Đề tài Tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, thực trạng và giải pháp

Mục lục Mục lục hộp tra cứu . . .4 Danh mục bảng tra cứu 6 A.Lời nói đầu 7 Chương I. Những vấn đề lý thuyết về tín dụng đầu tư 8 1.1. Khái niệm 8 1.2. Bản chất 8 1.3. Các nguồn huy động vốn: 8 2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của tín dụng đầu tư 11 2.1. Khái niệm tín dụng đầu tư 11 2.2. Đặc điểm của tín dụng đầu tư: 12 2.3. Tổ chức thực hiện tín dụng ĐTPT của Nhà nước 14 2.4. Huy động các nguồn vốn cho hoạt động tín dụng đầu tư phát triển 15 2.5. Đối tượng chủ yếu của hoạt động tín dụng đầu tư .16 2.6. Mục đích và vai trò của tín dụng đầu tư đối với sự phát triển kinh tế xã hội .18 3. Quá trình phát triển của tín dụng đầu tư: 20 3.1.Vài nét chính về hoạt động tín dụng đầu tư của một số nước trên thế giới sau năm 1945 đến nay 21 3.2.Sự hình thành hoạt động tín dụng đầu tư tại Việt Nam .23 Chương II. Thực trạng của hoạt động tín dụng đầu tư 30 1. Thực trạng của hoạt động tín dụng đầu tư tại Việt Nam 30 1.1. Thực trạng hoạt động tín dụng đầu tư tại Tổng cục Đầu tư phát triển Việt Nam và quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia (Từ năm 1990-1999) 30 1.2.Thực trạng hoạt động tín dụng đầu tư phát triển tại quỹ Hỗ trợ đầu tư (DAF) từ năm 2000 đến năm 2006 32 1.3. Ghi nhận hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Ngân hàng phát triển Việt Nam (Sau năm 2006 cho tới nay) 37 2. Đánh giá hoạt động tín dụng đầu tư tại Việt Nam 44 3.1. Kết quả đạt được 44 3.2. Những hạn chế: 46 3. Các nguyên nhân cho những tồn tại về hoạt động đầu tư tín dụng tại Việt Nam 52 3.1. Nguyên nhân từ chính sách và môi trường triển khai hoạt động đầu tư tín dụng phát triển 52 3.2. Nguyên nhân từ cơ quan tổ chức thực hiện (Ngân hàng phát triển Việt Nam) 54 3.3. Nguyên nhân từ phía các doanh nghiệp: 55 Chương III. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển tới năm 2020 56 1. Tầm nhìn của Đảng và Nhà nước trong hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Quốc gia: 56 1.1. Định hướng phát triển KT-XH của đất nước 56 1.2. Mục tiêu, yêu cầu phát triển tín dụng ĐTPT của Nhà nước 56 1.3. Định hướng phát triển tín dụng ĐTPT của Nhà nước tại NHPTVN 58 2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ĐTPT đến năm 2020 59 3. Kiến nghị 67 3.1. Kiến nghị với Chính phủ 67 3.2. Kiến nghị với các Bộ, Ngành, địa phương 68 KẾT LUẬN 69 LỜI NÓI ĐẦU Xu thế hội nhập kinh tế thế giới ngày càng sâu rộng như hiện nay đã đặt nền kinh tế nước ta trước nhiều cơ hội và không ít thử thách. Yêu cầu đặt ra là cần phải đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.Để thực hiện được nhiệm vụ đó cần phải có các điều kiện về cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội phát triển. Trong điều kiện nền kinh tế của đất nước còn nhiều khó khăn, ngân sách nhà nước hạn hẹp thì hình thức tín dụng đầu tư phát triển tỏ ra rất ưu việt trong việc huy động và quản lý nguồn lực của nhà nước cho đầu tư phát triển. Thông qua hình thức tín dụng đầu tư phát triển nguồn vốn huy động cho đầu tư phát triển đa dạng hơn, bền vững hơn không những từ nguồn vốn ngân sách mà còn thu hút được một khối lượng lớn vốn nhàn rỗi trong xã hội. Là công cụ điều tiết vĩ mô của Chính phủ đối với nền kinh tế hoạt động tín dụng đã quản lý và sử dụng nguồn vốn ưu đãi hiệu quả hơn, phù hợp với các ưu tiên phát triển của đất nước trong từng thời kỳ, góp phần phát triển cân đối nền kinh tế. Hoạt động tín dụng đầu tư mới thực sự được thực hiện ở Việt Nam từ năm 1990 tuy cũng đã có những đóng góp đáng kể vào sự nghiệp phát triển đất nước nhưng vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định, chưa thực sự phát huy tốt là công cụ chính sách của nhà nước. Tiếp tục thực hiện chủ trương phát huy nội lực để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa đất nước, hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới khi Việt Nam chính thức là thành viên của WTO hoạt động tín dụng nhà nước đã có những bước chuyển hợp lý hơn với thực tiễn. Xuất phát từ những lý do đó việc nghiên cứu đề tài: “Tín dụng đầu tư phát triển. Thực trạng và giải pháp” là cần thiết để có những giải pháp tăng cường hoạt động tín dụng đầu tư phát triển cho phù hợp với các thông lệ quốc tế về giảm trợ cấp; phát huy hơn nữa vai trò của hoạt động này đối với sự phát triển kinh tế, xã hội.

doc69 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6528 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dụng, chúng tôi cho rằng sở dĩ có được điều này là do có sự chống lưng và được cấp vốn liên tục từ nhà nước đối với VDB.(Điều này được quy định rõ ràng tại điều lệ của VDB khi mới thành lập). Cụ thể hoạt động tín dụng đầu tư của VDB được thể hiện qua các con số trên 3 lĩnh vực nghiệp vụ: Tín dụng đầu tư , bảo lãnh tín dụng đầu tư , hỗ trợ sau đầu tư. -Về hoạt động nghiệp vụ tín dụng đầu tư : đến giữa năm 2010, VDB cho vay khoảng hơn 3.200 dự án, trong đó có 127 dự án trọng điểm của Chính phủ với số vốn cam kết theo hợp đồng tín dụng khoảng 146.000 tỷ đồng. Các nguồn vốn ODA cho vay lại, các quỹ quay vòng đã được NHPT quản lý tốt và thu hồi nợ có hiệu quả, góp phần nâng cao uy tín của Việt Nam với các nhà tài trợ quốc tế. Cụ thể, NHPT đang quản lý cho vay lại đối với 380 dự án với tổng số vốn cam kết theo Hiệp định vay là 7,3 tỷ USD, tăng 124 dự án với 1,15 tỷ USD so với thời điểm mới thành lập. (Các số liệu trên lấy từ bài phỏng vấn ngày 14/7/2010 với ông Nguyễn Chí Trang, Phó Tổng giám đốc Ngân hàng Phát triển Việt Nam ) Hộp 8:Bài báo “ VDB: “Chúng tôi cho vay theo chỉ đạo”. Phỏng vấn Tổng giám đốc VDB Nguyễn Quang Dũng (Đăng ngày 25/06/2010 trên Vneconomy) Có nhiều doanh nghiệp thắc mắc là tại sao các hợp đồng tín dụng của VDB chủ yếu tập trung vào lĩnh vực điện và dầu khí.... Những hợp đồng trên có được là do sự chỉ đạo của Chính phủ bởi VDB là ngân hàng của Chính phủ. Chúng tôi phải tập trung vào những cái gì mà Chính phủ và nền kinh tế cần nhất. Hiện lĩnh vực điện đang được chúng tôi “ưu ái” nhất với tổng số vốn đầu tư cho ngành này là lớn trong tất cả các ngành.  