Phát triển nguồn nhân lực cho khoa học và công nghệ sản xuất hàng xuất khẩu bằng cách tổ chức các trường lớp đào tạo về kỹ thuật quản lý ở trình độ cao nhằm tạo ra các cán bộ nắm vững công nghệ sản xuất mới, kinh doanh giỏi, có khả năng nắm bắt cái tiên tiến, cải tạo cái cũ làm hạt nhân cho các cơ sở sản xuất.
Tóm lại, từ việc đưa ra các cơ hội cũng như thách thức đồng thời với việc dự báo các hoạt động xuất khẩu trong năm tới, em đã đề cập ra một số giải pháp nhằm thúc đấy hiệu quả của hoạt động xuất khẩu cho công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại HA. Những biện pháp này không chỉ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu mà còn đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu của công ty hàng năm, mà còn ngày càng nâng cao uy tín và vị thế của công ty trên thị trường quốc tế.
48 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2765 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu hoạt động xuất khẩu của công ty Cổ phần xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại HA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ổ phần XNK và xúc tiến thương mại HA )
Qua bảng tổng kết vốn của công ty từ năm 2006 đến năm 2009, số vốn của công ty có xu hướng biến động mạnh. Thật vậy, năm 2006 vốn kinh doanh của công ty là 24.561.806.000 đồng. Trong thời gian này, công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại HA luôn tập trung vào việc tăng tỷ trọng vốn lưu động của công ty. Nhờ vậy, số vốn lưu động của công ty tăng lên tới 19.421.355.000 đồng, trong đó chủ yếu là vốn huy động từ các cán bộ nhân viên của công ty với một số ít là vốn vay từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Mặc dù công ty tập trung chủ yếu vào tăng vốn lưu động nhưng trong năm 2006, vốn cố định của công ty vẫn tăng lên tới 5.140.451.000 đồng nhưng chỉ chiếm 20,93% tổng số vốn kinh doanh.
Tuy nhiên sang năm 2007, tổng vốn kinh doanh của công ty có xu hướng giảm mạnh. Có thể thấy, qua bảng tổng kết vốn, năm 2007, tổng vốn kinh doanh của công ty giảm xuống còn 18.107.554.000 đồng trong đó vốn lưu động chiếm 90,86% tổng số. Nguyên nhân của việc giảm mạnh vốn kinh doanh là trong thời gian này khả năng huy động vốn của công ty bị chững lại, không huy động được. Bên cạnh đó, công ty còn gặp một số khó khăn nhất định trong việc sản xuất, cung ứng cho một số khách hàng nước ngoài.
Sang đến năm 2008 và năm 2009, nhờ sự cố gắng vượt bậc của toàn bộ công nhân viên, nguồn vốn của công ty đã có sự tăng trở lại. Thật vậy, trong năm 2008, tổng số vốn kinh doanh vượt lên hẳn so với năm 2007 là 23.160.702.000 đồng. Trong đó, số vốn cố định chiếm 19,37% trên tổng số. Năm 2009, tỷ lệ vốn cố định của công ty có xu hướng tăng lên cùng với sự tăng lên của tổng số vốn kinh doanh.
III. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của công ty
3.1 Các loại hình kinh doanh chính
Công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại HA là một công ty hoạt động sản xuất và xuất nhập khẩu nhiều mặt hàng gồm mặt hàng tiêu dùng, nguyên vật liệu đáp ứng nhu cầu khác nhau của sản xuất và đời sống. Bên cạnh đó công ty còn thực hiện hoạt động hỗ trợ và xúc tiến một số hoạt động trong lĩnh vực thương mại.
Trong kinh doanh xuất nhập khẩu, mặt hàng chủ yếu của công ty gồm:
Về xuất khẩu: Công ty trực tiếp xuất khẩu một số mặt hàng sau:
Hoa quả, gỗ trang trí nội thất, đồ gỗ mỹ nghệ
Dép xốp, túi xách da, quần áo da, Quần áo len
Về nhập khẩu: Công ty trực tiếp nhập khẩu một số mặt hàng:
Bếp nướng, chảo nướng, các thiết bị điện, hạt nhựa.
Hóa chất, phụ tùng xe máy, phân bón.
Trong lĩnh vực xúc tiến thương mại, công ty nhận tổ chức và hỗ trợ một số hoạt động sau:
Hội chợ Thương mại quốc tế.
Hỗ trợ dịch vụ quảng cáo cho một số công ty
Khảo sát nghiên cứu thị trường, kịp thời cung cấp thông tin về thị trường cho các doanh nghiệp
Giám sát các dự án đầu tư được thi công
Từ những mặt hàng kinh doanh của công ty, chúng ta có thể thấy được chiến lược kinh doanh của công ty là rất đa dạng. Đối với mặt kinh doanh xuất nhập khẩu, công ty tập trung nhiều vào việc nhập khẩu các sản phẩm tiêu dùng như chảo nướng, bếp nướng và một số thiết bị điện. Đây là những mặt hàng được nhiều người dân Việt Nam ưa chuộng và phổ biến trong cuộc sống hàng ngày mà trong nước chưa thể đáp ứng về mặt chất lượng.
Nhìn chung, những mặt hàng kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại HA đều thuộc diện khuyến khích và ưu đãi từ phía Nhà nước. Công ty luôn đặt ra yêu cầu về chất lượng của sản phẩm để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, công ty thường chú trọng vào lĩnh vực xúc tiến thương mại. Thật vậy, công ty tập trung chủ yếu vào việc tổ chức các buổi hội chợ quốc tế nhằm giới thiệu sản phẩm cho một số công ty nước ngoài vào Việt Nam và giúp nhiều doanh nghiệp phân tích thị trường để đưa ra các dự đoán tài chính trong năm. Nhờ có hoạt động này, công ty đã thu về được một khoản doanh thu giúp đẩy mạnh sản xuất phát triển cũng như giúp kinh doanh xuất nhập khẩu được đẩy mạnh.
Đầu năm 2010, công ty đã lên kế hoạch và dự án cho việc đầu tư vào một số lĩnh vực mới mẻ và mạo hiểm trong nước như buôn bán bất động sản và kinh doanh chứng khoán. Tuy nhiên, do điều kiện của công ty chưa thuận lợi nên các lĩnh vực này vẫn chỉ là những dự án đang được xem xét.
3.2 Khách hàng của công ty
Trên cơ sở nỗ lực của mình, qua hơn 10 năm hoạt động đến nay, công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại HA đã có quan hệ với rất nhiều khách hàng, bạn hàng trong và ngoài nước.
Khách hàng trong nước của công ty gồm nhiều loại: khách hàng mua lẻ, mua buôn, một số doanh nghiệp thực hiện hội chợ triển lãm hay các doanh nghiệp đứng ra đầu tư dự án công trình xây dựng… chủ yếu tập trung tại Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng…
Khách hàng nước ngoài của công ty tập trung chủ yếu ở các nước Hồng Kông, Nga, Nhật, Singapore, Đài Loan, Trung Quốc, Thái Lan, Mỹ... Trong đó, công ty có mối quan hệ với nhiều bạn hàng nhất ở nước Mỹ và Singapore.
Qua những tài liệu cụ thể từ phía công ty, có thể thấy, mối quan hệ trong kinh doanh của công ty với các khách hàng luôn ổn định đồng thời giúp đỡ nhau trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình.
3.3 Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty
Với sự cố gắng không ngừng của toàn thể cán bộ công nhân viên trong thời gian qua, công ty đã đạt được một số kết quả nhất định.
