Đề tài Tình hình lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua – Dự báo trong thời gian tới và đề xuất một số giải pháp

Lạm phát từ khi xuất hiện đến nay luôn là một trong những vấn đề được đề cập đến rất nhiều trong mỗi nền kinh tế cũng như trong nền kinh tế toàn cầu. Là một trong bốn đỉnh của “tứ giác mục tiêu”, việc kiềm chế lạm phát đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia bởi nó tác động trực tiếp đến lợi ích của các cá nhâ, tổ chức cũng như chính phủ. Việt Nam sau khi thống nhất đất nước đã trải qua những thời kỳ “thăng trầm” của lạm phát. Từ chỗ chưa được chính thức thừa nhận trong nền kinh tế những năm đầu giải phóng đến cơn bão siêu lạm phát những năm 1986-1988 sau đó “im lặng” trong một giai đoạn giảm phát, lạm phát lại bùng trở lại ở nước ta sau khi mở cửa nền kinh tế, gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Năm 2007, một năm sau khi trở thành thành viên chính thức của WTO, lạm phát phi mã đánh dẫu sự trở lại bằng việc đưa chỉ số giá tiêu dùng lên 12,6%. Năm tháng đầu năm 2008, chỉ số lạm phát đã vượt qua cả mục tiêu lạm phát cả năm do Quốc hội đề ra và tỷ lệ lạm phát của cả năm ngoái. Dường như nền kinh tế đang tăng trưởng quá nóng và không hấp thu được hết những cơ hội của nó. Bên cạnh đó là những bất cập trong hệ thống tài chính tiền tệ cũng như sự thiếu đồng bộ trong các chính sách của Chính phủ đã dẫn tới tình trạng lạm phát như hiện nay. Yêu cầu đặt ra là phải nghiên cứu xác định được đúng nguyên nhân lạm phát ở nước ta để có thể “kê đơn đúng bệnh” và đưa ra những dự đoán trong thời gian tới nhằm chuẩn bị một cách tốt nhất cho nền kinh tế trong giai đoạn mở cửa hơn nữa. Xuất phát từ yêu cầu thực tế đó và qua nghiên cứu tìm hiểu về vấn đề này trong quá trình học tập cũng như trong thực tế, em đã quyết định chọn đề tài: “Tình hình lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua – Dự báo trong thời gian tới và đề xuất một số giải pháp” cho khóa luận tốt nghiệp của mình. Khóa luận được hình thành trên cơ sở xác định: LỜI MỞ ĐẦU CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT I. Khái niệm 1. Định nghĩa lạm phát 2. Quy mô lạm phát 3. Đo lường lạm phát II Nguyên nhân của lạm phát 1. Lạm phát do cầu kéo 2. Lạm phát do chi phí đẩy 3. Lạm phát dự kiến (Anticipated inflation) 4. Lạm phát do xuất nhập khẩu III. Mối quan hệ giữa lạm phát với tiền tệ, lãi suất và thất nghiệp 1. Mối quan hệ giữa lạm phát và tiền tệ 2. Mối quan hệ giữa lạm phát và lãi suất 3. Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp 3.1. Trong ngắn hạn 3.2. Trong dài hạn IV. Tác động của lạm phát đối với nền kinh tế 1. Tác động đối với sản lượng 2. Tác động đối với phân phối lại thu nhập và của cải 3. Tác động đến cơ cấu kinh tế 4. Những tác động đến tính hiểu quả kinh tế CHƯƠNG II QUÁ TRÌNH LẠM PHÁT VÀ CÁC BIỆN PHÁP CỦA NHÀ NƯỚC NHẰM GIẢM THIỂU LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM I. Giai đoạn từ sau khi giải phóng đất nước đến năm 1990 II. Giai đoạn chống lạm phát được đưa lên hàng đầu (1991-1998) 1. Thực trạng và nguyên nhân 1. Thực trạng và nguyên nhân III. Giai đoạn 1999-2003 2. Các giải pháp của chính phủ IV. Giai đoạn 2004-2008 1. Thực trang và nguyên nhân2. Các giải pháp của chính phủ 3. Đánh giá chung về các giải pháp để kiềm chế lạm phát và khắc phục giảm phát ở Việt Nam. CHƯƠNG III XU HƯỚNG LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM VÀ CÁC GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT TRONG THỜI GIAN TỚI I. Xu hướng lạm phát của nước ta trong thời gian tới. 1. Những yếu tố ảnh hưởng. 1.1. Kinh tế thế giới vẫn nằm trong chu kỳ của cuộc khủng hoảng kinh tế 1.3. Yếu tố tiền tệ 1.4. Ảnh hưởng từ các chính sách vĩ mô thiếu đồng bộ và có độ trễ lớn. 1.5. Sự cạnh tranh kinh tế sẽ ngày càng gay gắt hơn 2. Dự báo xu hướng lạm phát II. Một số giải pháp cụ thể kiềm chế lạm phát 1. Thực hiện chính sách tài chính tiền tệ năng động và hiệu quả ​2. Điều chỉnh tăng trưởng kinh tế 3. Giảm thâm hụt ngân sách nhà nước – Đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu 4. Nâng cao chất lượng dự báo kinh tế KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

doc74 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2561 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua – Dự báo trong thời gian tới và đề xuất một số giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đó có 1 lần giảm); Thuỵ Điển tăng 4 lần từ 3,0%-4,0%/năm; Trung Quốc tăng 6 lần từ 6,12-7,47%/năm [28]. Việc các nước thực hiện thắt chặt tiền tệ thông qua tăng lãi suất chủ đạo cùng với việc giá dầu, giá lương thực - thực phẩm tiếp tục tăng cao chính là nguyên nhân cơ bản đã đẩy nền kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái vào những tháng đầu năm 2008, mà biểu hiện là cuộc khủng hoảng cho vay dưới tiêu chuẩn của Mỹ bắt đầu từ tháng 7/2007. Trước bối cảnh lạm phát gia tăng và kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái, các NHTW không còn cách nào khác là phải bơm một lượng tiền khổng lồ để cứu vãn nền kinh tế, trong đó riêng Mỹ từ tháng 8/2007 đến nay đã phải đưa ra nền kinh tế trên 2.300 tỷ USD, trong đó có 800 tỷ USD tiền mặt để cứu vãn hệ thống ngân hàng, NHTW Châu Âu, Nhật Bản, Anh cũng phải đưa một lượng tiền lớn để cứu vãn nền kinh tế cũng như hệ thống ngân hàng; cùng với việc một số NHTW phải thực hiện cắt giảm lãi suất từ tháng 8/2007 trở lại đây như Mỹ, Anh, Canada. Việc cứu vãn nền kinh tế thế giới rơi vào suy thoái bằng biện pháp đưa hàng nghìn tỷ USD ra nền kinh tế lại càng đẩy lạm phát toàn cầu tiếp tục tăng cao. ● Các nguyên nhân chính từ nội tại nền kinh tế Việt Nam: Thứ nhất, chi phí sản xuất tăng cao: Trước bối cảnh lạm phát toàn cầu gia tăng đã tác động làm giá hầu hết các nhóm hàng nhập khẩu của Việt Nam gia tăng mạnh mẽ như xăng dầu, sắt thép, phân bón, thuốc trừ sâu - là những nguyên nhiên vật liệu đầu vào chính của sản xuất. Điều này đã tác động làm chi phí sản xuất tăng cao. Thứ hai, giá lương thực, thực phẩm tăng cao: biến đổi khí hậu toàn cầu trên thế giới không những tác động đến nhiều quốc gia mà Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Chỉ trong tháng 10/2007, miền Trung phải hứng chịu 5 cơn bão liên tiếp, trong khi đó dịch bệnh trong chăn nuôi, trồng trọt như cúm gia cầm, lợn tai xanh, lở mồm long móng ở lợn, vàng lùn ở lúa cùng với rét đậm, rét hại khiến cho nguồn cung LTTP bị sụt giảm. Thứ ba, chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ liên tục mở rộng từ 2001-2006 nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: Trong vòng 3 năm trở lại đây kinh tế Việt Nam liên tục tăng trưởng ở mức rất cao trên 8%, và mục tiêu của giai đoạn này đối với Chính phủ Việt Nam là ưu tiên tăng trưởng kinh tế. Với mục tiêu này đã khuyến khích cho “chính sách tài chính, tiền tệ nới lỏng đã thực hiện trong nhiều năm liền nhưng quản lý chưa chặt chẽ” nhằm mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, và đây cũng là nhân tố góp phần khiến lạm phát bình