Tuy nhiên, việc đầu tư với giá trị lớn như vậy là hoàn toàn hợp lý. Chẳng hạn, với công trình Thủy điện Sơn La, ngoài phần vốn trong nước chúng tôi cho vay hơn 4.000 tỷ đồng, cộng với vốn nước ngoài là 400 triệu USD nữa. …Ví dụ các dự án điện của EVN, chúng tôi đang quản lý 5,6 tỷ USD và khoảng 36.000 tỷ đồng, trong đó tập trung vào giải phóng mặt bằng cho nhiều dự án trọng điểm của ngành điện và nhiều ngành khác.Hiện, đối với ngành dầu khí thì theo chỉ đạo của Chính phủ, chúng tôi đã giải ngân 1 tỷ USD trên tổng mức đầu tư của nhà máy 3 tỷ USD của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất… Nghiệp vụ tín dụng đầu tư của VDB không chỉ tập trung vào các dự án trọng điểm, quan trọng của quốc gia. VDB thực hiện các nghiệp vụ tín dụng đầu tư phát triển cho các chương trình xóa đói giảm nghèo, mục tiêu quốc gia ở vùng sâu vùng xa như chương trình 135, các xã biên giới thuộc chương trình 120, vùng có đông đồng bào Khơme sinh sống tập trung, xã vùng bãi ngang, các dự án nhà ở xã hội cho sinh viên, người có thu nhập thấp. Hộp 9: Ghi nhận vài con số và sự kiện của VDB Nguồn: Các dự án do Ngân hàng phát triển cho vay đầu tư đi vào sản xuất, góp phần quan trọng tạo ra năng lực mới cho nền kinh tế, như: xây mới 100.000km kênh mương, 13 trạm bơm, hạ tầng của 817 cụm tuyến dân cư… Ngoài ra, Ngân hàng Phát triển Việt Nam còn cho vay các dự án đầu tư cho người có thu nhập thấp và nhà ở cho công nhân khu công nghiệp với 7 dự án, tổng số vốn cho vay theo hợp đồng tín dụng là 902,72 tỷ đồng, giải ngân đến 31.12.2010 đạt hơn 100 tỷ; -Hoạt động bảo lãnh các doanh nghiệp vay vốn các ngân hàng thương mại : thông qua những dự án đầu tư trung và dài hạn. Qua xem xét, chúng tôi thấy rằng hoạt động này thực sự nổi bật trong giai đoạn từ năm 2009 đến nay, khi chính phủ triển khai các biện pháp kích cầu,với mục tiêu hướng vào hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Còn giai đoạn trước khi xem xét, rõ ràng chúng ta thấy số dư bảo lãnh tín dụng qua từng năm từ 2003 đến tháng 6/2006 không đổi là 32.5 tỷ đồng, theo thống kê của VDB, kết quả triển khai từ tháng 3/2009 đến tháng 6/2010 đã có : Trên 3.000 chứng thư cho dự án với trị giá 2.898 tỷ đồng. Trên 6.000 chứng thư cho phương án được phát hành với giá trị 6.129 tỷ đồng. Trong đó dự án công nghiệp chiếm 52%, nông nghiệp 35%, giao thông và xây dựng 11%, còn lại 2% y tế giáo dục và các dự án khác; phương án công nghiệp chiếm 31%, 37% nông nghiệp... Tính đến ngày 03/04/2009, 100% Chi nhánh NHPT đã tổ chức triển khai nghiệp vụ bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng thương mại theo quy định tại Quyết định 14/2009/QĐ-TTg ngày 21/02/2009 của Thủ tướng Chính phủ,34 NHTM đã ký thoả thuận hợp tác triển khai nghiệp vụ bảo lãnh này với NHPT. Theo Quyết định 14/2009/QĐ-TTg ban hành ngày 21/01/2009 của thủ tướng chính phủ, đối tượng được Ngân hàng Phát triển Việt Nam bảo lãnh vay vốn là doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế (kể cả hợp tác xã) có vốn điều lệ tối đa 20 tỷ đồng hoặc sử dụng dưới 1.000 lao động (quy định cũ là có vốn điều lệ tối đa 20 tỷ đồng và sử dụng tối đa 500 lao động).Như vậy,có thể cho chúng ta thấy bảo lãnh tín dụng là kênh huy động vốn hiệu quả của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chưa dừng ở đó, quyết định số 03/2011/QĐ-TTg  của thủ tướng chính phủ mới ban hành trong năm 2011 lại 1 lần nữa tạo điều kiện tố hơn cho chính các doanh nghiệp vừa và nhỏ được tiếp cận nghiệp vụ bảo lãnh tín dụng của VDB,doanh nghiệp sẽ được bảo lãnh 85% số tổng số vốn của các dự án khi vay vốn tại cá ngân hàng thương mại. Đây là 1 tín hiệu đáng mừng, cơ hội cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong bối cảnh lãi suất ngân hàng đang tăng cao. Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy rằng nghiệp vụ tín dụng đầu tư của VDB dành cho các khoản vay quy mô lớn còn bảo lãnh tín dụng là nghiệp vụ hướng tới các khoản vay quy mô nhỏ của các doanh nghiệp trong nền kinh tế. - Nghiệp vụ hỗ trợ sau đầu tư cũng là một hình thức hỗ trợ gián tiếp, theo báo cáo của tổng giám đốc VDB với thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về nghiệp vụ hỗ trợ sau đầu tư giai đoạn 2006-2009 thì đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hợp tác xã, các chủ đầu tư tiếp cận được các nguồn vốn của ngân hàng thương mại (NHTM), góp phần quan trọng đẩy mạnh huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển. Thông qua lượng vốn mồi này đã huy động được tổng số vốn gần 37.000 tỷ đồng để đầu tư 2.859 dự án với tổng số vốn đầu tư lên tới gần 85.000 tỷ đồng.  (Nguồn: ) Hộp 10 :Nhìn nhận tỷ trọng vốn tín dụng đầu tư những năm gần đây nhất. (Nhóm làm đề tài sưu tầm và phân tích) Trong năm 2009 , báo cáo giải trình trước Quốc hội của chính phủ,vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước ước cả năm đạt kế hoạch, khoảng 50 nghìn tỷ đồng, tăng 25% so với thực hiện năm 2008, chiếm 7% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong năm 2010, mức vốn đầu tư thuộc ngân sách Nhà nước sẽ chỉ chiếm khoảng 15,9%, vốn trái phiếu Chính phủ chiếm 7,1%, vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước chiếm 7% còn lại các nguồn vốn khác từ xã hội sẽ khoảng 70%. Như vậy so với tỉ trọng vốn tín dụng cho đầu tư phát triển của Nhà nước trên tổng vốn toàn xã hội giai đoạn 2001-2005 là 14% ,(Ở đây là ghi nhận chung,không phải là nguồn vốn thực hiện.) thì tỉ trọng vốn tín dụng đầu tư có xu hướng giữ nguyên và thấp hơn các nguồn vốn khác trong trong cơ cấu,điều này thể hiện điều gì? Chúng tôi cho rằng so về giá trị tuyệt đối thì vốn tín dụng đầu tư vẫn tăng,song con số 7% trong tỷ trọng cơ cấu vốn toàn xã hội cho thấy: -Chính phủ hàng năm đã cung ứng đủ vốn ,ổn định hơn cho tín dụng đầu tư phát triển. -Chính phủ muốn thực hiện chính sách tín dụng đầu tư đi vào chiều sâu ,hướng vào kết quả hơn.Khi mà nguồn vốn hàng năm chính phủ dành cho VDB là số vốn ấn dịnh,VDB phải tự cân đối và đưa ra các khoản vay cho các dự án và phương án kinh doanh cảu các doanh nghiệp. Nguồn số liệu từ vneconomy: Theo hoạch định, trong giai đoạn 2006-2010, VDB  dự  kiến  cung  ứng vốn đầu tư cho nền kinh tế trên 170.000 tỷ đồng, chiếm 9,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2006-2010.Sở dĩ có con số 9,5%.đơn giản vì nó bao gồm cả hỗ trợ cho xuất nhập khẩu mà VDB kiêm nhiệm. Điều này cho chúng ta thấy rằng, sau khi chuyển đổi mô hình hoạt động, từ quỹ đầu tư phát triển DAF trước đây sang Ngân hàng Phát triển Việt Nam VDB hiện nay thì chiến lược phát triển của VDB đã thay đổi có trọng tâm, hướng sâu hơn vào chất của các khoản vay, hướng tới mục tiêu không đầu tư dàn trải, chỉ tập trung vào các dự án trọng điểm và các dự án thực sự cần thiết cho nền kinh tế. Thể hiện chức năng điều tiết vĩ mô của Chính phủ với nền kinh tế Việt Nam thông qua VDB. Hơn nữa cơ chế vay có hoàn trả vốn và lãi suất thấp đã cho chúng ta thấy tính tích cực của vốn đầu tư phát triển từ VDB.Việc hỗ trợ như vậy của Nhà nước thông qua VDB thể hiện tính chuyên nghiệp và phù hợp với các thông lệ của Quốc tế hơn khi chúng ta ra nhập WTO. 2. Đánh giá hoạt động tín dụng đầu tư tại Việt Nam 3.1. Kết quả đạt được 3.1.1.Hiệu quả kinh tế -Góp phần đáp ứng vốn ĐTPT nền kinh tế :Giai đoạn 1991-1995, vốn tín dụng Nhà nước chiếm 5,6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Giai đoạn 2001-2005 đã chiếm 14% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Giai đoạn 2006-2009, vốn đầu tư phát triển chỉ chiếm 7% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, trong những năm tới vốn tín dụng đầu tư có xu hướng ổn định, hướng tới các dự án trọng điểm quốc gia, các chương trình phúc lợi xã hội, an sinh xã hội góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu vùng của đất nước. -Góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính: Một là, nghiệp vụ tín dụng đầu tư là một trong những kênh huy động vốn quan trọng cho các doanh nghiệp thể hiện tập trung ở 3 loại chính:cho vay với các công trình trọng điểm quốc gia có