Lời mở đầu
Mọi doanh nghiệp kinh tế, từ khi mới được thành lập đã luôn gắn với một lượng tài sản và nguồn vốn nhất định. Nhưng để thực hiện mục và tăng cường sức cạnh tranh trên thị trường, doanh nghiệp phải làm cho khối tài sản và nguồn vốn đó ngày càng lớn mạnh. Do vậy, các đối tượng tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp luôn luôn vận động và biến đổi không ngừng kể cả về mặt hình thái vật chất lẫn lượng giá trị của các đối tượng đó.
Để thực hiện chức năng phản ánh giá trị của tài sản vào công tác Hạch toán - Kế toán, bộ phận kế toán của Doanh nghiệp phải sử dụng phương pháp tính giá các đối tượng kế toán làm cơ sở cho việc ghi nhận giá trị của tài sản vào chứng từ, sổ sách, báo cáo và cung cấp các thông tin liên quan cho các đối tượng có yêu cầu. Tính giá là một phương pháp kế toán để quy đổi hình thức biểu hiện của các đối tượng kế toán từ các thước đo khác nhau về một thước đo chung là sử dụng thước đo tiền tệ để xác định giá trị ghi sổ của các đối tượng cần tính giá theo những nguyên tắc nhất định.
Tính giá là một phương pháp trong hệ thống bốn phương pháp kế toán bao gồm: Phương pháp chứng từ; phương pháp tài khoản và ghi kép; phương pháp tính giá đối tượng kế toán và phương pháp tổng hợp và cân đối kế toán. Là một thành tố của một hệ thống, phương pháp tính giá vừa có tính độc lập tương đối lại vừa có quan hệ chặt chẽ và tác động tương hỗ với các phương pháp khác. Vị trí của phương pháp tính giá và mối quan hệ của nó với các phương pháp khác được thể hiện rất rõ nét trong quá trình vận động của các đối tượng của hạch toán - kế toán.
Nhận thức được tầm quan trọng của phương pháp tính giá, cùng với sự giúp đỡ tận tình của Thạc sỹ: Nguyễn Thị Kim Hương trong việc học tập, nghiên cứu bộ môn Nguyên lý Kế toán em mạnh dạn chọn đề tài: “Tính giá các đối tượng kế toán chủ yếu trong các doanh nghiệp ở Việt Nam” làm bài tiểu luận môn học của mình.
Mục tiêu của bài tiểu luận nhằm nghiên cứu sâu hơn về phương pháp tính giá và vận dụng vào tính giá các đối tượng kế toán chủ yếu. Mặt khác, rèn luyện những kỹ năng cần thiết trong việc tính giá các đối tượng kế toán để sau này có thể vận dụng trong công tác chuyên ngành.
Bài tiểu luận môn học Nguyên lý kế toán của em gồm 3 chương:
Phần I: Cơ sở lý luận, nguyên tắc, yêu cầu và ý nghĩa của việc tính giá các đối tượng kế toán.
Phần II: Tính giá một số đối tượng kế toán chủ yếu trong các doanh nghiệp ở Việt Nam.
Phần III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện các phương pháp tính giá các đối tượng kế toán ở các Doanh nghiệp.
Với kiến thức và trình độ có hạn, chưa có điều kiện tiếp xúc nhiều với tế nên bài tiểu luận môn học này sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Kính mong sự thông cảm và nhận được ý kiến đóng góp của thầy giáo, cô giáo trong Khoa Kế toán - Trường Đại học Duy Tân và các bạn trong lớp B15QTH2 để chuyên đề được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn./.
31 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3339 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tính giá đối tượng kế toán chủ yếu trong các Doanh nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
để lựa chọn thước đo phù hợp. Thước đo hiện vật có thể giúp doanh nghiệp theo dõi số lượng hiện có và tình hình biến động của từng loại tài sản nhưng không thể cho biết một cách tổng quát quy mô toàn bộ tài sản của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế hàng hóa, các mối quan hệ kinh tế được phản ánh thông qua giá cả, biểu hiện dưới hình thái tiền tệ. Như vậy, xuất phát từ tính đa dạng về mặt biểu hiện vật chất của các đối tượng kế toán cũng như xuất phát từ chức năng cung cấp thông tin của kế toán về tình hình tài chính, kết quả kinh doanh và các dòng lưu chuyển tiền trong doanh nghiệp cần thiết phải sử dụng một loại thước đo chung - thước đo giá trị.
Để sử dụng thước đo giá trị, ghi nhận giá trị của tài sản vào chứng từ, sổ sách và báo cáo kế toán cần thiết phải sử dụng một phương pháp đó là phương pháp tính giá. Tính giá là một phương pháp kế toán để quy đổi hình thức biểu hiện của các đối tượng kế toán từ các thước đo khác nhau về một thước đo chung là sử dụng thước đo tiền tệ để xác định giá trị ghi sổ của các đối tượng cần tính giá theo những nguyên tắc nhất định.
Phương pháp này có vai trò rất lớn kể cả trong công tác kế toán và công tác quản lý. Trên phương diện kế toán, việc tính giá đối tượng kế toán là cơ sở để ghi nhận tài sản, vốn chủ sở hữu, nợ phải trả, doanh thu, chi phí và lợi nhuận của doanh nghiệp. Chứng từ kế toán cùng với thông tin có được từ việc tính giá là cơ sở để ghi kép vào tài khoản kế toán, qua đó cung cấp thông tin hữu ích cho quản lý trong việc kiểm tra, giám sát tình trạng và sự vận động của tài sản, nguồn vốn trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với người ngoài doanh nghiệp, thông tin từ tính giá là cơ sở để đánh giá tình hình tài chính của một tổ chức trong một kỳ kinh doanh.
II- Các yêu cầu trong phương pháp tính giá.
1. Tính xác thực của tính giá.
Khả năng tính giá một cách đáng tin cậy là điều kiện cần để kế toán ghi nhận tài sản, nợ phải trả, doanh thu và chi phí trong quá trình xử lý thông tin kế toán. Có thể xem xét một vài trường hợp về tính tin cậy của tính giá các đối tượng kế toán như sau:
Trường hợp 1: Một doanh nghiệp mua tài sản cố định để sử dụng cho quá trình sản xuất, kinh doanh. Doanh nghiệp đã nhận hóa đơn bán hàng từ nhà cung cấp, trên đó thể hiện đầy đủ thông tin về số lượng hàng hóa, giá cả. Trong trường hợp này, hóa đơn mua hàng là bằng chứng xác đáng về nghiệp vụ mua hàng đã xảy ra và doanh nghiệp có quyền sở hữu đối với tài sản cố định này. Thông tin về giá cả là cơ sở khách quan để kế toán bên mua xác định giá trị tài sản cố định mua vào là bao nhiêu.
Trường hợp 2: Uy tín, thương hiệu của doanh nghiệp được các nhà quản trị xem là “tài sản vô hình” vô cùng quan trọng của doanh nghiệp, vì những tài sản vô hình này được hình thành trong quá trình kinh doanh. Tuy nhiên, trên phương diện kế toán thường không ghi nhận là tài sản vì khả năng xác định giá trị của nó là rất khó. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp đó sáp nhập hay được mua lại và giá trị của các tài sản này được xác định một cách đáng tin cậy thì thương hiệu hay uy tín lại là tài sản.
Như vậy, tính tin cậy của phương pháp tính giá các đối tượng kế toán được hiểu là kế toán có những bằng chứng xác đáng, khách quan, trung thực và có thể kiểm tra được về những sự kiện đã xảy ra. Trong thực tế, tính tin cậy trong tính giá thể hiện ở việc phải có chứng từ kế toán hợp pháp, hợp lệ chứng minh sự hình thành các nghiệp vụ kinh tế. Đối với những tài sản là hiện vật, phải có hệ thống tính giá chuẩn xác liên quan đến hình thành tài sản. Tính xác thực trong phương pháp tính giá là tuân theo nguyên tắc giá phí của hạch toán kế toán.
2. Ước tính kế toán hợp lý.