quân từ 2005 đến 2007 tăng trên 8,01%. Tín dụng ngân hàng cho nền kinh tế tăng mạnh trong một thời gian dài nhằm phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế là một nguyên nhân quan trong làm gia tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế. Các ngân hàng cũ mở rộng tín dụng bằng việc nới lỏng điều kiện cho vay, cạnh tranh nhau bằng giảm lãi suất cho vay, tăng lãi suất huy động để tìm kiếm nguồn vốn cho vay,chuyển đổi mô hình, liên doanh liên kết với các doanh nghiệp, tập đoàn để tăng vốn điều lệ, mở rộng mạng lưới nhanh chóng vượt quá khả năng quản trị, cho thành lập thêm các ngân hàng mới và tất cả các ngân hàng chủ yếu đua nhau tìm kiếm lợi nhuận từ nghiệp vụ cho vay nên càng làm cho tín dụng của hệ thống ngân hàng tăng cao trong suốt năm 2007 và 3 tháng đầu năm 2008, đó là nguyên nhân rất quan trong gây sức ép rất lớn làm gia tăng lạm phát trong thời gian qua. Thứ tư, luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam gia tăng mạnh: bắt đầu từ cuối năm 2006 khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), cùng với những cải cách về cơ chế chính sách và môi trường đầu tư đã tạo điều kiện cho các luồng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng mạnh. Năm 2007 luồng vốn FDI tăng 20,3 tỷ USD vốn đăng ký, cao hơn nhiều so với mức 10,2 tỷ USD của năm 2006 [28], đặc biệt là luồng vốn đầu tư gián tiếp gia tăng mạnh mẽ khoảng trên 6 tỷ, gấp 5 lần con số của năm 2006 mà chủ yếu đổ vào TTCK, trái phiếu đặc biệt là đổ vào IPO (bán cổ phiếu lần đầu) các DNNN lớn. Đứng trước bối cảnh này, NHNN đã phải cung ứng một lượng lớn tiền VND để mua ngoại tệ vào nhằm mục tiêu ổn định và phá giá nhẹ tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và điều này làm cho tổng phương tiện thanh toán tăng cao, tác động làm lạm phát gia tăng. Có thể thấy năm vừa qua, cả diễn biến tính hình kinh tế thế giới lẫn Việt Nam đều tạo điều kiện rất thuận lợi cho lạm phát phi mã quay trở lại Việt Nam. * Năm tháng đầu năm 2008 Tiếp tục đà tăng giá của năm 2007, năm 2008 lạm phát được dự báo là sẽ giữ nguyên mức tăng thậm chí là còn có thể cao hơn. Hình 9: Chỉ số giá tiêu dùng năm tháng đầu năm 2008 (Nguồn: TCTK) Trong tháng đầu tiên của năm mới 2008, chỉ số giá tiêu dùng trên cả nước tăng 2,38%. Đáng chú ý là tốc độ tăng giá tại nông thôn và các vùng khó khăn về kinh tế lại cao hơn tại các thành phố lớn. Giá cả tháng 2 đã tăng với tốc độ kỷ lục 3,56% và đưa chỉ số giá tiêu dùng trong 2 tháng đầu năm lên gần 6%, trong khi mục tiêu cả năm là kiểm soát CPI ở dưới 8,5%.Chỉ số giá tăng mạnh chủ yếu do nhu cầu tiêu dùng của người dân cả nước đột biến trong dịp Tết. Trong khi các nhóm hàng khác giữ ổn định hoặc tăng nhẹ trên dưới 1%, giá hàng ăn và dịch vụ ăn uống vọt lên tới 6,18%, làm động lực đẩy CPI đi lên. Trong đó, giá các loại lương thực leo thang 3,2%, và thực phẩm đắt hơn trước 7,53%. Người tiêu dùng sử dụng các dịch vụ ăn uống ngoài gia đình cũng phải trả các khoản chi phí cao hơn trước đến 5,7%. Một nhóm khác cũng bước vào cuộc đua tăng giá là các dịch vụ văn hóa, thể thao và giải trí, do nhu cầu vui chơi của người dân tăng cao trong những ngày Tết. Giá nhóm này nhích lên 2,34% so với tháng đầu năm. Một số nhóm hàng và dịch vụ khác có nhu cầu cao trong Tết cũng tăng nhẹ, như đồ uống và thuốc lá 1.89%; may mặc, mũ nón, giày dép 1,36%; nhà ở 1,39%; phương tiện đi lại 1,51%. Tháng 3 năm nay giá tiêu dùng tăng 2,99% so với tháng trước và tăng 9,16% so với tháng 12 năm 2007. Tốc độ này tuy thấp hơn tốc độ tăng của tháng 2, nhưng là tháng 3 có tốc độ tăng cao nhất trong 18 năm qua. Tháng 4, chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp hơn tháng trước, chỉ ở mức 2,2%, nhưng vẫn góp phần vào mức lạm phát kỷ lục 11,6% trong 4 tháng qua. Tính chung trong 5 tháng đầu năm 2008, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng 15,96%, và so với cùng kỳ năm ngoái đã tăng hơn 19,09%. Nếu như chỉ số tiêu dùng tháng 4 đã có dấu hiệu giảm nhiệt thì sang đến tháng 5, do cơn sốt giá gạo chỉ số CPI lại tăng 3,91%. Không giống diễn biến nhóm hàng lương thực, nhóm hàng thực phẩm chỉ tăng 2,28%, nhà ở - vật liệu xây dựng (gồm cả chất đốt, giá thuê nhà, điện nước, các loại vật liệu xây dựng quan trọng như sắt, thép, ximăng) cũng chỉ tăng 1,2% so với tháng 4-2008. Ngoài ra, nhiều mặt hàng khác đã giảm tốc độ tăng giá khá nhanh như dược phẩm y tế chỉ còn tăng 0,48%; phương tiện đi lại, bưu điện tăng 0,34% so với tháng 4-2008. Đa số các mặt hàng, dịch vụ khác đều tăng dưới 1% như thiết bị đồ dùng gia đình, văn hóa thể thao giải trí và may mặc mũ nón giày dép. Các nguyên nhân được đề cập đến vẫn là do suy thoái kinh tế thế giới, đồng USD mất giá, giá dầu thô tăng cao, giá cả lương thực và nguyên nhiên vật liệu tăng đột biến cộng với tác động của thiên tai, dịch bệnh cùng những điểm yếu cố hữu trong nền kinh tế Việt Nam. Trong các báo cáo gần đây, Chính phủ đã chỉ ra được hầu hết những nguyên nhân gây ra những yếu kém kinh tế trong thời kỳ gần đây. Cụ thể là cơ cấu kinh tế chậm cải thiện; công nghiệp khai thác tài nguyên và gia công vẫn chiếm tỉ trọng lớn, công nghiệp phụ trợ chậm phát triển, phần lớn vật tư, nguyên liệu trung gian cho sản xuất phải nhập khẩu; giá trị gia tăng sản xuất công nghiệp thấp. Tình trạng đầu tư từ nguồn vốn NSNN vẫn còn dàn trải, không đảm bảo tiến độ, còn nhiều thất thoát, hiệu quả thấp... kéo dài, chậm được khắc phục. Quản lý tài chính, tiền tệ, thị trường, giá cả, xuất nhập khẩu chưa chặt chẽ. Công tác dự báo và dự kiến các biện pháp, kế hoạch ứng phó với những tác động tiêu cực của kinh tế thế giới trong điều kiện hội nhập chưa được quan tâm đúng mức; các cơ quan nghiên cứu, tham mưu của Đảng và Nhà nước phát hiện tình hình còn chậm; khi tình huống xảy ra, do chưa có kinh nghiệm và chủ động trong việc ứng phó nên chỉ đạo, xử lý của một số ngành chức năng có lúc còn lúng túng, chưa kịp thời, thiếu phối hợp đồng bộ, thiếu linh hoạt. Có chính sách, giải pháp chưa tạo được sự đồng thuận cao trong xã hội. 2. Các giải pháp của chính phủ Trước việc lạm phát tăng quá cao ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của dân chúng, Chính phủ nhất trí điều chỉnh mục tiêu chống lạm phát và mức tăng trưởng trong năm 2008 thích hợp trong tình hình mới, gắn liền với đảm bảo an sinh xã hội khi giá cả tăng cao. Ngày 25 tháng 3 vừa qua, trong phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 3, Thủ tướng Chính phủ nêu rõ 8 giải pháp cần tập trung chỉ đạo và điều hành nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và duy trì tiềm năng tăng trưởng của nền kinh tế. Trước hết, tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng theo nguyên tắc thị trường một cách chặt chẽ, chủ động và linh hoạt, bảo đảm mục tiêu chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm huy động các nguồn vốn phục vụ phát triển kinh tế. Thứ hai, tăng thu gắn liền với thắt chặt, tiết kiệm chi tiêu, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước, hạn