vốn đầu tư lớn,cho vay với chính sách ưu đãi với các vùng kinh tế khó khăn nơi mà lợi nhuận từ đầu tư thấp,hoạt động tín dụng cho các doanh nghiệp để đầu tư vào sản xuất khi nền kinh tế có khó khăn cần sự hỗ trợ của Nhà nước như các gói kích cầu của chính phủ năm 2009 vừa qua. Hai là, thông qua hoạt động bảo lãnh đầu tư,tín dụng đầu tư đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận vốn của các ngân hàng thương mại. Ba là, trên thị trường chứng khoán, Trái Phiếu Chính Phủ do NHPT phát hành chiếm 29% tổng giá trị niêm yết toàn thị trường, góp phần đa dạng hóa các công cụ nợ và tăng lượng hàng hóa trên thị trường chứng khoán. -Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNN-HĐH, đồng thời tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế: Nhìn nhận về số lượng các công trình lớn mang tính bước ngoạt của quốc gia như thủy điện Sơn La, khu lọc hóa dầu Dung Quất, đường cao tốc Hải Phòng - Hà Nội…VDB đã cho vay khoảng hơn 3.200 dự án, trong đó có 127 dự án trọng điểm của Chính phủ với số vốn cam kết theo hợp đồng tín dụng khoảng 146.000 tỷ đồng, đã minh chứng rõ ràng nhất cho những gì VDB làm được trong việc đóng góp vào quá trình CNH-HĐH đất nước. Không những vậy, chiến lược của VDB thông qua tín dụng đầu tư còn hướng tới đi sâu phát triển mặt chất trong quá trình CNH - HĐH khi VDB tham gia thực hiện cho vay với các chương trình - dự án nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế như ngày 24/2/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg về chính sách phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ và giao cho VDB là một trong số các thành viên thẩm định dự án và cho vay vốn, hay chương trình VDB cho vay ưu đãi dự án thuộc Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2457/QĐ-TTg ngày 31/12/2010. -Góp phần tăng doanh thu, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, tăng thu cho NSNN: Nhờ các điều kiện ưu đãi mà tín dụng đầu tư mang lại đã giúp cho các doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất, giảm giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh doanh cho chính mình. Từ đó tăng thu cho ngân sách thông qua các khoản thu từ thuế cho quốc gia. -Góp phần sử dụng hiệu quả vốn ODA: Hiện vốn ODA chiếm khoảng hơn 40% trong tổng nguồn vốn của VDB và nó cũng chiếm gần 1/2 trong tổng vốn ODA của cả nền kinh tế, khoảng 9 tỷ USD (Số liệu tháng 6/2010, nguồn : ) Với việc thẩm định dự án đầu tư cùng với việc cho vay lại theo chỉ đạo vốn ODA đã góp phần không nhỏ trong việc giúp giải ngân tốt nguồn vốn này. 3.1.2.Hiệu quả về mặt xã hội: -Tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, đào tạo nguồn nhân lực , bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ sức khỏe và nâng cao mức sống cho người dân, đặc biệt ở khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bằng song Cửu Long. - Xây dựng cơ sở hạ tầng, nâng cao đời sống cho nhân dân, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững, ổn định xã hội: một trong những mục tiêu của hoạt động tín dụng đầu tư là hướng tới cả các vùng miền kinh tế còn khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, dự án an sinh xã hội, hướng tới các đối tượng dễ tổn thương trong quá trình tăng trưởng kinh tế… đã góp phần tạo ra sự ổn định về mặt xã hội, thể hiện rõ ràng chính sách của Nhà nước ta tăng trưởng phải đi kèm an sinh xã hội. 3.2. Những hạn chế: 3.2.1.Đối với nền kinh tế: -Tác động đến chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao: Trong thực tế hoạt động của chính mình, VDB luôn than phiền không đủ vốn cho khách hàng vay, song những năm gần đây ICOR của chúng ta xấp xỉ 8. Như vậy rõ ràng chất lượng các khoản vay chưa thật sự là tốt, rồi việc VDB cũng góp phần đưa các khoản vay theo chỉ đạo đến các tổng công ty, tập đoàn kinh tế Nhà nước có nhiều dự án đầu tư không đúng lĩnh vực có thế mạnh kinh doanh. Do vậy, đã ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tăng trưởng của quốc gia. Cùng với đó, nhiều chương trình dự án lớn của quốc gia bị đổ bể, không đạt được kết quả như mong đợi, gây lãng phí nguồn lực quốc gia. Hoặc ngày 28/11/2008 Thủ tướng Chính Phủ có Công văn số 2081/TTg-KTTH, giao cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam (NHPT) thực hiện bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNNVV) khi vay vốn của các tổ chức tín dụng để sản xuất kinh doanh. Kết quả sau 7 năm thực hiện chính sách trợ giúp phát triển DNNVV, chỉ có 7/63 tỉnh (thành phố) thành lập Quỹ bảo lãnh DNNVV là: Đồng Tháp, Tp Hồ Chí Minh, Trà Vinh, Vĩnh Phúc, Yên Bái, Bình Thuận, Bắc Ninh, Hà Giang, Kiên Giang, với mức vốn điều lệ mỗi Quỹ là 30 tỷ đồng (riêng Thành phố Hồ Chí Minh - Quỹ đầu tư phát triển đô thị có tổng vốn là 50 tỷ đồng). Điều đáng nói ở đây là mục đích hoạt động các Quỹ này là bảo lãnh cho doanh nghiệp là không đáng kể. Hộp 11:VDB cho VRG vay vốn đầu tư dự án không thuộc lĩnh vực kinh doanh chính. Thực tế cho chúng ta thấy rằng, việc các tổng công ty Nhà nước tham gia đầu tư ra khỏi ngành, lĩnh vực hoạt động của chính mình có sự tham gia cho vay của chính VDB. Ngày 1/10/2010, tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG) và Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) vừa ký bản hợp đồng tài trợ vốn xây khu đô thị tại tỉnh Tây Ninh. Theo đó, VRG với đại diện của mình là Công ty Cổ phần Đầu tư Sài Gòn VRG sẽ đứng ra nhận khoản vay của VDB trị giá 1.176 tỷ đồng, với thời hạn 6 năm để đầu tư dự án khu công nghiệp - đô thị, dịch vụ Phước Đông tại tỉnh Tây Ninh.  Dự án có tổng vốn mức đầu tư giai đoạn 1 gần 5.000 tỷ đồng với quy mô 2.190 ha thuộc địa phận các xã Phước Đông, Bàu Đồn thuộc huyện Gò Dầu và Đôn Thuận. -Gia tăng gánh nặng cho ngân sách Nhà nước: Hàng năm ngân sách quốc gia giao cho VDB 1 lượng tiền nhất định và chỉ đạo VDB hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Điều này ghi rất rõ khi thành lập VDB là Nhà nước sẽ lo tính thanh khoản, lo vốn, miễn thuế cho VDB (Vốn phát hành trái phiếu chính phủ (TPCP) bình quân 3 năm (2006-2009) chiếm 55% tổng nguồn huy động;). Nhưng do nhu cầu vốn cho phát triển cao, số vốn này thường được VDB hỗ trợ cho doanh nghiệp hết, hơn nữa lượng vốn thu hồi hàng năm từ các khoản tín dụng đầu tư lại không đủ, mà điều khoản thành lập VDB ghi rõ VDB hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, do đó nếu tính ra để bù đắp khoản tiền cho vay của VDB bị mất do mất giá vì lạm phát còn khó nữa là việc VDB sẽ có lãi. Vì vậy VDB sẽ lại được ngân sách rót vốn, chưa kể các khoản trái phiếu chính phủ giao cho VDB cho vay. Nếu như công tác thẩm định dự án không tốt, nợ xấu nhiều và kéo dài sẽ ảnh hưởng xấu tới tài chính công. Như vậy, Nhà nước với sự tài trợ và ưu đãi cho VDB bằng ngân sách là gánh nặng về tài chính cho chính mình trong tương lai. Hộp 12:VDB thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về thực hiện các giải pháp kiềm chế lạm phát năm 2011. Thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, Ngân hàng Phát triển Việt Nam đã điều chỉnh giảm kế hoạch giải ngân tín dụng cho các dự án đầu tư 10,5% (khoảng 3.000 tỷ đồng) so với kế hoạch tín dụng đầu tư được Thủ tướng Chính phủ giao năm 2011. Theo kế hoạch giải ngân vốn tín dụng cho các dự án năm 2011 là 28.000 tỷ đồng, sau khi cắt giảm 3.000 tỷ đồng, Ngân hàng Phát triển Việt Nam sẽ dành 1.500 tỷ đồng dự phòng để xử lý vốn cho các dự án có thể rút ngắn thời gian thi công, hoàn thành sớm hơn dự kiến và được phân bổ trong quí IV/2011. Số vốn 23.500 tỷ đồng, Ngân hàng Phát triển Việt Nam bố trí vốn cho 259 dự án, trong đó tập trung ưu tiên vào các nhóm dự án chắc chắn hoàn thành đưa vào sử dụng năm 2011, các chi phí chăm sóc rừng và phòng chống cháy rừng của các dự án trồng rừng, các dự án an sinh xã hội, các dự án đảm bảo năng lượng điện, một số dự án trọng điểm theo chương trình của Chính phủ… …Cùng với việc thực hiện các nhiệm được giao, Ngân hàng Phát triển Việt Nam đã cắt giảm đầu tư xây dựng cơ bản và trang bị tài sản nội ngành với số tiền trên 48 tỷ đồng, cắt giảm 10% chi tiêu thường xuyên./. Nguồn: Hộp13: Nghị quyết của Chính phủ về kiềm chế lạm phát năm 2011.