Ước tính kế toán là một quá trình xét đoán dựa trên những thông tin tin cậy nhất và mới nhất tại thời điểm ước tính. Vấn đề ước tính kế toán được đặt ra vì việc xác định giá trị của một số đối tượng kế toán trong nhiều trường hợp không thể thực hiện được do thiếu những bằng chứng đáng tin cậy. Chẳng hạn, máy móc thiết bị tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và giá trị của những tài sản này giảm dần trong quá trình sử dụng. Việc xác định giá trị hao mòn của máy móc, thiết bị là cơ sở để xác định chi phí sử dụng máy móc thiết bị và tính vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ. Đây là một yêu cầu khách quan nhưng kế toán không thể xác định chính xác được giá trị hao mòn của tài sản. Trong trường hợp này, yêu cầu về ước tính kế toán được đặt ra để phân bổ giá trị máy móc thiết bị một cách hợp lý. Có thể đưa ra một số trường hợp ước tính kế toán điển hình khi tính giá đối tượng kế toán như sau:
- Ước tính thời gian sử dụng của tài sản cố định nhằm phân bổ giá trị tài sản cố định vào chi phí kinh doanh trong từng thời kỳ một cách có hệ thống. Việc phân bổ này thể hiện qua công tác trích khấu hao tài sản cố định ở các doanh nghiệp.
- Ước tính về thuế thu nhập phải nộp. Công việc này xuất phát từ yêu cầu thực tiễn quản lý nguồn thu của Ngân sách nhà nước. Vì khoản thuế thu nhập chỉ được xác định vào cuối năm tài chính, nếu việc nộp thuế xảy ra sau khi xác định thuế thu nhập phải nộp thì ngân sách nhà nước dễ bị mất cân đối thu chi. Vì thế, các doanh nghiệp phải ước tính lợi nhuận hàng năm để ước tính thuế thu nhập phải nộp từng quý.
- Ước tính các khoản nợ phải thu không thu được từ khách hàng để lập dự phòng đối với các khoản nợ phải thu khách hàng. Công việc này tuân thủ nguyên tắc thận trọng trong kế toán.
Có thể nói, sử dụng ước tính kế toán là một phần không thể thiếu trong thực tiễn công tác kế toán. Ước tính kế toán cung cấp cho người sử dụng những thông tin mang tính trọng yếu về tình hình tài chính của doanh nghiệp, giúp người sử dụng thông tin có cơ sở hợp lý để đưa ra các quyết định tài chính phù hợp hơn.
3. Tính thống nhất.
Việc tính giá một đối tượng kế toán không chỉ được thực hiện bằng một phương pháp mà có thể sử dụng nhiều phương pháp. Chẳng hạn như việc trích khấu hao tài sản cố định có thể được thực hiện với mức trích bằng nhau qua các thời kỳ (phương pháp khấu hao đường thẳng) hoặc mức trích giảm dần (phương pháp khấu hao có số dư giảm dần). Lựa chọn phương pháp khấu hao nào phụ thuộc vào yêu cầu của nhà quản lý trong việc thu hồi vốn, đổi mới công nghệ. Chuẩn mực kế toán đặt ra một số phương pháp để tính giá một đối tượng kế toán nhằm bảo đảm kế toán được ứng dụng phù hợp với đặc điểm của từng loại đối tượng, khả năng và yêu cầu quản lý của từng doanh nghiệp. Tuy nhiên, chuẩn mực kế toán cũng đặt ra yêu cầu về tính thống nhất, đó chính là sự nhất quán về phương pháp tính giá được sử dụng ở các kỳ kế toán. Yêu cầu về tính thống nhất ở đây không chỉ trong một doanh nghiệp mà còn thống nhất về nguyên tắc trong các tổ chức ở mỗi quốc gia. Yêu cầu về tính thống nhất trong tính giá đối tượng kế toán nhằm bảo đảm kế toán cung cấp thông tin có tính so sánh cho người sử dụng. Xuất phát từ yêu cầu này mà việc tính giá thường tuân thủ theo những nguyên tắc kế toán nhất định, thể hiện qua các chuẩn mực kế toán ở các nước.
III. CÁC NGUYÊN TẮC TRONG TÍNH GIÁ.
Trong công tác kế toán, khi tính giá các đối tượng kế toán thực hiện tốt các nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc 1: Xác định đối tượng tính giá.
Tính giá là việc xác định giá trị thực tế của tài sản, làm căn cứ để ghi sổ tài sản. Việc xác định giá trị của tài sản phải tuân theo nguyên tắc giá phí. Giá phí của một đối tượng tính giá là toàn bộ chi phí thực tế đã chi ra liên quan đến đối tượng tính giá. Có như vậy, thông tin về giá trị của đối tượng tính giá mới đảm bảo đúng thực tế, làm cơ sở cho việc tổng hợp tài sản của doanh nghiệp cũng như việc xác định kết quả kinh doanh được đíng đắn. Do mỗi loại tài sản có đặc điểm hình thành khác nhau nên việc xác định giá của chúng cũng khác nhau.
Đối với nguyên vật liệu, hàng hóa: Đây là các tài sản được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như mua ngoài, sản xuất, gia công chế biến,... Giá của nguyên vật liệu, hàng hóa nhập kho tính theo trị giá thực tế. Tùy theo từng nguồn hình thành mà giá của nguyên vật liệu, hàng hóa được tính bởi các chi phí cấu thành.
Đối với tài sản cố định: Tài sản cố định là loại tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài, quá trình hình thành có thể diễn ra trong một thời gian ngắn hoặc qua một quá trình đầu tư khá dài. Việc xác định giá trị thực tế của tài sản cố định khi hình thành chính là xác định nguyên giá của tài sản cố định.
Đối với thành phẩm: Là loại sản phẩm được nhập kho từ quá trình sản xuất ở doanh nghiệp, giá của thành phẩm được tính theo giá thành sản xuất thực tế, bao gồm toàn bộ chi phí thực tế đã chi ra để sản xuất ra thành phẩm
- Nguyên tắc 2: Phân loại chi phí.
Do tài sản trong doanh nghiệp hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, nên chi phí phát sinh có liên quan đến nhiều loại chi phí, nên cần phải được phân loại cụ thể để tránh trường hợp tập hợp chi phí không đúng, dẫn đến việc tính giá cho các đối tượng kế toán bị sai lệch. Chi phí liên quan đến việc tính giá bao gồm các loại sau:
Chi phí thu mua: Bao gồm toàn bộ chi phí phát sinh liên quan đến việc thu mua vât tư, tài sản, hàng hóa như chi phí vận chuyển, bốc dỡ, bảo quản...
Chi phí sản xuất: Là những chi phí phát sinh liên quan đến quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm, thực hiện dịch vụ trong phạm vi phân xưởng, bộ phận sản xuất.
Chi phí bán hàng: Là chi phí phát sinh liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ như: chi phí nhân viên bán hàng; chi phí vật liệu, bao gói; chi phí dụng cụ bán hàng...
Chi phí quản lý doanh nghiệp: Bao gồm toàn bộ các khoản chi phí liên quan đến việc tổ chức, điều hành, quản lý hoạt động sản xuất - kinh doanh
- Nguyên tắc 3: Lựa chọn tiêu thức phân bổ chi phí hợp lý
Trong thực tế, có một số khoản chi phí có liên quan trực tiếp đến nhiều đối tượng tính giá nhưng không thể tách riêng được. Vì thế, cần phải lựa chọn tiêu thức phân bổ thích hợp sao cho sát với chi phí thực tế phát sinh.
Chi phí phát sinh trong quá trình tính giá đối tượng kế toán thường được chia thành hai loại là chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Chi phí trực tiếp là chi phí chỉ liên quan đến một loại tài sản cụ thể. Chẳng hạn, giá mua ghi trên hóa đơn của một loại nguyên vật liệu mua vào. Chi phí gián tiếp là chi phí liên quan đến nhiều loại tài sản cần tính giá. Chẳng hạn, chi phí vận chuyển nhiều loại hàng hóa mua về, chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí nhân viên quản lý phân xưởng... liên quan đến nhiều loại sản phẩm sản xuất.
Do vậy, vấn đề phân bổ chi phí cần được quan tâm trong quá trình tính giá đối tượng kế toán. Về nguyên tắc, để giá trị tài sản của tài sản một cách chính xác và đầy đủ, kế toán tập hợp tối đa các chi phí có thể tập hợp trực tiếp được cho từng đối tượng chịu chi phí. Tuy nhiên, có nhiều chi phí rất khó tập hợp riêng rẽ trực tiếp cho từng đối tượng, khi đó cần phải áp dụng phương pháp phân bổ chi phí phù hợp nhất có thể.