chế bội chi ngân sách, hệ thống chính trị phải gương mẫu thực hiện tiết kiệm 10% chi thường xuyên; cắt giảm các khoản chi chưa thật cần thiết; thực hiện các biện pháp tiết kiệm xăng, dầu; rà soát và giảm các hạng mục, công trình chưa thật bức thiết, đồng thời kêu gọi nhân dân thực hành tiết kiệm tiêu dùng. Thứ 3, các bộ, ngành dứt khoát phải chịu trách nhiệm đảm bảo cân đối cung cầu các mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống và sản xuất như xăng, dầu, gạo, thuốc, xi măng, sắt, thép, phân bón... gắn liền với kiểm soát chặt chẽ giá cả. Nhà nước một lần nữa khẳng định không tăng giá bán than cho ngành điện, không tăng giá điện và giá xăng dầu. Nhà nước tiếp tục bù lỗ cho các mặt hàng này nhằm ổn định giá. Thứ 4, các bộ, ngành, chính quyền các địa phương, hiệp hội các ngành hàng tăng cường các biện pháp quản lý thị trường giá cả, tổ chức tốt thương mại trong nước, kêu gọi các doanh nghiệp có trách nhiệm với đất nước không đầu cơ trục lợi và tăng giá các mặt hàng. Thứ 5, tìm mọi cách đẩy mạnh xuất khẩu để giảm nhập siêu, tập trung đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh như thuỷ sản, dệt may và da giầy... Thứ 6, tập trung ưu tiên tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất công-nông nghiệp và dịch vụ. Nhanh chóng khắc phục khó khăn do hạn hán, rét đậm vừa qua gây ra để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, tăng cường các biện pháp phòng chống, kiểm soát và khống chế dịch bệnh bùng phát và lan rộng. Sớm hoàn thành và đưa vào sử dụng các dự án công trình mang lại sản phẩm lớn cho xã hội như điện, xi măng, thép... Thứ 7, rà soát các chương trình, chính sách hỗ trợ người có thu nhập thấp, người nghèo để tiếp tục hỗ trợ tích cực các đối tượng này nhằm đảm bảo an sinh xã hội trong tình hình giá cả tăng cao. Thứ 8, việc cung cấp thông tin, tuyên truyền phải tạo sự nhất trí, đồng thuận, cùng nhau chung sức hợp tác chặt chẽ vượt qua khó khăn, thực hiện đồng bộ và quyết liệt các giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và tốc độ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh khó khăn toàn cầu. Theo đó, NHNN thực hiện các biện pháp thắt chặt tiền tệ với mong muốn nhanh chóng đưa chỉ số giá tiêu dùng giảm xuống. tăng Dự trữ bắt buộc 2 lần từ 5%-10%-11% đối với VND và từ 8%-10%-11% đối với ngoại tệ, đồng thời mở rộng kỳ hạn tiền gửi phải thực hiện DTBB từ <24 tháng thành tất cả các kỳ hạn; Tăng tất cả các mức lãi suất cơ bản từ 8,25%-8,75%, lãi suất tái cấp vốn từ 6,5%-7,5%, lãi suất tái chiết khấu từ 4,5%-6%; liên tục hút tiền về trên Thị trường mở; NHNN phát hành tín phiếu bắt buộc khoảng trên 20 nghìn tỷ đồng bắt đầu từ 19/3/2008 với kỳ hạn 12 tháng, lãi suất 7,58%; Tiếp tục thực hiện chuyển khoảng 50 nghìn tỷ đồng từ tiền gửi kho bạc về NHNN; Trong quý IV/2007, NHNN thực hiện hạn chế tối đa mua ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng để hạn chế tổng phương tiện thanh toán tăng cao; Thắt chặt cho vay chứng khoán ở mức 3%/tổng dư nợ, sau đó tiếp tục kiểm soát mức cho vay đầu tư chứng khoán không vượt quá 20% vốn điều lệ, đồng thời tăng hệ số rủi ro đối với cho vay đầu tư chứng khoán từ 150% lên 250% theo Quyết định 03 ngày 1/2/2008 của NHNN. Tiếp đó, ngày 19 tháng 5 năm 2008, NHTW đã quyết định bỏ trần lãi suất, theo đó lãi suất cơ bản sẽ được nâng lên 12%/năm từ mức 8,75%, cho phép lãi suất cho vay tối đa của các tổ chức tín dụng ở mức 18%/năm. Lãi suất tái cấp vốn ở mức 13%/năm và lãi suất chiết khấu là 11%/năm. Và mới đây nhất, từ ngày 11 tháng 6 năm 2008, NHNN điều chỉnh lãi suất cơ bản từ 12%/năm lên 14%/năm, lãi suất tái cấp vốn từ 13%/năm lên 15%/năm, lãi suất tái chiết khấu từ 11%/năm lên 13%/năm. Trần lãi suất cũng được điều chỉnh từ 18%/năm lên 21%/năm. 3. Đánh giá chung về các giải pháp để kiềm chế lạm phát và khắc phục giảm phát ở Việt Nam. Nhìn chung các giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát và khắc phục giảm phát của Việt Nam đã phát huy những mặt tích cực. Trong những năm 80, thành công trong việc kiềm chế siêu lạm phát và đưa lạm phát nước ta xuống 2 con số rồi còn một con số được coi như một kỳ tích. Những chính sách hiệu quả của Chính phủ trong việc khắc phục giảm phát thời kỳ 200-2002 cũng được thế giới đánh giá cao. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện tại, các giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát phi mã đang gặp phải những thử thách nhất định và trong thực tế phần nào còn mang tính “hớt ngọn”, thiếu chủ động và đồng bộ. Điều này thể hiện tập trung ở ba điểm sau: Thứ nhất, chưa coi trọng đúng mức và phân biệt rạch ròi giữa yêu cầu dự báo giá cả khách quan với mục tiêu chính sách chủ quan. Đây là nguyên nhân quan trọng khiến Chính phủ bất ngờ và lúng túng trong việc giải mã, bắt mạch, kê đơn cho các động thái giá cả thị trường, từ đó làm giảm tính chủ động và hiệu quả của các giải pháp kiềm chế lạm phát được lựa chọn. Thứ hai, chưa coi trọng việc tuân thủ đúng các yêu cầu cũng như quy trình của nền kinh tế thị trường. Cụ thể là chưa tạo ra sự cạnh tranh đầy đủ và lành mạnh trong việc cung cấp các sản phẩm và nguyên nhiên liệu đầu vào thiết yếu của nền kinh tế rồi mới bãi bỏ sự kiểm soát hành chính về giá. Đối với một số mặt hàng thiết yếu như dầu mỏ, điện, thuốc chữa bệnh... cần phải tạo ra một thị trường cạnh tranh đầy đủ rồi Nhà nước mới bãi bỏ quản lý giá, để bàn tay vô hình của thị trường làm đúng chức năng của mình... Trong khi, trên thực tế tình hình đang diễn ra ngược lại và phát sinh nhiều bất cập. Thứ ba, chưa coi trọng sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa các cơ quan chức năng và các loại công cụ chính sách, nhất là giữa ngành tài chính với ngành ngân hàng, đặc biệt trong việc sử dụng các công cụ lãi suất, hạn mức tín dụng, dự trữ bắt buộc, dự trữ ngoại hối và chính sách thuế, chính sách nợ Chính phủ. Đồng thời, trong công tác điều hành nền kinh tế cũng chưa có sự đồng bộ, nhất quán giữa việc ban hành, triển khai, giám sát, kiểm tra và chế tài hiệu quả các vi phạm chính sách trên thực tế...Vừa qua, các cơ quan liên ngành mới chỉ tập trung vào các giải pháp về tài chính, còn nhóm giải pháp về tiền tệ thì khá mờ nhạt, điều này đã tạo điều kiện cho lạm phát tăng cao CHƯƠNG III XU HƯỚNG LẠM PHÁT CỦA VIỆT NAM VÀ CÁC GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT TRONG THỜI GIAN TỚI I. Xu hướng lạm phát của nước ta trong thời gian tới. 1. Những yếu tố ảnh hưởng. 