(Nguồn: ) Ngày 24/2/2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết 11/NQ-CP về 6 nhóm giải pháp chủ yếu để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách hiện nay là kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. “….Giải pháp thứ hai là thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân sách nhà nước. Chính phủ yêu cầu các Bộ, cơ quan, địa phương chủ động sắp xếp lại các nhiệm vụ chi để tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên của 9 tháng còn lại trong dự toán năm 2011 (không bao gồm chi tiền lương và các khoản có tính chất lương, chi chế độ chính sách cho con người và tiết kiệm 10% chi thường xuyên để tạo nguồn cải cách tiền lương theo kế hoạch đầu năm). Bội chi ngân sách sẽ được giảm xuống dưới 5% GDP (Quốc hội phê duyệt là 5,3%); tổng đầu tư toàn xã hội theo kế hoạch là 40-41% sẽ giảm xuống 38%. Không ứng trước vốn ngân sách, trái phiếu chính phủ năm 2012 cho các dự án (trừ các dự án phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai cấp bách); thu hồi nguồn vốn từ các dự án bị kéo dài về ngân sách trung ương để bổ sung vốn cho các công trình, dự án hoàn thành trong năm 2011; Ngân hàng Phát triển Việt Nam giảm tối thiểu 10% kế hoạch đầu tư từ nguồn vốn tín dụng nhà nước….” -Ảnh hưởng không tốt tới quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam: Khi thành lập VDB, Việt Nam đã thực hiện một bước quan trọng của mình trong lĩnh vực cho vay phát triển khi tách ngân hàng chính sách ra khỏi ngân hàng thương mại Nhà nước. Tuy nhiên, việc Nhà nước quá ưu đãi với các doanh nghiệp cũng chưa hẳn là tốt. Vì lí do về lâu dài, việc VDB không đặt mục tiêu lợi nhuận, các doanh nghiệp được vay vốn có xu hướng ỷ lại, giảm hẳn tính cạnh tranh sâu sắc khi chúng ta hội nhập. -Hiệu quả thúc đẩy kinh tế các vùng/miền kinh tế, ngành kinh tế còn chưa cao: Một số dự án được đánh giá là cú hích với phát triển kinh tế vùng miền chưa đạt như mong muốn, thậm chí không muốn nói là đã thất bại, nợ xấu tăng cao, hiệu quả kinh tế không có. Ví dụ mới nhất là hỗ trợ vay vốn chương trình nhà ở xã hội theo báo cáo của Ngân hàng Phát triển hiện trong tổng số 44 dự án nhà ở giá rẻ trên cả nước với tổng mức đầu tư 6.600 tỉ đồng, chưa có bất kỳ dự án nào vay được vốn từ VDB theo chính sách ưu đãi của chương trình. Hộp 14 :Thất bại của DAF tại chương trình phát triển sản xuất mía đường và đánh bắt xa bờ. Theo báo cáo của quỹ HTPT, đến ngày 31/12/2003 có 1551 DA có nợ quá hạn, (Trong đó có 1528 DA sử dụng vốn trong nước và 23 DA là vốn ODA cho vay lại) với tổng nợ quá hạn là 1185 tỷ VND, lãi treo là 950 tỷ. Chủ yếu là 2 dự án Chương trình đánh bắt xa bờ và chương trình phát triển sản xuất mía đường, nợ qúa hạn và lãi treo 2 dự án này chiếm 40% nợ quá hạn và lãi treo của toàn bộ hệ thống quỹ HTPT. -Nhiều dự án có ảnh hưởng xấu tới môi trường và sự bền vững của phát triển kinh tế đất nước: Chưa có một thống kê đầy đủ về số dự án thủy điện được VDB cho vay vốn tín dụng đầu tư, song qua những gì thu thập được cho thấy, các dự án thủy điện hầu hết đều có số vốn trung bình khoản trăm tỷ đến con số nghìn tỷ, vậy chắc chắn,VDB sẽ được chính phủ ủy thác cho doanh nghiệp vay vốn làm thủy điện, loạn thủy điện tại miền Trung rồi hậu quả mà lũ lụt đi qua nơi này đã cho chúng ta thấy rõ hậu quả của chính điều đó. 3.2.3.Đối với các doanh nghiệp Đối với doanh nghiệp chúng tôi cho rằng có hai hạn chế lớn khi tiếp cận tín dụng đầu tư: -Một là, DN thiếu thông tin về chương trình cho vay vốn, bị hạn chế do thủ tục cho vay rườm rà, quy định chồng chéo, hướng dẫn của cấp trên, do VDB vừa hoạt động cho vay trên thị trường vừa là cơ quan chịu sự chỉ đạo của chính phủ. Hộp 15 :Ghi nhận khó khăn khi triển khai vay vốn của VDB. Nguồn :VDB Tại hội nghị khách hàng cuối nẩm 2009, Tổng giám đốc VDB cũng rất chia sẻ với các doanh nghiệp khi nhiều dự án triển khai chậm, “không làm gì được”, đặc biệt các dự án về rác thải (có nghị định nhưng chưa có thông tư hướng dẫn). Hay đối với lĩnh vực khai thác mỏ: “Thời gian qua chúng tôi cũng du di một số trường hợp, nhưng theo quy định không có giấp phép khai thác mỏ thì không giải ngân được, mà doanh nghiệp phản ánh là để có được giấy phép nay phải có 33 con dấu. Thực tế, nhiều nhà máy xi măng đã sản xuất ra sản phẩm rồi nhưng vẫn chưa có giấy phép khai thác mỏ nên cũng chịu. Bây giờ phải giải quyết câu chuyên này như thế nào vừa hài hoà, vừa đúng pháp lụât?” -Hai là, vốn vay nhiều khi vẫn chưa đáp ứng kịp thời khi DN có yêu cầu vay vốn cho các dự án, chương trình sản xuất của chính họ. Hộp 17:Phản ánh của Doanh nghiệp khi vay vốn tại VDB. (Nguồn:VDB-Hội nghị gặp gỡ khách hàng của giám đốc VDB cuối năm 2009.) “…Một thực tế được nhiều doanh nghiệp phản ánh, mặc dù nguồn vốn hỗ trợ cho doanh nghiệp không nhiều nhưng lúc doanh nghiệp cần thì không có, nhất là khi doanh nghiệp cần dự trữ thì tiền về nhỏ giọt, khi doanh nghiệp bán được hàng thì tiền mới về. Ông Dũng cho biết, trong năm 2010, VDB sẽ phối hợp chặt chẽ với Bộ Công thương dưa vốn ra theo tín hiệu thị trường. Một trong những nguyện vọng của nhiều doanh nghiệp xuất khẩu là có kho ngoại quan ở nước ngoài để giảm bớt được chi phí lưu thông, VDB cũng sẽ báo cáo Thủ tướng Chính phủ để hình thành các kho ngoại quan ở nước ngoài bằng nguồn vốn tín dụng nhà nước và của doanh nghiệp, trước mắt sẽ xây dựng kho ngoại quan ở nước ngoài…” 3. Các nguyên nhân cho những tồn tại về hoạt động đầu tư tín dụng tại Việt Nam 3.1. Nguyên nhân từ chính sách và môi trường triển khai hoạt động đầu tư tín dụng phát triển - Chính sách chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và chưa hợp lý: + Hệ thống các văn bản pháp luật trong đầu tư xây dựng cơ bản còn chưa đầy đủ, chưa đồng bộ, tính pháp chế chưa cao. + Chất lượng các quy hoạch phát triển chưa cao, khả năng hoạch định chính sách của các cơ qua chức năng còn hạn chế, chưa mang tính chiến lược dài hạn, không ổn định. + Chính sách hỗ trợ đầu tư trong giai đoạn 2000-2005 còn chưa nhất quán, còn dàn