Đề tài Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm học sinh, sinh viên ở Công ty Bảo Việt Phú Thọ trong những năm gần đây

LỜI MỞ ĐẦU Chăm lo cho thế hệ học sinh là công việc có ý nghĩa vô cùng quan trọng, không chỉ ở hiện tại mà còn có tác dụng to lớn để xây dựng xã hội tốt đẹp trong tương lai. Vì vậy, việc đảm bảo cho thế hệ trẻ được phát triển lành mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần chính là chăm lo cho xã hội phát triển cả về thế và lực. Với quan điểm chăm lo cho thế hệ trẻ là trách nhiệm và nghĩa vụ của toàn xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng chỉ đạo các cấp, các ngành có liên quan thực hiện chủ trương đó nhằm mục đích chăm sóc và bảo vệ cho thế hệ trẻ. Để cùng gánh vác với xã hội trách nhiệm chăm sóc và bảo vệ trẻ em, các Công ty Bảo hiểm đã triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh, sinh viên. Mục đích nhằm giúp gia đình, nhà trường và bản thân các em biết cách đề phòng và hạn chế rủi ro, và quan trọng hơn là bảo hiểm sẽ giúp những học sinh gặp tai nạn, rủi ro và gia đình có thể ổn định tài chính, khắc phục những khó khăn khi rủi ro xảy ra. Trong lĩnh vực Bảo hiểm học sinh, sinh viên Bảo Việt là Công ty đầu tiên triển khai kinh doanh trên thị trường. Vốn là một trong những nghiệp vụ truyền thống, Bảo Việt đã cung cấp dịch vụ này tới hầu hết các em, và chiếm hơn 60% thị phần trên thị trường. Hiện nay Bảo Việt Phú Thọ cũng đang tích cực triển khai nhằm ngày một hoàn thiện mình, qua đó cung cấp cho các em một dịch vụ tốt nhất. Chính vì vậy, trong quá trình thực tập tại Công ty Bảo Việt Phú Thọ, em đã chọn nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh, sinh viên làm chuyên đề thực tập của mình với tên đề tài: “ Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm học sinh, sinh viên ở Công ty Bảo Việt Phú Thọ trong những năm gần đây”. Kết cấu của chuyên đề gồm 3 chương sau: Chương I: Tổng quan về Bảo hiểm học sinh. Chương II: Tình hình triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh tại Bảo Việt Phú Thọ. Chương III: Kiến nghị và giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn nữa nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh, sinh viên tại Bảo Việt Phú Thọ. Là một sinh viên chuyên ngành Bảo hiểm, lần đầu tiên được tiếp xúc với thực tế, nhưng do còn hạn chế về thời gian, kinh nghiệm nghiên cứu nên chuyên đề của em sẽ không tránh khỏi những sai sót và hạn chế nhất định. Em rất mong được sự giúp đỡ của thầy cô, cũng như các anh chị cán bộ tại chi nhánh Bảo Việt Phú Thọ về chuyên đề này. Qua đây, em xin chân thành cảm ơn toàn thể các thầy cô giáo trong bộ môn đã trang bị cho em những kiến thức cơ bản về bảo hiểm và đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn tới giảng viên - thạc sỹ Nguyễn Thị Chính đã trực tiếp hướng dẫn, động viên và giúp đỡ em thực hiện chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn các anh chị, cán bộ nhân viên tại văn phòng Bảo Việt Phú Thọ đã tạo điều kiện cho em được tham gia tiếp xúc với thực tế tại phòng và đã nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình thu thập tài liệu để hoàn thành chuyên đề này.