1.1. Kinh tế thế giới vẫn nằm trong chu kỳ của cuộc khủng hoảng kinh tế Cuộc khủng hoảng này được khởi nguồn từ Mỹ ngày 21 tháng 01 năm 2007 với cuộc khủng hoảng tín dụng (suprime crisis) và đã lan sang toàn thế giới. Các sàn chứng khoán của các nước đã giảm 2 đến 7%. Nhiều nền kinh tế đều có đầu tư vào Mỹ, do đó mất giá ở Mỹ sẽ đẩy mạnh mất giá trên toàn cầu. Cụt vốn khắp nơi không thể không ảnh hưởng đến đầu tư vào Việt Nam. Ngoài ra, nếu khủng hoảng ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất vì giảm tiêu dùng như đang hình thành ở Mỹ thì hàng nhập khẩu vào Mỹ sẽ giảm, đưa đến giảm xuất khẩu của nhiều nước. Việt Nam cũng khó tránh khỏi vấn đề này, nhất là thị trường Mỹ vào năm 2007 đã chiếm tới 24% trị giá hàng xuất khẩu của Việt Nam. Biên độ của cuộc khủng hoảng đang có những biến động khó lường và dường như chưa có dấu hiệu dừng lại. 1.2. Sự tăng giá của hàng hóa trên thế giới Những năm gần đây đặc biệt là trong năm 2007 và đầu năm 2008, giá cả các mặt hàng trên thế giới tăng với tốc độ chóng mặt, đặc biệt là lương thực, vàng và dầu thô. Giá dầu lửa đã tăng từ 53,4 USD/thùng tháng 01/2007 lên 89,4 USD/thùng tháng 12-2007, và đạt đỉnh mới 127,82 USD/thùng vào ngày 16-05-2008. Như vậy so với năm 2003, giá của nhiên liệu này đã tăng từ 2 đến 3 lần. Nếu thế giới phải hứng chịu một cú sốc dầu thô thì khủng hoảng kinh tế lúc đó mới thực sự đáng lo ngại và tỷ lệ lạm phát 2 con số là điều bình thường. Ở Việt Nam, từ năm 2004 đến nay, giá xăng cũng đã được điều chỉnh 17 lần: từ 5.600VND/lít năm 2004 lên 14.500VND/lít hiện nay. Dự báo trong thời gian tới nếu giá dầu thế giới không có xu hướng giảm thì giá xăng trong nước một lần nữa lại được điều chỉnh tăng và khi đó thì lạm phát lại có thêm điều kiện để “phát triển”. Hình 10: Giá xăng tại Việt Nam Giá vàng trên thế giới cũng đang tăng cao và gây nên một cơn sốt vàng trên toàn cầu cũng như ở Việt Nam từ đầu năm nay. Giá vang đã có lúc lên trên 1000USD/ounce, ở Việt Nam giá vàng cũng đạt mức kỷ lục hơn 19 triệu/chỉ. Giá lương thực trên thế giới không ngừng tăng cao do những năm gần đây các nước không còn chú trọng vào nông nghiệp, các cánh đồng lương thực được thay bằng các nguyên liệu để tạo năng lượng sạch. Bên cạnh đó, giá các nguyên vật liệu sản xuất lương thực như phân đạm, giống cũng tăng làm cho mặt hàng này rơi vào tình thế giảm sản lượng mà chi phí đầu vào lại tăng đẩy thế giới rơi vào khủng hoảng an ninh lương thực. Trong nước, mặc dù Chính phủ đã ban hành Công văn 639/BTM-XNK ngày 16/8/2007 và Công văn số 266/TTg-KTTH ngày 21/2/2008 để khống chế lượng gạo xuất khẩu tối đa nhằm kiểm soát lạm phát và đảm bảo an ninh lương thực trong nước, nhưng việc giá LTTP thế giới tăng cao đã khiến giá gạo xuất khẩu và giá một số mặt hàng thực phẩm xuất khẩu khác như thuỷ hải sản gia tăng cộng với chi phí sản xuất tăng cao đã đẩy giá LTTP trong nước tăng cao ở mức 18,92% năm 2007 và 14,45% trong QI/2008. Đó là chưa kể nhu cầu về lương thực nói riêng và hàng hóa nói chung sẽ còn tăng lên do yếu tố tăng dân số (dân số tăng khoảng 1,2%, tức là vẫn tăng trên 1 triệu người đưa dân số trung bình năm 2008 lên trên 86,2 triệu người). Cộng thêm tình hình dịch bện thiên tai diễn biến phức tạp, Việt Nam sẽ phải hứng chịu một cơn sốt giá nữa (như đã xảy ra với mặt hàng gạo trong tháng 5 vừa rồi) nếu không có những biện pháp bình ổn giá ngay từ bây giờ. 1.3. Yếu tố tiền tệ Luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam gia tăng mạnh: bắt đầu từ cuối năm 2006 khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO, cùng với những cải cách về cơ chế chính sách và môi trường đầu tư đã tạo điều kiện cho các luồng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng mạnh. Năm 2007 luồng vốn FDI tăng 20,3 tỷ USD vốn đăng ký, cao hơn nhiều so với mức 10,2 tỷ USD của năm 2006, đặc biệt là luồng vốn đầu tư gián tiếp gia tăng mạnh mẽ khoảng trên 6 tỷ, gấp 5 lần con số của năm 2006 mà chủ yếu đổ vào TTCK [28]. Trong thời gian tới nguồn vốn này sẽ còn gia tăng khi Việt Nam mở cửa nền kinh tế hơn nữa. Nhất là khi Chính phủ tiếp tục cho những doanh nghiệp lớn bán cổ phiếu lần đầu (IPO) hoặc mở cơ hội (room) cho những doanh nghiệp chứng khoán có lãi (Blue-chips) thì ngay lập tức, dòng vốn này sẽ tác động lên CPI và gây lạm phát . Bởi lẽ, sau IPO, doanh nghiệp sẽ thu về một lượng thặng dư cổ phần khổng lồ và họ đem vốn vào đầu tư. Đứng trước bối cảnh này, Ngân hàng nhà nước đã phải cung ứng một lượng lớn tiền VND để mua ngoại tệ vào nhằm mục tiêu ổn định và phá giá nhẹ tỷ giá để hỗ trợ xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và điều này làm cho tổng phương tiện thanh toán tăng cao, tác động làm lạm phát gia tăng. Trên thực tế thì năm 2007, NHNN cũng đã mua vào hơn 7 tỷ USD nhằm giữ VND ở mức giá thấp so với đồng đô la. 1.4. Ảnh hưởng từ các chính sách vĩ mô thiếu đồng bộ và có độ trễ lớn. Điều hành chính sách vĩ mô trong thời gian qua dường như thiếu đồng bộ và bị động. Các nhà hoạch định chính sách không dự đoán được khả năng có thể xảy ra đối với nền kinh tế, nhất là trong việc thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ. Khi TTCK có những dấu hiệu phát triển nóng, nhiều biểu hiện xấu, nhưng các nhà hoạch định chính sách còn chần chừ, và còn khá nhiều các tranh cãi xem đã đến lúc cần phải can thiệp mạnh vào thị trường hay chưa? Việc tăng cung ứng tiền ra lưu thông để mua ngoại tệ lại không được kết hợp ngay từ đầu với các chính sách tiền tệ thắt chặt. Việc quản lý tốc độ tăng tín dụng không được quan tâm đúng mức, phát hành trái phiếu Chính phủ dường như mới chỉ nhằm vào việc phục vụ mục tiêu chi tiêu ngân sách, mà không quan tâm đến việc phối hợp thực hiện chính sách tiền tệ, chưa có những giải pháp về kinh tế để can thiệp vào thị trường chứng khoán (quỹ Chính phủ chủ động mua vào bán ra các chứng khoán nhằm ổn định thị trường)... Các quy định của ngành ngân hàng và tài chính chỉ được thực hiện khi thị trường đã có dấu hiệu nguy hiểm. Một số quy định có tính hành chính mạnh, gây phản ứng không tốt đến thị trường. Chính sách thuế chưa được sử dụng có hiệu quả, sự can thiệp của Nhà nước bằng các biện pháp kinh tế trước đây đã từng được sử dụng có hiệu quả, nhưng lại chưa được chú ý trong những tháng vừa qua. Thị trường luôn luôn thể hiện những tác động của các chính sách. Nếu như các chính sách khẩn cấp, xử lý tình huống luôn có tác động tích cực trong ngắn hạn, có thể thấy hiệu quả nhanh, nhưng thường lại có tác động đến dài hạn theo chiều hướng ngược lại. Việc kìm chế giá cả các mặt hàng nhập khẩu trong những năm qua và chính sách ổn định tỷ giá khuyến khích xuất khẩu nhiều năm đã là sức ép cho thị trường những tháng đầu năm. Một số loại vật tư đầu vào cơ bản của nền kinh tế đã phải điều chỉnh tăng giá trong đầu năm 2007 như: giá điện (tăng 7,6%), giá xăng 2 lần điều chỉnh tăng khoảng 15% - 16% (lần thứ nhất tăng 8,9%, lần thứ hai tăng 7,2%), giá than tăng 20%, xi-măng, phân bón, giấy... tăng 10%. Điều đó cho thấy chính sách kiềm chế lạm phát trong từng năm đã ảnh hướng đến lạm phát của những năm sau, đặc biệt nếu điều đó lại được bồi thêm bởi những biến động như giá cả trên thị trường thế giới. Việc mua ngoại tệ, giữ ổn định tỷ giá và tăng dự trữ buộc là giải pháp cần thiết. Tuy nhiên, việc mua vào ngoại tệ làm cho giá cả của đồng tiền Việt Nam mất giá so với đồng đô la Mỹ, nhưng xu hướng đó đang diễn ra trong nước lại trái ngược với xu thế đồng đô la Mỹ mất giá liên tục trên thị trường thế giới. Như vậy, giá trị đầu vào của nền kinh tế