trải, đối tượng hỗ trợ không thể hiện rõ trọng tâm trọng điểm, dẫn đến không tập trung được nguồn lực thích đáng cho các mục tiêu chiến lược và gây lãng phí vốn, một số đối tượng không phù hợp vì thuộc diện trợ cấp “ đèn đỏ” theo quy định của WTO, dẫn đến tác động không tích cực tới quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. + Việc quy định lãi suất ưu đãi ở mức quá thấp so với lãi suất thị trường trong một thời gian dài đã gây căng thằng về vốn và tác động không tốt tới thị trường tài chính. + Chính sách tín dụng Nhà nước theo các quy định trước đây thiếu chặt chẽ, không đầy đủ; thủ tục hành chính còn phiền phức, chịu sự can thiệp của quá nhiều cấp, bộ, ngành khác nhau. + Các quy định hiện nay về bảo đảm tiền vay, trích phòng ngừa rủi ro và xử lý rủi ro, chế độ kế toán không hợp lý đang tiếp tục làm gia tăng các nguy cơ rủi ro về thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro tài chính. + Chính phủ chưa xác định rõ vai trò và định hướng phát triển dài hạn cho hoạt động ĐTPT của Nhà nước; mô hình tổ chức của Quỹ Hỗ trợ phát triển không hợp lý, chưa xây dựng được cơ chế bắt buộc Quỹ HTPT/ NHPTVN phải tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong hoạt động. - Môi trường triển khai còn chứa đựng nhiều yếu tố bất lợi: + Thị trường tiềm ẩn nhiều nhân tố không ổn định: lãi suất, tỷ giá, giá cả,..biến động mạnh theo chiều hướng tăng liên tục, nhiều dự án rất khó huy động thêm vốn để đầu tư. + Năng lực về tài chính và kỹ thuật của các nhà thầu/ đơn vị thi công trong nước còn hạn chế, dẫn đến chất lượng công trình, tiến độ thi công bị ảnh hưởng, đặc biệt việc chậm tiến độ. + Tổ chức bộ máy gồm chủ đầu tư, tư vấn, thẩm định, thi công, giám sát thi công, kiểm tra, thanh tra, quyết toán đều nằm trong một Bộ đã tạo ra “ đường dây khép kín”, gây khó khăn cho công tác kiểm tra, giám sát. + Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, phê duyệt thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán, tổ chức và phê duyệt kết quả đấu thầu kéo dài. + Thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành quản lý lĩnh vực đầu tư và xây dựng, năng lực hạn chế của chủ đầu tư và đại diện chủ đầu tư ( ban quản lý dự án); khó khăn về tài chính của các nhà thầu… + Công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát đầu tư và xử lý vi phạm chưa thường xuyên và chưa nghiêm, ảnh hưởng đến chất lượng đầu tư, gián tiếp ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. 3.2. Nguyên nhân từ cơ quan tổ chức thực hiện (Ngân hàng phát triển Việt Nam) - Chính sách quản trị rủi ro tín dụng còn nhiều điểm chưa hợp lý: + Việc thẩm định mới chỉ thực hiện theo dự án chứ không phải thẩm định theo chủ đầu tư/doanh nghiệp trong khi hệ thống thông tin không liên kết, thống nhất và phân cấp thẩm quyền trong việc thẩm định và duyệt vay đối với các Chi nhánh khá nhiều. + Năng lực thẩm định yếu. + Chưa xây dựng được hệ thống kiểm soát nội bộ chặt chẽ, chưa có chế tài kiểm tra gắt gao và xử lý nghiêm việc triển khai thực hiện quy chế, quy trình thẩm định và quyết định phân cấp. Công tác phòng ngừa rủi ro tín dụng còn hạn chế. Quỹ HTPT chưa có hệ thống cảnh báo rủi ro tín dụng để có những biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng phù hợp. Hệ thống hạn mức và hạn chế tín dụng chưa được nghiên cứu và thiết lập phù hợp với những đặc thù hoạt động của mình. (theo ngành, khách hàng, nhóm khách hàng,..) + Hệ thống phân loại nợ vay chưa phù hợp, chưa bao quát được hết khả năng thu hồi nợ và khả năng rủi ro của món vay. Chưa chú ý đúng mức đến việc đánh giá năng lực của khách hàng trong phân loại nợ, vay. Chưa tách bạch giữa quản lý nợ vay tốt và nợ vay xấu. Việc xử lý rủi ro chưa tách bạch với quản lý tín dụng. Việc theo dõi quản lý, đánh giá lại tài sản đảm bảo tiền vay chưa sát sao. Phân tích, xử lý tài sản bảo đảm nợ vay đối với các khoản nợ xấu chưa được quy định cụ thể. - Hệ thống thông tin còn yếu kém. - Tổ chức bộ máy quản trị không hợp lý và chất lượng nguồn nhân lực tổ chức thực hiện chưa đáp ứng yêu cầu: + Cùng với hệ thống ứng dụng thông tin kém, tổ chức bộ máy nội bộ của Quỹ HTPT cũng không phù hợp: sự phân định chức năng / nhiệm vụ giữa các đơn vị còn lỏng lẻo và chủ yếu mang tính hành chính. Hệ thống các chi nhánh rộng rãi trên toàn quốc nhưng do hệ thống thông tin yếu kém nên việc theo dõi, quản lý các chi nhánh đạt chất lượng rất thấp. Nhiều đầu mối chi nhánh không phát huy được vai trò của mình do không có dự án để hỗ trợ, dẫn đến tốn kém chi phí hoạt động. + Về chất lượng nguồn nhân lực, phần lớn các bộ chưa được cập nhật , đào tạo một cách bài bản về rủi ro, và quản trị rủi ro trong hoạt động của mình, trang bị kiến thức pháp lý còn hạn chế, giáo dục về trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp chưa thường xuyên. Việc tuyển dụng, bố trí, sắp xếp cán bộ còn chưa theo yêu cầu của công việc, chưa theo trình độ, năng lực, chuyên môn được đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nên cũng ảnh hưởng phần nào đến chất lượng công việc. Trình độ Tiếng Anh của đại bộ phận còn kém. Văn minh nghề nghiệp, “ văn hoá doanh nghiệp” còn chưa được hình thành, áp dụng. 3.3. Nguyên nhân từ phía các doanh nghiệp: - Năng lực của các doanh nghiệp chưa cao, trình độ kỹ thuật và quản lý còn nhiều hạn chế, doanh nghiệp không kiểm soát được luồng tiền, dẫn đến mất khả năng thanh toán, không trả được nợ. - Tính tự chủ của doanh nghiệp chưa cao, một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp vẫn cho rằng vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước là “ bầu sữa” trợ cấp. Một số chủ đầu tư, thậm chí là cả các cấp chính quyền địa phương cố tình chây ỳ không trả nợ vay. để tồn đọng nợ quá hạn ( gốc + lãi ) kéo dài, gia tăng nguy cơ rủi ro tín dụng. Chương III. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển tới năm 2020 1. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng ĐTPT đến năm 2020 1.1. Ổn định môi trường KT-XH và hoàn thiện hệ thống pháp luật - Tiếp tục xây dựng đồng bộ và hoàn thiện các loại thị trường đi đôi với xây dựng khuôn khổ pháp lý về thể chế, để thị trường hoạt động năng động, có hiệu quả, có kỷ cương trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh; chống buôn lậu và gian lận thương mại, ổn định giá cả, không để xảy ra những cú sốc lớn. - Phát triển thị trường vốn và tiền tệ, nhất là thị trường vốn trung-dài hạn. Tổ chức và vận hành an toàn, hiệu quả thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm, từng bước mở rộng quy mô và phạm vi hoạt động, kể cả việc thu hút vốn nước ngoài. Phát triển các loại thị trường dịch vụ khoa học, công nghệ, sản phẩm trí tuệ, dịch vụ bảo hiểm, các dịch vụ tư vấn và phục vụ sản xuất kinh doanh... - Nhà nước cần tập trung làm tốt chức năng hoạch định chiến lược, quy hoạch và kế hoạch định hướng phát triển; đổi mới thể chế quản lý, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; điều tiết thu nhập hợp lý; xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ. - Tăng cường kiểm tra giám sát việc thực hiện; giảm mạnh