Đề tài : Thương mại Việt Nam với nâng cao chất lượng cạnh tranh

- Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc chống tham nhũng, tiêu cực và tình trạng nhũng nhiễu đối với nhà đầu tư. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong xử lý công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở các cơ quan quản lý nhà nước. - Tăng cường phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương xử lý vấn đề môi trường, vấn đề đình công trái pháp luật của các doanh nghiệp FDI. - Duy trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa lãnh đạo Chính phủ, các Bộ, ngành với các nhà đầu tư, đặc biệt là Diễn đàn doanh nghiệp hàng năm để xử lý kịp thời các khó khăn, vướng mắc của các dự án trong quá trình thực hiện chính sách và phát luật hiện hành, đảm bảo các dự án hoạt động đúng tiến độ và hiệu quả, nhằm tiếp tục củng cố lòng tin của các nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, tạo hiệu ứng lan tỏa và tác động tích cực tới nhà đầu tư mới.

docx29 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2078 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài : Thương mại Việt Nam với nâng cao chất lượng cạnh tranh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăm qua, từ 46,7% trong năm 2001 lên 55% trong năm 2010, tỷ trọng của nhóm hàng thô và sơ chế đã giảm từ 58,3% xuống còn 45% trong thời gian tương ứng; riêng tỷ trọng của nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản đã giảm từ 29,5% xuống 22,5%. Năm 2001, có 4 mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt kim ngạch trên 1tỷ USD (gồm dầu thô, dệt may, giầy dép, thuỷ sản), với tổng giá trị 8,4 tỷ USD, chiếm 56% kim ngạch xuất khẩu. Đến năm 2010, đã có 17 mặt hàng và nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực (thuỷ sản, gạo, cà phê, cao su, sản phẩm gỗ, than đá, dầu thô, xăng dầu, sắt thép và sản phẩm thép, dệt may, giầy dép, đá quý và kim loại quý, máy vi tính và linh kiện, máy móc thiết bị, dây điện và cáp điện, phương tiện vận tải), với tổng giá trị khoảng 45 tỷ USD, chiếm 63% kim ngạch xuất khẩu. - Về cơ bản, Việt Nam đã thực hiện được thành công một số khâu đột phá chiến lược tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu. Trong 5 năm đầu (2001 – 2005), các ngành sản phẩm kết hợp giữa lao động giản đơn và công nghệ trung bình đã được coi trọng phát triển như: Thủ công mĩ nghệ, thực phẩm chế biến, sản phẩm nhựa, hoá phẩm tiêu dùng, sản phẩm gỗ và sản phẩm cơ khí, điện. Trong đó, xuất khẩu nhóm hàng thủ công mĩ nghệ (mây, tre, cói, thảm, gốm sứ, đá và kim loại quý) đã tăng trưởng bình quân 23% / năm, kim ngạch tăng từ 377 triệu USD trong năm 2000 lên 3.177 triệu USD trong năm 2009 và khoảng gần 4,0 tỷ USD trong năm 2010 xuất khẩu gỗ tăng trưởng bình quân 26% / năm; xuất khẩu sản phẩm nhựa tăng bình quân 25%/ năm, kim ngạch tăng từ 122 triệu USD trong năm 2000 lên xấp xỉ 1 tỷ USD trong năm 2009 và vượt 1,1 tỷ USD vào năm 2010. - Cơ cấu thị trường đã có sự chuyển dịch đáng kể, về cơ bản phù hợp với định hướng điều chỉnh chiến lược thị trường, hình thành cơ cấu hợp lý. Tỷ trọng của thị trường châu Á trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã giảm từ 60,6% trong năm 2001 xuống 50 % trong năm 2005 và duy trì ở mức 45,5% - 48% trong giai đoạn 2006 – 2010, cơ bản phù hợp với mục tiêu đề ra là 45%. Riêng tỷ trọng của Nhật Bản đã giảm dần từ 16,7% trong năm 2001 xuống 13,3% trong năm 2005 và khoảng 10% trong năm 2010 (chiến lược là 17 – 18%); tỷ trọng của thị trường Trung Quốc, Đài Loan và Hồng Kông giảm từ 15,8% xuống 13,9% và còn khoảng 12% trong thời gian tương ứng (chiến lược là 14 – 16%); tỷ trọng của thị trường ASEAN tương đối ổn định ở mức 17 – 18% (chiến lược là 15 – 16%); tỷ trọng của thị trường châu Mỹ trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã tăng nhanh trong giai đoạn 2001 – 2005 từ 9,3% năm 2001 lên 22 % trong năm 2005 và tương đối ổn định ở mức 22,5% - 23% trong giai đoạn 2006 – 2010.  - Thực hiện thành công khâu đột phá về thị trường xuất khẩu là tăng nhanh tỷ trọng của thị trường Hoa Kỳ từ 7,1% trong năm 2001 lên 18,2% trong năm 2005 và duy trì ở mức 19 -20% trong gian đoạn 2006 – 2010 (chiến lược là 15 – 20%).   3. Xuất khẩu hàng hoá đã từng bước gắn kết với xuất khẩu dịch vụ. Xuất khẩu tại chỗ bước đầu đã thu được ngoại tệ đáng kể, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại. - Xuất khẩu dịch vụ thời kỳ 2001 – 2010 tăng trưởng bình quân 10% / năm. Trong cơ cấu xuất khẩu dịch vụ năm 2008, dịch vụ du lịch và xuất khẩu lao động chiếm 56%, dịch vụ hàng không chiếm 19%, dịch vụ hàng hải chiếm 15%. Trong 10 năm qua, xuất khẩu dịch vụ theo phương thức tiêu dùng ở nước ngoài là chủ yếu, chiếm khoảng 56% kim ngạch xuất khẩu dịch vụ, xuất khẩu theo phương thức cung cấp qua biên giới chiếm khoảng 39%, xuất khẩu theo phương thức hiện diện thương mại và di chuyển thể nhân chiếm khoảng 5%. Sự phát triển dịch vụ đã tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy xuất khẩu tại chỗ hàng hoá Việt Nam thông qua du lịch. Giá trị xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tại chỗ tăng liên tục từ 215 triệu USD năm 2001 lên 500 triệu USD vào năm 2010. 4. Nhập khẩu hàng hoá đã coi trọng nhiều đến nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị và công nghệ phục vụ sản xuất trong nước, đáp ứng nhu cầu tăng trưởng dựa vào đầu tư và xuất khẩu, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. - Phần chủ yếu trong tổng giá trị nhập khẩu hàng năm là các nhóm hàng nguyên, nhiên vật liệu, máy móc thiết bị và công nghệ cho các dự án đầu tư phát triển sản xuất, tạo nguồn hàng cho xuất khẩu, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế. Trong giai đoạn 2001 – 2005 tỷ trọng của nhóm hàng này chiếm khoảng 50% tổng kim ngạch nhập khẩu và bằng khoảng 40 % GDP; trong giai đoạn 2006 – 2010 chiếm khoảng 70% tổng kim ngạch nhập khẩu và bằng khoảng 60% GDP (riêng năm 2008, các chỉ số tương ứng là 74,7% và 65,1%). Tỷ trọng của nhóm hàng tiêu dùng cần kiểm soát và hạn chế nhập khẩu tuy tăng mạnh từ 22,8% trong năm 2005 lên 26,7% trong năm 2008 nhưng sau đó đã giảm dần còn khoảng 18 – 19% trong 2 năm 2009 – 2010. Năm 2008 – 2010, tỷ trọng của nhóm hàng thô và sơ chế chiếm khoảng 25 – 26%, tỷ trọng nhóm hàng chế biến và tinh chế chiếm khoảng 74 – 75% trong tổng kim ngạch nhập khẩu. - Nhập siêu tuy tăng cao trong các năm 2006 – 2008, nhưng sau đó đã được kiềm chế, tỷ lệ giá trị nhập siêu so với kim ngạch xuất khẩu đã giảm từ 29,1% trong năm 2008 xuống còn 22,5% trong năm 2009 và 15% trong năm 2010. Phần chủ yếu trong cơ cấu nhập siêu mang tính tích cực, tạo nền tảng cho phát triển sản xuất, tăng nguồn hàng xuất khẩu giúp giảm bớt giá trị nhập siêu trong thời gian tới. - Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa sáu tháng đầu 2012 đạt 53,8 tỷ USD, tăng 6,9%, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 25,8 tỷ USD giảm 8,2%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 28 tỷ USD, tăng 26,1% so với cùng kỳ năm trước. Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu sáu tháng năm nay chỉ tăng 3,6% so với cùng kỳ năm trước; đó là mức tăng thấp nhất kể từ 2009 là những năm suy thoái kinh tế. Nhập siêu của cả nước là 658 triệu USD, bằng 1,3% kim ngạch xuất khẩu; giảm rõ rệt so với 6,7 tỷ USD, chiếm 15,7% cùng kỳ năm trước. Đáng lưu ý là trong khi nhập siêu của khu vực kinh tế trong nước là 5,3 tỷ USD bằng 25,8% kim ngạch xuất khẩu; thì khu vực có vốn đầu tư nước ngoài lại xuất siêu 4,6 tỷ USD, bằng 14,1% kim ngạch xuất khẩu. 5. Hội nhập quốc tế đã tác động tích cực, nhiều mặt đến XNK. - Đến nay Việt Nam đã tham gia ký kết gần 12 nghìn điều ước quốc tế, thiết lập quan hệ ngoại giao với 178 nước, có quan hệ thương mại với trên 220 nước và vùng lãnh thổ, đã ký kết 88 Hiệp định thương mại song phương, 7 Hiệp định thiết lập khu vực thương mại tự do (FTA) với 15 nước, 54 Hiệp định tránh đánh thuế  2 lần và 61 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương. Trong giai đoạn 2001 – 2010, cùng với việc ký Hiệp định thương mại song phương với Hoa kỳ (BTA), gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Việt Nam đã tiếp tục hội nhập thương mại khu vực sâu rộng hơn trong khung khổ 6 FTA khu vực. Tỷ trọng thương mại 2 chiều giữa Việt Nam với 15 nước đối tác đã có FTA chiếm gần 60% tổng giá trị thương mại quốc tế của Việt Nam, trong đó, chiếm gần 50% kim ngạch xuất khẩu và gần 70% kim ngạch nhập khẩu. Hàng hoá của Việt Nam đã mở rộng được thị phần sang các thị trường lớn. Từ sau 2007 khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được cải thiện, dòng chẩy FDI và FII vào Việt Nam tăng mạnh, góp phần quan trọng vào tăng trưởng GDP. - Hội nhập quốc tế sâu rộng đã tạo điều kiện quan trọng để hạn chế những tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Thị trường xuất khẩu trở nên đa dạng hơn, thúc đẩy đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, hàng hoá Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào các thị trường trọng điểm, xuất khẩu tăng trên hầu hết các thị trường và ít có biểu hiện chuyển hướng thương mại dưới tác động của các FTA đã tham gia. Một số mặt hàng được hưởng lợi từ các thoả thuận FTA đã có bước tăng trưởng xuất khẩu đột biến như xuất khẩu dệt may sang Hàn Quốc tăng 84% trong năm 2009 và tăng 70% trong năm 2010. Những thành tựu đã đạt được chủ yếu là do những nguyên nhân sau:  -Nhờ chiến lược phát triển XNK và hội nhập quốc tế đúng đắn, kịp thời, sự chỉ đạo năng động của Chính phủ cũng như sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp, của các cấp, các ngành và của toàn dân. - Bộ Công thương đã có những biện pháp chỉ đạo, điều hành quyết liệt lĩnh vực hoạt động XNK nhằm thúc đẩy xuất khẩu và hạn chế nhập siêu. - Nhờ những điều kiện thuận lợi của tình hình kinh tế trong nước và thế giới. Kinh tế thế giới sau kỳ suy giảm giai đoạn 1996 – 2001 đã bước vào thời kỳ tăng trưởng cao trong giai đoạn 2002 – 2008 (tăng trưởng bình quân 9,7% / năm tính theo giá thực tế). Kinh tế Việt Nam sau kỳ suy giảm giai đoạn 1996 – 2000 (tăng trưởng bình quân 6,9% / năm so với giai đoạn 1991 – 1995 là 8,2% / năm). - Kinh tế vĩ mô tương đối ổn định, đầu tư tăng cao cùng các điều kiện thuận lợi của môi trường kinh doanh quốc tế, nhất là khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và các FTA, hàng rào bảo hộ tại các nước nhập khẩu hàng Việt Nam giảm mạnh đã có tác động tích cực đến mở rộng xuất khẩu. 6, Những hạn chế, yếu kém: - Quy mô xuất khẩu còn nhỏ, phát triển xuất khẩu vẫn chủ yếu theo chiều rộng, chất lượng tăng trưởng thấp, chi phí xuất khẩu cao, hoạt động xuất khẩu phản ứng chậm so với các biến động của thị trường thế giới, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chậm chuyển dịch theo hướng hiệu quả, hiện đại. - Nhập khẩu hàng hoá và nhập siêu tăng cao tác động bất lợi đến các cân đối kinh tế vĩ mô, chưa hướng mạnh vào phần cốt lõi của CNH, HĐH, chưa cải thiện được nhiều tình trạng lạc hậu về công nghệ ở một số ngành, ít tiếp cận được với công nghệ nguồn. - Sự phát triển thị trường ngoài nước chủ yếu theo chiều rộng, chưa hướng mạnh vào phát triển theo chiều sâu, chất lượng thông tin dự báo chiến lược thị trường quốc tế còn yếu kém, chưa thực hiện thành công một số bước điều chỉnh chiến lược thị trường XNK. - Hội nhập các FTA chưa có một chiến lược tổng thể và lộ trình thống nhất, đồng bộ với chiến lược phát triển XNK, chưa tận dụng hiệu quả cơ hội và điều kiện thuận lợi của hội nhập quốc tế để đẩy mạnh xuất khẩu. - Công tác quản lý Nhà nước đối với XNK hàng hoá tuy đã có nhiều cải tiến nhưng còn một số hạn chế, thụ động, tính đồng bộ chưa cao. - Tỷ lệ nhập siêu/GDP đã tăng từ mức 3,6% năm 2001 lên 12,9% vào năm 2003 trước khi giảm xuống còn 8,3% vào năm 2006. Từ năm 2007, nhập siêu so với GDP đã có những thay đổi lớn. Tỷ lệ này lên tới 20% vào các năm 2007-2008 và sau đó giảm mạnh xuống chỉ còn 12% vào năm 2010. Như vậy, nhập siêu còn tăng nhanh hơn so với tốc độ tăng GDP. Nói cách khác, những đánh đổi từ việc chấp nhận chênh lệch giữa đầu tư và tiết kiệm trong nước dường như chưa mang lại hiệu quả rõ rệt về tăng trưởng kinh tế. - Tiếp đến là chưa xây dựng đầy đủ các tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và sự bất cập trong công tác kiểm tra theo các tiêu chuẩn này đối với hàng nhập khẩu để góp phần bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng phù hợp; công tác tổ chức xuất khẩu, nhất là xuất khẩu những mặt hàng có khối lượng và giá trị lớn còn nhiều hạn chế, chưa tạo điều kiện tốt cho việc xác lập mối liên kết giữa người sản xuất nguyên liệu, doanh nghiệp chế biến, thương nhân xuất khẩu nhằm ổn định nguồn nguyên liệu, bảo đảm chất lượng sản phẩm và khả năng điều tiết lượng hàng xuất khẩu, đạt đến giá xuất khẩu cao. Việc vận dụng các biện pháp phòng vệ thương mại chưa thực sự hiệu quả. Phần 2: Đầu tư, viện trợ từ nước ngoài vào Việt Nam 1. Đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam 1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay đang diễn ra trên quy mô toàn cầu với khối lượng và nhịp độ chu chuyển ngày càng lớn. Bên cạnh việc phát huy nguồn lực trong nước, tận dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là một sự thông minh để rút ngắn thời gian tích lũy vốn ban đầu, tạo tiền đề vững chắc cho phát triển kinh tế, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển. Chính vì lẽ đó mà FDI được coi là “chìa khóa vàng” để mở ra cánh cửa thịnh vượng cho các quốc gia. Trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, Đảng ta đã nhận thấy vai trò hết sức to lớn của đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần vào đưa sự nghiệp CNH-HĐH đi đến thắng lợi, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH ở nghiệp vẻ vang của dân téc ta :"có thể nói , trong thời đại ngày nay không một quố gia nào dù lớn ,dù nhỏ, dù phát triển theo con đường Tư bản chủ nghĩa hay định hướng XHCN lại không cần đến nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, và coi đó là một nguồn lực quốc tế cần khai thác  để từng bước hoà nhập vào cộng đồng quốc tế ".         Trước sự đổi mới trong nhận thức đó ,ngày 29 tháng 12 năm 1987,Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được Quốc Hội nước Việt Nam thông qua, mở ra một cơ hội mới trong giao lưu và tiếp thu những thành tựu mơí của thế giới về cáclĩng vực của đời sống xã hội , tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động ,nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Cho đến nay, sau hơn 10 năm kể từ khi triển khai Luật ĐTNN tại Việt Nam "cộng đồng các DN có vốn ĐTNN đã trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế nước ta".         Vậy thực trạng của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở nước ta ra sao? Ta có thể xét tới một số khía cạnh sau:      a. Về qui mô và nhịp độ đầu tư:          Sau khi có hiệu lực (năm 1988), luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã thực sự phát huy hiệu quả trong thu hót vốn từ bên ngoài. Cho đến năm 2000, tổng số dự án đầu tư vào nước ta (kể cả số dự án bị rút giấy phép) là 3144 dự án với tổng số vốn đăng ký cấp mới là 38.552 triệu USD và số vốn tăng thêm là 6.000 triệu USD. Tuy nhiên, số vốn bị giải thể lên tới 7.014 triệu USD. Số vốn hết hạn là 292 triệu USD. Như vậy số vốn còn hiệu lực là 37.246 triệu USD. Trong tổng số vốn đăng ký tại Việt Nam thì số vốn thực hiện là 17.682 triệu USD, bằng 47,5% tổng số vốn còn hiệu lực. b. Cơ cấu đầu tư:      Trong những năm qua ,vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư vào khu vực khách lịch và xây dựng văn phòng ,căn hộ còn rất lớn. Các ngành này thu hót sạn ,du tới trên 30%tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Cho đến năm 2000, có khoảng 250 dự án còn hiệu lực đầu tư vào các ngành này với tổng số vốn đăng ký khoảng 7,6 tỷ USDvà tổng vốn đã thực hiện đạt khoảng 3,2 tỷ USD. Tuy số dự án này đã làm thay đổi căn bản một số ngành dịch vụ nước ta nhưng chưa phải là tốt nhất cho nền kinh tế nước ta.       Cũng trong những năm qua, mặc dù chiếm tới hơn 38% vốn đăng ký nhưng rõ ràng tỷ lệ này chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành công nghiệp còng nh chưa tương xứng với vai trò của nó. Tuy nhiên trong một số ngành sản xuất công nghiệpnh  sản xuất và lắp ráp xe máy, ô tô, điện tử, tủ lạnh khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã chiếm tới từ 80% đén 100% tổng giá trị sản phẩm. Bên cạnh đó, một số ngành sản xuất vật chất khác nh  nông lâm nghiệp ,thuỷ sản hay tài chính – ngân hàng cũng chiếm một tỷ trọng hết sức khiêm tốn trong thu hót đầu tư. Hay trong một số lĩnh vực xã hội như văn hoá giáo dục, y tếthì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào cũng hết sức nhỏ bé do các ngành này đều có một đặc điểm trung là đọ rủi ro cao, lợi nhuận thấp hoặc thời gian hoàn vốn đầu tư lâu. Đây cũng là một vấn đề đặt ra trong hoạt động đầu tư nước ngoài.        Cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ:         Trong những năm qua, sự phân bố nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu tập trung vào một số địa phương phương có cơ sở hạ tầng tương đối tốt, điều kiện môi trường kinh tế thuận lợi, có nhiều chính sách ưu đãi với hệ thống các khu công nghiệp – khu chế xuất (KCN-KCX) có cơ sở vật chất tốt, giá thuê đất rẻ. Các địa phương này chủ yếu thuộc các vùng Đông nam bộ, Đồng bằng sông Hồng(hai vùng kinh tế trọng điểm của cả nước), chiếm tới 82,74% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của cả nước. Một số tỉnh tuy có ít số dự án nhưng số vốn đăng ký tương đối lớn. Đó là tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, với 96 dự án nhưng số vốn lên tới 2.515,9 tr.USD. Số vốn này chủ yếu tập trung và một số dự án thăm dò và khai thác dầu khí. Hay tỉnh Quảng Ngãi, với dự án xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất dự án lớn nhất từ trước tới nay (với hơn 1,3 tỷ USD) đã nâng tổng số vốn lên 1,333 tỷ USD trong khi chỉ có 8 dự án .        Tuy nhiên, bên cạnh những tỉnh, thành phố nêu trên, một số vùng như Tây Nguyên và Tây Bắc chỉ thu hót đước rất ít dự án với số vốn cũng hết sức khiêm tốn, lần lượt chiếm 0,16 và 0,15% tỏng vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi cả nước. Hầu hết các tỉnh thuộc các vùng này đèu hết sức khó khăn trong việc phát triển cơ sở hạ tầng các dự án đầu tư chủ yếu tập trung vào công nghiệp khai thá hoặc một số dự án về phát triển, khia thác nông,lâm nghiệp. Chính vì vậy, việc khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các vùng này có ý nghĩa hết sức to lớn trong công tác xoá, thu hẹp khoảng cách về phát triển kinh tế giữa các địa phương trong cả nước .       Như vậy xu hướng đầu tư vào một số vùng kinh tế trọng điểm là một xu hướng mạnh. Đây cũng là một vấn đề đang đặt ra trong hoạt đọng thu hót vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam .        Các hình thức đầu tư:        Trong Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, chúng ta đề cập tới 3 hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài là: Hợp đồng hợp tác kinh doanh ,Liên doanh và 100% vốn nước ngoài. Tuy nhiên, trong quá trình thu hót vốn FDI đã xuất hiện một hình thức đầu tư mới, đó là BOT (Build- Operate – Transfer: Xây dựng- Kinh doanh – Chuyển giao).         