Ngoại ngữ là cửa sổ để tiếp cận nền văn hoá của đối tác và cũng là
phương tiện giao tiếp hàng đầu đối với doanh nghiệp. Trong các ngôn ngữ
khác nhau, có loại ngôn ngữ đã phát triển ngôn ngữ kinh doanh và đạt được
trình độ chính xác cao, có ngôn ngữ chưa phát triển các thuật ngữ và cách
biểu đạt chính xác về khoa học, công nghệ hay thương mại nên phải rất thận
trọng để tìm cách biểu đạt chuẩn xác nhất trong hợp đồng.
82 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3554 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu tác động của văn hoá đến việc kinh doanh của một số công ty xuyên quốc gia (TNCS) và bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ũng góp phần đáng kể làm thay đổi cơ cấu sản phẩm của tập đoàn
PepsiCo, đồng thời tiết kiệm được rất nhiều chi phí quản lý, đặc biệt là chi
phí hành chính và chi phí kinh doanh khác thông qua tối ưu hoá các hoạt
động, quy trình sau khi sáp nhập. Quy mô doanh thu của PepsiCo đã vượt
đối thủ đáng gờm là Coca Cola và giá cổ phiếu của PepsiCo năm 2002 đạt
mức kỷ lục sau hơn 100 năm thành lập: 53,5 đô la/cổ phiếu.
Hiện nay, bên cạnh nhãn hiệu Pepsi trị giá hàng tỷ đô la, PepsiCo
còn sở hữu nhiều thương hiệu nước giải khát lừng danh khác như Mirinda,
7 Up, Moutain Dew. Phương châm kinh doanh của PepsiCo là
“Performance with Purpose” tức là vừa hướng tới những thành công trong
kinh doanh nhưng cũng vừa thực hiện tốt trách nhiệm xã hội và trách
nhiệm về môi trường.
53
3.2. Tình hình kinh doanh
PepsiCo là một trong những tập đoàn đứng đầu thế giới về nước giải
khát và thực phẩm với khoảng 185.000 nhân viên trên toàn thế giới, doanh thu
hàng năm đạt trên 39 tỷ đô la. Sản phẩm của PepsiCo có mặt trên các thị
trường châu Âu, Trung Đông, châu Á , châu Phi và Úc, phục vụ khoảng 86%
dân số thế giới. Tính đến cuối năm 2008, PepsiCo có tất cả 18 nhãn hiệu lớn
với doanh thu bán lẻ hàng năm đều đạt trên 1 tỷ đô la, trong đó nước giải khát
Pepsi vẫn đem về doanh thu cao nhất.1
2008 là năm kinh tế toàn cầu suy thoái nhưng PepsiCo vẫn đạt những
bước tiến đáng kể trong kinh doanh nhờ việc luôn hướng đến cung cấp các
sản phẩm đồ ăn và đồ uống sao cho phù hợp với mọi lứa tuổi, đồng thời
không ngừng đổi mới nhãn hiệu của mình. Cũng trong năm này, PepsiCo tiến
hành một cuộc cải tổ lớn với việc thay đổi logo, đồng thời nhấn mạnh niềm
vui, sự lạc quan và năng lượng mà thương hiệu mình đem lại cho khách hàng.
Quý 4 năm 2008, PepsiCo cùng với Google và YouTube làm một chương
trình giải trí hàng ngày trên YouTube, chương trình này được PepsiCo cập
nhật hàng ngày. Nhờ những nỗ lực đáng kể như trên nên doanh thu năm 2008
của PepsiCo đạt 43.251 triệu đô la, tăng 10% so với năm 2007. Thu nhập trên
một cổ phiếu đạt 3,68 đô la, tăng 9% so với năm 2007.2
3.3. Ảnh hưởng của văn hoá tới kinh doanh
3.3.1. Văn hoá ảnh hưởng đến giao tiếp trong kinh doanh
Chúng ta đã từng nghe tên của Coca -cola bị phát âm trong tiếng Trung
Quốc chệch thành “Kekoukela”, nghĩa là “cắn con nòng nọc bằng sáp” hay
thương hiệu ô tô Nova của công ty Chevy khi dịch sang tiếng Tây Ban Nha có
nghĩa là “không đi được” . Ngôn ngữ thực sự là một rào cản mà hầu hết các
1 Theo
2 “PepsiCo Annual Report 2008”, www.pepsico.com/Investors/Annual-Reports/2008-Annual-Report.aspx
54
công ty xuyên quốc gia đều gặp phải khi thâm nhập vào một thị trường mới ,
và Pepsi Co cũng không phả i một ngoại lệ . Có thời kỳ khẩu hiệu của nước
uống Pepsi “Come alive with the Pepsi Generation” (Sảng khoái với thế hệ
Pepsi) đã bị dịch sang tiếng Trung Quốc với ý nghĩ “Pepsi gọi tổ tiên của bạn
từ nghĩa địa trở về” làm cho thông điệp của công ty không những không được
truyền đến người tiêu dùng mà còn bị sai lệch đi, dẫn đến việc sản phẩm
không được tiêu thụ trên thị trường đó.
3.3.2. Văn hoá ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng
3.3.2.1. Văn hoá ảnh hưởng đến việc lựa chọn sản phẩm của doanh nghiệp
Những thành công mà PepsiCo có được trên hàng trăm thị trường trên
thế giới là kết quả của những nỗ lực không nhỏ trong việc thích nghi sản
phẩm của mình với những môi trường văn hoá khác nhau. Tiếp cận với văn
hoá phương Đông, PepsiCo chọn biểu tượng thiếu âm và thiếu dương cho
nước uống Pepsi của mình để đến với những khách hàng là tín đồ của Phật
giáo. Để bảo hộ cho biểu tượng này, PepsiCo đã phải chi đến 500 triệu đô la
làm cho giá của thương hiệu Pepsi đã nâng lên đến 55 tỷ đô la.1 Đầu tư đó là
lớn nhưng hoàn toàn không uổng phí vì nó đã làm cho hình ảnh nước uống
Pepsi trở nên thân thiện hơn với nền văn hoá phương Đông và tăng sự thịnh
hành của sản phẩm trên thị trường này.
Trên thị trường Việt Nam, trên cơ sở nắm bắt được tâm lý yêu thích
môn thể thao bóng đá và tâm lý tự tôn dân tộc của người Việt, vào những năm
90 PepsiCo đã tổ chức ngày hội bóng đá thông qua show quảng cáo trên
truyền hình với hình ảnh Hồng Sơn – cầu thủ bóng đá được yêu thích nhất lúc
bấy giờ tâng trái bóng cùng với các danh thủ hàng đầu thế giới. Đồng thời
1 Chungta.com, “Cơ sở nào để xây dựng văn hoá doanh nghiệp”,
doanh-nghiep&catid=66
55
PepsiCo tung ra khẩu hiệu “Uống Pepsi là ủng hộ đội tuyển quốc gia Việt
Nam vươn ra đấu trường quốc tế”. Nhờ đó, doanh số của nước uống Pepsi đã
tăng vọt, đặc biệt là vào những thời kỳ có các giải đấu trong khu vực mà có
mặt đội tuyển Việt Nam.