sự can thiệp bằng biện pháp hành chính vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đơn giản hóa các thủ tục hành chính; công khai hóa và thực hiện đúng trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong quan hệ với doanh nghiệp và nhân dân. - Tiếp tục rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách và các quy chế nghiệp vụ về tín dụng, đầu tư, bảo đảm tiền vay, ngoại hối, huy động vốn, kế toán và thanh toán…; nâng cao tính tự chịu trách nhiệm của từng bộ phận nghiệp vụ, từng cá nhân và người đứng đầu các đơn vị, tổ chức. Hoàn thiện mô hình hoạt động của VDB, ban hành Nghị định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của VDB theo hướng tăng cường chức năng, nhiệm vụ và tính tự chủ của tổ chức này. -  Đề xuất xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hướng dẫn có liên quan để tăng cường tính pháp lý, tạo sự đồng bộ, nhất quán và hoàn chỉnh của hệ thống chính sách và pháp luật về tín dụng ĐTPT của Nhà nước. - Tín dụng ĐTPT của Nhà nước được hoạch định bảo đảm bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; hỗ trợ có hiệu quả phục vụ mục tiêu tăng trưởng, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; đa dạng hoá các hình thức hỗ trợ để đáp ứng nhu cầu đa dạng của các nhà đầu tư, chuyển dần từ ưu đãi về lãi suất sang ưu đãi về mức hỗ trợ, thời hạn hỗ trợ… 1.2. Hoàn thiện chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà nước theo hướng minh bạch hoá, nâng cao tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của HNPTVN 1.2.1. Hoàn thiện chính sách và cơ chế kế hoạch hoá tín dụng ĐTPT của Nhà nước - Về đối tượng hỗ trợ: Cần thể hiện một cách rõ ràng và kiên định các định hướng chiến lược phát triển KT-XH theo ngành, vùng lãnh thổ; danh mục các đối tượng phải đảm bảo tính ổn định tương đối phù hợp với kế hoạch phát triển KT-XH theo chu kỳ 5 năm. Theo đó, các đối tượng cần tập trung vμo các lĩnh vực công nghiệp trọng điểm, có lợi thế so sánh của quốc gia gắn kết chặt chẽ vμ phù hợp, phân biệt theo từng vùng lãnh thổ. - Về lãi suất cho vay: Việc quyết định lãi suất cho vay cần do chính cơ quan cho vay (NHPTVN) quyết định trên cơ sở đánh giá mức độ rủi ro của dự án và khả năng cân đối của NHPTVN, theo đó có thể lựa chọn xác định các mức lãi suất sao cho:i) đủ cao để có thể bù đắp được các hoạt động (hiển nhiên là phải cao hơn lãi suất huy động); ii) đủ thấp để thu hút các nhà đầu tư có các dự án đúng đối tượng. Cần nâng cao tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm của NHPTVN trong việc quyết định tài trợ. - Về huy động vốn: Cần trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho NHPTVN trong việc quyết định và lãi suất huy động theo kế hoạch tổng thể hàng năm (bao gồm cả việc huy động nội tệ và ngoại tệ) nhằm đảm bảo tính chủ động, huy động đủ vốn đáp ứng nhu cầu ĐTPT của đất nước. Sự hỗ trợ của Nhà nước là việc đảm bảo khả năng thanh toán cho NHPTVN và bảo lãnh cho các khoản huy động vốn của NHPTVN. - Về trích dự phòng rủi ro và xử lý rủi ro: Trao quyền chủ động cho NHPTVN trong việc trích lập dự phòng rủi ro và xử lý rủi ro, phù hợp với thông lệ hoạt động ngân hàng trong nước cũng như quốc tế. - Về các hình thức hỗ trợ: cần đa dạng hoá. 1.2.2. Công khai hoá thông tin Xây dựng cơ chế bắt buộc NHPTVN công khai hoá kết quả hoạt động, đây là biện pháp tạo động lực để tổ chức này tự hoàn thiện mình. Đơn giản hóa và công khai quy trình cho vay. Rà soát loại bỏ một số thủ tục không cần thiết, hoàn thiện quy trình theo hướng đơn giản dễ hiểu và dễ thực hiện; quy định cụ thể trình tự và thời gian thực hiện các bước của quy trình vay vốn. Khi quy trình thay đổi, cần có sự tập huấn cho Chi nhánh về việc vận dụng quy trình mới ban hành; công khai quy trình cho vay và phải phổ biến cho các khách hàng biết khi quy trình thay đổi; đồng thời Ngân hàng cần tổ chức cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho khách hàng trong việc vay vốn.     Ngoài việc cải tiến quy trình, thủ tục cho vay của nội bộ mình, VDB cần phối hợp với các ngành nhằm cải cách các thủ tục liên quan để giảm thiểu các thủ tục cho khách hàng. Có như vậy mới kích thích các nhà đầu tư tham gia đầu tư vào những án mà nhà nước cần khuyến khích đầu tư. 1.3. Hoàn thiện mô hình tổ chức hoạt động NHPTVN Mô hình NHPTVN cần được hoàn thiện theo đúng nghĩa của một ngân hàng phát triển thực thụ là: - Nhiệm vụ và phạm vi hoạt động được qui định rõ trong Điều lệ hoặc các qui định liên quan. “Tổ chức phi lợi nhuận” không có nghĩa là “Tổ chức làm ăn thua lỗ”. - Mô hình tổng quát của Ngân hàng phát triển sẽ là: (i) Một ngân hàng chínhsách 100% vốn Nhà nước, tự chủ trong hoạt động và tự chịu trách nhiệm; (ii) Tín dụng ĐTPT của Nhà nước không cạnh tranh với các tổ chức tư nhân. Nên giới hạn ở những dự án mà khu vực tư nhân không muốn hoặc không đủ nguồn lực tài trợ nhưng phải đảm bảo hiệu quả kinh tế-xã hội một cách tích cực, có khả năng trả nợ (khắc phục khuyết tật của thị trường, cơ chế vì đồng tiền). (iii) Về quản lý tài chính, Chính phủ (Bộ Tài chính) quản lý theo tổng lượng (tổng mức vốn trong nước và quốc tế...); Về quản lý tiền tệ và tín dụng, Chính phủ (Ngân hàng Nhà nước) quản lý theo tỷ lệ (các tỷ lệ và tiêu chuẩn an toàn tín dụng). (iv) Chính phủ cấp vốn Điều lệ và bảo đảm khả năng thanh toán; (v) Chịu sự kiểm toán độc lập. 1.4. Xây dựng chiến lược phát triển dài hạn cho NHPTVN Mục tiêu chiến lược tổng quát đối với NHPTVN là: vững mạnh về tổ chức, dồi dào về tài chính, hiện đại về công nghệ, văn minh và đa dạng về dịch vụ để phục vụ đắc lực hơn cho thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu. Xây dựng NHPTVN trở thành một ngân hàng chuyên nghiệp của Chính phủ, là công cụ của Chính phủ trong thực hiện chính sách ĐTPT và thúc đẩy xuất khẩu. Phát triển toàn diện hoạt động của NHPTVN theo hướng hiện đại, đạt trình độ phát triển trung bình tiên tiến trong khu vực ASEAN, có quy mô hoạt động lớn hơn, tài chính lành mạnh, đồng thời tạo nền tảng đến sau năm 2010 đạt trình độ tiên tiến trong khu vực Châu Á, đáp ứng đầy đủ các chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng. Bảo đảm hoạt động của NHPTVN theo nguyên tắc hướng thị trường và không vì mục đích lợi nhuận. Phát triển hoạt động của NHPTVN thực hiện song hành với tiến trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng. Bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động của NHPTVN, nâng cao năng lực quản lý, trình độ nghiệp vụ và hiệu quả hoạt động ngân hàng. Gắn cải cách NHPTVN với chiến lược phát triển của nền kinh tế đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Phương châm hành động là: An toàn hiệu quả - hội nhập quốc tế - phát triển bền vững Một số chỉ tiêu cụ thể trong giai đoạn 2006-2010: (i) Tổng số vốn cung ứng (vốn trong nước và vốn ODA cho vay lại) cho nền kinh tế giai đoạn 2006-2010: 170.000 tỷ đồng, tăng trưởng 50% so với giai đoạn 2001-2005. (ii) Nguồn vốn trong nước hàng năm chiếm khoảng 50%-60% tổng nguồn vốn hoạt động giai đoạn đến năm 2010; chiếm 40%- 50% tổng nguồn vốn hoạt động giai đoạn sau năm 2010. (iii) Tổng số huy động vốn trong nước (chưa tính số thu nợ) giai đoạn 2006-2010: 122.000 tỷ đồng; trong đó huy động qua phát hành trái phiếu chiếm ít nhất 50%. (iv) Tỷ lệ nợ xấu/Tổng dư nợ (theo chuẩn quốc tế) đến năm 2010: dưới 5%. (v) Tỷ lệ an toàn vốn đến năm 2010: đạt yêu cầu theo chuẩn mực quốc tế (không dưới 8%). 