Về hình thức liên doanh, đây là hình thức liên kết kinh tế phổ biến nhất mà các công ty nước ngoài khi đầu tư vào nước ta thường lựa chọn. Hình thức này hiện chiếm khoảng 70% lượng vốn đầu tư vào nước ta. Do có những ưu điểm nhất định, như: thuận lợi trong xin cấp phép, nhanh chóng trong việc thăm dò khai thác thị trườngnước bản xứ... nên hình thức này ngày càng phát ra tăng về số lượng. Về hình thức 100% vốn nước ngoài: đây là hình thức phổ biến thứ hai sau hình thức liên doanh . Các công ty 100% vốn nước ngoài thường có một số khó khăn bước đầu song đèu là các công ty hết sức linh hoạt , tuy có một số ít do không nắm bắt kỹ và xu hướng vận động của thị trường Việt Nam nên đã dẫn tới việc giải thể trước hạn. Nhưng cũng có nhiều công ty tìm thấy cơ hội thành công ở Việt Nam. 1.2. Đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Đối với Việt Nam, thu hút nguồn vốn FPI mang một ý nghĩa rất quan trọng. Để thực hiện thành công sự nghiệp Công Nghiệp Hóa –Hiện Đại Hóa đất nước, Việt Nam cần một lượng vốn đầu tư rất lớn (khoảng 140 tỷ USD) cho giai đoạn (2006-2010) để xây dựng, từng bước hoàn thiện kết cấu hạ tầng kinh tế và hạ tầng xã hội. Các doanh nghiệp Việt Nam đang trong quá trình cải cách và cổ phần hóa nhằm gia tăng năng lực và hiệu quả cạnh tranh khi gia nhập WTO. Cổ phần hóa phải đi đôi với việc hình thành các thị trường vốn, các kênh huy động vốn (hạt nhân là thị trường chứng khoán (TTCK). Các mối quan hệ kinh tế gia tăng, dòng vốn lưu chuyển nhanh sẽ góp phần tạo ra các hiệu ứng tốt tác động đến các doanh nghiệp. Lợi ích của hội nhập không những được đánh giá thông qua sự luân chuyển (vào, ra) dễ dàng của dòng hàng hóa, dòng người mà còn có cả dòng vốn.Việc tham gia của các nhà đầu tư FPI sẽ có tác động mạnh mẽ đến thị trường tài chính, giúp cho thị trường tài chính minh bạch và hoạt động hiệu quả hơn, xác lập giá trị thị trường của các cổ phiếu niêm yết một cách chuyên nghiệp, giảm thiểu những dao động “phi thị trường” và góp phần giải quyết một cách cơ bản các mối quan hệ kinh tế (vốn, công nghệ, quản lý…). Hơn nữa, FPI có thể giúp vốn cho doanh nghiệp trong nước, giúp doanh nghiệp tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh, do vậy FPI rất quan trọng đối với các doanh nghiệp trong nước đang thiếu vốn. Nguồn vốn FPI đã và đang trở lại được Ngân hàng Nhà nước đánh giá là một yếu tố thuận lợi góp phần cho việc cân đối cán cân thanh toán, ổn định cung - cầu ngoại tệ và tỷ giá trên thị trường, bên cạnh các nguồn vốn khác. Giai đoạn 1: (1998-2002): Đây là thời kỳ Việt Nam chịu nhiều tác động từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á và suy thoái kinh tế toàn cầu. Trong giai đoạn 1998-2002, không có quỹ đầu tư mới nào được thành lập ở Việt Nam. Ngược lại, các quỹ đầu tư đều có xu hướng rút vốn khỏi Việt Nam. Trong số 7 quỹ được thành lập, có 5 quỹ rút khỏi Việt Nam, 1 quỹ thu hẹp quy mô tới 90%, chỉ còn duy nhất quỹ Vietnam Enterprise Invesment Fund (Veil) – là quỹ nhỏ nhất trong số 7 quỹ trên, có số vốn đầu tư 35 triệu USD - còn duy trì hoạt động. Giai đoạn 2: (2003-2007): Đây là giai đoạn phục hồi và bùng nổ vốn FPI tại Việt Nam. Trong giai đoạn này, một loạt các chính sách, nghị định, Luật lệ đã được ban hành, tạo hành lang pháp lý thông thoáng, minh bạch, rõ ràng hơn cho dòng vốn FPI. Hàng loạt các định chế thị trường tài chính, trong đó có việc thành lập Sàn giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh (tháng 7/2000) và Sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội (tháng 3/2005), đặc biệt là những chủ trương, quyết tâm của chính phủ trong việc đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp, nới lỏng tỷ lệ nắm giữ cổ phần, cổ phiếu của các nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp nhà nứơc và trong các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán đã khiến dòng vốn FPI vào Việt Nam tăng mạnh. Theo báo cáo của Ngân hàng ANZ (tập đoàn ngân hàng hữu hạn Úc và New Dilân), trong giai đoạn 2001-2006, vốn FPI vào Việt Nam đạt 12 tỷ USD, năm 2007 đạt khoảng 5,7 tỷ USD. Còn theo báo cáo của Bộ ngoại giao, vốn FPI vào Việt Nam năm 2007 đạt 7,414 tỷ USD, tăng gấp 5 lần so với con số 1,313 tỷ USD của năm 2006. Tính đến tháng 6 năm 2006, cả nước có 19 quỹ đầu tư nước ngoài với tổng số vốn là 1,9 tỷ USD đang hoạt động ở Việt Nam. Vào năm 2005, Việt Nam có khoảng 436 nhà đầu tư gián tiếp nứơc ngoài, trong đó có 38 nhà đầu tư nứơc ngoài có tổ chức và 389 nhà đầu tư nước ngoài cá nhân. Và đặc biệt năm 2006 đánh dấu thời điểm Việt Nam gia nhập WTO, là một dấu mốc quan trọng cho đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam. ở giai đoạn 2006-2008 cùng với sự đi lên của thị trường chứng khoán, luồng vốn liên tục tăng nhanh và liên tục thu hoạch thành công và lượng đầu tư chủ yếu vào thị trường trái phiếu. Việc bùng nổ FPI góp phần thúc đẩy hệ thống ngân hàng ở Việt Nam phát triển mạnh Giai đoạn 3: (2008-nay): Đây là thời kỳ dòng vốn FPI vào Việt Nam có xu hướng chững lại do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Trên thị trường chứng khoán Việt Nam, kể từ tháng 8 năm 2008 các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu bán ròng, khiến thị trường chứng khoán bị rối loạn, gây tác động tâm lý không tốt đối với các nhà đầu tư trong nước. Chỉ số VN-Idex giảm gần 70% giá trị trong tháng 8 năm 2008. Trong hai năm 2008-2009, thị trường chứng khoán Việt Nam bị coi là thị trường tồi tệ nhất thế giới. Trong giai đoạn khủng hoảng tài chính thế giới 2008-2009, dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam có dấu hiệu chững lại, khối lượng không nhiều, với khoảng 13.000 tài khoản giao dịch, trong đó có trên 1.200 tài khoản là của các tổ chức và quỹ đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài chỉ chiếm khoảng 1,5% số nhà đầu tư tham gia thị trường chứng khoán. Cả năm 2008, dòng vốn FPI chảy ra ước khoảng 558 triệu USD. Trong quý I năm 2009, luồng vốn FPI sụt giảm mạnh, chỉ còn khoảng 3,7 tỷ USD trong giá trị danh mục trên thị trường chứng khoán. Việc huy động vốn trên thị trường chứng khoán giảm khoảng 70-80% so với năm 2008. Tuy nhiên, trong quý II năm 2009, dòng vốn FPI có dấu hiệu tăng trở lại nhưng không nhiều khi các nhà đầu tư nước ngoài mua ròng trên thị trường chứng khoán khoảng 500 triệu USD Tính cho cả năm 2009, vốn FPI rút khỏi Việt Nam đạt trị giá 600 triệu USD, tương đươg với mức của năm 2008. Năm 2009 được đánh giá là năm khó khăn trong thu hút FPI và tổng FPI vào Việt Nam trong năm 2009 chỉ đạt khoảng 5 tỷ USD. Trong 6 tháng đầu năm 2010, vốn FPI bắt đầu phục hồi ở mức nhẹ, đạt thặng dư khoảng 1,8 tỷ USD. Tính ở thời điểm hiện tại vào cuối năm 2010, chỉ số chứng khoán của Việt Nam (VN Index) vẫn liên tục sụt giảm, ở mức dưới 500 điểm kể từ tháng 8 năm 2010 đến tháng 11 năm 2010. Những dự báo lạc quan về việc thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trong xu thế giới hạn tỏ ra không hiệu quả. Vòng luẩn quẩn của thị trường chứng khoán Việt Nam trong giai đoạn 2008-2010 là một điều đáng lo ngại, khiến dòng vốn ngoại vào thị trường chứng khoán liên tục tháo lui. Và năm  2011 là năm thất vọng nhất đối với dòng vốn đầu tư gián tiếp (FPI) chảy vào Việt Nam kể từ khi chúng ta trở thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Chứng khoán và bất động sản liên tục đi xuống, chưa thấy điểm dừng. Thị trường vay nợ bên ngoài gần như đóng băng do sự rắc rối từ khoản nợ của Vinashin. 