Theo quan niệm cổ truyền của người Việt thì hình ảnh tứ linh Long-
Lân-Quy-Phụng thể hiện cho Thành công-May mắn-Sức khoẻ-Hạnh phúc vốn
là những biểu trưng của ngày Tết. Nắm được tâm lý đó, PepsiCo đã cho ra đời
nước uống Pepsi tứ linh tài trợ cho Đại hội múa lân quốc tế tháng 1/2008 ở
thành phố Hồ Chí Minh. Không những thế, PepsiCo còn có chương trình
khuyến mãi với thông điệp “Rước trọn tứ linh – Nghinh xuân như ý”, theo đó
mỗi thùng nước ngọt 24 lon được tặng thêm 4 lon nước Long-Lân-Quy-
Phụng với giá không đổi. PepsiCo cũng tài trợ cho đường hoa Nguyễn Huệ –
vốn là một nét văn hoá đầy màu sắc mỗi dịp xuân về của người dân Sài Gòn.
Ngoài các chương trình thực tế, PepsiCo còn cho ra đời trang web
www.pepsiworld.com.vn với các chương trình trò chơi về tứ linh rất sôi động
trên thế giới ảo. Bước vào trang web này, người xem có thể kiến tạo lời chúc
Tết gửi cho bạn bè, người thân, rút quẻ đầu năm, đồng thời tham gia vào các
trò chơi để được nhận nhiều phần quà hấp dẫn.
Có thể nói việc am hiểu tường tận văn hoá trên thị trường nội địa đã
giúp PepsiCo có những chiến lược quảng bá sản phẩm của mình một cách tối
ưu nhất, đem đến những thành công đáng kể cho thương hiệu này.
3.3.2.2. Văn hoá ảnh hưởng đến cách thức người tiêu dùng tiếp nhận
quảng cáo
Chiến dịch “The choice of a new generation” (Lựa chọn của một thế hệ
mới) của PepsiCo vào năm 1984 rất thành công ở Mỹ và những vùng nói
tiếng Anh của Canada nhưng lại không thành công ở Quebec-một tỉnh của
56
Canada. “The choice of a new generation” vốn nằm trong loạt quảng cáo
“The Pepsi Generation” của nước uống Pepsi hướng tới giới trẻ với sự tự tin
năng động, đồng thời sử dụng rất nhiều ngôi sao nổi tiếng như Michael
Jackson, Lionel Ritchie, Madona. Tuy nhiên khi vào thị trường Quebec thì
chiến dịch này lại không được đón nhận. Nguyên nhân là khác với các vùng
còn lại của Canada , người dân ở Quebec nói tiếng Pháp và họ cũng sở hữu
một nền văn hoá với rấ t nhiều điểm khác biệt . Họ không yêu thích những ngôi
sao nổi tiếng người Mỹ gốc Anh như Michael Jackson mà ngược lại thời đó
họ yêu thích những diễn viên hài kịch. Đặc biệt lúc đó đang có một phong
cách mới về hài kịch nổi lên ở Quebec tập trung đề cao sự thông minh của
giới trẻ ở những khu đô thị vùng này. Nghiên cứu những đặc điểm này,
PepsiCo đã tung ra chiến dịch quảng cáo cho nước uống Pepsi của mình có
tên Meunier. Trong chiến dịch này, nghệ sĩ hài kịch có tên Meunier (vốn đang
nổi tiếng ở Quebec lúc bấy giờ) vào vai những nhân vật cổ điển của vùng
Quebec và bộc lộ sở thích uống Pepsi. Meunier đánh đúng vào thị hiếu của
khách hàng, đồng thời nó đem đến một cách tiếp cận thị trường hoàn toàn
mới. Trước Meunier, các chiến dịch quảng cáo ở Quebec của hầu hết những
tập đoàn đa quốc gia khác đều đơn thuần chỉ được dịch từ những chiến dịch
quảng cáo sẵn có bằng tiếng Anh sang tiếng Pháp chứ không có chiến dịch
nào dành riêng cho thị trường với ngôn ngữ khác biệt này. Meunier đã đem lại
thành công lớn cho PepsiCo và được chiếu bởi nhiều kênh truyền hình trên
đất nước này. PepsiCo trở thành nhà cung cấp nước giải khát có thị phần lớn
nhất ở Quebec. Như vậy có thể nói nếu không nghiên cứu kĩ về văn hoá ở thị
trường mà công ty nhắm đến thì thất bại là hoàn toàn khó tránh khỏi. Pepsi đã
thất bại lúc đầu nhưng đã lật ngược tình thế một cách ngoạn mục để đi đến
thành công về sau.
57
Tựu chung lại, qua việc nghiên cứu ảnh hưởng của văn hoá đến hoạt
động kinh doanh của một số TNCs lớn là McDonald’s, Unilever, PepsiCo, ta
thấy văn hoá có ảnh hưởng không nhỏ tới việc kinh doanh của các TNCs; nó
có thể gây ra thất bại cho TNCs trên một thị trường, cũng có thể làm cho
TNCs phải tốn rất nhiều chi phí để có thể đi đến thành công. Vì thế các công
ty cần phải nhạy bén với những nét tinh tế của văn hoá địa phương để lựa
chọn cho mình hướng đi phù hợp. Có thể biến những thách thức do dự khác
biệt về văn hoá thành lợi thế nếu như các công ty đúc rút được những kinh
nghiệm tốt nhất từ thực tiễn và chọn cho mình một chiến lược phát triển
thương hiệu phù hợp với văn hoá của mỗi địa phương.
58
CHƢƠNG III
BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
I. Vai trò của TNCs ở Việt Nam
1. Tổng quan tình hình hoạt động của TNCs tại Việt Nam
Ở Việt Nam , hoạt động đầ u tư của TNCs thực sự mới tăng mạnh kể từ
sau khi Việt Nam ban hành Luật Đầu tư nước ngoài vào ngày 29/12/1987.
Cho đến nay , bằng những biện pháp khuyến khích đa dạng , Việt Nam đã thu
hút được sự chú ý của rất nhiều tập đ oàn lớn . Hoạt động của các công ty
xuyên quốc gia trên thị trường Việt Nam trở nên đa dạng , rộng khắp và bắt
đầu phát huy hiệu quả cho cả hai phía . Tính đến tháng 6 năm 1999, nghĩa là
sau hơn 10 năm cải cách của nền kinh tế Việt Nam, đã có 2700 dự án đầu tư
trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia với số vốn đăng ký là 35,9 tỷ đô la .
Cũng trong thời gian đó đã có 731 dự án mở rộng quy mô ban đầu với số vốn
bổ sung là 4,86 tỷ đô la, tăng tổng mức đầu tư của các công ty xuyên quốc gia
vào Việt Nam từ tháng 1 năm 1988 đến tháng 6 năm 1999 lên 40,76 tỷ đô la .1
Các TNCs có mặt tại Việt Nam dưới rất nhiều hình thức như lập công ty con
(liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài ), mở văn phòng đại diện hoặc thiết
lập hệ thống kênh tiêu thụ sản phẩm thông qua việc ký kết các hợp đồng đại
lý tiêu thụ với các công ty trong nước… Các lĩnh vực mà TNCs đầu tư vào
Việt Nam có may mặc , giày da, thép xây dựng, ô tô, xe máy, dầu nhờn… vừa
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước , lại vừa đáp ứng nhu cầu xuất khẩu .
Các TNCs hoạt động tại Việt Nam nhìn chung có hai đặc điểm lớn :
Thứ nhất , phần lớn TNCs hoạt động tại Việt Nam có nguồn gốc từ châu Á .