tiếp tục phải gánh chịu "chính sách tỷ giá ổn định" này. Bên cạnh đó, công tác dự báo, đã nhiều năm yếu kém, nhưng không được khắc phục, tình trạng chủ quan do tin tưởng vào khả năng tăng trưởng của nền kinh tế đã làm giảm mối quan tâm đến các yếu tố gây lạm phát. Nếu trong những năm tới, Nhà nước vẫn tiếp tục “lãng quên” các nhân tố này thì chẳng những không kiềm chế được lạm phát mà mục tiêu tăng trưởng của nền kinh tế cũng khó mà đạt được. 1.5. Sự cạnh tranh kinh tế sẽ ngày càng gay gắt hơn Nhiều động thái kinh tế trái chiều diễn ra cả trong kinh tế đối nội và đối ngoại... sẽ tiếp tục có sự giảm giá trên các mặt hàng trong diện cắt giảm thuế theo lộ trình WTO; sẽ có sự tăng giá ở những mặt hàng thuộc diện được giải phóng khỏi sự kiểm soát của Nhà nước như điện, xăng dầu và sắt thép...; giá những mặt hàng gắn với thị trường và cạnh tranh đầy đủ sẽ được điều chỉnh theo xu hướng thị trường. Trong khi đó, những mặt hàng có nguy cơ tăng giá theo kiểu “tát nước theo mưa” vẫn tiếp tục. 2. Dự báo xu hướng lạm phát Mục tiêu đầu năm do Quốc hội đề ra cho năm 2008 là tốc độ tăng giá tiêu dùng (dưới 8,5-9%) thấp hơn tốc độ tăng GDP (8,5-9%). Tuy nhiên, chỉ tính riêng 5 tháng đầu năm, lạm phát đã là 15,96% và theo dự báo của Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế TW (Ciem), lạm phát năm nay, xét đến kịch bản xấu nhất có thể lên tới 22,3% nếu như Chính phủ không có những biện pháp kịp thời, hữu hiệu và đồng bộ. Cũng trong “Báo cáo kinh tế Việt Nam 2007 và triển vọng 2008” do Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW công bố ngày 8 tháng 5, có 3 kịch bản được đề ra cho nền kinh tế Việt Nam năm 2008 : Kịch bản cơ bản: GDP tăng 7,2%, lạm phát trung bình 19,4%, thâm hụt thương mại tương đương 17,3% GDP. Kịch bản xấu: GDP tăng 6,6%, lạm phát trung bình 22,3%. Thâm hụt thương mại cao hơn mức 17,3% GDP. Kịch bản tốt: GDP tăng 7,6%, lạm phát trung bình 16,7%. Thâm hụt thương mại thấp hơn mức 17,3% GDP. Trong đó, với tình hình diễn biến giá cả trong nước và thế giới hiện nay có vẻ như kịch bản xấu có nhiều khả năng trở thành hiện thực nhất. Tuy nhiên nếu xét trong dài hạn thì một mặt bằng giá mới trong nước đã và đang hình thành sẽ ổn định hơn, lạm phát phi mã sẽ được kiềm chế; sự đột biến gây nguy hiểm, đổ vỡ, ngưng trệ nền kinh tế như kiểu Thái Lan năm 1997 sẽ khó có thể diễn ra. II. Một số giải pháp cụ thể kiềm chế lạm phát Dựa trên việc phân tích tình hình lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua và nhìn nhận những yếu tố đã, đang và sẽ ảnh hưởng đến chỉ số này, khóa luận xin trình bày một số giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát hiện nay ở Việt Nam và nhằm ngăn chặn tốc độ tăng của chỉ số giá cả. 1. Thực hiện chính sách tài chính tiền tệ năng động và hiệu quả Ngoài những giải pháp NHNN đã áp dụng trong thời gian qua có thể áp dụng những giải pháp dưới đây nhằm điều chỉnh lượng cung tiền phù hợp, điều chỉnh chính sách tài khoá, tích cực quản lý và tăng hiệu quả của chi ngân sách: Việc cần làm trước mắt hiện nay là giảm nhanh lượng tiền mặt trong lưu thông. Một số giải pháp như điều chỉnh lãi suất vay nóng giữa các Ngân hàng, nới lỏng tỷ giá hối đoái... là rất cần thiết, tuy nhiên, như vậy vẫn chưa đủ. Cần phải quản lý lượng cung tiền trong lưu thông chặt hơn nữa, chủ động tăng vòng quay của đồng tiền. Trước mắt nên hạn mức tín dụng đối với các NHTM nhằm hạn chế và kiểm soát lượng tiền tiếp tục được tung vào lưu thông. NHNN cần có cơ chế kiểm tra giám sát các ngân hàng thương mại, nhất là những ngân hàng thương mại lớn trong việc xây dựng và thực hiện các biện pháp tăng vòng quay đồng tiền, quản lý lượng cung tiền cho lưu thông. Nếu không quản lý và tăng vòng quay tiền tệ sẽ hoàn toàn bị động trong quản lý lượng tiền mặt trong lưu thông, lượng tiền sẽ tăng lên nhiều gây ra những hậu quả xấu và dẫn tới lạm phát thường trực. Mặt khác phải xác định được lượng tiền thực có trong lưu thông (T), xây dựng chỉ tiêu vòng quay tiền, lấy đó làm mục tiêu phấn đấu của toàn ngành. Trên cơ sở đó, NHNN chủ động giảm lượng tiền trong lưu thông nhằm thúc đẩy các ngân hàng thực hiện các giải pháp tăng vòng quay đồng tiền của mình. Như vậy lượng tiền sẽ được cung ứng trong giới hạn an toàn đối với nền kinh tế. Tiếp đó, cần quản lý chặt chẽ chi tiêu ngân sách. Cần xem xét lại các chương trình, dự án đầu tư, hoạt động chi tiêu của Chính phủ, của các ban ngành. Tập trung ngân sách vào những công trình cấp thiết, những chương trình không cấp thiết nên chuyển vào những năm sau. Tăng hiệu quả chi tiêu ngân sách bằng việc hoàn thành các chương trình, các dự án đúng thời hạn để sớm phát huy tác dụng. Giảm chi phí trong các cơ quan khối công quyền, tích cực chống tiêu cực và lãng phí. Ngoài ra, cũng cần phải quản lý chặt chẽ hoạt động chi tiêu thu đổi ngoại tệ trên thị trường. Tích cực thu hút ngoại tệ trong dân bằng việc khuyến khích gửi tiết kiệm ngoại tệ với lãi suất hấp dẫn; thực hiện tỷ giá hối đoái linh hoạt giữa tiền Việt với một số ngoại tệ, nhất là ngoại tệ mạnh chi phối hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam như USD, EURO, Yên, Nhân dân tệ... đảm bảo tác động khách quan vào xuất nhập khẩu, không gây thiệt hại chung cho nền kinh tế. Khuyến khích chi tiêu không dùng tiền mặt, đặc biệt là khách nước ngoài, cần tạo cơ chế để nhóm khách này có thể giam gia, nhất là đối với TTCK. Bên cạnh đó, Chính phủ nên thực hiện bán trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc cho dân, thu hồi tiền mặt. Hoạt động này có tác dụng rất tích cực làm giảm nhanh lượng tiền mặt trong lưu thông và tác động trực tiếp tới giảm lạm phát. Trong trường hợp cấp bách hiện nay, không nên đấu thầu trái phiếu và tín phiếu qua trung gian. NHNN, Kho bạc Nhà nước nên triển khai bán trực tiếp cho dân. Bán trực tiếp sẽ tránh được các khâu trung gian nên mức lãi suất đối với người mua sẽ cao hơn, thu hút được nhiều người tham gia. Có thể tổ chức thành những chiến dịch phân phối tín phiếu, trái phiếu trong thời gian cụ thể với cơ chế thuận lợi kết hợp với sự tuyên truyền cổ động mạnh mẽ để động viên mọi tầng lớp nhân dân, mọi tổ chức xã hội tham gia. Để làm được những việc trên thì rất cần thiết phải nâng cao vai trò của NHNN và cải cách các NHTM theo hướng hiện đại hóa. 2. Điều chỉnh tăng trưởng kinh tế Trước thực trạng nền kinh tế phát triển quá nóng, cần phải giảm tốc độ tăng trưởng, duy trì tốc độc tăng trưởng xoay quanh 8% là hợp lý. Thực tế là ngày 2 tháng 6 vừa qua, Quốc hội đã thông qua việc giảm GDP năm nay từ 8,5-9% xuống còn 7%. Cần kiểm soát chặt chẽ hoạt động đầu tư cả trung ương và địa phương, đầu tư của các thành phần kinh tế, chủ động điều chỉnh kế hoạch triển khai các dự án đầu tư, có thể chuyển những dự án chưa cấp thiết xuống tiếp những năm sau nhằm giảm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Kiểm tra tiến độ thực hiện các dự án, các công trình đầu tư. Khẩn trương hoàn thành các dự án, các công trình, đặc biệt là những công trình trọng