2, Tình hình viện trợ ODA vào Việt Nam Mặc dù, mức cam kết ODA năm sau luôn cao hơn năm trước, song việc giải ngân nguồn vốn này chưa được như mong muốn. Dự tính kết thúc năm 2011, tổng vốn giải ngân chỉ đạt 33,414 tỷ USD, chiếm trên 61% tổng vốn ODA ký kết. Đáng chú ý là, trong khi tỷ lệ vốn vay tăng từ 80% (1993 - 2000) lên mức 81% (2001 - 2005) và đạt mức cao nhất 93% (2006 - 2009) thì vốn viện trợ không hoàn lại giảm từ 20% và 19% (1993 - 2000 và 2001 - 2005) xuống còn 7,1% (2006 - 2010). Thực tế này đặt ra yêu cầu cho thời gian tới là phải sử dụng nguồn vốn ODA một cách hiệu quả cao nhất, phải lựa chọn được mục tiêu và lĩnh vực ưu tiên đầu tư, đồng thời phải có các chính sách, giải pháp về an toàn nợ nước ngoài.Đề cập tới vấn đề trên, Bộ KH&ĐT thừa nhận, mặc dù các chỉ tiêu về cam kết, ký kết và giải ngân nguồn vốn ODA đều đạt và vượt kế hoạch đề ra, nhưng tiến độ thực hiện và giải ngân nguồn vốn ODA vẫn chưa đạt yêu cầu và đối với một số nhà tài trợ còn thấp hơn với mức bình quân của khu vực và thế giới. Đơn cử như, với vốn của WB, tỷ lệ của Việt Nam là 11,6% so với 19,4% của khu vực; với vốn của JICA, tỷ lệ của Việt Nam là 13,6% so với 16,6% của quốc tế. Nhiều chương trình, dự án đầu tư bằng vốn vay ODA phải gia hạn, dẫn đến hiệu quả đầu tư giảm, do các công trình này chậm đưa vào khai thác, sử dụng. Sự chậm trễ trong triển khai và giải ngân thấp thời gian qua không những chưa đem lại hiệu quả cao mà còn gây khó trong việc thuyết phục các nhà tài trợ đưa ra các khoản cam kết mới hoặc tăng vốn ODA cho Việt Nam. Hiện nay, số vốn ODA đang k‎ý kết, có hiệu lực là 26,383 tỷ USD, tuy nhiên giá trị giải ngân mới đạt được 6,965 tỷ USD, còn 19,418 tỷ USD chưa được giải ngân. Một số nhà tài trợ còn tồn đọng vốn lớn như Ngân hàng thế giới (6,128 tỷ USD), Nhật Bản (5,981 tỷ USD), Ngân hàng Phát triển châu Á (4,575 tỷ USD).... Các số liệu của Bộ KH&ĐT cũng cho thấy, khoảng cách giữa tổng giá trị giải ngân tính đến ngày 31/8/2011 so với tổng giá trị ODA ký kết theo từng nhà tài trợ cụ thể của các chương trình, dự án ODA chủ yếu đang triển khai thực hiện là rất lớn.   Nhận thức rõ vấn đề này, thời gian qua, Bộ KH&ĐT đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Việt Nam và các nhà tài trợ, đặc biệt nhóm 6 Ngân hàng Phát triển (ADB, AFD, JICA, KFW, KEXIM, WB) trong việc xác định, giải quyết, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc nảy sinh trong quá trình chuẩn bị và thực hiện các chương trình, dự án ODA. Tuy nhiên, tình hình giải ngân nguồn vốn ODA vẫn chưa đạt kết quả như mong muốn, do đó rất cần có sự vào cuộc mạnh mẽ từ phía các cơ quản chủ quản. Theo số liệu của Bộ KH&ĐT, hiện nay tổng giá trị các chương trình, dự án ODA chủ yếu đang được triển khai thực hiện là trên 26,383 tỷ USD (25,600 tỷ USD ODA vốn vay và 782.89 triệu USD viện trợ không hoàn lại),song tổng mức giải ngân của các chương trình, dự án này tính đến ngày 31/8/2011 chỉ đạt 6,965 tỷ USD (6,796 tỷ USD ODA vốn vay và 169 triệu USD viện trợ không hoàn lại), chiếm 26,4% tổng vốn đã ký kết. Với tình hình này, rõ ràng việc hoàn thành các mục tiêu theo hiệp định đã ký kết với khoảng 50% các chương trình, dự án phải kết thúc trong năm 2012; khoảng 30% phải kết thúc trong các năm 2013 – 2014; và 20% còn lại phải kết thúc trong các năm 2015 - 2017 là rất khó khăn. Đặc biệt đối với một số bộ, ngành, địa phương còn nguồn vốn lớn chưa được giải ngân, như: Bộ Công thương (5,017 tỷ USD), Bộ Giao thông vận tải (4,652 tỷ USD), Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (1,002 tỷ USD), Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (1,361 tỷ USD), thành phố Hồ Chí Minh (1,304 tỷ USD). Theo đánh giá của Bộ KH&ĐT, nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là do hiện vẫn còn xung đột về mặt pháp lý, đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng. Ngoài sự khác biệt về quy trình, thủ tục giữa Việt Nam và nhà tài trợ (đặc biệt trong lĩnh vực đấu thầu) thì chính sách về an sinh xã hội (đền bù, giải phóng mặt bằng và tái định cư...) cũng đã gây khó khăn cho các bộ, ngành và địa phương trong quá trình thực hiện, từ đó làm chậm tiến độ thực hiện và giải ngân. Bên cạnh đó cũng phải kể đến một số dự án thiết kế quá phức tạp với sự tham gia của nhiều bộ, ngành, địa phương trong khi năng lực điều phối, quản lý và thực hiện của cơ quan chủ quản còn hạn chế; hay việc thay đổi quy hoạch ở các địa phương, đặc biệt về quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch đô thị đã dẫn đến việc thay đổi thiết kế và điều chỉnh dự án; chất lượng khảo sát, thiết kế chưa cao dẫn đến nhiều phát sinh trong quá trình thực hiện. Trước bối cảnh trên, để đạt được các mục tiêu dự kiến về thu hút, vận động và thực hiện nguồn vốn ODA trong thời gian tới, Bộ KH&ĐT đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ có ý kiến chỉ đạo các bộ, ngành và địa phương thực hiện các giải pháp cụ thể để cải thiện tình hình thực hiện và tạo bước đột phá về giải ngân các chương trình, dự án ODA trong năm 2011 và cả năm 2012. Bộ KH&ĐT cũng sẽ chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương và các nhà tài trợ trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án: “Định hướng thu hút, quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA và các khoản vay ưu đãi khác của các nhà tài trợ” để qua đó hỗ trợ thực hiện thành công Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2011 - 2015 và tạo đà cho giai đoạn phát triển sau năm 2015. Đồng thời, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định mới thay thế Nghị định 131/2006/NĐ-CP theo hướng tinh giản và hài hòa tối đa các quy trình thủ tục giữa Việt Nam với các nhà tài trợ, đáp ứng tốt những thay đổi về viện trợ phát triển khi Việt Nam đã trở thành quốc gia đang phát triển có mức thu nhập trung bình thấp, mở rộng sự tham gia của các đối tượng, đặc biệt là từ khu vực tư nhân, theo hình thức đối tác công - tư (PPP). Phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng cơ chế tài chính trong nước đối với nguồn vốn này để đảm bảo hiệu quả sử dụng nguồn vốn; xây dựng cơ chế phân bổ và giám sát việc giải ngân vốn đối ứng cấp phát từ ngân sách (nguồn vốn xây dựng cơ bản và hành chính sự nghiệp) nhằm đảm bảo đáp ứng đầy đủ và minh bạch việc sử dụng nguồn vốn này một cách công khai và hiệu quả. III. Giải pháp 1. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa Việt Nam: Để thúc đẩy xuất khẩu thì cần phải thực hiện các biện pháp sau: 1.1. Xây dựng một cơ cấu kinh tế theo mô hình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu: Các ngành định hướng vào xuất khẩu được phát triển mạnh. Các sản phẩm xuất khẩu của các ngành nông, lâm, ngư nghiệp trong những năm gần đây luôn chiếm khoảng 50% tổng giá trị xuất khẩu 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là dầu thô, cà phê, gạo, giày da, than đá, cao su, hạt điều và lạc. Các công nghệ mới phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu nói riêng và công nghệ mới nói chung được khuyến khích đưa vào Việt Nam thông qua chế độ ưu đãi trong việc đánh thuế nhập khẩu. Chính phủ Việt Nam chủ trương xây dựng một hệ thống kinh tế theo mô hình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, khai thác lợi thế so sánh của nền kinh tế Việt Nam và tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới. Việc xác định các ngành trọng điểm của nền kinh tế Việt Nam có ý nghĩa quan trọng và cần phải được cân nhắc kĩ càng. 1.2. Xây dựng các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung và khu công nghệ cao: Chính phủ đã cấp giấy phép thành lập 6 khu chế xuất với các qui chế đầu tư ưu đãi và bước đầu một số khu vực đã hoạt động và đem lại kết quả đáng khích lệ. Các khu công nghiệp tập trung, khu công nghệ cao cũng được thành lập ở Việt Nam và được sự quan tâm của chính phủ. Tháng 4/97 thủ tướng chính phủ đã ban hành qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ở Việt Nam. Đây là bước đi rất quan trọng của quá trình thay thế nhập khẩu và khuyến khích xuất khẩu ở nước ta. 3.3. Hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước đói với hoạt động xuất khẩu: Thực chất của chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu là đặt nền kinh tế quốc gia trong quan hệ cạnh tranh trên thị trường quốc tế nhằm phát huy lợi thế so sánh. Trước yêu cầu đó, đòi hỏi nền sản xuất trong nước phải không ngừng đổi mới về công nghệ, khả năng quản lý, trình độ tay nghề của người lao động, nâng cao khả năng cạnh tranh. Đích cuối cùng là đáp ứng nhanh nhậy nhu cầu của thị trường về chất lượng và giá cả kể cả thị trường trong nước và quốc tế. Hướng về xuất khẩu không có nghĩa là xem nhẹ nhu cầu trong nước, không chú ý thay thế nhập khẩu. Do vậy, vấn đề then chốt là Nhà nước phải chủ động trong định hướng tạo môi trường hành chính pháp lý, kinh tế sử dụng hiệu quả các biện pháp công cụ hành chính cũng như các công cụ, biện pháp kinh tế để tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng có hiệu quả nhất. Trong đó việc tăng cường vai trò quản lý Nhà nước về thương mại, nhất là quản lý xuất nhập khẩu, sử dụng các biện pháp phi thuế quan, các biện pháp không chính thức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu để thực hiện quá trình trên.Việc quản lý của Nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu ngày càng được cải tiến và hoàn thiện theo hướng khuyến khích xuất khẩu. Vừa qua Quốc hội đã thông qua luật thương mại, tạo nên khuôn khổ pháp lý ổn định cho hoạt động xuất nhập khẩu. Nhà nước tập trung quản lý xuất khẩu vào một đầu mối đó là Bộ thương mại. Bộ thương mại thực hiện chức năng thống nhất quản lý Nhà nước và phối hợp với các Bộ, các cơ quan ngang Bộ và cơ quan thuộc Chính phủ để quản lý hoạt động thương mại nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. 3.4. Chính phủ hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc phát triển thị trường xuất khẩu: Nhà nước và các nhà doanh nghiệp Việt Nam phải tìm kiếm và khai thác các thị trường mới. Bằng các nỗ lực ngoại giao và chính sách kinh tế đối ngoại đúng đắn nhằm mở đường và kích thích quan hệ buôn bán của các doanh nghiệp. Chính phủ Việt Nam đã kí trên 70 hiệp định thương mại và hiện nay có quan hệ buôn bán với trên 110 quốc gia. Trong đó đáng lưu ý là hiệp định khung hợp tác kinh tế với liên minh châu Âu kí ngày 17/07/95 tham gia vào AFTA (khu mậu dịch tự do ASEAN), bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, đang đàm phán với Mỹ về hiệp định thương mại và chế độ tối huệ quốc. Chính phủ Việt Nam cũng đã nộp đơn gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC) và tổ chức thương mại thế giới WTO. Cơ cấu thị trường xuất khẩu hiện nay của Việt Nam là Châu á 80%, châu Âu 15%, châu Phi 3%, châu Mỹ 2%. Để khuyến khích xuất khẩu ngành thương mại đã tổ chức khoảng 100 hội chợ, triển lãm và hội thảo thương mại tại Việt Nam. Việt Nam đã cử 55 đoàn cán bộ thương mại ra nước ngoài và đón 50 đoàn nước ngoài vào Việt Nam. Gần 200 doanh nghiệp Việt Nam đã đặt văn phòng đại diện và chi nhánh ở nước ngoài. 3.5. Chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy xuất khẩu: Từ năm 1987, Việt Nam bắt đầu cải cách trong cơ chế điều hành tỷ giá đồng Việt Nam với đồng đô la Mỹ (đồng tiền đóng vai trò quan trọng trong quan hệ thanh toán của Việt Nam với nước ngoài). Chính sách tỷ giá hối đoái góp phần giữ vững được giá trị đồng Việt Nam cả về danh nghĩa và giá trị thực, ổn định mặt bằng giá cả trong nước và kiềm chế lạm phát, khuyến khích được xuất khẩu tăng lên hàng năm. 3.6. Thành lập các tổng công ty lớn và các tập đoàn kinh doanh lớn để tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế: Trong những năm gần đây hàng loạt các tổng công ty, các tập đoàn đã được thành lập. Trong điều kiện thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm quản lý và khả năng vươn tầm hoạt động ra thị trường thế giới của từng doanh nghiệp còn hạn chế thì việc này đã giúp các doanh nghiệp trong cùng ngành liền kết để phát huy sức mạnh tổng hợp. Với tầm vóc (thế và lực) đủ lớn thì khả năng cạnh tranh ở thị trường trong nước và khả năng thâm nhập thị trường nước ngoài đã và sẽ tăng lên đáng kể. 3.7. Nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu Việt Nam: Mặc dù đã có sự chuyển biến theo