bước 2 : Trừ những khoản miễn thuế cá nhân phù hợp Trừ những khỏan khấu trừ từng phần phù hợp Những đóng góp từ thiện Những chi phí y tế nhất định Thuế thu nhập tiểu bang Thuế bất động sản Những khoản chi trả lợi nhuận nhất định Hoặc bỏ đi những khấu trừ tiêu chuẩn ta có Thu Nhập có thể bị Đánh Thuế (Taxable Income ~ TI) Bước 3 : Áp dụng bảng mục mức thuế để tính thuế Trừ nợ thuế ta có Khoản thuế phải trả (Tax Liability) Ở Việt Nam, sau khi cộng tất cả các nguồn thu nhập danh nghĩa, trừ đi thuế ta được thu nhập thực tế, thu nhập này sau đó sẽ được dùng để chi trả cho các dịch vụ bảo hiểm, y tế, và các nhu cầu tiêu dùng cá nhân.Tức là ở Việt Nam, ta sẽ áp dụng bước 1, bước 3 rồi mới đến bước 2. Như vậy,ta có thể thấy cách tính thuế thu nhập cá nhân tại Hoa Kỳ có ưu điểm hơn so với luật thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam, nó đảm bảo cho các dịch vụ bảo hiểm, y tế được mua bởi tất cả người dân, do đó sẽ đảm bảo các phúc lợi xã hội và công bằng xã hội. Phần bốn: Thực trạng ở Việt Nam Thứ nhất, nói về mức khởi điểm chịu thuế, nhiều người vẫn nhầm lẫn đây là luật thuế đánh vào người có thu nhập cao. Như dự thảo của Luật Thuế thu nhập cá nhân thực ra không phản ánh đúng thực chất của nền kinh tế thị trường. Theo quan điểm này, sẽ không có mức khởi điểm chịu thuế mà tất cả mọi thu nhập đều phải nộp thuế. Riêng Việt Nam rất khó xác định mức khởi điểm để đánh thuế thu nhập. Và do đặc thù, thuế thu nhập thực chất là đánh vào tiền lương, tiền công vì đại bộ phận người lao động có thu nhập từ lương. Thứ hai ,quá nhiều giấy tờ, thủ tục: Chỉ riêng giảm trừ gia cảnh ,những quy định cũng đã làm "ù tai, hoa mắt" bởi có quá nhiều loại giấy tờ, thủ tục, hồ sơ mà người nộp thuế cần phải thực hiện và đáp ứng yêu cầu của cơ quan quản lý thuế. Ví dụ trường hợp người nộp thuế có con theo học và là người phụ thuộc thì đã cần: Giấy khai sinh, giấy xác nhận của trường hoặc bản chứng thực thẻ sinh viên, biên lai thu học phí hoặc chứng từ nộp khoản chi phí tiền học, tiền sinh hoạt phí có niên độ phù hợp với năm tính thuế. Tuy nhiên, phức tạp sẽ còn hơn thế. Ví dụ, người nộp thuế có con tàn tật thì ngoài giấy khai sinh, người nộp thuế còn phải "đưa con lên trung tâm giám định y khoa tận tỉnh, thành phố" để khám, xác nhận về mức độ tàn tật không có khả năng lao động. Nếu theo hướng dẫn, một người nộp thuế có 2 con đang học, cháu tàn tật không nơi nương tựa, bố mẹ già, vợ thu nhập thấp thì cần khoảng 30 loại giấy tờ... Song có lẽ sẽ là "rủi ro" nếu như người nộp thuế được hoàn thuế. Đến đây, lại một núi công việc, giấy tờ gồm: Đơn xin hoàn thuế, bản photocopy giấy chứng minh nhân dân, tờ khai quyết toán thuế, các chứng từ khấu trừ thuế, biên lai thu thuế, chứng từ xác định tình trạng kết thúc thời gian làm việc, quyết định thôi việc, bản thanh lý hợp đồng lao động... Luật gia Hữu Dung nhận xét: Nếu một người nộp thuế phải tham gia tất cả quy trình trên thì có lẽ "cả năm chỉ đi lo thủ tục thuế". Sẽ là quá bất cập, nhiêu khê, phức tạp khi một người có thu nhập, sau khi giảm trừ gia cảnh thì không còn phải nộp thuế thu nhập cá nhân, nhưng lại vẫn