Bảng 3: Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty
Đơn vị tính: 1.000VNĐ
STT
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
1
Tổng DT
165.118.984
137.061.150
186.947.427
286.390.333
2
Tổng CP
162.484.129
103.796.063
183.437.196
282.010.881
3
Lợi nhuận
2.634.855
3.365.087
3.510.232
4.379.482
(Nguồn: Báo cáo tài chính công ty cổ phần XNK và xúc tiến thương mại HA )
Nhìn vào bảng trên ta thấy hoạt động kinh doanh từ năm 2006 đến năm 2009 đều đạt hiệu quả. Trong thời gian hoạt động, mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng doanh thu và lợi nhuận của Công ty vẫn liên tục tăng lên. Năm 2006, doanh thu của công ty đạt tới 165.118.984.000 đồng tương ứng với số lợi nhuận thu được là 2.634.855.000 đồng. Tuy nhiên, sang năm 2007, Công ty gặp một số khó khăn trong việc huy động vốn và phân phối hàng. Do đó, doanh thu của công ty cũng giảm hẳn xuống còn 137.061.150.000 đồng. Nhờ sự nỗ lực của toàn thể công ty, đến năm 2008, công ty đã vượt ra khỏi được khủng hoảng về vốn và đạt được một mức doanh thu tăng lên so với năm 2006 với số tuyệt đối là 186.947.427.000 đồng. Bên cạnh việc tăng doanh thu từ xuất khẩu Công ty đã tiến hành đầu tư và mở rộng thị trường trong nước, do đó doanh thu từ hoạt động ngoại thương cũng tăng lên.
Trong suốt các năm từ 2006 đến 2009, doanh thu qua các năm của công ty tăng lên khoảng hơn 2 tỷ đồng và lợi nhuận tương ứng cũng tăng từ 2,6 đến 4,3 tỷ (năm 2006 là 2,6 tỷ đồng nhưng đến năm 2009 thì lợi nhuận đạt được đến 4,3 tỷ đồng). Như vậy, trong khoảng 4 năm từ năm 2006 đến 2009, doanh thu và lợi nhuận của công ty đều đã tăng. Điều này cho thấy hoạt động của công ty ngày càng đạt được hiệu quả.
IV. Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của công ty
4.1 Thành tựu
Với sự nỗ lực của tập thể cán bộ nhân viên và ban lãnh đạo của công ty, mặc dù gặp nhiều khó khăn song công ty cũng đã đạt được một số thành tựu nhất định, đó là:
Trong 5 năm qua, năm nào công ty cũng bù đắp được chi phí và có lãi, đảm bảo và vượt mục tiêu kế hoạch đề ra của mình. Các năm 2006, 2008 và 2009 kim ngạch xuất khẩu của Công ty từng bước phát triển và thu được mức lợi nhuận cao nhất và tiếp tục đầu tư thêm vào vốn kinh doanh của mình.
Không chỉ kinh doanh có hiệu quả, công ty còn hoạt động tích cực trong lĩnh vực xúc tiến thương mại. Trong năm 2009, công ty đã đạt được từ hoạt động xúc tiến thương mại là 13.814.128.000 đồng tăng gấp 1,46 lần so với năm 2006. Nhờ vậy, Công ty đã nộp vào ngân sách nhà nước một khoản tiền không nhỏ.
Mặc dù thời gian tham gia hoạt động kinh doanh chưa phải là quá dài nhưng Công ty đã từng bước khẳng định sự vững vàng của mình trong kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh xuất nhập khẩu. Qua quá trình hoạt động, Công ty cũng đã rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm quý báu.
4.2 Tồn tại
Bên cạnh những thành tựu mà Công ty đã đạt được, trong thời gian hoạt động kinh doanh của Công ty cũng vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu:
Hoạt động kinh doanh của Công ty còn mang tính chất phi vụ, manh mún. Điều này thể hiện trong việc Công ty xuất khẩu rất nhiều mặt hàng với khối lượng nhỏ nên hiệu quả đem lại của từng mặt hàng là rất thấp. Công ty cũng chưa xây dựng được kế hoạch kinh doanh cho việc thực hiện, do vậy giữa việc đề ra kế hoạch kinh doanh và việc thực hiện còn có một khoảng cách quá xa. Nó đã dẫn đến hoạt động kinh doanh của Công ty hiện nay chủ yếu dựa vào các phi vụ mang tính bị động và thất thường.
Khả năng về tài chính và huy động vốn kinh doanh của Công ty còn yếu. Trong khi đó Công ty lại phải phân bổ vốn cho quá nhiều các mặt hàng nên hiệu quả đạt được còn thấp. Chính điều này khiến công ty gặp khó khăn trong năm 2007. Thật vậy, trong năm này, công ty đã bị lỗ vốn mất gần 5,3 tỷ đồng.
Như vậy, thời gian qua bên cạnh những ưu điểm, Công ty cũng bộc lộ những nhược điểm của mình. Điều quan trọng là công ty đã nhận thấy rõ những nhược điểm đó và đang tìm cách khắc phục.
Tóm lại, ngay từ khi mới thành lập, công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại HA đã đặt ra mục tiêu phát triển khá rõ ràng. Với số lượng nhân viên năng động, nhiệt tình có trình độ chuyên môn tốt và có tinh thần trách nhiệm cao, Công ty đã đưa ra nhiều sản phẩm với mẫu mã cũng như chất lượng phù hợp với yêu cầu của khách hàng. Chính nhờ vậy, mối quan hệ giữa công ty và các bạn hàng trong nước cũng như quốc tế ngày càng được mở rộng hơn. Không chỉ thế, trong những năm hoạt động kinh doanh, công ty đã cố gắng đưa doanh thu tăng đều thông qua việc rút kinh nghiệm những hạn chế. Có thể thấy, công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại không ngừng hoàn thiện hệ thống tổ chức, quản lý, thiết kế, sản xuất sản phẩm đến phát triển hệ thống mạng lưới kinh doanh của mình ngày càng đạt hiệu quả cao và hứa hẹn sẽ còn tiến xa hơn nữa trong tương lai.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN XNK VÀ XÚC TIẾN THƯƠNG MẠI HA
I. Giới thiệu chung hoạt động xuất khẩu của công ty cổ phần XNK và xúc tiến thương mại HA
1.1 Tỷ trọng trị giá xuất khẩu của công ty trong các năm 2006 - 2009
Trong các năm từ 2006 đến 2009, trị giá xuất khẩu của công ty liên tục tăng lên. Điều này được thể hiện qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 1: Tỷ trọng trị giá xuất khẩu so với tổng doanh thu của công ty
(Nguồn: báo cáo tài chính công ty cổ phần XNK và xúc tiến thương mại HA)
Năm 2006, trị giá xuất khẩu của công ty chiếm tới gần 63% tổng doanh thu của cả công ty. Tuy nhiên, năm 2007, công ty rơi vào tình trạng khó khăn lớn trong việc huy động vốn. Điều đó dẫn tới trị giá xuất khẩu lẫn tổng doanh của công ty đều giảm xuống. Nhưng tỷ lệ xuất khẩu trong năm này vẫn tăng so với các hoạt động sản xuất của công ty chiếm 95% trên tổng số. So với những năm trước, năm 2008 trị giá xuất khẩu của công ty đã tăng lên 1,3 lần chiếm 72%.
Có thể thấy, tỷ lệ xuất khẩu của công ty đã tăng lên cùng với sự tăng lên của tổng doanh thu. Nguyên nhân là do công ty đã biết phẩn bổ nguồn vốn hiệu quả và biết chú trọng vào các mặt hàng có khả năng thu lợi nhuận cao để xuất khẩu. Như vậy, năm 2009 trị giá xuất khẩu tăng 2,02 lần so với năm 2006. Điều này chứng tỏ hoạt động của công ty ngày càng phát triển và hoạt động một cách bình ổn.