hướng xuất khẩu hàng chế biến, nhưng nhìn tổng thể thì hàng xuất khẩu của Việt Nam phần lớn còn ở dạng thô và nguyên liệu, được thu gom ở nhiều vùng lãnh thổ khác nhau nên chất lượng không đồng đều, chưa chú trọng qui hoạch vùng sản xuất hàng xuất khẩu lớn và đồng bộ, chưa có mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt trị giá hàng tỷ USD, hàng chế biến sâu và tinh chiếm tỷ trọng thấp. Do vậy, để nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu Việt Nam phải thực hiện: Đẩy mạnh xuất khẩu phải có chiến lược xây dựng các ngành hàng xuất khẩu chủ lực để tạo ra nguồn hàng lớn và ổn định. Chiến lược này dựa trên cơ sở xây dựng cơ cấu ngành kinh tế, các mặt hàng phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng của thị trường trong nước và thị trường thế giới. Tăng cường đầu tư đổi mới công nghệ hiện đại để sản xuất chế biến hàng xuất khẩu, mở rộng đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài để phát triển các khu vực công nghiệp tập trung, khu chế xuất, khu mậu dịch tự do, vùng sản xuất nông-lâm-thủy sản lớn và tập trung. Nâng cấp hoặc xây dựng mới các xí nghiệp vừa và nhỏ bằng những công nghệ hiện đại và phù hợp với điều kiện Việt Nam, đổi mới kiều dáng công nghiệp, mẫu mã hàng hóa, áp dụng các phương pháp quản lý tiên tiến, nâng cao tay nghề của người lao động. Chú trọng phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, dần dần hình thành và phát triển công nghiệp nông thôn và thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp nhằm chuyển bớt lao động nông nghiệp sang các ngành công nghiệp và dịch vụ. Nâng cao vai trò quản lý điều hành của Nhà nước, đổi mới cơ chế xuất nhập khẩu theo hướng thực hiện thị trường mở, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần tự do hóa ngoại thương, khuyến khích các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu, tiến tới loại bỏ dần những hạn chế định lượng trong nhập khẩu và thay thế bằng những mức thuế quan giảm dần để chỉ đến năm 2000 thuế nhập khẩu chỉ còn 0-5% theo qui định của chương trình thuế quan mang lại hiệu quả chung của các nước ASEAN. Nâng cao trình độ quản lý của các viên chức nhà nước để đáp ứng tốt nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu, nâng cao trình độ tổ chức quản lý và tiếp thị của các doanh nghiệp để phù hợp với nền kinh tế thị trường. Quan tâm phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thường xuyên lắng nghe ý kiến của họ để đề ra các chính sách phát triển kinh tế phù hợp với từng thời kì kinh tế của đất nước. Phát triển công nghiệp theo hướng xuất khẩu, đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hóa hiện đại hóa các ngành kinh tế xã hội, từng bước nâng cao tỷ trọng ngành công nghiệp. Phấn đấu đạt tốc độ phát triển công nghiệp hàng năm từ 15% trở lên. 2. Giải pháp giảm nhập siêu 2.1Trong ngắn hạn: Việt Nam nên tăng các rào cản thuế và phi thuế đối với hàng nhập khẩu. Tuy nhiên việc tăng thuế phải được xem xét trong bối cảnh Việt Nam đã là thành viên của WTO và phải tuân thủ lộ trình giảm thuế đã cam kết. Cụ thể cần: Rà soát lại tất cả các khoản thuế, dòng thuế đối với các hàng hóa nhập khẩu, đặc biệt là nhóm hàng hạn chế nhập khẩu và áp dụng đến mức cao nhất mà lộ trình đã cam kết cho phép; Nghiên cứu áp dụng các rào cản phi thuế như các rào cản kỹ thuật, biện pháp vệ sinh và an toàn thực phẩm, biện pháp tự vệ, trợ cấp hoặc biện pháp đối kháng theo đúng các điều kiện do WTO quy định. 2.2 Về lâu dài: Việt Nam nên kìm chế nhập siêu bằng cách đẩy mạnh xuất khẩu, thay đổi cơ cấu nhập khẩu, đồng thời với thúc đẩy phát triển cả thị trường hàng hóa lẫn thị trường yếu tố đầu vào nội địa thông qua mở rộng sản xuất thay thế hàng nhập khẩu và chú trọng phát triển công nghiệp phụ trợ. Thứ nhất, không chỉ đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng truyền thống trước đây mà cần phải thay đổi quan điểm xuất khẩu: Hướng vào các hàng hóa đem lại giá trị gia tăng cao như phần mềm, linh kiện điện, điện tử...; hướng vào các dịch vụ phi hàng hóa như du lịch, xuất khẩu lao động... Đối với du lịch, những việc cần làm ngay phải là làm du lịch theo hướng chuyên môn hoá và có quy hoạch dài hạn: vừa tạo nhiều sân chơi đa dạng vừa cung cấp các mặt hàng lưu niệm vừa giới thiệu những đặc trưng của đất nước và con người Việt Nam chứ không phải làm du lịch chỉ có nhà hàng và khách sạn. Đối với xuất khẩu lao động, việc cần làm nhất là ngăn chặn làn sóng lao động bỏ việc trốn ra ngoài làm bằng cách ban hành nghị định quy định rõ trách nhiệm liên đới giữa ngân hàng cho vay vốn, địa phương, gia đình, công ty môi giới trong việc quản lý lao động và các biện pháp chế tài tương xứng; tăng cường khâu tuyển chọn, đào tạo và minh bạch hóa thông tin tuyển dụng. Đa dạng hóa thị trường, đặc biệt là các thị trường tiềm năng như châu Phi, Trung Đông để giảm bớt sự phụ thuộc vào một vài nền kinh tế và cũng qua đó chia sẻ được rủi ro. Để đa dạng hóa thị trường cần lập các kênh thông tin thương mại, củng cố vai trò của các đại diện thương mại ở nước ngoài, đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, tham gia, tổ chức hội chợ triển lãm giới thiệu sản phẩm, tìm đối tác, hỗ trợ và thúc đẩy các công ty Việt Nam tham gia vào các hội chợ quốc tế chuyên ngành. Thứ hai, thay đổi quan điểm về phát triển ngành, từ đó thay đổi cơ cấu nhập khẩu cho phù hợp. Cơ cấu ngành cần cân nhắc các nhân tố: Đánh giá một cách nghiêm túc vai trò của FDI đối với nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh hiện tại để có một chiến lược lựa chọn dự án phù hợp trong tương lai nhằm giảm việc sử dụng công nghệ lạc hậu, tiêu tốn nhiều nguyên vật liệu cũng như giảm áp lực lên cầu nhập khẩu Tập trung phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ cho cả ngành sản xuất sản phẩm thay thế nhập khẩu lẫn ngành sản xuất sản phẩm xuất khẩu để giảm áp lực nhập khẩu yếu tố đầu vào Xem xét lại chiến lược phát triển các ngành công nghiệp non trẻ không đem lại hiệu quả cao như mía đường, giấy, sắt thép để giảm tình trạng sử dụng lãng phí và thất thoát các nguồn lực Không nên quá chú trọng đến việc sản xuất toàn bộ sản phẩm hoàn chỉnh mà có thể xác định một công đoạn trong chuỗi giá trị toàn cầu mà Việt Nam có lợi thế so sánh để đầu tư nhằm đạt đến giá trị gia tăng cao hơn Lựa chọn các ngành đem lại giá trị gia tăng cao như các ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp sáng tạo. Thứ ba, tập trung khai thác thị trường nội địa. Cơ cấu nhập khẩu yếu tố đầu vào và hàng tiêu dùng cao đã cho