Phương pháp phân bổ hợp lý là phương pháp phản ánh gần đúng nhất chi phí thực tế của tài sản cần được tính giá. Để có phương pháp phân bổ hợp lý, cần phải lựa chọn tiêu thức phân bổ phù hợp đó là tiêu thức thể hiện mối quan hệ tỷ lệ giữa chi phí với các loại tài sản cần được tính giá... Do mỗi doanh nghiệp có đặc thù riêng về các chi phí chung nên chuẩn mực kế toán không quy định tiêu thức phân bổ nào được vận dụng mà tiêu thức phân bổ chi phí cho từng đối tượng tính giá phụ thuộc vào quan hệ của chi phí với đối tượng tính giá. Thông thường, các tiêu thức được lựa chọn là tiêu thức phân bổ theo hệ số, theo định mức, theo giờ máy chạy, theo tiền lương công nhân sản xuất, theo chi phí vật liệu chính, theo số lượng, trọng lượng vật tư, sản phẩm... Công thức phân bổ như sau:
Mức phân bổ cho từng đối tượng
=
Tổng tiêu thức phân bổ của từng đối tượng
Tổng chi phí từng loại cần phân bổ
Tổng tiêu thức phân bổ của tất cả các đối tượng
Trong thực tế, có nhiều loại chi phí gián tiếp mang tính chất khác nhau. Ví dụ, chi phí sản xuất chung trong Doanh nghiệp sản xuất; như chi phí nhân viên quản lý phân xưởng, chi phí khấu hao máy móc và thiết bị tham gia vào quá trình sản xuất... Chi phí bán hàng bao gồm chi phí quảng cáo, tiền lương của nhân viên bán hàng, chi phí khấu hao TSCĐ phục vụ cho hoạt động bán hàng… Do vậy, đối với từng loại chi phí, kế toán cần lựa chọn tiêu thức phân bổ phù hợp để tài sản được tính giá một cách hợp lý nhất.
IV. Ý nghĩa của việc tính giá:
Phương pháp tính giá có ý nghĩa quan trọng trong hạch toán kế toán và trong công tác quản lý. Phương pháp tính giá giúp kế toán xác định được giá trị thực tế của tài sản hình thành trong doanh nghiệp, giúp phản ánh các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh vào chứng từ, sổ sách và tổng hợp lên báo cáo kế toán và kiểm tra được các đối tượng hạch toán kế toán bằng thước đo tiền tệ.
Phương pháp tính giá giúp kế toán tính toán được hao phí và kết quả của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ và tổng hợp được giá trị của toàn bộ tài sản trong doanh nghiệp giúp công tác quản lý và sử dụng tài sản của doanh nghiệp có hiệu quả.
Phương pháp tính giá giúp cho kế toán tính toán và xác định được toàn bộ chi phí bỏ ra có liên quan đến việc thu mua, sản xuất, chế tạo và tiêu thụ từng loại vật tư, sản phẩm. Từ đó, so với kết quả thu được để đánh giá hiệu quả kinh doanh nói chung và hiệu quả kinh doanh từng mặt hàng, từng loại sản phẩm, dịch vụ và từng hoạt động kinh doanh nói riêng.
PHẦN II
TÍNH GIÁ MỘT SỐ ĐỐI TƯỢNG KẾ TOÁN CHỦ YẾU
Tài sản trong một doanh nghiệp có qui mô dù lớn hay nhỏ, hoạt động trong lĩnh vực nào của nền kinh tế cũng đều rất đa dạng, bao gồm nhiều loại khác nhau, mỗi loại có nguồn gốc hình thành khác nhau nên việc tính giá cũng khác nhau. Tài sản được phân chia thành tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn. Tuy nhiên, trong phạm vi bài tiểu luận của mình em xin được làm rõ phương pháp tính giá các đối tượng bao gồm: Nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá, tài sản cố định và thành phẩm.
Nhìn chung, việc tính giá của các đối tượng kế toán thông thường có hai bước như sau:
Bước 1: Tập hợp và phân bổ chi phí:
Tập hợp các chi phí thực tế liên quan đến tài sản theo đúng nội dung chi phí, theo công dụng của các khoản chi và theo đúng yêu cầu của tính giá. Chi phí nào liên quan trực tiếp đến một đối tượng thì tập hợp trực tiếp cho đối tượng đó. Chi phí nào liên quan đến nhiều đối tượng tính giá thì phải tiến hành tập hợp và phân bổ theo tiêu thức hợp lý.
Sau khi đã tập hợp được chi phí, đối với các chi phí liên quan đến nhiều đối tượng tính giá phải tiến hành phân bổ theo công thức phân bổ tổng quát sau:
Chi phí cần phân bổ cho đối tượng i
=
Tổng chi chí cần phân bổ
Số tiêu thức phân bổ của đối tượng i
Tổng tiêu thức phân bổ của các tài sản
Bước 2: Tổng hợp và xác định giá trị ghi sổ:
Tổng hợp các chi phí đã tập hợp được cho đối tượng tính giá, tính toán, xác định giá thực tế của tài sản hình thành.
Giá trị ghi sổ của đối tượng tính giá
=
Chi phí tập hợp trực tiếp
+
Chi phí phân bổ cho đối tượng đó
I- Tính giá nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá:
1. Tính giá nhập kho:
Nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hóa của doanh nghiệp gồm nhiều loại và sử dụng cho những mục đích khác nhau theo đó việc tính giá cũng có sự khác biệt nhưng đều phải tuân thủ nguyên tắc chung là phản ánh được toàn bộ các chi phí đã chi ra để có được tài sản đó (nguyên tắc giá phí). Việc tính giá nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá phải tuân thủ quy trình tính giá các đối tượng kế toán và căn cứ nguồn gốc hình thành để có cơ sở tính giá đảm bảo đúng đắn nhất.
a) Đối với nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá mua ngoài. Có thể khái quát trình tự tính giá nguyên vật liệu, hàng hoá mua vào theo 3 bước sau:
Bước 1: Xác định giá nhập kho của nguyên vật liệu, hàng hoá:
Giá
nhập kho
Giá mua thực tế trên hoá đơn
=
+
-
Các khoản thuế không được hoàn lại
Chi phí thu mua NVL, HH
-
Các khoản giảm trừ hàng mua
Trong đó:- Giá mua là giá được thể hiện trên hóa đơn. Giá mua nguyên vật liệu, hàng hoá được xác định tuỳ thuộc vào phương pháp tính thuế giá trị gia tăng. Ở nước ta, nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá lưu thông trên thị trường thường có thuế GTGT. Đây là loại thuế gián thu thường được hoàn lại nên khi doanh nghiệp tiếp nhận những tài sản có loại thuế này thì về nguyên tắc, khoản thuế GTGT sẽ được loại trừ khi tính giá thực tế của hàng mua vào. Do vậy, việc xác định giá trị của hàng mua vào cần quan tâm đến những quy định về thuế.
- Các khoản thuế không được hoàn lại, bao gồm: thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu; thuế GTGT đối với những doanh nghiệp mà hoạt động kinh doanh không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT, hoặc đăng ký nộp thuế GTGTT theo phương pháp trực tiếp, khoản thuế GTGT này lại được tính vào giá gốc của tài sản mua vào.
- Chi phí thu mua nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá là các chi phí phát sinh liên quan đến quá trình mua như chi phí vận chuyển, bốc dỡ...
Các khoản giảm trừ hàng mua bao gồm: Giảm giá hàng mua là khoản tiền mà người bán đồng ý giảm trên giá bán cho người mua trong trường hợp khi hàng đã mua không đủ chất lượng hoặc sai qui cách, phẩm chất theo yêu cầu của người mua đã đặt ra. Chiết khấu thương mại là khoản tiền giảm trừ mà người mua được hưởng khi mua hàng với số lượng lớn hoặc là những khách hàng thường xuyên và các khoản hàng mua trả lại.