phải đáp ứng đầy đủ "núi giấy tờ" và thủ tục như trên. Rõ ràng khi đó không chỉ người nộp thuế mất thời gian, công sức mà cơ quan thuế cũng ôm cả "biển việc", mà thực chất không thu được một đồng tiền thuế nào. Nhưng sẽ là bất cập hơn khi "quả bóng" đã được đá thẳng về phía người nộp thuế, trong khi cơ quan thuế chỉ ngồi im đòi hỏi người nộp thuế đáp ứng yêu cầu phức tạp này. Thứ ba, có quá nhiều kẽ hở trong việc xác định đối tượng và thu nhập thực tế của người nộp thuế, chẳng hạn như: năng lực quản lí hiện nay của các cơ quan ở Việt Nam còn hạn chế, nên việc xác định thu nhập chủ yếu dựa vào bản tự khai cá nhân và ý thức của người dân . Do đó, tạo ra lỗ hổng cho một số cá nhân lách luật và trốn thuế. Thứ tư ,mức thuế suất quá cao không phù hợp với thu nhập của đại đa số người dân Việt Nam Theo biểu thuế suất lũy tiến, mức thuế suất thấp nhất là 5%, cao nhất là 35%. So với mặt bằng chung của thế giới thì mức thuế suất này không cao. Nhưng nếu xét đến sự khác biệt lớn về điều kiện kinh tế, thu nhập bình quân đầu người và đặc biệt là hệ thống an sinh xã hội của nước ta với các nước khác thì sự so sánh này khó có thể coi là hợp lý. Thực tế ở nhiều nước cũng quy định thuế suất tối thiểu 5%, nhưng cũng có những nước chỉ có 1% . Chẳng hạn, Malaysia thu nhập đầu người hơn 2.000USD/năm, mức thuế suất cũng chỉ có 1%; Nhật Bản mức thu nhập đầu người hàng chục nghìn USD/năm nhưng cũng chỉ có 5%. Phần năm: Một số giải pháp Thứ nhất, về kiểm soát chặt chẽ về thu nhập. Ngân hàng là nơi có thể kiểm soát tốt nguồn thu nhập cá nhân. 1. Mọi cá nhân từ 16 tuổi trở lên đều đã được cấp Chứng minh nhân dân(CMND). Do vậy có thể sử dụng số CMND làm mã số thuế (MST) cho mọi cá nhân trong việc quản lý thuế. Việc này sẽ rất thuận tiện trong việc cấp phát MST cũng như quản lý thuế cho mọi đối tượng. 2. Có thể phân loại thu nhập thành 2 loại chủ yếu là thu nhập cá nhân và thu nhập doanh nghiệp (TNDN). TNDN thông qua hệ thống phát hành hoá đơn và các báo cáo thuế như hiện hành nên không có gì khó trong việc quản lý thu nhập này. Thu nhập cá nhân mới là vấn đề cần bàn hiện nay. Nếu mọi thu nhập cá nhân đều được thông qua hệ thống ngân hàng (thẻ ATM, các loại thẻ tín dụng…) thì có thể kiểm soát chặt chẽ qua các báo cáo của ngân hàng cho từng tài khoản cá nhân; hạn chế và dần dẹp được vấn nạn của “kinh tế tiền mặt”; mọi thu nhập đều minh bạch rõ ràng, do vậy có thể hạn chế và chống tham nhũng, rửa tiền… Thứ hai, xác định chi phí được khấu trừ hợp lý. Mọi thanh toán, chi phí đều có thể chứng minh thông qua ngân hàng và hệ thống hoá đơn (có MST cá nhân như nêu ở trên), do vậy rất thuận tiện trong việc xác định các chi phí được giảm trừ hợp lý mà không gây phức tạp thêm trong việc xây dựng luật do các yếu tố như lạm phát... Mọi chi phí nếu có chứng minh cụ thể đều được khấu trừ để xác định lại thu nhập chịu thuế (giống như hình thức thuế TNDN hiện hành) chính xác và công bằng hơn. Thứ ba, giải quyết nghĩa vụ thuế một cách khoa học. Mọi công dân khi có thu nhập (sau khi đã được khấu trừ mọi chi phí) đều có nghĩa vụ phải nộp thuế thu nhập cá nhân. Việc này sẽ loại bỏ được