Với chính sách mở cửa và thu hút đầu tư , Việt Nam đã thu hút được rất nhiều
TNCs từ nhiều nước và khu vực trên thế giới . Tuy nhiên , phần lớn TNCs đầu
1 Nguyễn Thiết Sơn, Giáo trình các công ty xuyên quốc gia, NXB Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, 2004,
tr183
59
tư vào Việt Nam đều thuộc Nhật Bản và các nước công nghiệp mới trong khu
vực như Hàn Quốc , Singapore, Đài Loan… Tính đến năm 2004 đã có khoảng
415 công ty xuyên quốc gia đầu tư vào Việt Nam với tổng số vốn đầu tư là
36.358 tỷ đô la – đây là con số chưa đầy đủ vì chưa thống kê hết những công
ty xuyên quốc gia đầu tư với số vốn dưới 2 triệu đô la .1 Trong số 415 công ty
đó thì có tới 242 công ty từ châu Á , chiếm 58,3%. Trong khi đó , con số này
với các công ty xuyên quốc gia xuất xứ từ châu Âu chỉ là 104 công ty, chiếm
25%, chưa bằng 1/2 số công ty từ châu Á (xem bảng 2).
Bảng 2: Số TNCs tại Việt Nam phân theo vùng lãnh thổ (1988-2004)
Vùng lãnh thổ Số TNCs Tỷ lệ (%)
1. Chấu Á
Nhật Bản
Hồng Kông
Singapore
Hàn Quốc
Đài Loan
Các nền kinh tế khác
242
68
30
32
49
26
37
58,3
2. Châu Âu 104 25
3. Vùng khác 69 16,7
(Nguồn: PGS.TS. Phùng Xuân Nhạ, Các công ty xuyên quốc gia: lý luận và thực
tiễn”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007, tr117)
Có nhiều lý do dẫn đến sự phổ biến của các công ty xuyên quốc gia
châu Á trên thị trường Việt Nam . Thứ nhất , các công ty xuyên quốc gia châu
Á luôn coi thị trường Đông Nam Á trong đó có Việt Nam là thị trường truyền
thống của họ , vì vậy họ ưu tiên đầu tư vào thị trường này để tăng cường ảnh
hưởng về k inh tế, thương mại . Mặt khác, yêu cầu giảm thiểu chi phí giao dịch
đang được coi là điều kiện mới trong hoạt động của các công ty xuyên q uốc
1 Phạm Thị Trang Nhung, “Vai trò của các công ty xuyên quốc gia đối với sự phát triển kinh tế xã hội Việt
Nam”, Khoá luận tốt nghiệp, Đại học Ngoại thương Hà Nội, 2007, tr29
60
gia. Sự gần gũi về địa lý và sự thuận lợi hoá trong các quan hệ giao thương
của nội bộ khu vực Đông và Đông Nam Á đang khuyến khích sự chuyển
hướng đầu tư của các công ty xuyên quốc gia vào khu vực này nói chung và
vào Việt Nam nói riêng . Tuy nhiên , cần phải lưu ý rằng trên số liệu thống kê
thì tỷ trọng các công ty xuyên quốc gia có nguồn gốc châu Á đầu tư vào Việt
Nam là khá cao, nhưng trên thực tế phần lớn các công ty đó vẫn chỉ là các chi
nhánh nước ngoài của những công ty mẹ với nguồn gốc từ phương Tây .
Hiện nay kể từ sau H iệp định Thương mại Việt – Mỹ (BTA-Bilateral
Trade Agreement), Hiệp định khung với EU và việc Việt Nam gia nhập
WTO, tỷ lệ các công ty xuyên quốc gia châu Âu và Mỹ vào Việt Nam cũng
đang có xu hướng tăng lên .
Thứ hai, phần lớn TNCs hoạt động tại Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ . Hiện
giờ, một số tập đoàn lớn trên thế giới đã có mặt tại Việt Nam , nổi lên là các
tập đoàn trong các lĩnh vực dầu khí (Shell của Anh-Hà Lan, Exxon Mobil của
Mỹ, Total của Pháp, Petronas của Malaysia…), ô tô (Ford của Mỹ, Mitsubishi
của Nhật , Daimler Chrysler của Đức -Mỹ…), viễn thông (Tesla của Úc ,
Siemens củ a Đức , Alcatel của Pháp… ), tài chính ngân hàng (ANZ của Úc ,
HSBC của Anh , Chase Mahattan của Mỹ… ). Tuy nhiên , con số các tập đoàn
vẫn chưa phải là nhiều . Tính đến năm 2004, Việt Nam mớ i chỉ thu hút được
khoảng 20% TNCs trong số 500 TNCs lớn nhất trên thế giới theo đánh giá
của tạp chí Forrtune (Mỹ), trong khi đó ở Trung Quốc đã có tới 90% số này
thực hiện đầu tư , tức vào khoảng 450 tập đoàn.1
Đầu tư của các công ty xuyên quốc gia vào Việt Nam đượ c thực hiện
chủ yếu bởi các công ty vừa và nhỏ . Bình quân mỗi dự án đầu tư vào Việt
Nam chỉ đạt dưới 20 triệu USD , trong đó các lĩnh vực đầu tư chủ yếu là các
ngành điện tử , dệt may, nông, lâm, hải sản, chế biến, dịch vụ du lịch và khách
1 Phạm Thị Trang Nhung, “Vai trò của các công ty xuyên quốc gia đối với sự phát triển kinh tế xã hội Việt
Nam”, Khoá luận tốt nghiệp, Đại học Ngoại thương Hà Nội, 2007, tr31
61
sạn… Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này . Thứ nhất , lợi thế so
sánh của Việt Nam hiện giờ chủ yếu là lao động rẻ , những ngành sản xuất tận
dụng lợi thế này thường là các ngành có hàm lượ ng công nghệ không cao .
Trong điều kiện toàn cầu hoá , khi lợi thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế
chuyển trọng tâm sang các ngành có hàm lượng cao về công nghệ thì theo
logic của sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế toàn cầu , phần thâm nhập vào thị
trường Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ . Thứ hai , theo như đã
phân tích ở trên , TNCs đầu tư vào Việt Nam chủ yếu có nguồn gốc châu Á ,
do đó xuất phát từ đặc điểm các doanh nghiệp vừa và nh ỏ chiếm số đông
trong các nền kinh tế này mà TNCs đầu tư vào Việt Nam chủ yếu cũng có quy
mô vừa và nhỏ . Mặt khác, sự yếu kém về hạ tầng cơ sở , về môi trường đầu tư ,
năng lực lập và thẩm định dự án đầu tư… của phía V iệt Nam còn nhiều bất
cập so với những yêu cầu đòi hỏi từ phía các công ty xuyên quốc gia lớn , điều
đó dẫn đến sự hạn chế về số lượng của các TNCs có quy mô lớn trên thị
trường Việt Nam.