- Bước 2: Tập hợp và phân bổ chi phí thu mua:
Những chi phí phát sinh trong khâu thu mua như chi phí vận chuyển, bốc dỡ, chi phí lưu kho bãi, chi phí giao dịch, chi phí môi giới, hao hụt trong định mức... Các chi phí này có thể đã có thuế GTGT hoặc chưa có thuế GTGT tuỳ thuộc vào phương pháp tính thuế GTGT của doanh nghiệp và tài sản mua vào có chịu thuế GTGT không. Trường hợp chi phí thu mua có liên quan đến nhiều đối tượng tính giá thì phải phân bổ cho từng đối tượng có liên quan theo tiêu thức hợp lý.
- Bước 3: Tổng hợp chi phí và tính giá thực tế cho từng tài sản cần tính giá:
Giá thực tế
của NVL, CCDC, HH i
=
Giá thực tế mua
NVL, CCDC,
HH i
+
Chi phí liên quan phân bổ cho NVL, CCDC, HH i
Để thuận lợi cho công việc tính giá, kế toán thường sử dụng bảng (thẻ) tính giá tài sản để phản ánh kết quả của quá trình tính giá.
Ứng dụng phương pháp tính giá trên đây để thực hiện việc tính giá cho các đối tượng trong một ví dụ sau:
Doanh nghiệp A tiến hành mua sắm vật liệu bao gồm: (đơn vị tính: 1.000 đồng) - Vật liệu M: 10.000kg, giá mua cả thuế GTGT 10% là 220.000
- Vật liệu N: 40.000kg, giá mua là 660.000 (đơn giá 16.500đ/kg)
- Các chi phí vận chuyển, bốc dỡ vật liệu phát sinh thực tế là 12.500
Yêu cầu: Tính giá nhập kho vật liệu mua vào.
Khi tiến hành tính giá vật liệu M và N theo trình tự ba bước nêu trên và theo hai phương pháp tính thuế GTGT, đó là phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp trực tiếp.
Bước 1: Tính trị giá mua vào của vật liệu.
* Vật liệu M:
- Giá chưa có thuế GTGT : 220.000 / 1,1 = 200.000
* Vật liệu N:
- Giá chưa có thuế là : 40.000 kg x 16,5 = 600.000
Bước 2: Tập hợp và phân bổ chi phí thu mua: 12.500
Phân bổ chi phí thu mua cho hai loại vật liệu với tiêu thức phân bổ lựa chọn là trọng lượng vật liệu vận chuyển, bốc dỡ.
- Tổng chi phí phải phân bổ : 12.500
- Tổng tiêu thức phân bổ : 10.000 + 40.000 = 50.000kg
- Tiêu thức phân bổ cho vật liệu M : 10.000kg
- Tiêu thức phân bổ cho vật liệu N : 40.000kg
Như vậy, có thể tính Chi phí thu mua phân bổ cho vật liệu M, N:
Chi phí thu mua phân bổ cho
VL M
=
12.500
10.000
=
2.500
50.000
Chi phí thu mua phân bổ cho
VL N
=
12.500
20.000
=
10.000
50.000
Bước 3: Tổng hợp chi phí và tính giá thực tế mua vào của vật liệu M và N
- Trường hợp tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ:
* Giá thực tế của vật liệu M nhập kho sẽ là:
Giá nhập kho của VL M
=
200.000
+
2.500
=
202.500
Và khi đó đơn giá thực tế nhập kho của vật liệu M là:
Đơn giá nhập kho VL M
=
202.500
=
20,25
10.000
* Giá thực tế của vật liệu N nhập kho sẽ là:
Giá nhập kho của VL N
=
600.000
+
10.000
=
610.000
Đơn giá nhập kho VL N
=
610.000
=
15,25
40.000
- Trường hợp tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp:
* Giá thực tế của vật liệu M nhập kho sẽ là:
Giá nhập kho của VL M
=
220.000
+
2.500
=
222.500
Và khi đó đơn giá thực tế nhập kho của vật liệu M là:
Đơn giá nhập kho VL M
=
222.500
=
22,25
10.000
* Giá thực tế của vật liệu N nhập kho sẽ là:
Giá nhập kho của VL N
=
660.000
+
10.000
=
670.000
Đơn giá nhập kho VL M
=
670.000
=
16,75
40.000
b) Đối với nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá do doanh nghiệp tự sản xuất, tự chế biến. Việc tính giá của nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá do doanh nghiệp tự sản xuất, tự chế biến được tính giá như phương pháp tính giá sản phẩm hoàn thành sẽ được đề cập ở phần dưới.
2) Tính giá xuất kho:
Tính giá nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá sẽ rất đơn giản khi tất cả các doanh nghiệp hàng mua đều được mua với cùng một đơn giá ổn định từ kỳ này sang kỳ khác. Tuy nhiên, khi các loại nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá giống nhau được mua với những giá khác nhau thì phát sinh vấn đề là sử dụng trị giá vốn nào cho nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá cuối kỳ và trị giá vốn nào cho nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá xuất ra.
Về nguyên tắc, nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá được đánh giá theo giá thực tế. Việc tính giá trị nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá được áp dụng theo một trong các phương pháp: Phương pháp tính theo giá đích danh; Phương pháp bình quân gia quyền; Phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO); Phương pháp nhập sau, xuất trước (LIFO).
- Phương pháp tính theo giá thực tế đích danh: Phương pháp này được áp dụng đối với doanh nghiệp có ít loại mặt hàng hoặc mặt hàng ổn định và nhận diện được, hơn nữa các doanh nghiệp phải có điều kiện bảo quản riêng từng lô hàng nhập kho, vì vậy mà khi xuất kho lô nào thì tính theo giá đích danh của lô đó khi nhập. Phương pháp này có thể được ủng hộ vì nó hoàn toàn làm phù hợp giữa chi phí và doanh thu.
Phương pháp tính giá này thích hợp cả với các doanh nghiệp áp dụng phương pháp kiểm kê định kỳ và kê khai thường xuyên trong kế toán nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá.
Theo phương pháp kiểm kê định kỳ: Theo phương pháp này, kế toán không theo dõi thường xuyên, liên tục tình hình nhập, xuất, tồn của nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá, về bản chất nó chỉ theo dõi nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá tăng (nhập kho). Vào cuối mỗi kỳ kế toán, doanh nghiệp tiến hành kiểm kê số lượng nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá rồi lấy số lượng hàng tồn đó nhân (x) với đơn giá (Với mỗi phương pháp tính giá nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá khác nhau thì đơn giá của chúng cũng khác nhau). Khi biết đươc giá rị của nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá cuối kỳ thì ta tính được giá trị của hàng xuất bán trong kỳ:
Giá trị NVL xuất kho
=
Giá trị NVL tồn đầu kỳ
+
Giá trị NVL nhập trong kỳ
-
Giá trị NVL tồn cuối kỳ
Khi doanh nghiệp tính giá nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá theo phương pháp giá thực tế đích danh thì khi kiểm kê cuối kỳ kế toán sẽ biết được số lượng của từng lô hàng với đơn giá thực tế của nó. Từ đó tính được giá trị hàng tồn cuối kỳ và suy ra được giá trị của hàng xuất bán.
Phương pháp Kê khai thường xuyên: Ngược với phương pháp kê khai định kỳ, phương pháp kê khai thường xuyên cập nhật nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng hoá sau mỗi lần nghiệp vụ mua hoặc bán xảy ra. Ngay khi các bút toán đã được vào sổ là tài khoản cho biết số lượng hiện hành của nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá có trong tay.
Khi phương pháp kê khai thường xuyên được sử dụng, nhà quản lý có khả năng giám sát nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá có trong tay một cách liên tục. Điều này giúp cho nhà quản lý lập kế hoạch thu mua trong tương lai.
Với phương pháp kế toán nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá này thì giá trị hàng xuất được tính bằng tổng của số lượng xuất của từng lô nhân với đơn giá thực tế đích danh của từng lô hàng đó.
- Phương pháp bình quân gia quyền.
Theo phương pháp này giá trị của từng loại nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá được tính theo giá trị trung bình của từng loại nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá tương tự đầu kỳ và giá trị từng loại nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá được mua hoặc sản xuất trong kỳ. Giá trị trung bình có thể được tính theo thời kỳ hoặc vào mỗi khi nhập một lô hàngvề, phụ thuộc vào tình hình của doanh nghiệp.