tính toán về ngưỡng thu nhập chịu thuế mà trong nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng như Việt Nam sẽ rất khó xác định được sao cho hợp lý trong tương lai. Hơn nữa, điều đó tạo nên sự công bằng trong nghĩa vụ thuế mà mọi công dân đều phải thực hiện mà không liên quan đến vùng miền, thu nhập cao hay thấp, thu nhập từ việc gì và chi phí cho việc gì… nhằm đảm bảo việc thu thuế đúng và đủ cho ngân sách Nhà nước. Nếu làm công tác đóng góp tài chính cho từ thiện thì nên được miễn giảm thuế thu nhập cá nhân để khuyến khích mọi công dân đóng góp cho xã hội (việc miễn giảm có thể được tính toán cân nhắc trong khi xây dựng luật thuế thu nhập cá nhân). Nếu chi phí lớn hơn thu nhập thì sẽ không phải nộp thuế thu nhập cá nhân trong kỳ nhưng cũng không được chuyển lỗ như TNDN được (mọi nghĩa vụ được tính toán và thực hiện theo năm tài chính). Xây dựng biểu thuế thu nhập cá nhân nên tham khảo một số nước đã phát triển xem họ đã làm như thế nào trong quá trình đang phát triển trước đó thay vì tham khảo theo tình hình hiện tại của họ. Biểu thuế nên xét đến phần tích luỹ của mọi cá nhân nhằm tạo cho “Dân giàu, nước mạnh”. Về việc thu nộp thuế có thể được xử lý như sau: Đối với các cán bộ, công nhân viên việc thu thuế sẽ được giao cho đơn vị doanh nghiệp nơi các cán bộ, công nhân viên làm việc đảm trách. Sau đó, các đơn vị doanh nghiệp sẽ thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước. Cơ quan thuế sẽ cấp giấy chứng nhận về nghĩa vụ thuế thu nhập cá nhân cho từng người nộp thuế theo MST cá nhân như đã nêu ở trên và chuyển lại cho doanh nghiệp. Việc quyết toán thuế thu nhập cá nhân nên thực hiện hàng năm 1 lần (sau khi kết thúc năm tài chính). Đối với các cá nhân tự do, cơ quan thuế địa phương (nơi cư trú hoặc tạm trú) sẽ có trách nhiệm quản lý thu thuế thu nhập cá nhân hàng năm. Cần quy định cụ thể và phạt thật nặng với những trường hợp trốn thuế để mang tính răn đe và buộc mọi người phải chấp hành tự giác, triệt để. Lời kết Quá trình xây dựng và thực hiện thuế thu nhập vá nhân còn nhiều khó khăn và bất cập, đòi hỏi phải có một lộ trình sửa đổi và bổ sung. Tuy nhiên Luật thuế thu nhập cá nhân ra đời đã đáp ứng được phần nào mong mỏi của người dân về tính công bằng trong thu nhập và đảm bảo an sinh phúc lợi xã hội.Với sự hợp tác giữa người dân và chính phủ, chúng ta có thể hi vọng vào một dự luật thuế công bằng và hợp lý trong tương lai. Sau khi nghiên cứu về dự thảo luật thuế thu nhập cá nhân 2007, nhóm sinh viên chúng em đã ý thức được trách nhiệm và nghĩa vụ tuyên truyền và nâng cao ý thức của những người xung quanh về tầm quan trọng của việc đóng thuế thu nhập cá nhân. Tài liệu tham khảo: Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 www.vietnamnet.vn/thuethunhapcanhan.html www.giadinh.net/thuethunhapcanhan.html www.fastmoney.vn/thuethunhapcanhan.html www.tapchiketoan.com.vn/thuethunhapcanhan.html www.thegioi@.com/thuethunhapcanhanomy.html www.chinhphu.vn/duthaothuethunhapcanhan.html

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxĐề tài- Thuế thu nhập cá nhân – thực trạng và giải pháp.docx
Luận văn liên quan