1.2 Xuất khẩu các mặt hàng của công ty qua các năm 2006 – 2009
Bảng 4: Xuất khẩu các mặt hàng của công ty qua các năm 2006 – 2009
Đơn vị tính: USD
TT
2006
2007
2008
2009
Chỉ tiêu
Trị giá
TT
(%)
Trị giá
TT
(%)
Trị giá
TT
(%)
Trị giá
TT
(%)
1
Túi xách và quần áo da
4.426.053
56,7
2.255.310
49,5
4.595.447
53,6
5.631.938
46,7
2
Đồ gỗ
2.436.189
31,2
1.516.670
33,4
3.210.098
37,4
4.341.578
35,9
3
Hoa quả tươi
47.476
0,61
40.617
0,89
130.146
1,51
687.326
5,69
4
Hoa quả khô
18.786
0,24
20.435
0,44
121.142
1,41
572.382
4,74
5
Các sản phẩm khác
874.583
11,2
724.850
15,9
516.784
6,03
837.296
6,93
Tổng cộng
7.803.087
100
4.557.882
100
8.573.617
100
12.070.520
100
(Nguồn: Báo cáo tài chính công ty cổ phần XNK và xúc tiến thương mại HA)
Tổng kim ngạch xuất năm 2006 của công ty là 7.803.087 USD chiếm gần 63% tổng doanh thu. Đây là kết quả đáng mừng đối với công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại HA. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của công ty là các dồ da và đồ gỗ chiếm gần 56,7% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Sang năm 2007, tình hình kinh doanh xuất khẩu của công ty gặp một số khó khăn nhất định nên kim ngạch xuất khẩu của công ty giảm mạnh. Thật vậy, kết quả kinh doanh xuất khẩu của công ty giảm với tổng kim ngạch xuất khẩu còn 4.557.882 USD. Nhưng đến năm 2008, lượng hàng xuất khẩu tăng trở lại với tổng kim ngạch là 8.573.617 USD và chiếm tỉ trọng 72% tổng doanh thu. Điều đó chứng tỏ, công ty chỉ dành một phần cho xuất khẩu và vẫn chú trọng nhiều lĩnh vực khác trong nước. Điều này hoàn toàn hợp lý vì do các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu ngày càng tăng nên mức độ cạnh tranh ngày càng cao.
Đến năm 2009, công ty đã biết tận dụng khả năng của mình vào một số mặt hàng tiềm năng để phát huy hết khả năng xuất khẩu của mình. Tổng kim ngạch xuất khẩu trong năm này là 12.070.520 USD tăng gần gấp đôi so với năm 2006.
Mục tiêu của năm 2010 của công ty là tiếp tục mở rộng thị trường, mặt hàng xuất khẩu và nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu
Nhìn chung, những mặt hàng kinh doanh xuất khẩu của công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại HA đều thuộc diện khuyến khích và ưu đãi từ phía Nhà nước.
1.3 Thị trường xuất khẩu của công ty qua các năm 2006 -2009
Thị trường xuất khẩu của công ty trong thời gian qua tập trung chủ yếu ở hai nước Mỹ và Singapore. Đây là thị trường thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu vì Mỹ và Singapore là hai thị trường lớn nhất trong khu vực đồng thời cũng là thị trường lớn nhất thế giới. Thị trường này có nhu cầu đa dạng về hàng hóa được công ty khai thác một cách triệt để nhất. Ngoài ra công ty còn mở rộng thêm sang các nước khác trong khu vực và thế giới như: Nga, Đài Loan, Trung Quốc, Thái Lan,…đây cũng là những thị trường đầy triển vọng của công ty.
Bảng 5: Thị trường xuất khẩu của công ty qua các năm 2006 -2009
Đơn vị tính: USD
TT
Thị trường XK
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Trị giá
TT
(%)
Trị giá
TT
(%)
Trị giá
TT
(%)
Trị giá
TT
(%)
1
Mỹ
1.936.231
26,18
1.063.401
24,8
2.363.471
26,6
4.783.010
32,7
2
Singapore
1.325.871
17,93
937.583
21,9
1.607.575
18
2.781.236
19
3
Nga
1.237.286
16,73
707.210
16,5
1.511.431
17
2.470.140
16,9
4
Đài Loan
1.156.972
15,64
598.208
13,9
1.396.215
15,7
1.947.310
13,3
5
Trung Quốc
1.173.872
15,87
561.872
13,09
1.261.872
14,2
1.780.016
5,8
6
Các TT khác
565.627
7,65
421.032
9,81
760.565
8,54
850.345
12,2
Tổng cộng
7.395.859
100,0
4.289.306
100,0
8.901.129
100,0
14.612.057
100,0
(Nguồn: báo cáo tài chính công ty cổ phần XNK và xúc tiến thương mại HA)
Năm 2006, thị trường Mỹ đã chiếm tới gần 26,18% tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty, tiếp đó là đến thị trường Singapore với 18% và Liên Bang Nga là 17%. Tuy nhiên sang đến năm 2007, công ty gặp một số khó khăn dẫn tới tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty giảm mạnh. Đặc biệt, do nhu cầu trên một số thị trường có sự thay đổi dẫn tới kim ngạch xuất khẩu giảm sút khá mạnh.
Với sự xa sút lớn trong xuất khẩu, Công ty đã đưa ra chiến dịch tập trung chủ yếu vào các thị trường lớn và lâu năm của mình. Nhờ vậy, sang năm 2008, kim ngạch của công ty tăng mạnh và mở rộng thị trường ra một số nước như Trung Quốc, Lào, Malaysia…
Trong các năm cơ cấu kim ngạch xuất khẩu theo thị trường của công ty có sự thay đổi lớn: Năm 2008, xuất khẩu sang thị trường Mỹ tăng rõ rệt với việc đạt trị giá 2.363.471USD chiếm gần 26,6% tổng kim ngạch xuất khẩu công ty. Đến năm 2009, tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty sang các thị trường Mỹ, Singapore, Nga và Đài Loan vẫn tăng mạnh và khá ổn định.
Có thể thấy, với việc từng bước tăng mạnh vào các thị trường lớn, công ty đã tạo đà cho mình để đưa xuất khẩu ngày càng phát triển và ổn định trong các năm tiếp theo.
1.4 Các hình thức xuất khẩu của công ty
Hiện nay, công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại HA sử dụng hai hình thức xuất khẩu chính là: xuất khẩu trực tiếp và gia công xuất khẩu quốc tế.
Xuất khẩu trực tiếp:
Với hoạt động này, công ty cổ phần XNK và xúc tiến thương mại HA sẽ phải tự bỏ vốn ra mua các sản phẩm từ các đơn vị sản xuất trong nước, sau đó chế biến, đóng gói và bán sản phẩm này cho các khách hàng nước ngoài.
Khi hoạt động theo hình thức xuất khẩu trực tiếp, công ty sẽ có hiệu quả cao hơn một số hình thức xuất khẩu khác. Bởi vì công ty có thể mua được những hàng hoá có chất lượng cao, phù hợp với nhu cầu của mình cũng như của khách hàng với giá cả mua vào thấp hơn. Tuy nhiên, đây là hình thức xuất khẩu có độ rủi ro lớn, hàng hoá có thể không bán được do những thay đổi bất ngờ của khách hàng, của thị trường dẫn đến ứ đọng và đôi khi bị thất thoát hàng hoá.
Gia công xuất khẩu quốc tế:
Theo hình thức xuất khẩu này, Công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại HA đứng ra nhập nguyên nhiên vật liệu, bán thành phẩm về cho các đơn vị nhận gia công từ các khách hàng nước ngoài đặt gia công. Sau đó, đơn vị ngoại thương sẽ nhận thành phẩm từ các đơn vị nhận gia công và xuất sản phẩm này sang cho khách hàng nước ngoài đã đặt gia công. Đơn vị ngoại thương sẽ nhận được khoản tiền thù lao gia công.
Kinh doanh hoạt động xuất khẩu này, công ty không phải bỏ vốn vào kinh doanh nhưng thu hiệu quả khá cao, ít rủi ro và khả năng thanh toán đảm bảo vì đầu ra chắc chắn.