Giá trị NVL xuất kho
=
Khối lượng NVL xuất kho
Đơn giá bình quân gia quyền
Đơn giá bình quân gia quyền được tính theo hai phương pháp sau:
+ Phương pháp tính đơn giá bình quân cả kỳ:
Đơn giá bình quân gia quyền cả kỳ
=
Giá trị NVL tồn đầu kỳ + Giá trị NVL nhập trong kỳ
Số lượng NVL tồn đầu kỳ + Số lượng NVL nhập trong kỳ
+ Phương pháp tính đơn giá bình quân thời điểm:
Đơn giá bình quân gia quyền thời điểm
=
(SL tồn đầu kỳ Đơn giá tồn) + ∑ (SL đơn giá nhập đến thời điểm tính)
Số lượng tồn đầu kỳ + ∑ Số lượng nhập đến thời điểm tính)
- Phương pháp nhập trước, xuất trước FIFO:
Phương pháp này được áp dụng dựa trên giả định là nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá được mua trước hoặc sản xuất trước thì được xuất trước, và nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá còn lại cuối kỳ là nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá được mua hoặc sản xuất gần thời điểm cuối kỳ. Theo phương pháp này thì giá trị hàng xuất kho được tính theo giá của lô hàng nhập kho ở thời điểm đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ, giá trị của nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá được tính theo giá của hàng nhập kho ở thời điểm cuối kỳ hoặc gần cuối kỳ còn tồn kho.
- Phương pháp nhập sau, xuất trước (LIFO):
Phương pháp này được áp dụng dựa trên giả định là nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá được mua sau hoặc sản xuất sau thì được xuất trước, và nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá còn lại cuối kỳ là nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá được mua hoặc sản xuất trước đó. Theo phương pháp này thì giá trị hàng xuất kho được tính theo giá của lô hàng nhập sau hoặc gần sau cùng, giá trị của nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ, hàng hoá được tính theo giá của hàng nhập kho đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ còn tồn kho.
Ứng dụng phương pháp tính giá hàng xuất kho cho một doanh nghiệp qua ví dụ dưới đây:
Tại một doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ và hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên có tình hình như sau:
Tình hình tồn kho đầu kỳ
- Vật liệu A : 300 kg Giá thực tế : 15.000 đ/kg
- Vật liệu B : 160 kg Giá thực tế : 5.000 đ/kg.
Tình hình nhập xuất trong kỳ:
1. Mua 240 kg vật liệu A nhập kho, đơn giá chưa có thuế GTGT 10% 16.000 đ/kg, đã thanh toán bằng chuyển khoản.
2. Xuất kho 200 kg vật liệu A cho sản xuất trực tiếp.
3. Nhập một lô nguyên vật liệu B, số lượng 100 kg, đơn giá bao gồm cả thuế GTGT 10%: 7.700 đ/kg, thanh toán bằng tiền mặt.
4. Xuất kho 40 kg vật liệu B sử dụng cho quản lý doanh nghiệp.
5. Xuất kho vật liệu B sử dụng cho sản xuất trực tiếp 60 kg, cho nhua cầu khác của phân xưởng 50 kg.
6. Mua một lô hàng nhập kho gồm có :
- Vật liệu A : 200 kg Giá thực tế : 14.000 đ/kg
- Vât liệu B: 80 kg Giá thực tế : 6.000 đ/kg
7. Xuất kho 40 kg vật liệu B sử dụng cho bộ phận bán hàng.
Yêu cầu: Xác định giá trị nguyên vật liệu xuất kho theo các phương pháp: bình quân gia quyền, thực tế đích danh, nhập trước xuất trước, nhập trước xuất sau.
1- Tính giá xuất kho của các vật liệu A, vật liệu B theo phương pháp bình quân gia quyền. Vì doanh nghiệp hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên, nên chỉ có thể áp dụng việc tính đơn giá bình quân gia quyền thời điểm.
a) Thời điểm xuất kho 200 kg vật liệu A:
Đơn giá bình quân gia quyền thời điểm VL A
=
(300 15.000) + (240 16.000)
=
15.445
300 + 240
Giá trị xuất kho VL A
=
200
15.445
=
3.089.000
b) Thời điểm xuất kho 40kg vật liệu B:
Đơn giá bình quân gia quyền thời điểm VL B
=
(1605.000) + (100 7.000)
=
5.770
160 + 100
Giá trị xuất kho VL B
=
40
5.770
=
230.800
c) Thời điểm xuất kho 100kg vật liệu B:
Đơn giá bình quân gia quyền thời điểm VL B đã được tính ở trên
=
5.770
Giá trị xuất kho VL B
=
100
5.770
=
577.000
d) Thời điểm xuất kho 40kg vật liệu B:
Đơn giá bình quân gia quyền thời điểm VL B
=
(1205.770) + (80 6.000)
=
5.862
120 + 80
Giá trị xuất kho VL B
=
40
5.862
=
234.480
- Tính giá xuất kho của các vật liệu A, vật liệu B theo phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO).
a) Thời điểm xuất kho 200 kg vật liệu A:
Giá trị xuất kho VL A
=
200
15.000
=
3.000.000
b) Thời điểm xuất kho 40kg vật liệu B:
Giá trị xuất kho VL B
=
40
5.000
=
200.000
c) Thời điểm xuất kho 100kg vật liệu B:
Giá trị xuất kho VL B
=
100
5.000
=
500.000
d) Thời điểm xuất kho 40kg vật liệu B:
Giá trị xuất kho VL B
=
20
5.000
=
100.000
20
7.000
=
140.000
- Tính giá xuất kho của các vật liệu A, vật liệu B theo phương pháp nhập sau, xuất trước (LIFO).
a) Thời điểm xuất kho 200 kg vật liệu A:
Giá trị xuất kho VL A
=
200
16.000
=
3.200.000
b) Thời điểm xuất kho 40kg vật liệu B:
Giá trị xuất kho VL B
=
40
7.000
=
280.000
c) Thời điểm xuất kho 100kg vật liệu B:
Giá trị xuất kho VL B
=
60
7.000
=
420.000
40
5.000
=
200.000
d) Thời điểm xuất kho 40kg vật liệu B:
Giá trị xuất kho VL B
=
40
6.000
=
240.000
- Tính giá xuất kho của các vật liệu A, vật liệu B theo phương pháp thực tế đích danh: Giá xuất kho vật liệu A, vật liệu B được tính theo kho hàng của từng đợt nhập kho theo từng lô riêng biệt với giá nhập kho của từng loại vật liệu đó.
II. Tính giá tài sản cố định.
Về mặt lý luận, tài sản cố định là loại tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài. Việc xác định giá trị của tài sản cố định khi hình thành chính là xác định nguyên giá của tài sản cố định. Nguyên giá của tài sản cố định bao gồm toàn bộ chi phí doanh nghiệp chi ra để có được tài sản cố định tính đến thời điểm đưa tài sản cố định vào sử dụng. Theo quy định của pháp luật Việt Nam tại Chuẩn mực số 03, Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam thì tài sản cố định hữu hình: Là những tài sản có hình thái vật chất do doanh nghiệp nắm giữ để sử dụng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh phù hợp với tiêu chuẩn ghi nhận tài sản cố định hữu hình. Các tài sản được ghi nhận là tài sản cố định hữu hình phải thỏa mãn đồng thời tất cả bốn tiêu chuẩn ghi nhận sau:
+ Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó;
+ Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách đáng tin cậy;
+ Thời gian sử dụng ước tính trên một năm;
+ Có đủ tiêu chuẩn giá trị theo quy định hiện hành.
Tài sản cố định được hình thành trong các trường hợp như mua sắm, tự xây dựng, tự chế tạo, được biếu tặng hoặc do góp vốn liên doanh... Trong từng trường hợp cụ thể thì việc tính giá cho tài sản cố định có sự khác nhau.
a) Trường hợp tài sản cố định hữu hình hình thành do mua sắm:
Nguyên giá tài sản cố định mua sắm bao gồm giá mua trừ (-) các khoản được chiết khấu thương mại hoặc giảm giá, các khoản thuế (không bao gồm các khoản thuế được hoàn lại) và các chi phí liên quan trực tiếp đến việc đưa tài sản vào trạng thái sẵn sàng sử dụng, như: chi phí chuẩn bị mặt bằng; chi phí vận chuyển và bốc xếp ban đầu; chi phí lắp đặt, chạy thử (trừ (-) các khoản thu hồi về sản phẩm, phế liệu do chạy thử); chi phí chuyên gia và các chi phí liên quan trực tiếp khác. Nếu các chi phí không liên quan trực tiếp đến việc mua sắm và đưa tài sản cố định vào trạng thái sẵn sàng sử dụng thì không được đưa vào nguyên giá tài sản cố định.