2. Vai trò của TNCs trong nền kinh tế Việt Nam
Trong những năm gần đây , nền kinh tế Việt Nam đang trên đà tăng
trưởng mạnh . Việt Nam ngày càng có những bước hội nhập tích cực vào nền
kinh tế thế giới và đã gây được sự chú ý đáng kể trong cộng đồng quốc tế
bằng những thành công nhiều mặt , đặc biệt là kinh tế . Đóng góp vào thành
công đó của Việt Nam không thể không kể đến vai trò của các tập đoàn kinh
tế nước ngoài thông qua các hoạt động đa dạng của họ tại Việt Nam , vai trò
đó được thể hiện qua một số điểm sau :
2.1. TNCs góp phần cung cấp nguồn vốn đầu tư quan trọng cho công cuộc
xây dựng đất nước
Việt Nam tiến hành công nghiệp hoá trong điều kiện tích luỹ trong
nước còn thấp , nhu cầu về vốn lớn đòi hỏi phải khai thác cả trong nước và
62
ngoài nước dưới mọi hình thức . Cùng với nguồn vốn ODA và vốn đi vay
khác, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI – Foreign Direct Investment) của các
công ty xuyên quốc gia đang trở thành nguồn vốn quan trọng với các nước
đang phát triển như Việt Nam . Nhờ nguồn vốn này , các nguồn lực trong nước
được khai thác và phát huy tác dụng . Hơn nữa, việc các TNCs tăng cường đầu
tư vào Việt Nam dưới hình thức FD I cũng thúc đẩy các doanh nghiệp trong
nước bỏ vốn ra đầu tư vào nền kinh tế bởi khi các TNCs phát triển mạnh với
khả năng cạnh tranh cao thì các doanh nghiệp trong nước muốn tồn tại cũng
buộc phải đầu tư thêm để tăng sức h oạt động của mình .
Kể từ sau khi Luật đầu tư ra đời năm 1987, Việt Nam đã thu hút được
một khối lượng lớn nguồn vốn FDI . Tính đến 30/9/2002, tổng số dự án FDI
còn hiệu lực là 3.495 dự án trong đó có 1.861 dự án đang thực hiện với tổng
vốn đầu tư đăng ký là 22,5 tỷ đô la , vốn đầu tư thực hiện cho đến thờ i điểm
đó là 20,7 tỷ đô la.1
Tính đến 30/4/2006, trong tổng số 6260 dự án có vốn đầu tư nước ngoài
còn hiệu lực, có 214 dự án do 106 công ty xuyên quốc gia hàng đầu đầu tư với
tổng số vốn đầu tư là 11,09 tỷ đô la, chiếm 20,77% tổng số vốn đăng ký của các
dự án FDI trên cả nước , nhưng tỷ trọng vốn thực hiện của các công ty xuyên
quốc gia chiếm 33,69% cho thấy tính khả thi của dự án do các công ty xuyên
quốc gia đầu tư cao hơn và vai trò quan trọng của các công ty xuyên quốc gia đối
với FDI vào Việt Nam (xem bảng 3).
1 Nguyễn Bích Diệp, ”Nghiên cứu các hình thức thâm nhập thị trường quốc tế của các công ty xuyên quốc
gia và bài học kinh nghiệm cho các doanh nghiệp Việt Nam”, Khoá luận tốt nghiệp, Đại học Ngoại thương
Hà Nội, 2007, tr68
63
Bảng 3: Tỷ trọng FDI do 106 TNCs hàng đầu đầu tƣ vào Việt Nam
đến 30/4/2006
Mục Tổng FDI
FDI do 106 TNCs hàng
đầu đầu tư
Tỷ trọng(%)
Số dự án 6260 214 3,42
Vốn đăng ký (tỷ
USD)
53,40 11,00 20,77
Vốn thực hiện (tỷ
USD)
25,5 8,59 33,69
(Nguồn: Nguyễn Thị Bích Vân, Attracting Foreign Investment from Multinational
Corporations-Opportunities for Vietnam, Báo cáo tại hội thảo về “Đầu tư tư nhân xuyên
quốc gia: Xu hướng và quyết định”, tổ chức tại TP.Hồ Chí Minh ngày 19-20/03/20091)
Như vậy mặc dù số vốn đầu tư của các công ty xuyên quốc gia vào Việt
Nam còn chưa cao nhưng nó đã đóng góp một phần vốn quan trọng cho Việt
Nam để tiến hành công cuộc công nghiệp hoá -hiện đại hoá đất nước .
2.2. TNCs có vai trò tích cực trong việc mở rộng x uất khẩu và tăng thu
ngân sách
Tuy không có số liệu thống kê chính xác về nguồn vốn FDI do TNCs
đầu tư vào Việt Nam nhưng có thể nói nguồn vốn FDI do TNCs đầu tư chiếm
một tỷ trọng cao trong tổng số vốn đầu tư vào Việt Nam . Những đóng góp của
TNCs trong việc mở rộng xuất khẩu được minh chứng thông qua tỷ trọng
ngày càng gia tăng của kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI trong tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước . Trong những năm qua, kim ngạch xuất khẩu
của các doanh nghiệp FDI chiếm khoảng 40% kim ngạch xuất khẩu cả nước
và ngày càng tăng. Nếu như năm 2004 chiếm 34% trong tổng số kim ngạch
1 Phạm Thị Trang Nhung, “Vai trò của các công ty xuyên quốc gia đối với sự phát triển kinh tế xã hội Việt
Nam”, Khoá luận tốt nghiệp, Đại học Ngoại thương Hà Nội, 2007, tr46
64
xuất khẩu thì đến năm 2008 chiếm khoảng 44%, đạt 24,2 tỷ USD, tăng 24%
so với năm 2007 (không tính dầu thô, nếu tính cả dầu thô thì kim ngạnh của
doanh nghiệp FDI đạt 34,5 tỷ USD, chiếm 55% tổng kim ngạch xuất khẩu).
Doanh nghiệp FDI tham gia xuất khẩu hầu hết các mặt hàng chủ lực và chiếm
tỷ trọng cao trong nhiều mặt hàng, đặc biệt là hàng công nghiệp như: Dệt may
chiếm tỷ trọng 59% trong 2 tháng đầu năm 2009, giày dép 69,5%, điện tử
96,6%, máy móc, thiết bị 85%, dây cáp điện 81,7%….1 Rõ ràng các loại
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã làm tăng nhanh chóng tỷ trọng các
sản phẩm đã qua chế biến trong kim ngạch xuất khẩu .
Khu vực FDI cũng có đóng góp không nhỏ vào n gân sách Nhà nước
qua các năm. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư , đóng góp của FDI cho
ngân sách Nhà nước trong giai đoạn 2001 – 2005 là khoảng 3,67 tỷ đô la Mỹ,
với mức tăng nộp ngân sách năm sau cao hơn năm trước, năm 2006 đạt 1,4 tỷ
đô la, tăng 36,3% so với năm 2005.2
Như vậy , xét theo khía cạnh đóng góp cho tăng trưởng kinh tế , tăng
xuất khẩu và tăng thu ngân sách , TNCs ngày càng đó ng vai trò quan trọng
trong nền kinh tế Việt Nam .