1.5 Kết quả kinh doanh xuất khẩu qua các năm 2006 - 2009
Bảng 6: Kết quả kinh doanh xuất khẩu qua các năm 2006 - 2009
Đơn vị tính: 1.000VNĐ
TT
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
2009
Trị giá
TT
(%)
Trị giá
TT
(%)
Trị giá
TT
(%)
Trị giá
TT
(%)
1
LN XK
1.886.411
75
1.759.235
54
2.701.845
77
3.581.016
82
2
Tổng LN
2.634.855
100
3.365.087
100
3.510.232
100
4.379.482
100
(Nguồn: báo cáo tài chính công ty cổ phần XNK và xúc tiến thương mại HA)
Trong các năm năm từ 2006 đến 2009, lợi nhuận của công ty liên tục tăng lên cùng với sự tăng lên của tổng lợi nhuận. Tuy nhiên, do công ty gặp khó khăn trong năm 2007, tổng lợi nhuận của xuất khẩu giảm xuống một cách đáng kể chỉ chiếm 54%. Tuy nhiên, sang năm 2008, mọi hoạt động của công đi trở lại ổn định, lợi nhuận xuất khẩu của công ty tăng đều trong các năm. Đến năm 2009, mức lợi nhuận này đạt giá trị cao nhất chiếm 82% trên tổng lợi nhuận của công ty
Năm 2008 so với năm 2006 tăng 1,43 lần tương ứng với 2.701.845.000 đồng. Năm 2009 so với năm 2006 tăng lên 1,9 lần tương ứng với 3.581.016.000 đồng.
Qua những số liệu từ phía công ty, có thể thấy kết quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu khá hiệu quả trong suốt những năm vừa qua.
II. Quy trình của hoạt động xuất khẩu của công ty cổ phần XNK và xúc tiến thương mại HA
Sơ đồ 2: Quy trình hoạt động xuất khẩu của công ty
Tìm kiếm đối tác, đàm phán, ký kết hợp đồng
Chuẩn bị hàng, kiểm tra hàng hóa, các chứng từ
Thuê phương tiện vận tải
Làm thủ tục hải quan xuất khẩu
Mua bảo hiểm hàng hóa
Thanh toán
Khiếu nại (nếu có)
(Nguồn: Công ty cố phần XNK và xúc tiến thương mại HA)
Bước 1: Tìm kiếm đối tác, đàm phán, ký kết hợp đồng
Nhìn chung, khâu tìm và lựa chọn đối tác của Công ty là khâu quan trọng nhất trong quá trình hoạt động xuất khẩu. Thật vậy, một công ty muốn mở rộng thị trường xuất khẩu không thể cứ ngồi tại chỗ chờ các khách hàng tìm đến mình. Tận dụng được điều này, công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại HA đã tự mình tiếp cận trực tiếp và đàm phán với các công ty nước ngoài, để đưa ra các quyết định kinh doanh xuất khẩu phù hợp nhất.
Tuy nhiên, quá trình tìm kiếm đối tác, đàm phán và ký kết hợp đồng xuất khẩu của công ty với khách hàng nước ngoài đều do nhân viên phòng kế hoạch kinh doanh của công ty thực hiện. Các nhân viên này thường phải thu thập và xử lý thông tin, xây dựng kế hoạch, chương trình đàm phán, luyện tập việc thực hiện các chiến thuật đàm phán cụ thể sao cho phù hợp với từng điều kiện riêng của các công ty.
Không chỉ thế, hợp đồng mua bán được ký kết giữa công ty và khách hàng thường dưới dạng hợp đồng hàng năm, tức là hai bên cùng nhau thống nhất các điều kiện và nguyên tắc chung. Sau đó, khi xuất khẩu chỉ cần phát hành đơn đặt hàng để xác định số lượng cụ thể (do phòng xuất nhập khẩu đảm nhiệm việc này). Các hợp đồng xuất khẩu thường được ký kết theo điều kiện CIF chiếm tới 80%. Điều này rất có lợi cho công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại HA vì công ty có thể chủ động kiểm soát được thời gian cũng như cước phí.
Bước 2: Chuẩn bị hàng, kiểm tra hàng hóa, chuẩn bị các chứng từ
Ban sản xuất sẽ tiến hành tổ chức sản xuất, chế biến sản phẩm theo đúng yêu cầu của hợp đồng và đơn đặt hàng (loại linh kiện, số lượng, chất lượng…)
Tập trung thành lô hàng riêng từng đối tác ứng với từng đơn đặt hàng.
Đóng gói bao bì và kẻ kí mã hiệu cho hàng hóa.
Ban kiểm tra chất lượng sẽ tiến hành kiểm tra hàng hóa tại cơ sở.
Phòng xuất nhập khẩu phát hành hóa đơn thương mại (Invoice), phiếu đóng gói (Packing list) cho những khách hàng được quản lý theo hệ thống. Sau này, khi lấy được B/L, phòng xuất nhập khẩu của công ty sẽ xin giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) do phòng quản lý xuất nhập khẩu của Bộ Công thương cấp hoặc Ban quản lý các khu công nghiệp và chế xuất Hà Nội cũng được ủy quyền cấp.
Bước 3: Thuê phương tiện vận tải
Hiện nay, Công ty sử dụng hai loại phương tiện chuyên chở chính là tàu biển và máy bay, nhưng chủ yếu vẫn bằng tàu biển chiếm đến 90%. Khi thuê tàu, công ty thường lựa chọn những hàng tàu VINASHIN; NYK;…
Trước tiên, nhân viên phòng xuất nhập khẩu của công ty sẽ phụ trách việc gọi báo giá từ một số hãng tàu, sau đó cả phòng sẽ họp lại, cùng nhau so sánh yếu tố giá cũng như chất lượng dịch vụ để lựa chọn hãng tàu tốt nhất. Chất lượng dịch vụ của một hãng tàu bao gồm nhiều yếu tố như: thời gian vận chuyển, tần suất tàu ra vào, loại tàu, kích cỡ tàu, tuổi tàu, thương hiệu của hãng tàu, cách truyền đạt thông tin khi có sự cố, thiện chí giải quyết khi có khiếu nại… Căn cứ quan trọng nhất khi lựa chọn hãng tàu của công ty chính là thương hiệu của hãng tàu đó.
Sau khi đã lựa chọn hãng tàu phù hợp, trưởng phòng xuất nhập khẩu sẽ liên lạc với hãng tàu để đàm phán việc thuê tàu. Sau đó, trưởng phòng sẽ trình lên phó giám đốc phụ trách quản lý phòng ban để tiến hành ký kết hợp đồng thuê tàu với hãng đó trong một thời gian nhất định, trong hợp đồng này chỉ quy định những nguyên tắc và xác nhận về giá. Đến thời gian đã thông báo vận chuyển hàng hóa, công ty chỉ việc liên hệ với hãng tàu, chuyển hàng đến cảng và làm thủ tục giao hàng với tàu.
Bước 4: Làm thủ tục hải quan xuất khẩu
Trước đây, mọi thủ tục hải quan đều do phòng xuất nhập khẩu đảm nhiệm nhưng hiện nay, do số lượng hàng hóa xuất khẩu ngày càng lớn nên để thuận tiện trong quá trình xuất khẩu, công ty đã chọn phương án thuê đại lý làm thủ tục khai báo hải quan. Phòng XNK chỉ làm công tác chuẩn bị, kiểm tra tính hợp pháp của bộ chứng từ cùng các giấy tờ cần thiết và trình trưởng phòng kế hoạch ký, sau đó cử người theo dõi, giám sát thời gian làm thủ tục hải quan mà thôi.
Cụ thể bao gồm:
Phát hành hóa đơn thương mại, phiếu đóng gói, kê khai tờ khai hải quan (2 bản) để đi mở ở hải quan Bắc Thăng Long.
Sau các bước truyền tin vào hệ thống hải quan, lấy số, trình bộ hồ sơ đầy đủ cho hải quan, được hải quan tiếp nhận hồ sơ sẽ đến bước kiểm hóa. Nếu được miễn kiểm thì công ty sẽ tự niêm phong kẹp chì rồi chuyển xuống cảng luôn. Còn nếu phải kiểm hóa thì công ty sẽ đóng hàng hóa chuyển xuống chi cục hải quan kiểm và sau đó hải quan sẽ niêm phong kẹp chì hàng hóa. Sau khi kiểm hóa, hải quan sẽ gửi phong bì niêm phong cho công ty, bên trong có tờ khai hải quan và đơn chuyển cửa khẩu.