Có thể mô hình hoá công thức tính nguyên giá tài sản cố định hình thành từ mua sắm như sau:
Nguyên giá TSCĐ
Giá mua thực tế trên hoá đơn
=
+
-
Các khoản thuế không được hoàn lại
Chi phí trước khi sử dụng
Cần lưu ý rằng, cũng giống như việc tính giá nhập khi của NVL mua ngoài, nguyên giá của tài sản cố định được xác định tuỳ thuộc vào phương pháp tính thuế giá trị gia tăng (VAT). Có nghĩa là giá mua của nguyên vật liệu, hàng hoá có thể là giá mua không có thuế hoặc bao gồm cả thuế giá trị gia tăng.
b) Tài sản cố định hình thành do doanh nghiệp tự xây dựng, chế tạo:
Nguyên giá TSCĐ tự xây dựng hoặc tự chế là giá thành thực tế của TSCĐ tự xây dựng, hoặc tự chế cộng (+) chi phí lắp đặt, chạy thử. Trường hợp doanh nghiệp dùng sản phẩm do mình sản xuất ra để chuyển thành TSCĐ thì nguyên giá là chi phí sản xuất sản phẩm đó cộng (+) các chi phí trực tiếp liên quan đến việc đưa TSCĐ vào trạng thái sẵn sàng sử dụng. Trong các trường hợp trên, mọi khoản lãi nội bộ không được tính vào nguyên giá của các tài sản đó. Các chi phí không hợp lý, như nguyên liệu, vật liệu lãng phí, lao động hoặc các khoản chi phí khác sử dụng vượt quá mức bình thường trong quá trình tự xây dựng hoặc tự chế không được tính vào nguyên giá TSCĐ hữu hình.
Công thức tính nguyên giá tài sản cố định hình thành từ do Doanh nghiệp tự xây dựng, chế tạo như sau:
Nguyên giá TSCĐ
Giá
thực tế công
trình
=
+
Chi phí ra
trước khi đưa TSCĐ vào
sử dụng
c) Một số trường hợp hình thành khác của TSCĐ:
- TSCĐ được cấp:
Nguyên giá TSCĐ
=
Giá trị ghi sổ của đơn vị cấp
+
Chi phí trước khi
sử dụng được cấp
- TSCĐ nhận góp vốn liên doanh:
Nguyên giá TSCĐ góp vốn
=
Giá do Hội đồng định giá quyết định
+
Chi phí trước khi sử dụng (nếu có)
TSCĐ mua dưới h.nh thức trao đổi:
Nguyên giá TSCĐ trao đổi
=
Giá trị hợp lý của TCSĐ nhận về
+/-
Khoản tiền trả thêm
/nhận thêm
- TSCĐ vô hình: Nguyên giá TSCĐ vô hình = Chi phí chi ra để mua các TSCĐ vô hình
- Đối với hoạt động thuê tài chính, kế toán bên đi thuê TSCĐ ghi nhận nguyên giá TSCĐ thuê theo công thức sau:
Nguyên giá TSCĐ
=
Giá trị hợp lý của tài sản thuê tại thời điểm khởi đầu thuê thuê tài chính
+
chi phí trực tiếp liên quan đến hoạt động thuê tài chính
Số tiền mà bên thuê TSCĐ phải trả cho bên cho thuê bao gồm một phần vốn gốc và một phần là lãi thuê tài sản, trong đó lãi thuê tài sản được ghi nhận là chi phí tài chính mà không kế toán vào chi phí sản xuất kinh doanh.
Đối với TSCĐ, do đặc điểm của TSCĐ là nó chuyển dần giá trị vào giá trị của sản phẩm, dịch vụ hoàn thành và hao mòn cả về mặt hữu hình và vô hình, nên kế toán cần phải theo dõi TSCĐ theo ba chỉ tiêu bao gồm nguyên giá TSCĐ, khấu hao TSCĐ và giá trị còn lại của TSCĐ. Nguyên giá TSCĐ là giá trị ghi sổ ban đầu khi đơn vị nhận tài sản. Trong quá trình sử dụng, TSCĐ sẽ bị hao mòn, bị giảm giá. Tuy nhiên để tính toán một cách chính xác mức độ giảm giá của TSCĐ là một việc rất khó khăn và tốn kém, do vậy trên thực tế người ta sử dụng một phương pháp đơn giản để có thể tính toán và phân bổ giá trị của TSCĐ vào giá trị sản phẩm hoàn thành nhằm xác định mức thu hồi vốn đầu tư vào TSCĐ theo từng kỳ. Đó chính là phương pháp tính khấu hao.
Khấu hao là việc phân bổ một cách có hệ thống giá trị phải khấu hao của TSCĐ trong suốt thời gian sử dụng hữu ích của tài sản đó. Trong đó, giá trị phải khấu hao là nguyên giá của TSCĐ ghi trên các báo cáo tài chính trừ đi giá trị thanh lý ước tính của tài sản đó. Thời gian hữu ích của TSCĐ được hiểu là thời gian mà TSCĐ phát huy được tác dụng cho sản xuất, kinh doanh và được tính bằng: (1) Thời gian mà doanh nghiệp dự tính sử dụng TSCĐ; hoặc (2) Số lượng sản phẩm hoặc các đơn vị tính tương tự mà doanh nghiệp dự tính thu được từ việc sử dụng tài sản.
Việc tính khấu hao TSCĐ có thể thực hiện bằng 1 trong 3 phương pháp tính khấu hao sau đây:
- Phương pháp khấu hao đều hay còn gọi là khấu hao theo đường thẳng;
- Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần;
- Phương pháp khấu hao theo số lượng sản lượng.
Mối quan hệ giữa nguyên giá TSCĐ, khấu hao TSCĐ và giá trị còn lại của TSCĐ được thể hiện qua công thức sau đây:
Giá trị còn lại của TSCĐ
=
Nguyên giá TSCĐ
-
Khấu hao luỹ kế
Ứng dụng phương pháp tính giá TSCĐ cho một Doanh nghiệp trong ví dụ dưới đây.
Công ty dược Trung Ương Huế mua một dây chuyền sản xuất thuốc của Pháp, trị giá 250 triệu là giá chưa có thuế GTGT, chi phí lắp đặt, chạy thử là 10 triệu.
Yêu cầu: Hãy tính giá giá của dây chuyền sản xuất thuốc nêu trên.
Theo nguyên tắc tính giá TSCĐ mua vào chúng ta có thể tính được giá trị của dây chuyền sản xuất thuốc mà Công ty dược Trung Ương Huế mua vào như sau:
Giá trị dây chuyền sản xuất = 250 + 10 = 260 triệu
Trên đây là những ứng dụng cụ thể của nguyên tắc giá gốc khi đo lường tài sản. Tuy nhiên, giá gốc không phải là loại giá duy nhất được sử dụng để đo lường tài sản. Trong một số trường hợp đặc biệt, kế toán có thể sử dụng các cơ sở đo lường khác để xác định giá trị tài sản.
3. Tính giá thành sản phẩm hoàn thành.
Quá trình sản xuất là quá trình kết hợp 3 yếu tố sản xuất cơ bản: Đối tượng lao động, tư liệu lao động và sức lao động để tạo ra các sản phẩm dịch vụ. Thực chất việc tính giá thành các sản phẩm dịch vụ là việc xác định lượng hao phí các yếu tố sản xuất để tạo ra sản phẩm dịch vụ đó theo thước đo giá trị. Để phục vụ cho việc tính giá của thành phẩm, các chi phí này cần được phân thành từng loại nhất định theo qui định hiện hành. Trên cơ sở trình tự và căn cứ để tính giá các đối tượng kế toán, có thể phân tích việc tính giá thành sản phẩm hoàn thành theo các bước sau:
- Bước 1: Tập hợp chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ theo từng khoản mục:
Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ bao gồm chi phí trực tiếp và chi phí chung.