2.3. Giải quyết việc làm, nâng cao trình độ công nghệ và kỹ năng quản lý
Cho đến năm 2000, TNCs đã thu hút 300.000 lao động làm việc trực
tiếp trong các chi nhánh của chúng và hàng triệu lao động gián tiếp trong các
ngành dịch vụ liên quan đến hoạt động của TNCs này . Chẳng hạn như công ty
Bibico Chemical Cosmetics , một trong số 130 nhà cung cấp của tập đoàn
Unilever Việt Nam, nhờ phát triển hoạt độ ng kinh doanh với tập đoàn này mà
1 Bộ lao động-thương binh và xã hội, “Tọa đàm với các doanh nghiệp FDI tìm biện pháp thúc đẩy sản xuất –
xuất khẩu và ổn định việc làm cho người lao động”,
A366-79E97DE85B20%7D
2 Nguồn:
65
số nhân viên đã tăng lên đáng kể (từ 12 người vào năm 1996 lên 250 người
vào năm 2000).1
Bên cạnh việc tạo việc làm cho một lượng đáng kể người dân , TNCs
còn góp phần nâng cao trình độ công nghệ . Chẳng hạn như trong lĩnh vực
viễn thông , tại Việt Nam hiện giờ đã có những công nghệ tiên tiến hàng
đầu thế giới như công nghệ băng thông rộng bất đối xứng ADSL , công
nghệ băng thông rộng truy cập Internet không dây Wi -fi. Thêm vào đó ,
nhiều mặt hàng trước đây ta phải nhập nguyên chiếc nay nhờ hoạt động
chuyển giao công nghệ của TNCs đã sản xuất hoặc lắp ráp được ở trong
nước như ô tô , tủ lạnh , xe máy ... Cho đến nay , hầu hết các hãng ô tô nổi
tiếng trên thế giới đã có cơ sở sản xuất , lắp ráp ở Việt Nam .
TNCs cũng góp phần nâng cao kỹ năng quản lý cho lao động Việt
Nam. Không ít cán bộ của Việt Nam làm việc trong các TNCs đã có cơ hội
đi học tập tại nước ngoài , thường là dưới dạng c ác khoá đào tạo ngắn hạ n
về kỹ năng quản lý ở công ty mẹ . Cho đến nay , trong một số công ty có
vốn đầu tư nước ngoài , hầu hết toàn bộ nhân viên và cán bộ là người Việt
Nam (như Unilever). Ngoài ra , cũng như tại nhiều nước trên thế giới , TNCs
đã tạo ra môi trường cạnh tranh trên thị trường lao động , từ đó tạo động cơ
học tập , phấn đấu cho lực lượng lao động , đặc biệt là lao động trẻ . Phong
trào học tập nâng cao trình độ tiếng Anh và các kỹ năng khác như vi tính ,
quản lý… ngày nay trở nên cực kỳ sôi động tại Việt Nam . Một trong những
nguyên nhân cơ bản là bởi vì đó là những kỹ năng mà nhà tuyển dụng nước
ngoài yêu cầu.
1 Robinthieu.com, “Bí quyết thành công của Unilever”,
ever%20bat%20dau%20tu%20dau.doc
66
II. Sƣ̣ cần thiết phải tìm hiểu vai trò của văn hoá trong kinh doanh
đối với doanh nghiệp Việt Nam
1. Đòi hỏi của tiến trình hội nhập vào nền kinh tế quốc tế
Ngày nay, toàn cầu hoá đang trở thành một xu thế tất yếu , kinh doanh
vượt ra khỏi biên giới quốc gia ngày càng trở nên phổ biến , do đó ảnh hưởng
của văn hoá tới kinh doanh ngày càng được lan ra trên diện rộng . Tuy nhiên ,
văn hoá không phải là một yếu tố bất biến , nó luôn tiến hoá cho phù hợp với
trình độ và tình hình mới . Khi xã hội thay đổi , văn hoá cũng thay đổi theo .
Bên cạnh đó , bất kỳ nền văn hoá nào cũng là kết quả của một quá trình tạo
dựng của từng dân tộc , từng quốc gia , đồng thời cũng luôn có khả năng g iao
thoa, tương tác với các nền văn hoá khác . Nó có thể tiếp thu các giá trị của
văn hoá bên ngoài và tác động ngược trở lại , ảnh hưởng đến hệ thống giá trị
của các nền văn hoá khác . Chính sự giao lưu này đã làm giàu thêm cho nền
văn hoá các dân tộc , cũng như đưa các dân tộc xích lại gần nhau hơn . Kết quả
là trên thế giới ngày càng có nhiều tầng văn hoá , nhánh văn hoá mới , thay đổi
rất nhanh và liên tục , do đó việc thường xuyên nghiên cứ u văn hoá và tập tính
tiêu dùng của người dân các quốc gia để kinh doanh tốt hơn trên thị trường
quốc tế là một việc làm cần thiết đối với các doanh nghiệp kinh doanh trên
thương trường toàn cầu .
Việt Nam ngày cà ng hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu , tính
đến nay, Việt Nam có quan hệ giao lưu với khoảng hơn 200 nước và cũng đã
bước đầu xúc tiến thực hiện đầu tư ra nước ngoài . Thêm vào đó, như phần I
đã trình bày, TNCs ngày càng tăng lên về số lượng và khẳng định vai trò quan
trọng trên thị trường Việt Nam . Như vậy việc kinh doanh có yếu tố nước
ngoài ngày càng trở nên phổ biến với doanh nghiệp nước ta . Kinh doanh có
yếu tố nước ngoài đòi hỏi doanh nhân phải có những hiểu biết nhất định về
vấn đề văn hoá . Nếu nhà kinh doanh Việt Nam chỉ có trình độ chuyên môn
67
mà không có kiến thức về văn hoá thì hiệu quả kinh doanh sẽ không cao , làm
ảnh hưởng đến hình ảnh Việ t Nam trên thị trường quốc tế .
2. Nhu cầu n âng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hoá Việt Nam
Thực tế cho thấy hàng Việt Nam xuất khẩu ra nước ngoài vẫn chủ yếu
là sản phẩm thô (như than đá , gỗ…), sản phẩm chế biến chưa nhiều . Trong
hai nhóm sản phẩm này thì việc kinh doanh sản phẩm chế biến chịu ảnh
hưởng nhiều hơn bởi yếu tố văn hoá . Xu hướng trong tương lai sẽ là tăng xuất
khẩu sản phẩm chế biến , do đó việc nghiên cứu vai trò của v ăn hoá trong kinh
doanh là thực sự cần thiết . Chỉ có nghiên cứu kỹ càng văn hoá của các thị
trường mà ta thâm nhập để từ đó sản xuất ra những sản phầm p hù hợp với văn
hoá thì hàng hoá của ta mới có khả năng cạnh tranh với hàng hoá nước ngo ài
trên các thị trường đó .
Tìm hiểu vai trò của văn hoá trong kinh doanh và học hỏi kinh nghiệm
của các tập đoàn xuyên quốc gia trong việc thích nghi với các nền văn hoá
còn cần thiết trong việ c nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam
trên thị trường nội địa . Thực tế cho thấy hàng hoá do các công ty xuyên quốc
gia sản xuất dường như đang lấn át hàng hoá do doanh nghiệp trong nước sản
xuất. Ngay cả với nhữ ng mặt hàng có tính chất thiết yếu nhất như nước mắm ,
dầu gội đầu , kem đánh răng… thì các nhãn hiệu quen thuộc đối với người dân
cũng là các nhãn hiệu của những công ty xuyên quốc gia (như Knorr, Sunsilk,
Dove, Colgate, P/S của Unilever hay Head & Shoulders, Rejoice của
P&G…). Thậm chí trà xanh vốn là loại nước uống truyền thống của người
dân Việt Nam cũng được sản xuất bởi các tập đoàn nước ngoài . Như vậy ,
thông qua việc tiêu dùng các sản phẩm đ ó, nghiễm nhiên người tiêu dùng
nước nhà đang ngày ngày làm đầy lên túi tiền của các nhà tư bản ngoài nước .
Doanh nghiệp ta cần nhận thức được vấn đề này để có chiến lược thích đáng
nhằm nâng cao hơn năng lực cạ nh tranh của hàng hoá của doanh nghiệp nội
địa với sản phẩm của các TNCs trên chính thị trường nước nhà .