Đến cảng Hải Phòng, giao hàng hóa, tờ khai hải quan và đơn chuyển cửa khẩu cho hãng tàu để họ làm thủ tục xếp hàng lên tàu và xuất khẩu.
Sau khi xếp hàng xong, thuyền trưởng giao B/L cho nhân viên phòng XNK.
Tờ khai hải quan do hải quan cảng giữ để làm thủ tục thực xuất ngay tại cảng. Phải trình một bộ chứng từ copy bao gồm hóa đơn thương mại, phiếu đóng gói, B/L, tờ khai hải quan… Hải quan cảng sẽ xác nhận thực xuất lên tờ khai hải quan và chuyển cho hãng tàu, hãng tàu trả lại tờ khai đó cho chủ hàng.
Bước 5: Mua bảo hiểm hàng hóa
Công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại HA mua bảo hiểm của Công ty Bảo Hiểm Việt Nam (Bảo Việt) theo hình thức bảo hiểm bao (Open Policy). Công ty mua bảo hiểm ký hợp đồng từ đầu năm, còn đến khi giao hàng xuống tàu xong, Công ty chỉ gửi đến Bảo Việt một thông báo bằng văn bản gọi là “giấy báo bắt đầu vận chuyển”. Hình thức hợp đồng bảo hiểm này được Công ty sử dụng vì Công ty là một doanh nghiệp xuất khẩu thường xuyên, và nhiều lần trong một năm.
Bước 6: Thanh toán
Đồng tiền thanh toán chủ yếu là USD. Phương thức thanh toán thông thường nhất là thanh toán bằng T/T. Phòng kinh doanh cử một nhân viên mang bộ chứng từ đã xuất hàng đến ngân hàng Vietcombank để được nhận tiền thanh toán do đối tác chuyển vào tài khoản của công ty.
Bước 7: Khiếu nại (nếu có)
Khi thực hiện hợp đồng xuất khẩu, nếu công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại HA bị khiếu nại đòi bồi thường, cần phải có thái độ nghiêm túc, thận trọng trong việc xem xét yêu cầu của khách hàng. Việc giải quyết phải khẩn trương kịp thời có tình có lý.
Nếu khiếu nại của khách hàng có cơ sở, công ty sẽ giải quyết bằng những phương pháp sau:
Thứ nhất, nếu do sơ xuất mà công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại HA đã giao hàng thiếu cho phía đối tác. Sau khi được kiểm tra đầy đủ, Công ty sẽ phải bù lại số lượng hàng giao thiếu trong một thời gian sớm nhất có thể.
Thứ hai, trong số hàng được vận chuyển cho đối tác bên nước ngoài có những lô hàng không đạt chất lượng theo yêu cầu của bên đối tác nằm lẫn trong các lô hàng chất lượng. Sau khi có biên bản giám định hàng, công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại HA sẽ phải giao lại bằng số hàng tốt hoặc bồi thường bằng tiền cho phía khách hàng nước ngoài. Ngoài ra, công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại HA cũng có thể giảm giá lô hàng kém chất lượng đó.
III. Đánh giá thực trạng xuất khẩu của công ty cổ phần XNK và xúc tiến thương mại HA
3.1 Ưu điểm
Trong suốt những năm vừa qua, với sự cố gắng của từng cán bộ nhân viên, Công ty cổ phần XNK và xúc tiến thương mại HA đã đạt được một số ưu điểm nhất định:
Kim ngạch xuất khẩu năm 2009 đạt gần gấp đôi so với năm 2006. Điều đó chứng tỏ hoạt động xuất khẩu của công ty ngày càng phát triển. Nhờ việc khắc phục những khó khăn của năm trước, lợi nhuận thu được của công ty năm 2009 là hơn 4 tỷ đồng.
Qua thời gian hoạt động, Công ty cổ phần XNK và xúc tiến thương mại HA đã từng bước tạo lập uy tín trong kinh doanh. Hiện nay, bạn hàng và khách hàng trong nước công ty đã tạo được uy tín trong kinh doanh ở một số tỉnh , thành phố như Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh, Lạng Sơn... Đối với quan hệ kinh doanh thương mại quốc tế, Công ty đã tạo được niềm tin với các khách hàng như Mỹ, Singapore, Nga, Trung Quốc... Điều đó đã giúp công ty mở rộng thêm một số thị trường tiềm năng mới.
Trong thời gian qua, Công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại HA vừa dự đoán tình hình, vừa nắm bắt các thông tin về thị trường xuất khẩu của nước ta và thế giới, tranh thủ được sự giúp đỡ của các ngành, các tổ chức liên quan, các thương vụ của Việt Nam ở nước ngoài và vừa chủ động ứng phó trong giao dịch, tìm hiểu khách hàng, nắm bắt thời cơ…nên số lượng xuất khẩu các năm tăng đều.
Công ty luôn tuân thủ các quy định của Nhà nước, đảm bảo hoạt động kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật; đóng góp một phần đáng kể vào ngân sách Nhà nước.
Quá trình thực hiện hợp đồng đã được đẩy nhanh tốc độ, đảm bảo thực hiện hợp đồng và những điều khoản ký kết. Điều này tạo uy tín của Công ty trên thị trường trong và ngoài nước.
3.2 Nhược điểm
Bên cạnh những thành tựu mà Công ty đã đạt được, thời gian qua hoạt động kinh doanh của Công ty còn nhiều hạn chế, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu, đó là:
Hoạt động xuất khẩu của công ty còn yếu, biểu hiện ở thị trường xuất khẩu còn hạn hẹp, manh mún, chất lượng hàng xuất khẩu chưa cao. Bên cạnh đó, công ty cũng chưa có biên pháp cụ thể nhằm thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng chủ lực.
Công tác nghiên cứu thị trường của công ty còn yếu, công ty chưa chú trọng đầu tư nghiên cứu thị trường một cách triệt để đúng hướng. Chỉ ngừng lại ở việc giới thiệu các mặt hàng ra nước ngoài, do đó hiểu quả kinh doanh chưa cao.
Một số bước trong quy trình hoạt động xuất khẩu của công ty đôi khi gặp khó khăn do một số nhân viên không tập trung khi thực hiện. Điều đó dẫn tới việc công ty đôi khi gặp rắc rối trong vấn đề khiếu nại giữa chủ tàu và đối tác kinh doanh bên nước ngoài.
Các mặt hàng xuất khẩu của công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại HA còn kém sức cạnh tranh so với những nước xuất khẩu lớn trên thế giới.
Công ty đã tạo dựng được thị trường ổn định ở châu Á, một số nước ở châu Mĩ Latinh. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu của Công ty vẫn thiếu một chiến lược thị trường đối với các thị trường lớn. Do khả năng tài chính và nhiều mặt khác còn hạn chế nên có một số yêu cầu của khách hàng về mua trả chậm 1- 2 năm nhưng Công ty đều không thực hiện được.
Trình độ, kinh nghiệm của cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu còn chênh lệch so với đối tác nước ngoài. Đội ngũ cán bộ Công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại HA mặc dù đã được đào tạo và đào tạo lại một cách cơ bản, nhưng do kinh nghiệm thực tế còn thiếu đã cản trở họ trong việc giao dịch, kí kết hợp đồng với các đối tác nước ngoài.
Hoạt động marketing xuất khẩu của công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại HA vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Thật vậy, Công ty chưa xây dựng được các chính sách cũng như các chương trình Marketing cụ thể, lâu dài và chưa thành lập được bộ phận Marketing riêng biệt. Ngoài ra, công ty chưa có những chiến lược cụ thể cho sự phát triển marketing của mình.