- Chi phí trực tiếp bao gồm: chi chí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Loại chi phí này thường liên quan trực tiếp đến một loại sản phẩm sản xuất, do đó được tập hợp trực tiếp cho từng loại sản phẩm để tính giá, như chí phí nguyên liệu dùng sản xuất sản phẩm, chi phí tiền lương công nhân sản xuất.
+ Chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp là những chi phí về về nguyên liệu, vật liệu dùng trực tiếp cho sản xuất sản phẩm, như sợi trong dệt vải, sắt thép trong chế tạo máy...
+ Chi phí nhân công trực tiếp: là những chi phí về lao động trực tiếp sản xuất sản phẩm như tiền lương của công nhân sản xuất...
Tuy nhiên, xuất phát từ đặc thù của quá trình sản xuất và đặc điểm của sản phẩm mà trong một số trường hợp, chi phí trực tiếp có thể liên quan đến nhiều loại sản phẩm. Trường hợp này cần phải có sự tính toán, phân bổ. Tiêu thức lựa chọn để phân bổ các chi phí trong trường hợp này thường là theo định mức, theo hệ số, theo trị giá vật liệu chính (đối với vật liệu phụ),... có thể ứng dụng công thức sau để phân bổ các chi phí trực tiếp.
Loại chi phí trực tiếp phân bổ cho SP i
=
Tổng chi phí trực tiếp thực tế cần phân bổ
Chi phí trực tiếp theo định mức của SP i
Tổng chi phí trực tiếp theo định mức của các loại SP
- Chi phí sản xuất chung: là những chi phí liên quan đến hoạt động quản lý sản xuất hoặc phục vụ sản xuất ở phân xưởng (tổ, đội,...) như chi phí nhân viên phân xưởng, chi phí vật liệu phục vụ sản xuất, chi phí dụng cụ lao động, chi phí khấu hao TSCĐ ở phân xưởng, chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí khác bằng tiền dùng cho sản xuất ở phân xưởng, tổ, đội sản xuất...
- Bước 2: Phân bổ những chi phí sản xuất chung cho các đối tượng có liên quan:
Do chi phí sản xuất chung liên quan đến nhiều loại thành phẩm cần tính giá nên phải căn cứ vào các tiêu thức hợp lý để phân bổ. Tiêu thức phân bổ có thể lựa chọn là: chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung dự toán, số giờ máy chạy, số lượng sản phẩm hoàn thành... Nếu dựa vào tiêu thức là tiền lương nhân công trực tiếp sản xuất thì có thể vận dụng công thức sau để phân bổ chi phí chung cho từng loại thành phẩm:
Loại chi phí chung phân bổ cho SP i
=
Tổng chi phí sản xuất
chung cần phân bổ
Tiền lương công nhân trực tiếp sản xuất SP i
Tổng tiền lương công nhân trực tiếp sản xuất SP
- Bước 3: Xác định giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ: Việc xác định giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ theo một trong lúc phương pháp:
+ Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp (hoặc chi phí nguyên liệu, vật liệu hình trực tiếp).
+ Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo sản lượng hoàn hành tương đương.
+ Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí định mức hoặc kế hoạch.
- Bước 4: Tính ra tổng giá thành và giá thành doanh nghiệp sản phẩm, dịch vụ hoàn thành.
Trên cơ sở tổng hợp chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ, xác định được giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ, dựa vào công thức dưới đây để tính tổng giá thành sản phẩm.
Tổng giá thành sản phẩm
=
∑ Giá trị SPDD
đầu kỳ
+
∑ CPSX phát sinh trong kỳ
-
∑ giá trị SPDD
cuối kỳ
Sau khi xác định được tổng giá thành sản phẩm, kế toán dựa vào công thức sau để tính giá thành doanh nghiệp sản phẩm.
Giá thành doanh nghiệp sản phẩm
=
Tổng giá thành sản phẩm
∑ số lượng sản phẩm hoàn thành
Trên thực tế, giá trị của thành phẩm nhập kho là giá thành sản phẩm. Giá thành sản phẩm bao gồm 3 khoản mục chi phí: Nguyên vật liệu trựuc tiếp, Nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Kế toán giá thành sản phẩm có thể dựa vào mẫu bảng tính giá thành dưới đây để tính giá thành sản phẩm.
Doanh nghiệp:
Bộ phận sản xuất
BẢNG (PHIẾU) TÍNH GIÁ THÀNH
Sản phẩm:...........................
Số luợng:............................. ĐV tính:.........
Khoản mục chi phí
CPSXDD đầu kì
CPSX phát sinh trong kì
CPSX dở dang cuối kì
Tổng giá thành sp
Giá thành đơnvị sp
1. Chi phí NVL trực tiếp
- Nguyên liệu, vật liệu chính
- Vật liệu phụ
2. Chi phí nhân công trực tiếp
- Tiền lương
- BHXH, BHYT, KPCĐ
3.CP sản xuất chung
Cộng
Ứng dụng phương pháp này để tính giá sản phẩm hoàn thành của một doanh nghiệp như sau:
Tại một doanh nghiệp có tình hình chi phí sản xuất sản phẩm như sau (ĐVT: 1.000 đồng)
Khoản mục
chi phí
SPDD
ĐK
SPB
CPSX phát sinh
trong kỳ
cho cả SPA và B
SPDD
CK
SPA
Định mức
SPA
SPB
Chi phí NVL TT
300
94.500
300
120
130
Chi phí nhân công TT
200
81.250
200
160
110
Chi phí chung
300
25.000
300
Tổng cộng
800
200.750
800
- Sản phẩm A không có dở dang đầu kỳ, sản phẩm B không có dở dang cuối kỳ.
- Sản lượng nhập kho gồm có 100 sản phẩm A và 100 sản phẩm B.
Yêu cầu: Lên bảng tổng hợp chi phí và tính tổng giá thành, giá thành đơn vị của 2 loại sản phẩm A và B. Biết rằng chi phí sản xuất chung phân bổ cho sản phẩm A và B theo số lượng sản phẩm hoàn thành nhập kho.
Để tính giá của hai loại sản phẩm hoàn thành A và B, phải tiến hành các bước theo đúng quy trình.
- Bước 1: Tập hợp chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ theo từng khoản mục:
+ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp SP A và B:
94.500
+ Chi phí nhân công trực tiếp SP A và B:
81.250
+ Chi phí sản xuất chung:
25.000
- Bước 2: Phân bổ những chi phí sản xuất chung cho sản phẩm A và sản phẩm B:
+ Phân bổ chi phí sản xuất cho sản phẩm A:
Chi phí NVL trực tiếp sản phẩm A
=
94.500
120
=
45.360
120 + 130
Chi phí nhân công trực tiếp SP A
=
81.250
160
=
48.148
160 + 110
Chi phí chung phân bổ cho SP A
25.000
100
=
12.500
100 + 100
+ Phân bổ chi phí sản xuất cho sản phẩm B:
Chi phí NVL trực tiếp sản phẩm B
=
94.500
130
=
49.140
120 + 130
Chi phí nhân công trực tiếp SP B
=
81.250
110
=
33.120
160 + 110
Chi phí chung phân bổ cho SP B
25.000
100
=
12.500
100 + 100
- Bước 3: Xác định giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ:
Sản phẩm B dở dang cuối kỳ không có, nên chỉ tính giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ của sản phẩm A.
Chi phí NVL TT
=
300
Chi phí nhân công TT
=
200
Chi phí chung
=
300
- Bước 4: Tính ra tổng giá thành và giá thành doanh nghiệp sản phẩm, dịch vụ hoàn thành. Sử dụng bảng tính giá thành để tổng hợp và tính tổng giá thành, giá thành đơn vị của từng sản phẩm.