1.5. Nâng cao năng lực quản trị rủi ro của NHPTVN Một là, chuẩn hóa các quy trình nghiệp vụ tín dụng: - Công tác thẩm định cần được thay đổi một cách căn bản trên cơ sở việc quản lý tín dụng theo chủ đầu tư/doanh nghiệp/khách vay. Hạn chế phân cấp để giảm thiểu rủi ro về cơ cấu tín dụng, giảm sức ép từ chính quyền địa phương; xây dựng các cẩm nang nghiệp vụ. Xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng, cải tiến phương pháp phân loại nợ. -Hiện đại hoá quy trình thẩm định dự án, ứng dụng phần mềm phục vụ cho công tác thẩm định, phân tích tài chính, truy cập thông tin, triển khai hệ thống này đến các cấp quản lý tín dụng cần thiết. Bố trí những cán bộ có trình độ, kinh nghiệm và có đạo đức trong việc thẩm định dự án. Thẩm định dự án có nhiều lĩnh vực khác nhau, cán bộ thẩm định cần tham khảo và tìm hiểu thông tin dự án có cùng lĩnh vực đầu tư để đưa ra các nhận định chính xác. Thẩm định dự án không chỉ thẩm định cho vay mà cần tái thẩm định sau cho vay để đánh giá hiệu quả của dự án đầu tư, từ đó rút ra kinh nghiệm cho việc thực hiện các dự án sau được tốt hơn. Tổ chức đào tào, đào tạo lại cán bộ thẩm định về chuyên môn nghiệp vụ. Hai là, trích lập dự phòng rủi ro tín dụng đầy đủ, đúng thông lệ trong nước, quốc tế. Xây dựng hệ thống kiểm soát rủi ro. Để sử dụng nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước có hiệu quả và đảm bảo tính an toàn, lành mạnh trong hoạt động cấp tín dụng, cần xây dựng một mô hình quản lý rủi ro tín dụng phù hợp với VDB. Trên cơ sở những nguyên tắc Basel về quản lý nợ xấu và đặc thù của hoạt động tín dụng ĐTPT tại VDB, những định hướng có thể áp dụng trong xây dựng hệ thống quản trị rủi ro tín dụng như sau: Thực hiện phân tách chức năng bán hàng, chức năng thẩm định, quản lý rủi ro tín dụng và chức năng quản lý nợ trong hoạt động cấp tín dụng cho các doanh nghiệp; Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm pháp lý của bộ phận quan hệ khách hàng, quản lý rủi ro tín dụng và quản lý nợ; Tiêu chuẩn hóa cán bộ theo dõi rủi ro tín dụng để đáp ứng các yêu cầu của nguyên tắc Basel, theo đó, cần xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý rủi ro tín dụng có kinh nghiệm, kiến thức và khả năng nhanh nhạy khi xem xét, đánh giá các đề xuất tín dụng; Xây dựng cơ chế trao đổi thông tin hiệu quả, đảm bảo sự liên lạc thường xuyên, liên tục và cập nhật kịp thời các thông tin trọng yếu giữa các bộ phận chức năng trong hoạt động cấp tín dụng; Nâng cao tính thực tiễn và khả năng đánh giá chính xác của hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, thực hiện xếp hạng tín dụng theo định kỳ và duy trì một cách liên tục để làm cơ sở trong xây dựng chính sách khách hàng về giới hạn tín dụng, áp dụng hình thức bảo đảm tiền vay thích hợp, các định hướng tín dụng với từng khách hàng. Ba là, hoàn thiện chế độ kế toán phù hợp với thông lệ chung của ngân hàng, phù hợp với các chuẩn mực kế toán và theo hướng dẫn của ủy ban Basel về giám sát hoạt động Ngân hàng. Bốn là, quản lý nguồn vốn tập trung và xây dựng chiến lược huy động vốn - Hoạt động tín dụng ĐTPT của Nhà nước tiếp tục cần phải có các nguồn vốn với sự bảo lãnh của Chính phủ đối với trái phiếu do NHPTVN phát hành. - NHPTVN cần xây dựng và triển khai Chiến lược về huy động vốn cho hoạt động tài trợ giai đoạn 2006-2010. Từng bước nghiên cứu, đổi mới công tác kế hoạch hoá và tăng cường quản lý chặt chẽ nguồn vốn theo hướng tập trung trong toàn hệ thống; cải thiện cơ cấu vốn để hạn chế rủi ro kỳ hạn, gắn chặt với quản lý rủi ro theo ngành nghề và vũng lãnh thổ. Phương hướng chiến lược lâu dài vẫn là huy động từ thị trường mà trong đó từ thị trường trái phiếu là trọng tâm nhằm thu hẹp khe hở kỳ hạn, đa dạng hoá các hình thức huy động và loại tiền huy động là cần thiết. - Từng bước hình thành tổ chức kinh doanh vốn tại Hội sở chính; - Sử dụng những biện pháp xác định lãi suất hợp lý, kể cả việc xem xét lại theo định kỳ và/hoặc áp dụng lãi suất thả nổi cho những dự án có thời hạn dài. Năm là, thực hiện tái cấu nợ trong tín dụng ĐTPT của Nhà nước nhằm lành mạnh hoá tín dụng, tăng độ tín nhiệm để huy động vốn, phù hợp với xu hướng cải cách hệ thống tài chính-ngân hàng Việt nam. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các dự án; hợp tác chặt chẽ với các chủ đầu tư để xử  lý nợ quá hạn. Kiểm  tra, giám sát việc sử dụng tiền vay là một việc làm cần thiết để phòng ngừa và ngăn chặn rủi ro tín dụng. Kiểm tra, giám sát chặt chẽ, thường xuyên sẽ giúp VDB phát hiện kịp thời những biểu hiện sai phạm của doanh nghiệp như sử dụng vốn sai mục đích, tẩu tán tài sản, âm mưu lừa đảo, đồng thời giúp VDB luôn bám sát tình hình hoạt động thực tế của dự án, nắm được những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình thực hiện dự án của doanh nghiệp để có biện pháp đối phó kịp thời. Trong quá trình kiểm tra nếu phát hiện thấy doanh nghiệp gặp khó khăn không thể thực hiện việc trả nợ theo đúng hợp đồng, VDB có thể áp dụng một hoặc kết hợp một trong nhiều biện pháp như: tư vấn, hướng dẫn cho doanh nghiệp trên nhiều khía cạnh nhằm tác động đến khả năng tạo ra và thu được lợi nhuận; đề nghị doanh nghiệp quản lý chặt chẽ ngân quỹ chi tiêu, tổ chức lại hệ thống sản xuất kinh doanh, thay đổi máy móc thiết bị và công nghệ. Nếu xét thấy việc áp dụng các biện pháp khai thác là không thuận lợi và không có hy vọng thu hồi được nợ thì VDB sẽ áp dụng biện pháp thanh lý để xử lý các khoản nợ khó đòi. Nếu do nguyên nhân khách quan, bất khả kháng (tai nạn, thiên tai, trộm cắp) khiến doanh nghiệp không trả được nợ thì VDB có thể xem xét gia hạn hoặc điều chỉnh hợp đồng cho vay tương ứng với kỳ hạn có thể thu tiền của doanh nghiệp và theo đúng quy trình của VDB. VDB cần phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, Tổng công ty và Chính quyền địa phương để được hỗ trợ các biện pháp thu hồi nợ. Thực hiện thường xuyên việc phân loại nợ hàng quý, với từng tiêu chí cụ thể để tìm biện pháp cụ thể cho từng dự án có nợ quá hạn. Sáu là, xây dựng quan hệ hợp tác, phối hợp chặt chẽ với các ngân hàng trong và ngoài nước. Bảy là, từng bước đa dạng hóa nghiệp vụ: bảo lãnh, bảo hiểm tín dụng, cho thuê tài chính, hỗ trợ trong huy động vốn của doanh nghiệp qua phát hành trái phiếu... Tám là, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng và quản lý cán bộ. Hoàn thiện hệ thống chính sách quản lý nguồn nhân lực và thực hiện khuyến khích lao động có hiệu quả. Tuyển dụng, bố trí, luân chuyển, đánh giá, đề bạt và đãi ngộ cán bộ dựa trên cơ sở năng lực, trình độ thực tế của cán bộ và tính chất, yêu cầu của công việc. Hoàn thiện các quy chế về quyền và nghĩa vụ của cán bộ. Thực hiện nguyên tắc dân chủ và minh bạch trong công tác cán bộ. Tăng cường và đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng trình độ quản lý và chuyên môn cán bộ các cấp. Tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ cập nhật kiến thức, học tập nâng cao trình độ chuyên môn, khuyến khích sáng tạo, động viên sự tự thân học tập của cán bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ tham gia các khóa đào tạo ngắn và dài hạn bên ngoài như học ngoại ngữ, văn bằng 2, sau đại học... Xây dựng kế hoạch hợp tác đào tạo, trao đổi, nghiên cứu với các ngân hàng, tổ chức tài  chính có uy tín trong nước và trên thế giới để tạo điều kiện cho đội  ngũ cán bộ được tiếp cận với  những công nghệ  hàng  mới, học hỏi những kinh nghiệm quản trị, điều hành của các tổ chức này Chín là, hiện đại hóa trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin. Đẩy mạnh việc ứng dụng thông tin công nghệ. Tiếp tục nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin với các giải pháp kỹ thuật và phương thức hiện đại phù hợp với trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng như các chuẩn mực, thông lệ quốc tế. Phát triển, ứng dụng các mô thức quản lý nghiệp vụ ngân hàng cơ bản theo hướng hiện đại, tự động hoá và được tích hợp trong hệ thống quản trị ngân hàng hoàn chỉnh và tập trung (triển khai core-banking). Tăng cường hệ thống an toàn, bảo mật thông tin, dữ liệu và an ninh mạng; sớm triển khai mạng thông tin nội bộ trong toàn hệ thống VDB. Mười là, hoàn thiện tổ chức bộ máy quản trị nội bộ: sắp xếp các phòng, Ban theo hướng chuyên môn hoá, thành lập Uỷ ban ALCO, Hội đồng tín dụng... 2. Kiến nghị 2.1. Kiến nghị với Chính phủ - Quốc hội và Chính phủ cần sớm hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật một cách đồng bộ, ổn định, rõ ràng, có tính khả thi cao, đảm bảo các văn bản pháp luật được ban hành đi vào cuộc sống; tạo môi trường pháp lý thuận lợi thúc đẩy đầu tư của mọi thành phần kinh tế, là cơ hội tốt cho sự phát triển của tín dụng ĐTPT của Nhà nước. - Ban hành pháp lệnh về tín dụng ĐTPT của Nhà nước nhằm đảm bảo khung pháp lý đủ mạnh, có tính ổn định cao. Nội dung chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà nước và mô hình triển khai cũng cần sửa đổi theo hướng: Đối tượng có trọng tâm trọng điểm, cơ chế ưu đãi sát với thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế; tăng tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của Ngân hàng phát triển trong mọi mặt hoạt động. Tuy nhiên, cũng lưu ý là: Cần cải cách cơ chế quản lý chặt chẽ và kiểm soát có hiệu quả các hoạt động của NHPTVN trước khi nâng cao tính tự chủ, cùng với đó là tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm. - Chính phủ cần sớm hoàn thiện các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch phát triển KTXH các ngành, nghề và vùng lãnh thổ, đảm bảo sự ổn định thích hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể của nền kinh tế nói chung và tín dụng ĐTPT nói riêng. - Chính phủ cần có các biện pháp hữu hiệu điều tiết cung cầu thị trường đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định giá cả, không để xảy ra những cú sốc lớn về giá, đặc biệt đối với những hàng hóa nhạy cảm, thiết yếu. - Thực hiện chặt chẽ, xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm, xây dựng môi trường đầu tư lành mạnh, tăng tính minh bạch hiện đang còn rất thấp của nền kinh tế; xây dựng niềm tin và cũng là bảo vệ các nhà đầu tư chân chính, nâng cao khả năng thu hút đầu tư, nâng cao hiệu quả phát triển nền kinh tế. - Bãi bỏ hình thức hỗ trợ LSSĐT do không phù hợp với thông lệ quốc tế. 2.2. Kiến nghị với các Bộ, Ngành, địa phương và các Doanh nghiệp 2.2.1.Đối với các bộ, ngành: - Cần tăng cường kiểm tra giám sát NHPTVN: Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần thường xuyên thực hiện quản lý nàμ nước và có biện pháp kiểm tra giám sát các hoạt động của tổ chức này theo quy định của pháp luật. - Các Bộ, Ngành, Địa phương cần đầu tư cho công tác quy hoạch, chiến lược để định hướng đầu tư lâu dài của ngành, vùng, địa phương. Hướng dẫn và tạo điều kiện khuyến khích các chủ đầu tư lập dự án đầu tư trên cơ sở qui hoạch đã được phê duyệt nhằm thúc đẩy việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. - Tăng cường đầu tư cho công tác giống, công tác khuyến nông, khuyến ngư, đào tạo, bồi dưỡng để bà con nông dân nắm vững kỹ thuật nuôi trồng theo phương pháp công nghiệp các loại cây, con cho năng suất cao, chất lượng tốt, đạt hiệu quả kinh tế cao. - Bộ KH&ĐT, Bộ Tμi chính, Ngân hμng Nhà nước, NHPTVN nghiên cứu tham mưu cho Chính phủ hoàn thiện chính sách tín dụng ĐTPT của Nhà nước theo như một số phân tích và kiến nghị ở phần trên; Bộ Tài chính hàng năm bố trí đủ vốn từ NSNN cho NHPTVN để thực hiện các nhiệm vụ theo quy định, tránh tình trạng thiếu vốn cho NHPTVN trong những năm qua, dẫn tới NHPTVN phải dùng các nguồn khác, có nguy cơ cụt dần vốn. 2.2.2. Đối với các doanh nghiệp: - Các doanh nghiệp cần tự đổi mới vầ hoàn thiện mình hơn nữa, đặc biệt trong các khâu chuẩn bị dự án, nghiên cứu dự án và tổ chức thực hiện dự án. Việc chuẩn bị dự án và nghiên cứu dự án cần được xuất phát từ những căn cứ thực tế và có bài bản, đúng qui trình hiện hành. Cần tổ chức đào tạo (hoặc tự tìm hiểu) những qui định của Nhà nước về đầu tư xây dựng; thực hiện có bài bản đúng quy trình, quy định hiện hành của Nhà nước. - Phối hợp chặt chẽ với NHPTVN để giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh, nâng cao hiệu quả đầu tư và khai thác dự án. C. KẾT LUẬN Tín dụng ĐTPT với những thành tựu đáng kể qua hai giai đoạn 2000-2005, 2006-Tới nay đã khẳng định vai trò to lớn của hoạt động này đối với sự phát triển của nền kinh tế. Trải qua giai đoạn đầu tín dụng ĐTPT được thực hiện bởi QHTPT đã đóng góp những thành công nhất định cho sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước.Tuy nhiên khi bước vào tiến trình hội nhập thì nhiều cơ chế, chính sách tín dụng đầu tư đã không còn phù hợp nữa. Cùng với việc ban hành cơ chế, chính sách mới sang giai đoạn 2006 - nay hoạt động tín dụng đầu tư nhà nước đã được giao cho NHPT Việt Nam thực hiện. Trong những năm đầu của việc chuyển đổi chính sách tuy còn gặp nhiều khó khăn nhưng mô hình tổ chức mới này lại tỏ ra hoạt động có hiệu quả hơn và đáp ứng tốt hơn các cam kết quốc tế. Như vậy với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế thì chính sách tín dụng ĐTPT cần có sự thay đổi cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, thực hiện tốt sứ mệnh của mình là đưa đất nước cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Danh mục tài liệu tham khảo 1.PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt,TS. Từ Quang Phương, giáo trình kinh tế đầu tư 2.Trần Quang Hòa (2007),Nâng cao hoạt động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước 3. Trần Quang Hòa (2003), tổ chức hỗ trợ phát triển quốc gia 4.Võ Trí Thành, Tăng trưởng và CNH-HDH ở Việt Nam. Bài toán huy động vốn và sử dụng vốn 5. 6. 7. ) 8.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTín dụng đầu tư phát triển của nhà nước,thực trạng và giải pháp.doc
Luận văn liên quan