Tóm lại, hoạt động xuất khẩu của công ty cổ phần XNK và xúc tiến thương mại HA đạt được khá nhiều thành công với việc doanh thu xuất khẩu chiếm tới 74% tổng doanh thu của cả công ty. Nhờ vậy, lợi nhuận kinh doanh xuất khẩu của công ty cũng tăng lên nhanh chóng trong các năm. Bên cạnh đó, công ty đã mở rộng vào một số thị trường tiềm năng để phát triển thị phần của mình. Hơn thế, công ty tập trung khá nhiều vào quy trình thực hiện xuất khẩu nhằm hạn chế những rủi ro xảy ra trong quá trình vận chuyển, hoặc những khó khăn dẫn tới chậm ngày giao hàng đối với đối tác. Có thể thấy, hoạt động xuất khẩu của công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại HA được thực hiện một cách rõ ràng và nghiêm chỉnh. Với những thành tích đã đạt được, công ty hứa hẹn một bước phát triển không ngừng trong các năm tới.
CHƯƠNG III. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ XUẤT KHẨU CHO CÔNG TY CỔ PHẦN XNK VÀ XÚC TIẾN THƯƠNG MẠI HA
I. Định hướng hoạt động xuất khẩu của công ty cổ phần XNK và xúc tiến thương mại HA
1.1 Dự báo về kim ngạch xuất khẩu trong các năm tới
Trong nhưng ngày đầu của năm 2010, hầu hết lượng hàng xuất khẩu đều tăng mạnh, riêng đối với các sản phẩm đồ da và đồ gỗ tăng lên nhanh chóng. Thật vậy, ngay trong quý đầu năm 2010, lượng hàng xuất khẩu làm bằng da và các sản phẩm đồ gỗ chiếm gần 45% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả công ty.
Tuy nhiên, trong năm 2010, một số công ty đối thủ cạnh tranh với công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại HA đang có xu hướng vào một số mặt hàng như: quặng sắt, dầu thô, xăng dầu và một số mặt hàng có tỷ trọng lớn ở nhiều nước nhập khẩu trên thế giới.
Do vậy, công ty đang có kế hoạch mở rộng xuất khẩu một số mặt hàng này nhằm tăng lợi nhuận và mở rộng ra nhiều thị trường khác.
1.2 Dự báo thị trường xuất khẩu trong các năm tới
Trong 6 tháng đầu năm 2010, hầu hết lượng hàng xuất khẩu đi các nước từ công ty đều tăng, riêng thị trường Mỹ vẫn là nước đứng ở vị trí số 1 với tỷ trọng xuất khẩu chiếm 40% tổng giá trị xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này tăng gần 25% so với cùng kỳ năm ngoái. Đứng thứ 2 là thị trường Singapore với kim ngạch xuất khẩu tăng gần 20% so với tháng 6 năm 2009. Hai thị trường Mỹ và Singapore có kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng đồ da và hoa quả lớn nhất trong các thị trường xuất khẩu của công ty.
Bên cạnh đó, tại thị trường Trung Quốc và Nga, dự báo trong thời gian tới, hai thị trường này sẽ tăng cường nhập khẩu những mặt hàng may mặc, thép, dầu thô, xăng dầu. Trong đó, dầu thô, thép, và xăng dầu được dự báo là có tốc độ tăng nhập khẩu cao (60-70% trong giai đoạn 2010 – 2012 và 80% trong giai đoạn 2013 – 2015). Chính điều này thúc đẩy công ty cổ phần XNK đang có xu hướng mở rộng một số mặt hàng để xuất khẩu nhằm thu hút nhiều thị trường mới
Từ những dự báo thị trường và kim ngạch xuất khẩu trong năm tới, công ty có thể đưa ra các dự kiến để tìm giải pháp thúc đẩy hiệu quả xuất khẩu. Đặc biệt, những dự báo của công ty đề ra giúp công ty có khả năng mở rộng thêm thị trường và các mặt hàng xuất khẩu phong phú hơn.
II. Một số cơ hội và thách thức đối với công ty
2.1 Cơ hội
Trên cơ sở hoạt động kinh doanh đã đạt được trong những năm qua, đồng thời xuất phát từ thực trạng của Công ty cũng như bối cảnh chung của đất nước và thế giới, một số cơ hội mà công ty cổ phần XNK và xúc tiến thương mại HA có thể đạt được là:
Thứ nhất, Công ty có thể tăng cường buôn bán với các nước trong khu vực, mở rộng thêm quan hệ hợp tác với các nước Châu Mỹ và tiếp cận vào thị trường Châu Âu. Bên cạnh đó, công ty có thể khai thác thêm nhiều mặt hàng mới phong phú và chất lượng để đáp ứng yêu cầu các nước trên thế giới
Thứ hai, Công ty cổ phần XNK và xúc tiến thương mại HA có thể đầu tư liên doanh liên kết với các cơ sở cung cấp sản phẩm, tạo nguồn hàng xuất khẩu ổn định. Đặc biệt, công ty còn có cơ hội để khai thác và tận dụng nguồn đầu tư nước ngoài để tăng nguồn lực tài chính của mình.
Cuối cùng, Công ty có cơ hội từng bước nâng cao hiệu quả các nghiệp vụ hoạt động xuất khẩu qua việc đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm chất lượng ra các nước trên thế giới.
2.2 Thách thức
Để đạt được cơ hội trước mắt, những thách thức đặt ra cho Công ty cổ phần XNK và xúc tiến thương mại HA trong thời gian tới chủ yếu tập trung theo hướng:
Đầu tiên, công ty sẽ phải tiếp tục khai thác có hiệu quả hơn các nguồn sản phẩm trong cả nước, chủ trương xuất khẩu các sản phẩm chất lượng cao để đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu định mức đã đề ra.
Bên cạnh đó, Công ty còn phải tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu, làm tốt công tác tổ chức thị trường và xúc tiến thương mại, hỗ trợ các doanh nghiệp nước ngoài để có thể dễ dàng tìm kiếm đối tác kinh doanh xuất khẩu.
Ngoài ra, trong cơ chế thị trường, với chính sách khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu, công ty cổ phần XNK và xúc tiến thương mại HA phải chịu một sức ép cạnh tranh lớn từ các doanh nghiệp trong nước, Do vậy, vậy, việc chiếm lĩnh thị và tiêu thụ sản phẩm là rất khó khăn và bất lợi.Vì vậy, công ty cần phải nâng cao chất lượng hàng hóa xuất khẩu ngay từ khâu thu gom.
Tóm lại, việc đánh giá đúng những cơ hội và thách thức trong những năm tới đóng một vai trò quan trọng cho sự phát triển của công ty ngay từ bây giờ. Thật vậy, nhờ những thách thức và cơ hội, công ty có thể rút được kinh nghiệm và tập trung vào phát triển từng khâu của hoạt động xuất khẩu.
III. Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của công ty cổ phần XNK và xúc tiến thương mại HA
3.1. Các biện pháp về phía công ty
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu tiếp cận thị trường xuất khẩu
Trong cơ chế thị trường hiện nay, tình hình thị trường luôn luôn biến động đã tạo ra các cơ hội, cũng như những rủi ro cho các doanh nghiệp. Điều này lại càng được khẳng định đối với lĩnh vực hoạt động xuất khẩu, vì phạm vi thị trường vượt khỏi biên giới quốc gia. Chính vì vây, các doanh nghiệp ngày nay không thể không thường xuyên nghiên cứu- tiếp cận thị trường và đặc biệt là thị trường xuất khẩu. Qua thời gian thực tập tại Công ty cổ phần XNK và xúc tiến thương mại HA, em nhận thấy: Công ty hình như còn rất bị động trước những biến đổi của thị trường xuất khẩu. Do đó, trong thời gian tới Công ty nên quan tâm hơn nữa đến hoạt động nghiên cứu thị trường. Các công việc có thể được thực hiện là:
Công ty cần phải khẩn trương hình thành một nhóm (hay phòng ban) chuyên nghiên cứu thị trường xuất khẩu với các nhân viên am hiểu về marketing xuất khẩu.
Bên cạnh đó, công ty cũng phải tích cực quan hệ với các cơ quan thông tin về xuất khẩu như phòng Thương mại Việt Nam, Bộ Thương mại, Đài phát thanh và truyền hình, các viện nghiên cứu về các nước và Châu lục, các đại sứ quán của Việt Nam tại nước ngoài.