68
3. Tạo sự tăng trưởng bền vững trong kinh doanh
Trên thực tế , việc xác định rõ sự khác biệt giữa văn hoá các nước tr ên
thế giới chưa được doanh nghiệp xuất khẩu của ta quan tâm theo đúng nghĩa
của nó. Số đông doanh nghiệp Việt Nam vẫn có thói quen xuất khẩu dựa theo
kinh nghiệm hoặc nhu cầu thời vụ của khách hàng mà chưa chú trọng đến
việc nghiên cứu, trang bị kiến thức về đặc trưng của từng thị trường một cách
lâu dài. Chúng ta chưa thực sự chú ý tìm hiểu sự khác biệt , những nét đặc thù
của mỗi quốc gia nhập khẩu sản phẩm của ta . Dẫu cho các nước này có thể
nằm cùng một khu vực đi chăng nữa thì mỗi đất nước cũng có những sự khác
biệt rất lớn về lịch sử , địa lý, tự nhiên , ngôn ngữ , quan điểm sống , thói quen ,
tập quán… Do đó cần nhận thức được rằng việc cùng một chủng loại sản
phẩm y hệt nhau xuất khẩu thành công trên tất cả các thị trường trên thế giới
là một điều khó đạt được .
Thêm một thực tế nữa , ở nước ta , trong đào tạo cán bộ , chúng ta đa
phần quan tâm đến trình độ chuyên môn , ngoại ngữ , tác ph ong làm việc
nhanh nhẹn chứ chưa thực sự chú trọng đến việc giáo dục về văn hoá các
nước cho người đó . Kết quả là có nhiều doanh nhân chỉ biết chạy theo lợi
nhuận, dẫn đến việc kinh doanh bất chính hoặc được vụ nào hay vụ nấy ,
không giữ chữ tín với bạn hàng , sai phạm nhiều trong tác phong làm việc và
giao tiếp.
Muốn tạo được tăng trưởng bền vững trong kinh doanh thì nhất thiết ta
phải có cái nhìn dài hạn , cần tìm hiểu kỹ vai tr ò của văn hoá trong kinh doanh
thì mới có thể tạo dựng được mối làm ăn lâu dài với đối tác nước ngoài . Đồng
thời, doanh nhân Việt Nam cũng cần phải có sự am hiểu tường tận văn hoá
đất nước mình để áp dụng văn hoá nước mình vào công việc kinh doanh . Như
vậy, doanh nghiệp vừa có thể tạo được bản sắc văn hoá kinh doanh riêng , vừa
duy trì và phát huy được nền văn hoá truyền thống đáng tự hào của nước nhà .
69
4. Quảng bá văn hoá Việt Nam
Thực t ế đã cho thấy không ít TNCs đã rất thành công trong việc đưa
văn hoá quốc gia mình ra nước ngoài . Người Mỹ đã có thể làm cho văn hoá
đồ ăn nhanh trở nên phổ biến trên các châu lục khác , người Nhật đã có thể
bán Kimono ra nư ớc ngoài , hay như trên đất nư ớc Việt Nam hiện giờ phong
sản phẩm thời trang mang phong cách phương Tây , Nhật Bản , Hàn Quốc
đang ngày càng trở nên thịnh hành . Như vậy sản phẩm mang nét đặc trưng
của một nền văn hoá hoàn toàn c ó thể được đưa sang và bán chạy ở những
nền văn hoá khác . Nhìn vào thực tế đó , doanh nghiệp Việ t Nam cần học hỏi
để có thể bán những sản phẩm mang đậm nét truyền thống nhằm quảng bá
văn hoá Việt Nam trên thị trường qu ốc tế.
Vì tất cả các lý do trên , công tác giáo dục về văn hoá trong kinh doanh
cho các doanh nhân Việt Nam hiện nay cần được đặc biệt lưu ý . Người có
trình độ chuyên môn cao , lại hiểu biết truyền thống văn hoá của dâ n tộc khác
chắc chắn sẽ có phong cách giao tiếp lịch sự và đưa ra những quyết định kinh
doanh đúng đắn . Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp Việt
Nam trong việc tìm kiếm và xây dựng mối quan hệ với bạn hà ng nước ngoài .
III. Bài học kinh nghiệm của TNCs cho các doanh nghiệp Việt Nam
Từ các kinh nghiệm về sự thất bại cũng như thành công của một số
TNCs được phân tích ở chương 2, có thể rút ra một số bài học kinh
nghiệm cho các doanh nghiệp Việt Nam khi kinh doanh có yếu tố nước
ngoài như sau :
70
1. Bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường
nội địa
1.1. Xây dựng văn hoá kinh doanh cho doanh nghiệp
Với doanh nghiệp kinh doanh trên thị tr ường nội địa , để có thể cạnh
tranh được với các TNCs trên thị trường nước mình , trước hết cần xây dựng
cho mình một phương hướng kinh doanh có văn hoá bởi văn hoá kinh doanh
là yếu tố cơ bản, lâu bền góp vào sự thành công của doanh nghiệp nói riêng
và nền kinh tế nói chung. Trong hội thảo “Văn hoá doanh nghiệp trong thời
kỳ hội nhập” được tổ chức vào ngày 22/2/2009 vừa qua , nguyên Tổng bí thư
Lê Khả Phiêu đã nhấn mạnh : “Kinh doanh có văn hóa là lối kinh doanh có
mục đích và theo phương thức đạt tới cái lợi, cái thiện và cái đẹp. Kinh doanh
vô văn hóa là lối kinh doanh sẵn sàng chà đạp lên mọi giá trị, không từ bất
cứ thủ đoạn bỉ ổi nào, miễn là kiếm được càng nhiều lợi nhuận càng tốt. Để
đạt được lợi nhuận ngày càng cao, họ sẵn sàng cho ra đời những hàng kém
chất lượng, hàng giả, hàng nhái, những hàng có chất độc hại ảnh hưởng đến
sức khỏe của người tiêu dùng, thậm chí sức khỏe của trẻ em. Họ chà đạp lên
chuẩn mực văn hóa trong kinh doanh, họ thiếu hẳn chữ “ tâm” trong kinh
doanh”.1 Trên thực tế , không ít doanh nghiệp của Việt Nam hiện vẫn kém
hiểu biết về tâm lý, thói quen tiêu dùng... của khách hàng mà mình hướng tới,
đây chính là sự thua kém về văn hoá kinh doanh. Thiếu yếu tố này, doanh
nghiệp sẽ không thể thắng lợi trong cuộc cạnh tranh với các đối thủ nước
ngoài thời kỳ hội nhập. Chính vì thế , xây dựng văn hoá kinh doanh cho doanh
nghiệp trong nước có thể nói là một nhu cầu bức thiết hiện nay .