thấy sự phát triển của thị trường nội địa chưa được chú trọng. Thực trạng này cũng được đề cập trong nhiều nghiên cứu gần đây. Để phát triển thị trường nội địa, điều trước tiên phải làm là thay đổi nhận thức của chính phủ, của doanh nghiệp, của người tiêu dùng về tầm quan trọng của thị trường nội địa. Cách hiệu quả nhất là tác động vào lợi ích kinh tế. Khai thác thị trường nội địa kết hợp với thị trường xuất khẩu sẽ giảm những biến động từ tác động bên ngoài. Doanh nghiệp cần nhận thấy bán hàng cho thị trường nội địa có lợi như bán hàng cho thị trường nước ngoài. Để thấy được điều này, chính phủ cần có những chính sách hỗ trợ phát triển thị trường trong nước tương đương với thị trường xuất khẩu. Những chính sách chính phủ đưa ra có tác động lan tỏa nhanh nhất có thể kể: (i) phát triển cơ sở hạ tầng. Việc này sẽ giúp doanh nghiệp giảm được chi phí vận chuyển, đồng thời giúp người tiêu dùng tiếp cận với hàng hóa dễ hơn; (ii) định hướng phát triển cho thị trường nội địa; (iii) tạo một cơ chế cung cấp thông tin và minh bạch thông tin tương tự như đã làm với xúc tiến thương mại ra thị trường nước ngoài; (iv) xây dựng hành lang pháp lý bảo vệ quyền lợi người sản xuất lẫn người tiêu dùng: chế tài thật nặng những doanh nghiệp làm hàng nhái, hàng giả những thương hiệu Việt đã đứng vững trong lòng người tiêu dùng. Để người tiêu dùng nhận thấy lợi ích của việc tiêu dùng hàng nội không thể thông qua hô hào, vận động mà phải đi từ những lợi ích kinh tế thực sự mà người tiêu dùng nhận được khi tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trong nước; phải đi từ chất lượng tốt, giá cả cạnh tranh. Ngoài ra, phát triển thị trường nội địa, không nên chỉ giới hạn với người tiêu dùng mà nên mở rộng việc sử dụng yếu tố đầu vào từ các doanh nghiệp sản xuất trong nước. 3. Giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài: 3.1 Luật pháp, chính sách: - Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh để sửa đổi các nội dung không đồng bộ, thiếu nhất quán, bổ sung các nội dung còn thiếu và loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO. - Sửa đổi các quy định còn bất cập, chưa rõ ràng liên quan đến thủ tục đầu tư và kinh doanh. Các Bộ, ngành chủ động sửa đổi, bổ sung các nội dung thuộc thẩm quyền và kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung các quy định thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. - Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn các luật mới, nhất là các luật mới được Quốc hội thông qua trong thời gan gần đâycó liên quan đến đầu tư, kinh doanh. - Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế. 3.2 Quy hoạch công trình: - Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu, rà soát để định kỳ bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án. - Quán triệt và thực hiện thống nhất các quy định mới của Luật Đầu tư trong công tác quy hoạch, đảm bảo việc xây dựng các quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm phù hợp với các cam kết quốc tế. - Hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư; rà soát, kiểm tra, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất một cách hiệu quả, nhất là đối với các địa phương ven biển nhằm đảm bảo phát triển kinh tế và môi trường bền vững. 3.3 Cải thiện cơ sở hạ tầng: Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống đường bộ cao tốc, - Mở rộng hình thức cho thuê cảng biển, mở rộng đối tượng cho phép đầu tư dịch vụ cảng biển, đặc biệt dịch vụ hậu cần (logistic) để tăng cường năng lực cạnh tranh của hệ thống cảng biển Việt Nam; kêu gọi vốn đầu tư các cảng lớn của các khu vực kinh tế như hệ thống cảng Hiệp Phước-Thị Vải, Lạch Huyện... - Xem xét việc ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết của ta với WTO đối với một số lĩnh vực dịch vụ mà nước ta có nhu cầu về văn hóa-y tế-giáo dục, bưu chính-viễn thông, hàng hải, hàng không. 3.4 Nguồn nhân lực: Ngoài việc nâng cấp đầu tư hệ thống các trường đào tạo nghề hiện có lên ngang tầm khu vực và thế giới, sẽ phát triển thêm các trường đào tạo nghề và trung tâm đào tạo từ các nguồn vốn khác nhau. - Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động. + Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc. 3.5 Xúc tiến đầu tư: - Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và các đối tác trọng điểm như các quốc gia thành viên EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản... - Nhanh chóng hoàn thành việc xây dựng thông tin chi tiết về dự án (project profile) đối với danh mục đầu tư quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006-2012 để làm cơ sở cho việc kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án này. - Nghiên cứu việc xây dựng văn bản pháp quy về công tác xúc tiến đầu tư nhằm tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho công tác quản lý nhà nước, cơ chế phối hợp và tổ chức thực hiện các hoạt động xúc tiến đầu tư. - Tổ chức khảo sát, nghiên cứu về mô hình cơ quan xúc tiến đầu tư ở các địa phương để có cơ sở trong việc hướng dẫn các địa phương tổ chức cơ quan đầu tư có hiệu quả hơn. - Tăng cường công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư nói riêng và quản lý đầu tư nói chung. Phối hợp chặt chẽ và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến đầu tư- thương mại - du lịch; khẩn trương triển khai việc thành lập các bộ phận xúc tiến đầu tư tại các địa bàn trọng điểm theo kế hoạch. (8) Một số giải pháp khác: - Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc chống tham nhũng, tiêu cực và tình trạng nhũng nhiễu đối với nhà đầu tư. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong xử lý công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở các cơ quan quản lý nhà nước. - Tăng cường phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương xử lý vấn đề môi trường, vấn đề đình công trái pháp luật của các doanh nghiệp FDI. - Duy trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa lãnh đạo Chính phủ, các Bộ, ngành với các nhà đầu tư, đặc biệt là Diễn đàn doanh nghiệp hàng năm để xử lý kịp thời các khó khăn, vướng mắc của các dự án trong quá trình thực hiện chính sách và phát luật hiện hành, đảm bảo các dự án hoạt động đúng tiến độ và hiệu quả, nhằm tiếp tục củng cố lòng tin của các nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, tạo hiệu ứng lan tỏa và tác động tích cực tới nhà đầu tư mới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxthuong_mai_viet_nam_voi_nang_cao_chat_luong_canh_tranh__9782.docx
Luận văn liên quan