Ngoài ra, công ty có thể lập các văn phòng đại diện tại các thị trường xuất khẩu mà công tky cho là có triển vọng và thuận lợi để thu thập các thông tin cập nhật tại các thị trường đó. Chẳng hạn như Công ty nên lập các văn phòng đại diện tại Mỹ, Singapore, Liên Bang Nga ...
Mục đích của các biện pháp này là để nắm được các thông tin liên quan đến thị trường xuất khẩu của Công ty để tìm ra các cơ hội phù hợp với công ty. Chính nhờ các biện pháp này Công ty có thể nắm bắt nhanh, kịp thời, chính xác tình hình các thị trường xuất khẩu nhất định để qua đó tìm ra các cơ hội tốt nhất cho công ty.
Đẩy mạnh hoạt động Marketing xuất khẩu
Marketing xuất khẩu rất cần thiết đối với mọi quốc gia cũng như đối với các doanh nghiệp. Nó đòi hỏi những hiểu biết khác với ở trong nước, mặc dù sự khác nhau nhiều lúc về trình độ hơn là về tính chất. Hơn nữa, những hiểu biết đó cùng với khả năng riêng biệt kết hợp với kinh nghiệm trở thành những nhân tố quyết định đối với sự thành công của công ty. Hiện nay, hoạt động Marketing của Công ty cổ phần XNK và xúc tiến thương mại HA còn rất yếu:
Công ty cần phải xác định mục tiêu đối với hoạt động xuất khẩu của công ty: đó là những mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn với sự tối đa hoá lợi nhuận thu được, không ngừng tìm cách xâm nhập các thị trường mới nhằm mở rộng phạm vi hoạt động của công ty trên thị trường quốc tế. Những tiêu chuẩn cụ thể mà công ty đưa ra để đáng giá sự phát triển là doanh thu xuất khẩu, lợi nhuận xuất khẩu và thị phần của công ty trên mỗi loại thị trường.
Dựa trên cơ sở những mục tiêu đã xác định, công ty xây dựng các chương trình hoạt động Marketing xuất khẩu bao gồm việc triển khai cả chiến lược và chiến thuật Marketing MIX
Sử dụng các khả năng của công ty để thực hiện Marketing MiX
Trong 4 nhân tố của Makerting Mix là sản phẩm, giá cả, phân phối và xúc tiến ở công ty, vấn đề đáng nói nhất là các chính sách về xúc tiến khuếch trương. Hàng hoá muốn xuất khẩu được nhiều thì phải tích cực làm công tác này vì nó tác động rất lớn hành vi của người mua (người nhập khẩu) và mục tiêu là thông tin cho khách hàng tiềm năng (bao gồm cả người trung gian) về hàng hoá để thuyết phục họ trở thành người mua hàng của công ty. Các hình thức xúc tiến bán hàng Công ty nên áp dụng là gửi Cataloge ra nước ngoài, tham gia hội chợ hàng tiêu dùng ở nước ngoài hoặc trực tiếp tiếp thị tới từng doanh nghiệp tại nước ngoài. Ngoài ra công ty còn có thể sử dụng hình thức gửi hàng mẫu qua các bưu điện cho các khách hàng quan tâm nhằm cung cấp cho họ nhận biết và hình dáng, chất lượng hương vị của hàng hoá. . . .
Công ty cần mở rộng hệ thống các cửa hàng giới thiệu sản phẩm ở trong nước và ngoài nước. Thông qua các cửa hàng này, khả năng xâm nhập thị trường của công ty sẽ tăng lên. Các cửa hàng giới thiệu sản phẩm ở nước ngoài công ty phải chọn địa điểm và hình thức bố trí phù hợp nhằm thu hút được nhiều nhất lượng khách hàng.
Tập trung vào các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu.
Hiện nay, công ty cổ phần XNK và xúc tiến thương mại HA vẫn theo đuổi chủ trương đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu để tận dụng các cơ hội của thị trường khi cần thiết. Công ty nên tập trung vào vài mặt hàng có triển vọng nhất và quyết tâm theo đuổi ý đồ này thì hơn. Bởi vì thực tế trong thời gian qua công ty đã xuất khẩu tương đối nhiều mặt hàng nhưng lại không đạt về chỉ tiêu khối lượng mà chất lượng của từng mặt hàng nên hiệu quả đạt được chưa cao hơn. Hơn nữa, với khả năng tài chính như hiện nay thì việc ôm đồm quá nhiều mặt hàng là vượt quá khả năng. Vả lại, nhiều khi lo quá sa đà vào nhiều mặt hàng dẫn đến việc phân bố các nguồn lực cho từng mặt hàng không đủ mạnh làm cho không mặt hàng nào đem lại hiệu quả như mong muốn. Chính vì những lý do này mà việc tập trung vào những mặt hàng có thế mạnh là rất cần thiết cho công ty. Sau khi Công ty đã có thế lực đủ mạnh thì việc thực hiện chiến lược đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu cũng chưa muộn.
Để thực hiện được ý đồ này, công ty nên thu thập thông tin về tình hình xuất khẩu của Việt Nam để biết được mặt hàng nào là những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu, mặt hàng nào còn ít được xuất khẩu, mặt hàng nào chưa được xuất khẩu. Đồng thời công ty cũng cần có thông tin về tình hình thị trường xuất khẩu như mặt hàng xuất khẩu nào của Việt Nam đã xuất hiện trên thị trường xuất khẩu nào, khối lượng xuất khẩu và khả năng xuất khẩu dự đoán, mặt hàng nào có nhu cầu nhưng ít được xuất khẩu…tình hình cạnh tranh và khả năng tham gia. Qua sự phân tích này, công ty sẽ phán đoán được tình hình và sự tiến triển của các mặt hàng xuất khẩu, qua đó tìm ra cho mình mặt hàng xuất khẩu phù hợp để lập kế hoạch xuất khẩu và thực hiện kế hoạch này.
Không ngừng nâng cao uy tín của công ty
Về nâng cao uy tín của công ty có thể trực tiếp liên quan đến việc thực hiện một hợp đồng xuất khẩu hoặc cũng có thể tác động gián tiếp đến hoạt động xuất khẩu của công ty. Hiện nay, có rất nhiều các hoạt động để nâng cao uy tín cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc lựa chọn hình thức nào là rất quan trọng đảm bảo phù hợp với khả năng hiện tại của công ty. Sau đây là một số biện pháp công ty nên áp dụng nhằm nâng cao uy tín của mình trong hoạt động xuất khẩu:
Thực hiện tốt và đầy đủ các cam kết đã thoả thuận trong các hợp đồng xuất khẩu. Hiện nay có một vấn đề là công ty thường ít quan tâm đến những hiêụ ứng sau khi bán hàng. Vì vậy, nhiều khi công ty không quan tâm đến việc làm tốt và đầy đủ các cam kết trong hợp đồng. Có thể thấy, thực hiện hợp đồng xuất khẩu là một quá trình trong đó nhà xuất khẩu cung cấp một loại hàng hoá dịch vụ nào đó cho nước ngoài theo đúng những điều đã quy định trong hợp đồng. Nói chung, khách hàng sẽ rất hài lòng khi họ nhận được hàng hoá có chất lượng đúng nhu cầu có khối lượng như đã thoả thuận . Ngoài ra, nếu có các điều kiện khác được thuận lợi thì các làm cho khách hàng hài lòng thực hiện các hợp đồng xuất khẩu, công ty nên quan tâm đên các vấn đề sau:
Chuẩn bị hàng hoá đúng chất lượng và khối lượng quy định. Để thực hiện yêu cầu này, công ty nhất thiết phải am hiểu hàng hoá, chọn được nguồn hàng có uy tín
Có kế hoạch thu gom hàng hoá, vận chuyển hàng hoá hợp lý: Công ty nên đề ra kế hoạch về thời gian thu gom và vận chuyển hàng hoá phù hợp. Điều đó có nghĩa là công ty phải căn cứ vào thời gian thực hiện hợp đồng đã ký kết với khách nước ngoài để lên kế hoạch thu mua va chuẩn bị hàng hoá.
Bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho cán bộ xuất nhập khẩu.
Trình độ cán bộ công nhân viên trong công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại HA là một trong những nguồn lực cơ bản của công ty. Công ty đi lên như hiện nay là nhờ có đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ tinh thông về nghề nghiệp, nhiệt tình với hết khả năng và trách nhiệm của mình.
Hàng năm, thông qua hệ thống kiểm tra tuyển dụng và bổ nhiệm, công ty có tuyển thêm một số cán bộ trẻ có bằng cấp, có trình độ, thực sự am hiểu về nghiệp vụ, về thị trường, có phương pháp đánh giá và tư duy tốt.
Vì vậy, để đảm bảo cho công ty có được đội ngũ cán bộ không bị lạc hậu về trình độ thì hàng năm công ty phải cử một số cán bộ đi học các lớp bồi dưỡng kiến thức ngắn hạn do các giáo sư, tiến sĩ trực tiếp giảng dạy.
Ngoài ra, công ty cũng cần có chính sách khuyến khích lợi ích vật chất, tinh thần để động viên các cán bộ công nhân viên làm công tác xuất nhập khẩu, sử dụng cơ chế khoán có quản lý sẽ khuyến khích được cán bộ nhân viên tích cực tham gia kinh doanh, tạo sự tương đối công bằng trong thu nhập và thực hiện nhiệm vụ. Công ty cần tiếp tục hoàn thiện hơn nhất là ở khâu thực hiện chỉ tiêu và gắn bó chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu.
3.2 Một số kiến nghị với Nhà nước
Để khuyến khích hoạt động xuất khẩu, nâng cao uy tín hàng hoá Việt Nam trên thị trường Quốc tế, để kim ngạch xuất khẩu là phần đóng góp lớn vào ngân sách Nhà nước, chính phủ cần quan tâm đến một số giải pháp sau:
Đảm bảo sự ổn định kinh tế vĩ mô
Sự ổn định kinh tế vĩ mô trước hết phải hiểu là sự ổn định về các chính sách tài chính, thương mại, đầu tư, tiền tệ. Đó cũng là một trong những điều kiện tạo sự ổn định và quan tâm cho các nhà đầu tư, các công ty. Vì vậy Nhà nước cần:
Ổn định tỷ giá hối đoái phù hợp với sức mua thực tế của đồng tiền: điều này sẽ thúc đẩy xuất khẩu và điều tiết được xuất khẩu. Sự điều tiết này sẽ làm hạn chế hay tạo cơ hội tham gia hoạt động xuất khẩu của công ty đến chiến lược đa dạng hoá mặt hàng, thị trường kinh doanh của công ty.
Duy trì và ổn định chế độ kinh tế mở cửa ở Việt Nam, có sự kiểm soát và điều tiết của Nhà nước, hình thành thị trường đồng bộ, thông suốt, gắn nước ta với kinh tế và thị trường thế giới, thể hiện trong cả sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý. Do vậy, phát triển nền kinh tế hướng về xuất khẩu vừa coi trọng thị trường trong nước với nhiều thành phần kinh tế khác là một vấn đề cần quan tâm hiện nay.
Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý xuất khẩu theo hướng đơn giản hơn, thông thoáng hơn, phù hợp với cơ chế thị trường.
Những quy định về xuất khẩu và các hàng rào thương mại là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động xuất nhập khẩu. Để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu ở nước ta, hệ thống các chính sách và quy định xuất khẩu của Nhà nước phải được đổi mới và hoàn thiện. Cụ thể là:
Hệ thống các văn bản pháp lý: các quy định phải đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán trong việc khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia sản xuất hàng xuất khẩu để tạo nguồn hàng ổn định, lâu dài cho các công ty liên doanh xuất khẩu, tránh tình trạng khuyến khích xuất khẩu một mặt hàng nào đó nhưng lại không khuyến khích sản xuất mặt hàng đó.
Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu: Trên thực tế, công tác quản lý xuất nhập khẩu của Nhà nước còn một số mặt bất cập với điều kiện của hoạt động xuất khẩu, nhiều khi có không ít những thiếu sót và nhược điểm cần khắc phục.
Hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu
Đầu tư vốn công nghệ cho sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu. Hiện nay, hàng xuất khẩu của chúng ta chủ yếu là hàng thô, hàng qua sơ chế. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả xuất khẩu, Nhà nước cần khuyến khích đầu tư khoa học và công nghệ vào sản xuất, nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh cho các đơn vị kinh tế nhằm tạo ra nguồn hàng phong phú và đa dạng đảm bảo cho xuất khẩu, cần tập trung tiếp thu chuyển giao công nghệ tiên tiến thích hợp từ nước ngoài, chú ý hạn chế các công nghệ sản xuất gây tốn năng lượng, nguyên liệu và gây ô nhiễm môi trường, góp phần nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm.
Phát triển nguồn nhân lực cho khoa học và công nghệ sản xuất hàng xuất khẩu bằng cách tổ chức các trường lớp đào tạo về kỹ thuật quản lý ở trình độ cao nhằm tạo ra các cán bộ nắm vững công nghệ sản xuất mới, kinh doanh giỏi, có khả năng nắm bắt cái tiên tiến, cải tạo cái cũ làm hạt nhân cho các cơ sở sản xuất.
Tóm lại, từ việc đưa ra các cơ hội cũng như thách thức đồng thời với việc dự báo các hoạt động xuất khẩu trong năm tới, em đã đề cập ra một số giải pháp nhằm thúc đấy hiệu quả của hoạt động xuất khẩu cho công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại HA. Những biện pháp này không chỉ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu mà còn đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu của công ty hàng năm, mà còn ngày càng nâng cao uy tín và vị thế của công ty trên thị trường quốc tế.
KẾT LUẬN
Với điều kiện nền kinh tế hiện nay, hoạt động xuất khẩu là một vấn đề hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp liên doanh xuất nhập khẩu, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải phát huy được tính chủ động, sáng tạo, nghiên cứu khảo sát thị trường và định hướng cho hoạt động kinh doanh phát triển bền vững, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Trong xu thế quốc tế hóa hiện nay, vấn đề này càng trở nên cấp thiết. Khi đó, doanh nghiệp nào có hệ thống xuất khẩu mạnh hơn sẽ là người chiến thắng. Công ty cổ phần XNK và xúc tiến thương mại HA trong những năm hoạt động đã nỗ lực vươn lên và đạt được một số thành tựu trong hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Tuy nhiên, Công ty vẫn còn gặp phải rất nhiều khó khăn do nhu cầu khắt khe của thị trường ngày càng cao. Để đạt mục tiêu duy trì và phát triển lâu dài Công ty nên có chiến lược kinh doanh dài hạn, nghiên cứu nhu cầu của thị trường để có các quyết định chính xác kịp thời, đồng thời phải có các chính sách Marketing phù hợp cho các hoạt động kinh doanh trong nước và kinh doanh xuất khẩu.
Trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu của công ty, Báo cáo đã đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống hoạt động xuất khẩu và tăng cường vị thế của công ty. Tuy nhiên, do kinh nghiệm và thời gian còn hạn chế nên Báo cáo này không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô để đề tài này có thể hoàn chỉnh hơn.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Trần Sỹ Lâm, giảng viên trường đại học Ngoại Thương và các cán bộ công nhân viên của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại HA đã giúp đỡ em trong thời gian thực tập giữa khóa và hoàn thành báo cáo này.
Em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình ký thuật nghiệp vụ ngoại thương – Vũ Hữu Tửu – Nhà xuất bản Giáo dục.
2. Marketing essentials – Philip Kotler – Nhà xuất bản Lao động xã hội.
3.
4.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tìm hiểu hoạt động xuất khẩu của công ty cổ phần xuất nhập khẩu và xúc tiến thương mại HA.docx