điểm, hoàn thành dứt điểm các công trình dây dưa kéo dài để chúng sớm phát huy tác dụng. Chúng ta biết rằng trên thực tế, không phải dự án đầu tư nào cũng có ảnh hưởng tích cực đến nền kinh tế. Nền kinh tế chịu tác động tốt hay xấu của một dự án đầu tư tuỳ thuộc nhiều vào mức độ bao cấp, bảo hộ của nhà nước. Bài học về dự án 1 triệu tấn đường với kinh phí 1 tỷ USD đạt hiệu quả thấp, không có sức cạnh tranh quốc tế dường như vẫn còn nhức nhối. Sự bảo hộ của Nhà nước để duy trì sự tồn tại của ngành mía đường đã là yếu tố gây thiệt hại cho công nghiệp sản xuất bánh kẹo, đồ uống. Nhà nước nên giành những khoản tiền như vậy đầu tư cho các ngành mũi nhọn, có thể đem lại lợi nhuận cao như công nghệ thông tin, công nghệ bưu chính viễn thông hoặc các vùng sản xuất, chế biến nông sản xuất khẩu. Nhà nước nên cho phép tư nhân tham gia nhiều hơn nữa vào xây dựng cơ sở hạ tầng vừa để giảm chi ngân sách, đỡ "rò rỉ" nguồn vốn, vừa tăng nhanh khả năng thu hồi vốn của dự án. Đối với các ngành hàng, các dự án, các doanh nghiệp nhà nước cần hỗ trợ thì việc thực hiện hình thức “hỗ trợ sau” sẽ thúc đẩy các đối tượng được nhận hỗ trợ cố gắng đạt hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn so với hình thức “hỗ trợ trước” như hiện nay, theo phương châm: hướng cho họ cách “bơi” rồi để họ tự “bơi”, tự phải cứu lấy mình. Đến khi doanh nghiệp làm làm ăn có lãi thì Nhà nước mới hỗ trợ bằng cách giảm lãi suất, giảm nợ cho các khoản tín dụng đã cấp trước đó. Đẩy mạnh sản xuất hàng hoá vật chất, tăng năng suất lao động hơn nữa, nhất là sản xuất vật tư, nguyên vật liệu, hàng hoá tiêu dùng nhằm tăng năng lực của nền kinh tế, hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng để thúc đẩy tiêu dùng nội địa. Kiểm tra, xem xét các doanh nghiệp lớn đã cổ phần hoá, đánh giá hiệu quả vốn đầu tư huy động từ TTCK. TTCK thời gian vừa qua đã không hoàn thành chức năng cơ bản của một thị trường vốn. Chiến lược đa ngành quá rộng, một vài người có thể nói là hỗn loạn, của nhiều công ty hàng đầu Việt Nam là một minh chứng tốt cho việc phân bổ sai nguồn vốn. Hạn chế các doanh nghiệp loại này chuyển hướng kinh doanh từ sản xuất hàng hoá hiện hữu sang dịch vụ, đặc biệt là kinh doanh tiền tệ. Việc gia tăng kịch tính của nguồn cung tiền không chỉ đẩy mạnh cầu về hàng hóa và dịch vụ, dẫn tới lạm phát, mà còn đẩy mạnh cầu về tài sản tài chính (financial assets), gây nên bong bóng - một dạng lạm phát trên giấy tờ - với đồng tiền (thu được) dễ dàng, nhà đầu tư nội không ngần ngại khi vay tiền và đầu cơ với niềm tin chắc rằng, họ sẽ trở nên giàu có một cách nhanh chóng bằng cách mua cổ phiếu và bán chúng đi ngay sau đó. Quả thật, đây là một thói quen tâm lý mà người Việt Nam lại có vẻ rất ưa thích, đã đưa chỉ số VN-Index tới những mức cao không thể chịu đựng được. Chính vì vậy cần chấn chỉnh TTCK theo hướng có lợi, hạn chế đầu tư gián tiếp nước ngoài đổ vào thị trường. Quản lý vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài, có các hàng hóa mới hấp dẫn, phát hành lần đầu (cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả) để thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào các hàng hóa này,... Vấn đề minh bạch hóa thị trường cần phải thực hiện triệt để hơn, các công bố tình trạng doanh nghiệp và cổ phiếu của doanh nghiệp cần kịp thời hơn để giảm bớt tăng “nóng” và gây rối thị trường. Chính phủ cần thiết phải lập quỹ điều hành TTCK để thực hiện mua vào, bán ra chứng khoán góp phần vào việc ổn định thị trường tránh cả 2 xu hướng tăng nhanh và giảm nhanh. 3. Giảm thâm hụt ngân sách nhà nước – Đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu *Giảm thâm hụt ngân sách Thâm hụt NSNN là kết quả của chính sách thu và chi ngân sách. Muốn làm giảm thâm hụt ngân sách thì điều tất yếu là phải tăng thu và giảm chi. Để tăng thu ngân sách, trước mắt chúng ta phải làm sao ngăn chặn các nguồn đang trực tiếp làm sút giảm ngân sách. Thứ nhất, cần ngăn chặn ngay tình trạng thất thoát trong quá trình thu thuế, phí. Điều này phụ thuộc vào trình độ, đạo đức của các cán bộ, nhân viên nghành thuế, tính chặt chẽ của luật và công nghệ thu thuế. Tính chặt chẽ của các luật thuế, sắc thuế có thể được tăng cường nếu nhà nước ra quyết định thưởng cho những ai có đề xuất, sáng kiến cải cách thuế phù hợp hơn với nền kinh tế nước ta hiện nay. Về công nghệ thu thuế, Nhà nước nên phổ biến chính sách pháp luật đến từng người dân qua hệ thống thông tin xã, phường để tránh tình trạng cán bộ thuế tính khống mức thuế (nhất là với thuế môn bài) để ăn chênh lệch mà dân vẫn không biết; Khuyến khích nhân dân tố giác các cán bộ tham nhũng. Các cơ quan thuế kể cả ở địa phương cần được hiện đại hoá với hệ thống máy vi tính nối mạng để tránh rườm rà, cồng kềnh trong khâu xử lý số liệu, dễ gây nhầm lẫn, thiệt hại cho nhà nước. Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách thuế theo hướng giảm dần về số lượng thuế suất, giảm các ưu đãi, miễn giảm thuế, tăng phạm vi, đối tượng chịu thuế. Chẳng hạn thuế thu nhập có thể được áp dụng thống nhất với tất cả những người có mức thu nhập từ mức trung bình trở lên để xác lập thói quen đóng thuế trong nhân dân, tạo sự công bằng, bình đẳng trong xã hội, tăng thu cho ngân sách. Về lâu dài, phải làm sao chính sách thuế nuôi dưỡng được nguồn thu cho NSNN. Để làm được điều này, bên cạnh việc tiến hành miễn giảm thuế thu nhập đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư ứng dụng công nghệ cao, miễn giảm hơn nữa thuế nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất hạn chế; Vấn đề nâng cao hiệu quả chi ngân sách có vai trò hết sức quan trọng. Bên cạnh đó cần cải thiện cơ cấu, hiệu quả chi ngân sách bằng cách giảm dần đầu tư xây dựng cơ bản, tăng đầu tư cho công nghệ mới, máy móc thiết bị hiện đại để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, đặc biệt là nông, lâm , thuỷ sản xuất khẩu; giảm dần tỷ trọng đầu tư vào các khu vực kinh tế có môi trường cạnh tranh cao. Đầu tư Nhà nước nên đóng vai trò định hướng, thu hút các khu vực khác trong nền kinh tế làm theo. Xã hội hoá chi ngân sách trong một số lĩnh vực văn hoá, giáo dục, thể thao, truyền hình; Khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đầu tư vào các bậc học để nhà nước có thể chi nhiều hơn cho giáo dục ở nông thôn, miền núi, xóa dần khoảng cách dân trí giữa các vùng. Cho phép và khuyến khích tư nhân tham gia các dịch vụ công cộng (môi trường đô thị, trật tự an ninh...) thông qua chế độ Nhà nước đặt hàng thay vì cấp chi phí trực tiếp. * Đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu Ngoại thương và tốc độ lạm phát có tác động qua lại với nhau: tỷ lệ lạm phát ảnh hưởng đến sức mua của đồng tiền trong tương quan so sánh với ngoại tệ, do vậy ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường quốc tế và giữa hàng sản xuất ra trong nước với hàng nhập khẩu. Ngược lại, hoạt động xuất nhập khẩu tạo ra nguồn thu thuế rất lớn cho NSNN, đồng thời kìm hãm hoặc kích thích sản xuất trong nước phát triển