Doanh nghiệp: XXX
Bộ phận sản xuất: SP A&B
BẢNG (PHIẾU) TÍNH GIÁ THÀNH
Sản phẩm: A
Số luợng: 100 ĐV tính:1.000đ
Khoản mục chi phí
CPSXDD đầu kì
CPSX phát sinh trong kì
CPSX dở dang cuối kì
Tổng giá thành sp
Giá thành đơnvị sp
1. Chi phí NVL trực tiếp
45.360
300
45.660
456,6
2. Chi phí nhân công trực tiếp
48.148
200
48.348
483,5
3.CP sản xuất chung
12.500
300
12.800
128,0
Cộng
106.008
800
106.808
1.068,1
Doanh nghiệp: XXX
Bộ phận sản xuất: SP A&B
BẢNG (PHIẾU) TÍNH GIÁ THÀNH
Sản phẩm: B
Số luợng: 100 ĐV tính:1.000đ
Khoản mục chi phí
CPSXDD đầu kì
CPSX phát sinh trong kì
CPSX dở dang cuối kì
Tổng giá thành sp
Giá thành đơnvị sp
1. Chi phí NVL trực tiếp
300
49.140
49.140,0
491,4
2. Chi phí nhân công trực tiếp
200
33.120
33.120,0
331,2
3.CP sản xuất chung
300
12.500
12.500,0
125,0
Cộng
800
94.760
94.760,0
947,6
PHẦN III
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHƯƠNG PHÁP
TÍNH GIÁ ĐỐI TƯỢNG KẾ TOÁN CHỦ YẾU TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM.
Hiện nay, nhìn chung các doanh ngiệp ở Việt Nam đều tuân thủ các nguyên tắc, phương pháp tính giá đối tượng kế toán đã được quy định, các nguyên tắc, phương pháp này khá phù hợp, có hiệu quả và phát huy tác dung tốt.
Tuy mỗi phương pháp đều có những ưu điểm, nhược điểm nhưng dựa vào đặc điểm kinh doanh của từng doanh nghiệp mà các doanh nghiệp tự lựa chọn một phương pháp tính giá đối tượng kế toán phù hợp.
Để từng bước hoàn thiện các phương pháp tính giá đối tượng kế toán trong các doanh nghiệp ở Việt Nam, em xin kiến nghị một số biện pháp sau:
Hệ thống kế toán Việt Nam quy định các phương pháp tính giá trị thực tế hàng xuất kho bao gồm: Phương pháp giá đích danh;Phương pháp bình quân gia quyền; Phương pháp nhập trước, xuất trước; Phương pháp nhập sau, xuất trước.
Thứ nhất: Thực tế chúng ta không thể áp dụng các phhương pháp tính giá hàng tồn kho một cách phù hợp với tất cả các loại hàng tồn kho. Ví dụ như với thành phẩm vì việc tính giá thực tế của thành phẩm chỉ có thể tiến hành vào cuối tháng (quý) mà trong khoảng thời gian là tháng (quý) thì thành phẩm có thể nhập, xuất hàng ngày. Vì vậy cần có quy định hướng dẫn phương pháp tính đối với từng loại hàng tồn kho cho phù hợp.
Thứ hai: Hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kiểm kê định kỳ có nhược điểm là không phát hiện được vật tư, hàng hóa thừa, thiếu:
Giá trị hàng xuất kho
=
∑ Giá trị hàng nhập kho
+
Chênh lệch giá trị tồn kho cuối kỳ và đầu kỳ
Vậy phải chăng còn có một phương pháp tính trị giá hàng xuất kho như trên? Các phương pháp theo quy định của hệ thống kế toán Việt Nam chỉ có thể phù hợp với từng loại hàng tồn kho trong trường hợp kế toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên mà thôi, còn với phương pháp kiểm kê định kỳ thì trị giá hàng xuất phải dựa vào kết quả kiểm kê cuối kỳ. Vậy liệu giá trị hàng tồn kho cuối kỳ có phải được tính như các phương pháp tính giá hàng tồn kho hay không.
Thứ ba: Ở Việt Nam, một số doanh nghiệp sử dụng phương pháp tính giá hàng tồn kho không được quy định trong chuẩn mực kế toán Việt Nam cũng như trong chế độ kế toán. Song phương pháp này lại rất tiện lợi, đó là sử dụng phương pháp giá hạch toán bởi vì có khi phát sinh các nghiệp vụ tăng giá trị hàng tồn kho nhưng lại chưa biết được giá thực tế (Giá này thường biết vào cuối tháng). Do đó mà khi xuất kho kế toán thường sử dụng giá tạm tính (Giá hạch toán). Giá này được sử dụng ổn định. Đến cuối tháng khi xác định được giá thực tế, kế toán xác định hệ số giá và tiến hành điều chỉnh giá tạm tính với giá thực tế.
Giá trị thực tế xuất kho
=
Số lượng hàng xuất kho
Đơn giá hạch toán
-
Hệ số giá
Hệ số giá
=
Giá trị thực tế tồn đầu kỳ + Giá trị thực tế nhập trong kỳ
Giá trị hạch toán tồn đầu kỳ + Giá trị hạch toán nhập trong kỳ
Phương pháp này được áp dụng khá phổ biến bởi vì nó rất phù hợp với việc hạch toán hàng tồn kho. Song nó lại không được quy định trong chuẩn mực kế toán Việt Nam cũng như trong hệ thống kế toán Việt Nam. Vì vậy mà phương pháp này cần được quy định trong hệ thống kế toán Việt Nam để các DN có thể áp dụng nó một cách rộng khắp và linh hoạt.
Thứ tư: Chúng ta thấy rằng phương pháp LIFO có rất nhiều ưu điểm, do vậy mà các DN có xu hướng sử dụng phương pháp này để tính giá hàng tồn kho. Vì vậy cần quy định rằng nếu một doanh nghiệp nào đó lựa chọn phương pháp LIFO cho mục tiêu tính thuế thì buộc DN đó cũng phải sử dụng phương pháp này trong việc lập các báo cáo kế toán.
Tóm lại, để tiếp cận, hoà nhập dần với kế toán kinh tế thị trường và phù hợp với các thông lệ, chuẩn mực kế toán quốc tế được thừa nhận chúng ta cần:
- Hiểu biết hàng tồn kho ở mọi góc độ, khía cạnh của chúng theo nội dung quy định của chuẩn mực.
- Hướng dẫn công thức tính giá trị hàng tồn kho phù hợp với các loại hàng tồn kho, không phân biệt kế toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên hay kiểm kê định kỳ.
- Có sự thống nhất giữa chế độ tài chính với chế độ kế toán.
Keát luaän
Phương pháp tính giá các đối tượng kế toán là một trong bốn phương pháp của hệ thống phương pháp hạch toán kế toán. Là một phương pháp kế toán dùng để quy đổi hình thức biểu hiện của các đối tượng kế toán từ các loại thước đo khác nhau về một thước đo chung là sử dụng thước đo tiền tệ để xác định giá trị ghi sổ của các đối tượng cần tính giá theo những nguyên tắc nhất định nên phương pháp tính giá các đối tượng kế toán là một phương pháp bắt buộc mọi kế toán viên phải sử dụng để tính giá các đối tượng kế toán làm cơ sở cho việc ghi nhận giá trị của tài sản vào chứng từ, sổ sách, báo cáo và cung cấp các thông tin liên quan cho các đối tượng có yêu cầu.
Việc tính giá các đối tượng kế toán chủ yếu trong các doanh nghiệp ở Việt Nam một cách đúng đắn theo lý luận về tính giá các đối tượng kế toán, cũng như những quy định của Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam là một việc đòi hỏi bộ máy kế toán của các doanh nghiệp và từng kế toán viên phải thực sự đủ mạnh để thực hiện tốt, kịp thời thông tin cho các nhà quản lý thông tin kịp thời, đúng đắn về quá trình hình thành, vận động và phát triển của Doang nghiệp.
Để hiểu rõ và có thể vận dụng phương pháp tính giá các đối tượng kế toán vào thực tế, điều bắt buộc đối với các sinh viên chuyên ngành kinh tế phải nghiên cứu nắm vững các nguyên tắc, yêu cầu và các phương pháp tính giá, mà quan trọng nhất là thuần thục kỹ năng tính giá các đối tượng cụ thể.
Xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Nguyễn Thị Kim Hương - Giảng viên Khoa Kế toán, Trường Đại học Duy Tân đã truyền đạt, hướng dẫn để em có thể nắm bắt những nội dung cơ bản của phương pháp tính giá, tạo cơ sở nền tảng cần thiết về mặt lý luận để có thể vận dụng vào thực tế trong quá trình công tác sau./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tính giá đối tượng kế toán chủ yếu trong các Doanh nghiệp ở Việt Nam.doc