1.2. Có chiến lược sản phẩm hướng tới thị trường nội địa
Thực tế cho thấy rất ít doanh nghiệp Việt Nam quan tâm đến việc sản
phẩm và chiến lược sản phẩm của mình đã làm hài lòng người tiêu dùng nội
1 Tú Oanh,”“Thở, cười và hạnh phúc" trong cơn khủng hoảng tài chính”,
71
địa hay chưa . Trong khi đó , nhiều TNCs trên thị trường nội địa l ại làm rất tốt
điều này . Có thể lấy một ví dụ điển hình như quảng cáo bánh Chocopie (vốn
là một thương hiệu của Orion Hàn Quốc ) với hình ảnh cháu tặng ông hộp
bánh rất phù hợp với truyền thống kính trọng người cao tu ổi của người dân
Việt Nam . Như vậy mặc dù TNCs không có nguồn gốc Việt Nam nhưng lại
thành công hơn doanh nghiệp Việt trong việc chiếm được cảm tình người tiêu
dùng Việt . Các doanh nghiệp nội địa cần phải nhận thức được điề u này, từ đó
có chiến lược nghiên cứu kỹ văn hoá , tập tục, tập quán tiêu dùng , thị hiếu của
người tiêu dùng trên thị trường nội địa để từ đó phát triển những sản phẩm và
chiến lược sản phẩm phù hợp với bản sắc văn h oá dân tộc . Chỉ có như thế
doanh nghiệp mới giữ được thị trường nội địa .
2. Bài học kinh nghiệm cho doa nh nghiệp kinh doanh trên thị trường
nước ngoài
2.1. Chú trọng nâng cao kỹ năng giao tiếp trong kinh doanh quốc tế thông
qua nâng cao trình độ ngoại ngữ và hiểu biết tôn giáo, tập tục các quốc gia
Ngoại ngữ là cửa sổ để tiếp cận nền văn hoá của đối tác và cũng là
phương tiện giao tiếp hàng đầu đối với doanh nghiệp. Trong các ngôn ngữ
khác nhau, có loại ngôn ngữ đã phát triển ngôn ngữ kinh doanh và đạt được
trình độ chính xác cao, có ngôn ngữ chưa phát triển các thuật ngữ và cách
biểu đạt chính xác về khoa học, công nghệ hay thương mại nên phải rất thận
trọng để tìm cách biểu đạt chuẩn xác nhất trong hợp đồng. Doanh nhân cũng
phải để ý đến các từ lóng trong ngôn ngữ nước bạn để tránh dùng từ ngữ xúc
phạm hoặc quá suồng sã trong giao tiếp . Chẳng hạn như từ “suck” trong tiếng
Anh-Anh mang ý nghĩa là hút nhưng trong tiếng Anh -Mỹ lại thườ ng được
dùng như một từ lóng có ý nghĩa không tốt .
72
Bên cạnh ngôn ngữ có lời thì ngôn ngữ không lời cũng là một khía
cạnh quan trọng cần phải được quan tâm đúng mực . Khoảng cách hợp lý khi
giao tiếp với đối tác , những cử chỉ bị cho là cấm kỵ , những vấn đề không nên
đề cập đến trong giao tiếp , ý nghĩa của các hành động hay tín hiệu cụ thể…
đều là những thứ mà doanh nhân cần tìm hiểu kỹ càng . Chẳng hạn như khi
giao tiếp với người Mỹ thì không nên hỏi tuổi hoặc thu nhập của họ. Tôn
giáo, chính trị, và tình dục cũng là những lĩnh vực nhạy cảm khi giao tiếp với
doanh nhân Mỹ.
Tuy nhiên, trong khi phải hiểu biết, tôn trọng và thích nghi (ở mức độ
nhất định) văn hoá của đối tác, doanh nhân cũng phải giữ vững bản sắc văn
hoá dân tộc mình, những giá trị bền vững của văn hoá dân tộc trong giao tiếp
kinh doanh. Nếu doanh nhân từ bỏ mọi giá trị văn hoá của nước mình, từ bỏ
mọi thói quen và theo đuổi vô điều kiện tất cả các thói quen của bên đối tác,
về lâu dài, doanh nhân đó sẽ mất đi bản sắc văn hoá trong con người mình và
tự dẫn mình đến chỗ bế tắc bởi doanh nhân sẽ phải giao tiếp trong một môi
trường mà mình không quen thuộc và ít hiểu biết hơn đối tác.
2.2. Thích ứng sản phẩm cho phù hợp với văn hoá của nước sở tại
Việc tìm hiểu kỹ văn hoá thị trường đầu tư hoặc xuất khẩu để sản xuất
ra những sản phẩm đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu khách hàng là nhiệm
vụ rất quan trọng với các doa nh nghiệp . Việc phát triển những sản phẩm vừa
đáp ứng tiêu chuẩn của công ty , lại vừa mang bản sắc văn hoá của nước sở tại
sẽ đem lại thành công cho doanh nghiệp bởi nó tạo cho người tiêu dùng cảm
giác gần gũi khi sử dụn g sản phẩm . Chẳng hạn như khi kinh doanh sản phẩm
thịt ở các nước đạo Hồi thì cần tìm hiểu kỹ càng phương thức giết mổ gia súc
của đạo Hồi để làm cho đúng , nếu không thì sản phẩm thịt sẽ không được tiêu
thụ bởi người dân các nước này.
73
2.3. Có bao bì nhãn mác phù hợp với phong tục, tôn giáo và ngôn ngữ
Như ở chương I đã nêu , trên thế giới có rất nhiều tôn giáo và ngôn ngữ
khác nhau . Khi xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài , nếu không nghiên c ứu kỹ
vấn đề tôn giáo và ngôn ngữ của mỗi quốc gia thì thường dễ thất bại một cách
đáng tiếc. Thực tế đã chỉ rõ , một khi phạm phải những điều cấm kỵ thì từ ngữ
sẽ đem lại những rắc rối lớn . Đặc biệt hơn , khi phạm phải những tín ngưỡng
của nước nhập khẩu , doanh nghiệp khó có thể kinh doanh phát đạt ở thị
trường đó . Trường hợp của McDonald’s in hình thánh kinh của người Ả Rập
trên bao bì sản phẩm đã được nhắc đến ở chương 2 là một ví dụ. Như vậy , cần
thiết kế bao bì hấp dẫn với giá trị nghệ thuật cao (đẹp, trang nhã, lịch sự), phù
hợp với tôn giáo của các nước trên thế giới . Khi cung cấp những thông tin
trên bao bì sản phẩm , cần chú ý đến sự khá c biệt về ngôn ngữ để sử dụng từ
ngữ và chữ số cho phù hợp . Chẳng hạn số 13 là con số đen đủi ở nhiều nước
phương Tây, số 4 là con số không may mắn ở Nhật Bản do đó nên tránh đóng
gói 13 sản phẩm vào một bao bì ở cá c nước phương Tây và 4 sản phẩm vào
một bao bì ở Nhật . Đồng thời cũng cần tránh dùng từ ngữ xúc phạm đến tôn
giáo và tín ngưỡng của nước nhập khẩu .
2.4. Có chiến dịch quảng cáo phù hợp với văn hoá thị trường mà mình kinh
doanh
Việc dịch thông điệp quảng cáo ra tiếng nước ngoài đòi hỏi sự chính
xác cao về từ ngữ và sự phù hợp của nội dung thông điệp với các giá trị nền
tảng của nền văn hoá nước sở tại . Cần đặc biệt chú ý khi quả ng cáo ở các thị
trường châu Á và Hồi giáo – những thị trường có nhiều giá trị văn hoá cực kỳ
nhạy cảm. Chẳng hạn như các quảng cáo liên quan đến tình dục và sự gợi cảm
thường không được đông đảo quần chúng đón nhận trên các thị trường này .
Nếu có thể , giống như chiến dịch quảng cáo Meunier của PepsiCo đã được
74
nhắc đến ở chương II , doanh nghiệp nên tìm hiểu và sử dụng những hình ảnh
của ca sĩ, diễn viên , hay nhân vật truyền thống vốn được khách hàng trên thị
trường nước sở tại yêu thích để làm nhân vật chính trong quảng cáo của mình .