nên có thể làm trầm trọng hơn hoặc giảm nhẹ tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước. Dù nhà nước đã có nhiều cố gắng để đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng nhưng nhiều khi kết quả đạt được chưa như mong đợi. Lượng xuất khẩu cứ tăng lên nhưng giá xuất khẩu lại giảm, hàng Việt Nam chưa có sức cạnh tranh cao, thậm chí chúng ta đã đánh mất vị trí thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo. Để ngoại thương góp phần tích cực vào việc kiềm chế lạm phát, phòng ngừa giảm phát, khóa luận đề xuất một số giải pháp như sau: Nhà nước có chính sách khuyến khích hợp lý các tổ chức, cá nhân đầu tư hơn nữa vào công nghệ chế biến hàngxuất khẩu, đặc biệt là nông sản xuất khẩu để tăng chất lượng, hạ giá thành, kiên quyết xử lý các trường hợp dùng hoá chất trái quy định trong chế biến nông sản, chẳng hạn sử dụng chloramphenicol để bảo quản thủy sản. Chúng ta có thể hiện tượng này nếu bộ Công thương, bộ Thuỷ sản và bộ Y tế phối hợp thanh tra, kiểm tra đồng bộ từ khâu chế biến, bảo quản để xuất khẩu nhằm giữ uy tín với khách hàng quốc tế. Các cơ quan Nhà nước như bộ Công thương, phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các cơ quan tham tán thương mại Việt Nam ở nước ngoài cần tích cực, chủ động hơn nữa trong việc tìm kiếm, nghiên cứu, khai thác, cung cấp thông tin về tình hình cung cầu, xu hướng giá cả, thị hiếu khách hàng trên thị trường thế giới cho các doanh nghiệp Việt Nam, từ đó định hướng cho họ xem cần thay đổi gì về mẫu mã, chất lượng, số lượng cho phù hợp yêu cầu thị trường, tránh trường hợp sản xuất dư thừa, lãng phí nguồn lực. Duy trì các thị trường xuất khẩu hiện tại, chú ý mở rộng phạm vi xuất khẩu sang các thị trường mới, nhiều tiềm năng và ít đối thủ cạnh tranh như Trung Cận Đông và Châu Phi. Bên cạnh một số động thái như trên nhằm hoàn thiện chính sách xuất khẩu, chính sách nhập khẩu cũng cần có sự điều chỉnh như sau: Nâng cao chất lượng công tác thẩm định giá trị, chất lượng máy móc và công nghệ nhập khẩu, nhất định không nhập công nghệ cũ kỹ, lạc hậu của nước ngoài (ví dụ như công nghệ sản xuất xi-măng bằng lò đứng từ Trung Quốc) để tránh nguy cơ nước ta trở thành nơi chứa rác thải công nghệ. Nhà nước nên cử các các bộ về thẩm định đi học ở nước ngoài, sử dụng phương pháp chuyên gia trong đánh giá chất lượng công nghệ. Hạn chế tối đa việc nhập khẩu hàng tiêu dùng, phương tiện đi lại (xe máy, xe ô tô bốn chỗ) thay vào đó phải đẩy mạnh sản xuất các linh kiện, phụ tùng và lắp ráp trong nước. Nhà nước phải tìm mọi cách ngăn chặn tình trạng nhập lậu hàng hoá. Muốn thế, đội ngũ cán bộ ngành Hải quan cần được cung cấp phương pháp, kỹ năng, trang thiết bị hiện đại cũng như việc nâng cao tư cách, đạo đức nghề nghiệp. Thông qua thực hiện một số giải pháp cơ bản về xuất nhập khẩu như đã trình bày ở trên, chúng ta có thể tăng xuất khẩu cả về lượng và chất, đem về nhiều ngoại tệ, đáp ứng nhu cầu nhập khẩu phục vụ sản xuất trong nước, góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế và giữ cho giá trị đồng tiền không sụt giảm quá nhiều, gây dựng lòng tin của người dân vào đồng nội tệ. 4. Nâng cao chất lượng dự báo kinh tế Dự báo kinh tế tốt hơn để chủ động kiểm soát lạm phát. Về quân sự, ai cũng thấu hiểu tầm quan trọng sinh tử của việc nắm chắc các thông tin, dự báo đúng các tình huống và dự kiến trước các động thái phản ứng để lập ra các phương án chiến đấu phù hợp, kiểu “ biết địch , biết ta, trăm đánh, trăm thắng”. Về kinh tế, việc coi trọng công tác dự báo giúp nâng cao sự chủ động và chất lượng công tác quản lý nhà nước, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, cũng như góp phần tích cực vào đảm bảo sự ổn định kinh tế -chính trị - xã hội, nâng cao chất lượng sống thực tế của người dân. Thực tiễn đối phó với lạm phát trong thời gian gần đây ở nước ta cho thấy rõâ điều đó, cũng như cho thấy có khá nhiều những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng công tác dự báo kinh tế. Vì thế, yêu cầu nâng cao chất lượng công tác dự báo kinh tế để chủ động kiểm soát lạm phát hiệu quả hơn ở nước ta ngày càng trở nên bức thiết hơn và đòi hỏi phải quán triệt các nguyên tắc sau: Thứ nhất, cần coi trọng đúng mức và phân biệt rạch ròi giữa yêu cầu dự báo khách quan với mục tiêu chính sách và ý chí chủ quan. Trong thực tế, nhiều khi các mục tiêu, chỉ tiêu và ý chí chính trị do các cơ quan, tổ chức hoặc các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước đề ra đã mặc nhiên trở thành chuẩn mực trong công tác dự báo kinh tế ở nước ta. Nói cách khác, dự báo dường như đã trở thành công cụ minh họa, lặp lại và làm an lòng các giới chức trong quyết tâm hoàn thành các kế hoạch kinh tế ít nhiều chủ quan, mà không bám sát, cập nhật và đưa ra các cảnh báo cần thiết về các biến động thị trường khách quan - một trong các yêu cầu và đặc trưng hàng đầu của công tác dự báo kinh tế trong thời hội nhập thị trường quốc tế Thứ hai, cần coi trọng dự báo tác động 2 mặt của chính sách theo yêu cầu quản lý kinh tế thị trường. Việc dự báo, đánh giá tác động 2 mặt tích cực và tiêu cực cả về xu hướng định tính, lẫn về định lượng của việc áp dụng các chính sách và định mức cụ thể trong quá trình điều hành kinh tế vĩ mô của Nhà nước là rất quan trọng, nhất là với những mặt hàng đầu vào nhạy cảm của đời sống kinh tế - xã hội đất nước. Tuy nhiên, yêu cầu dự báo này dường như chưa được coi trọng đúng mức và đôi khi còn bị tiến hành một cách hình thức, thậm chí thiếu khách quan. Cần nhấn mạnh rằng, việc trả giá cả về cho thị trường quyết định là sự cần thiết khách quan, song việc này phải đi đôi với việc trả sự cạnh tranh về cho thị trường, đồng thời nâng cao năng lực và hiệu quả trên thực tế của Chính phủ trong công tác giám sát, kiểm soát và xử lý sự độc quyền và các vi phạm về giá từ phía các doanh nghiệp và các bên có liên quan. Thứ ba, cần coi trọng việc xây dựng hệ thống số liệu và dữ liệu thông tin chuyên ngành trực tiếp phục vụ công tác dự báo kinh tế. Hệ thống thông tin và các dữ liệu kinh tế là hết sức quan trọng cho các hoạt động dự báo, kinh doanh và điều hành kinh tế các cấp. Tuy nhiên, ở nước ta, các thông tin kinh tế thường bị phân tán, chia cắt, rời rạc, đóng băng và thiếu chuẩn hoá thống nhất giữa các nguồn và đơn vị quản lý, nhất là không được phổ biến rộng rãi, công khai, gây khó khăn và đắt đỏ cho các đơn vị và cá nhân có nhu cầu tiếp cận, khai thác và sử dụng các thông tin này, cũng như tạo ra những cơ hội thu lợi bất chính cho các tổ chức và cá nhân quản lý các thông tin đó, đồng thời làm giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế và gia tăng sự lãng phí các nguồn lực xã hội. Vì vậy, đã đến lúc Chính phủ cần có nghị quyết chuyên đề về việc xây dựng hệ thống thông tin và dữ liệu kinh tế các cấp, cả về hệ thống các chỉ tiêu, bộ máy tổ chức và kinh phí thường xuyên, cũng như cơ chế khai thác tài nguyên thông tin quốc gia này một cách minh bạch, công khai và thuận lợi, giá rẻ, dựa trên các thành tựu mới nhất