2.5. Tạo kỹ năng thích nghi văn hoá cho nhân viên
Tất cả nhân viên trong công ty nên được trang bị những hiểu biết nhất
định về văn hoá các thị trường mà công ty thâm nhập và cả sự nhạy bén trong
thích nghi với một nền văn hoá mới . Điều này có thể được làm dựa trên việc
tổ chức các buổi hội thảo về văn hoá , trong đó trình chiếu những thôn g tin về
văn hoá con người nước bạn , đồng thời có thể tạo ra các tình huống văn hoá
giả định sẽ gặp khi giao tiếp với bạn hàng nước ngoài .
Doanh nghiệp cũng nên thường xuyên gửi cán bộ ra nước ngoài học tập
và làm việ c để họ làm quen với môi trường văn hoá mới , học hỏi và khi quay
về truyền bá lại kinh nghiệm cho đồng nghiệp ở trong nước .
2.6. Học hỏi kinh nghiệm của các thương nhân nước ngoài
Do ở Việt Nam việc giao thương buôn bán với nước ngoài mới thực sự
phát triển mạnh trong những năm gần đây nên doanh nghiệp Việt Nam vẫn
còn rất non trẻ trên thương trường kinh doanh quốc tế . Vì thế việc học hỏi
kinh nghiệm từ thương nhân nước ngoài là rất cần thiết . Doanh nghiệp cần ý
thức được rằng trong bất kỳ lĩnh vực nào : đàm phán , marketing hay tiêu
dùng… thì văn hoá tự nó cũng đã tồn tại . Điều doanh nghiệp cần làm là trước
hết hiểu rõ được văn hoá của chính mình để tận dụng những điểm mạnh , giảm
nhẹ điểm yếu , trên cơ sở đó bổ sung những giá trị học hỏi được từ bên ngoài .
Cần nâng cao cọ xát với bên ngoài như tham gia các buổi hội thảo về kinh
doanh quốc tế , tích cực quan sát để nắm bắt đượ c những chiến lược kinh
doanh của những công ty , tập đoàn nước ngoài thành công , từ đó đúc rút kinh
nghiệm cho doanh nghiệp mình .
75
KẾT LUẬN
Văn hoá có từ thu ở bình minh của xã hội loài người , bao gồm các giá
trị vật chấ t và tinh thần do con người sáng tạo ra , được truyền đạt và kế thừa
từ đời này qua đời khác và mang tính đặc trưng cho mỗi quốc gia , dân tộc .
Văn hoá có ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực trong cuộc sống trong đó kinh doanh
không phải một ngoại lệ . Văn hoá tác động đến tư duy kinh doanh , định hình
giao tiếp trong kinh doanh và ản h hưởng đến hành vi tiêu dùng .
Thực tiễn đã chứng minh rằng văn hoá ảnh hưởng không nhỏ đến việc
kinh doanh của các công ty x uyên quốc gia . McDonald’s, Unilever và
PepsiCo đã gặt hái đượ c nhiều thành công trên những nền văn hoá khác nhau
nhờ việc thích nghi sản phẩm của mình với đặc tính văn hoá của từ ng thị
trường cũng như áp dụng các chiến lược marketing sản phẩm phù hợp với thị
hiếu khách hàng trên các thị trường đó . Tuy nhiên không ít lần các công ty
này cũng đã vấp phải những trở ngại , những thất bại hoặc sự phản đối của
người tiêu dùng do vi phạm các chuẩ n mực văn hoá trên các thị trường nơi
các công ty đó kinh doanh .
Trên thị trường Việt Nam , số lượng TNCs ngày một tăng lên và ngày
càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thông qua việc tăng thu ngân
sách, tạo nguồn vốn c ho công cuộc xây dựng đất nước , tăng xuất khẩu , tạo
việc làm, nâng cao trình độ công nghệ và kỹ năng quản lý . Trong bối cảnh đó,
khi mà Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới , việc tìm
hiểu vai trò của v ăn hoá trong kinh doanh ngày càng trở nên cần thiết với
doanh nghiệp Việt Nam . Điều đó giúp cho doanh nghiệp có những chiến lược
thích hợp nhằm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá với hàng hoá của các TNCs
trên thị trường nội địa, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá khi đi ra thị trường
nước ngoài , tạo tăng trưởng bền vững trong kinh doanh , đồng thời quảng bá
văn hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế .
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. TS. Nguyễn Hoàng Ánh (1996), “Ảnh hưởng của văn hoá đến thương
mại quốc tế trên thế giới và ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ , Đại học
Ngoại thương Hà Nội , tr18
2. ThS. Phạm Thị Vân Anh (2008), “Môi trường văn hoá trong marketing
quốc tế và chiến l ược sản phẩm của doanh nghiệp ”, Luận văn thạc sĩ ,
Đại học Ngoại thương Hà Nội, tr71
3. Nguyễn Bích Diệp (2007), ”Nghiên cứu các hình thức thâm nhập thị
trường quốc tế của các công ty xuyên quốc gia và bài học kinh nghiệm
cho các doanh nghiệp Việt Nam” , Khoá luận tốt nghiệp , Đại học Ngoại
thương Hà Nội , tr68
4. Phạm Thị Trang Nhung (2007), “Vai trò của các công ty xuyên quốc
gia đối với sự phát triển kinh tế xã hội Việt Nam” , Khoá luận tốt
nghiệp , Đại học Ngoại thương Hà Nội, tr29-31
5. Nguyễn Thiết Sơn (2003), Các công ty xuyên quốc gia: Khái niệm, đặc
trưng và những biểu hiện mới, NXB Khoa học xã hội, tr33-178-197
6. Nguyễn Thiết S ơn (2004), Giáo trình các công ty xuyên quốc gia, NXB
Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, tr183
7. TS. Nguyễn Quốc Vượng (2005), Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXB giáo
dục, tr22
8. NXB Chính trị quốc gia (1995), Hồ Chí Minh toàn tập, in lần 2, tr431
Tài liệu tiếng Anh
1. Charles W.L.Hill (2001), International Business: Competing in the
global marketplace, 3rd edition, McGraw Hill, tr89-95
2. David A.Ricks (2006), Blunders in international business, 4th edition,
Blackwell, tr6
3. David Louden (1993), Consumer Behavior: Concepts and Applications,
4
th
edition, McGraw-Hill, tr124
4. S.Tamer Cavusgil (2008), International Business: Strategy,
management and the new realities, Pearson Prentice Hall, tr144
5. UNCTAD (2002), Transnational Corporations and Export
Competitiveness, World Investment Report, the United Nations, New
York and Geneva, tr154
6. UNCTAD (2005), Transnational Corporations and the
Internationalization of R&D, World Investment Report, the United
Nations, New York and Geneva, tr119
7. UNCTAD (2006), FDI from Developing and Transition Economies:
Implications for Development, World Investment Report, the United
Nations, New York and Geneva, tr10-13
Các trang web tiếng Việt
sang-hy-sinh-thuong-hieu.htm
ize=10&Page=0
=%7BD7F99752-939E-4D83-A366-79E97DE85B20%7D
hanh%20cong%20cua%20unilever%20bat%20dau%20tu%20dau.doc
co-so-de-xay-dung-van-hoa-doanh-nghiep&catid=66
Các trang web tiếng Anh
forex.com.au/currency_trade_market/daily_currency_trade/ID/1087/2
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4714_3767.pdf