của công nghệ thông tin, nhằm phục vụ các nhu cầu về thông tin kinh tế nói chung, phục vụ công tác dự báo kinh tế nói riêng. Thứ tư, cần đảm bảo tính chuyên nghiệp và sự phối hợp ăn khớp cần có giữa các cơ quan chức năng và các loại công cụ dự báo, giữa công tác dự báo với công tác tổ chức thực hiện. Dự báo kinh tế là một khoa học theo đúng nghĩa của từ này, vì vậy, đòi hỏi trình độ chuyên môn và tính chuyên nghiệp cao, không thể tuỳ tiện giao phó cho những cá nhân và đơn vị thiếu năng lực cần thiết cả về kiến thức, con người và cơ sở vật chất, cũng như các công cụ chuyên ngành. Tuy nhiên, cũng không thể tin tưởng một chiều vào các kết quả dự báo đưa ra từ việc chạy máy tính dù mạnh nhất với các thuật toán cứng nhắc. Vì vậy, cần có sự phối hợp đồng bộ, liên ngành các cơ quan và các công cụ, phương pháp dự báo, nhất là trong công đoạn thu thập dữ liệu đầu vào và công đoạn xử lý kết luận cuối cùng của quy trình dự báo, nhằm góp phần tham chiếu, phản biện và hoàn thiện, nâng cao tính xác thực của kết quả báo cáo dự báo. Thứ năm, cần coi trọng đúng mức sự tương tác qua lại giữa công tác dự báo kinh tế với những đặc điểm luật pháp và kinh tế - xã hội của đất nước. Kinh nghiệm thế giới và trong nước còn cho thấy, dự báo kinh tế cũng là nghệ thuật của sự ước lượng và cân nhắc trong tổng hoà các yếu tố kinh tế - chính trị - xã hội, nhất là các yếu tố luật định nhà nước. Trên đây là một số đề xuất để kiềm chế tỷ lệ lạm phát trong thời gian tới, tuy nhiên muốn cho các giải pháp phát huy hiệu quả mong muốn chúng ta không thể thực hiện từng chính sách rời rạc, tuỳ tiện mà phải đặt chúng trong một tổng thể, tức là phải phối hợp được đồng bộ các chính sách bởi các chính sách kinh tế luôn có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại và bổ sung cho nhau. Để công tác kiềm chế lạm phát thực sự đóng góp vào sự nghiệp phát triển kinh tế, Nhà nước phải nhất quán trong chỉ đạo xây dựng, ban hành các chính sách: Chính phủ là nơi đưa ra các chính sách qua cơ chế các bộ, ngành xây dựng và Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Khi định ban hành một quy định mới, Nhà nước phải xác định xem nó sẽ dẫn tới những biến đổi gì trong nền kinh tế để đưa ra các chính sách đi kèm. Chính phủ cũng nên thành lập một cơ quan chuyên nghiên cứu về phối hợp đồng bộ các chính sách và tư vấn cho Chính phủ. KẾT LUẬN Qua quá trình nghiên cứu sách báo, tài liệu trong nước và nước ngoài về vấn đề lạm phát, tác giả đã rút ra được những nét chính về lạm phát cũng như quá trình lạm phát ở Việt Nam như sau: Thứ nhất, đưa ra những phân tích cơ bản và tổng quan về lý thuyết lạm phát như: khái niệm của lạm phát trong đó đưa ra các quan điểm khác nhau về lạm phát và cách tính lạm phát nói chung và ở Việt Nam nói riêng; những nguyên nhân gây ra lạm phát; mối quan hệ của lạm phát với tiền tệ, lạm phát và thất nghiệp; tác động của lạm phát đến nền kinh tế. Thứ hai, trình bày những nét chính trong quá trình lạm phát của Việt Nam qua bốn giai đoạn: giai đoạn từ sau khi giải phóng đất nước đến năm 1990, giai đoạn chống lạm phát được đưa lên hàng đầu (1991-1998), giai đoạn 1999-2003, giai đoạn 2004-2008; nhấn mạnh đến những nguyên nhân gây ra lạm phát và các giải pháp của chính phủ trong từng thời kỳ. Tác giả cũng đưa ra những đánh giá chung về các giải pháp mà Chính phủ đưa ra nhằm kiềm chế lạm phát và mạnh dạn rút ra những hạn chế còn tồn tại của các chính sách đó. Cuối cùng, xem xét những yếu tố ảnh hưởng đến tình hình lạm phát của Việt Nam (yếu tố khách quan và chủ quan) trong thời gian tới để từ đó đi đến việc dự báo xu thế biến động của chỉ số này. Kết hợp tất cả các nghiên cứu lý thuyết cũng như thực tiễn, tác giả đã đưa ra một số đề xuất nhằm kiềm chế lạm phát ở Việt Nam trong thời gian tới. Do giới hạn về thời gian và khả năng bản thân, bài viết chắc chắn còn nhiều sai xót. Em rất mong nhận được những ý kiến phê bình, nhận xét của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO A. Tài liệu tham khảo trong nước. 1. Trường ĐH Kinh tế quốc dân, (2002), Những vấn đề cơ bản về kinh tế vĩ mô, NXB Thống kê Hà Nội. 2. Trường ĐH Ngoại thương Hà Nội, (1999), Giáo trình Lý thuyết Tài chính – Tiền tệ, NXB Giáo dục. 3. Học viện ngân hàng, Lý thuyết tiền tệ và ngân hàng. 4. Nguyễn Hoài Bảo, Trương Quang Hùng, (09/2004), Bài viết Nhìn lại lý thuyết truyền thống về lạm phát và phân tích trường hợp Việt Nam. 5. Nguyễn Ái Đoàn, (10/2004), Lạm phát - vấn đề kinh tế vĩ mô hàng đầu ở Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 317. 6. Hoàng Kim, (2001), Tiền tệ- ngân hàng- thị trường tài chính, Nhà xuất bản Tài Chính. 7. Lê Quốc Lý, (2005), Lạm phát – Hành trình và giải pháp chống lạm phát ở Việt Nam, NXB Tài chính. 8. Lê Quốc Lý, (2005), Tiền tệ, tín dụng với lạm phát, Tạp chí Ngân hàng số 5. 9. Hồ Xuân Phương, Nguyễn Công Nghiệp (đồng chủ biên), (2001), Tài chính Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, Nhà xuất bản Tài Chính. 10. Nguyễn Minh Phong, (2000), Lý thuyết lạm phát- giảm phát và thực tiễn ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia. 11. Hoàng Thái Sơn, (1997), Nguy cơ lạm phát cao do nền kinh tế quá nóng, kinh nghiệm xử lý của các nước và vấn đề đặt ra với Việt Nam, Viện Nghiên cứu tài chính. 12. Phan Văn Tiệm, (1991), Chặng đường 10 năm cải cách giá 1981-1991, Nhà xuất bản Thông Tin. 13. Nguyễn Văn Tiến, (2005), Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở, NXB Thống kê. 14. Tổng cục Thống Kê, Niên giám thống kê 1987, 1990, 2004, 2005, 2006, 2007 15. Tổng cục Thống Kê, Số liệu về sự biến đổi xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nhà xuất bản Thống Kê, 2000 16. Tổng cục Thống Kê, Kinh tế và tài chính Việt Nam 1986-1990, Nhà xuất bản Thống Kê, 1991 B. Tài liệu tham khảo nước ngoài. 17. Global Economics Paper No: 165, Vietnam: The Next Asian Tiger In the Making 18. David N. Hyman, (1992), Macroeconomics, Richard I, Irwin Inc. 19. N. Greogry Mankiw (Havard Business School), Principles of macroeconomics, The Dryden Press 20. Dermot McAleese, (2002), Economics for Business: Competition, Macro-stability and Globalization 21. Paul A. Samuelson and William D. Nordhaus, (1995), Macroeconomics, McGraw- Hill Inc. 22. World Bank, (August 1998), Vietnam Country Assistance Strategy of the World Bank Group 1999-2002. C. Tài liệu trên mạng 23. 24. 25. 26. 27. 28. 29. 30. 31. 32. 33. 34. 35. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 1. TCTK Tổng cục thống kê 2. LTTP Lương thực thực phẩm 3. NSNN Ngân sách nhà nước 4. ĐTNN Đầu tư nước ngoài 5. NHNN Ngân hàng nhà nước 6. NHTM Ngân hàng thương mại 7. FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài 8. NHTW Ngân hàng trung ương 9. DNNN Doanh nghiệp nhà nước 10. WTO Tổ chức thương mại thế giới 11. TTCK Thị trường chứng khoán

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTình hình lạm phát ở Việt Nam trong thời gian qua – Dự báo trong thời gian tới và đề xuất một số giải pháp.doc
Luận văn liên quan