doc60 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3569 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm học sinh, sinh viên ở Công ty Bảo Việt Phú Thọ trong những năm gần đây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ểu học, THCS chiếm tỷ lệ lớn đông hơn hẳn các học sinh ở các cấp khác nên có thể coi đây là thị trường rất tiềm năng của nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh mà Bảo Việt Phú Thọ cần quan tâm khai thác. Học sinh ở các trường THPT, CĐ, ĐH... chiếm số lượng nhỏ hơn so với các trường thuộc khối Phòng giáo dục do số lượng các trường này trên địa bàn không nhiều, nhưng ở thị trường này số học sinh tham gia bảo hiểm khá cao so với tổng số học sinh của khối, nguyên nhân là do các em ở lứa tuổi này đã có những nhận thức và hiểu biết hơn về bảo hiểm; đồng thời những lo lắng của các bậc phụ huynh theo những định kiến đối với con cái của họ ở lứa tuổi này đã giảm đi rất nhiều. Cụ thể chúng ta cùng xem xét tình hình tham gia bảo hiểm trên địa bàn tỉnh Phú Thọ của từng khối theo các bảng số liệu sau: Bảng 1: Tình hình khai thác Bảo hiểm học sinh tại Bảo Việt Phú Thọ trong những năm gần đây. Năm học Đơn vị Số học sinh Số học sinh tham gia BH Mẫu giáo, tiểu học THPT, DTNT ĐH, CĐ Mẫu giáo, tiểu học THPT, DTNT ĐH, CĐ 2003 Người 254794 54324 5665 119753 45089 4815 2004 Người 262525 55920 5798 126012 47532 4986 2005 Người 248576 56131 5589 126774 49957 5030 2006 Người 232193 61823 11146 125384 56258 10812 2007 Người 229600 62252 11357 126280 57272 11073 Ta có cơ cấu khai thác nghiệp vụ bảo hiểm học sinh của Công ty trong những năm gần đây là: Đơn vị: % Năm Mẫu giáo, tiểu học THPT, DTNT ĐH, CĐ 2003 70.6 26.6 2.8 2004 70.6 26 3.4 2005 69.7 27.5 2.8 2006 65.2 29.2 5.6 2007 64.9 29.4 5.7 Và tỷ lệ học sinh tham gia bảo hiểm trong các khối là: Đơn vị: % Năm học Mẫu giáo, tiểu học THPT, DTNT CĐ, ĐH 2003 47 83 85 2004 48 85 86 2005 51 89 90 2006 54 91 97 2007 55 92 97.5 . Dựa vào bảng số liệu trên ta thấy ở các trường mẫu giáo, tiểu học tổng số học sinh trên địa bàn giảm dần qua các năm do thực hiện chính sách kế hoạch hóa gia đình nhưng số học sinh tham gia bảo hiểm đã tăng lên đáng kể, từ 119 753 học sinh năm 2003 thì đến năm 2007 đã là 126 208 học sinh. Nhưng tỷ lệ số học sinh tham gia bảo hiểm trong giai đoạn này lại tăng dần qua các năm, từ 47% tronng tổng số học sinh trên địa bàn tham gia bảo hiểm vào năm 2003, năm 2004 là 48%, năm 2005 lên đến 51% và đến năm 2007 đạt 55%, đây là một kết quả đáng khích lệ cho công tác khai thác của Công ty mặc dù hiệu quả đạt được vẫn chưa cao. Trong năm 2007 vẫn còn đến 45% trong tổng số học sinh trên địa bàn chưa tham gia bảo hiểm, Công ty cần làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền và đẩy mạnh công tác khai thác để năm 2008 tỷ lệ học sinh tham gia bảo hiểm đạt được kết quả cao hơn. Tổng số học sinh trong địa bàn tỉnh của Khối THPT tăng dần qua các năm đồng thời số học sinh tham gia bảo hiểm trong giai đoạn này cũng tăng lên rõ rệt, từ 45 089 học sinh tham gia bảo hiểm năm 2003, lên đến 49 957 học sinh năm 2005 và đến năm 2007 con số này đạt 57 272 học sinh. Công tác khai thác của Công ty trong khối này đã có hiệu quả cao, tỷ lệ học sinh tham gia bảo hiểm của Khối trong giai đoạn này cũng đạt kết quả cao do phần lớn học sinh trong Khối này đã nhận thức được tác dụng của bảo hiểm học sinh, tự nguyện tham gia bảo hiểm để bảo vệ bản thân mình, nên tỷ lệ học sinh tham gia bảo hiểm trong khối này khá cao, từ 83% trong tổng số học sinh tham gia bảo hiểm năm 2003, năm 2005 là 89% và đến năm 2007 đã lên đến 92%. Nhìn vào bảng số liệu ta thấy tổng số học sinh của khối Đại học – Cao Đẳng tăng qua các năm, kéo theo đó là sự tăng lên của số học sinh tham gia bảo hiểm trong từng năm, năm 2003 có 4 815 học sinh tham gia bảo hiểm, số lượng đó cứ tăng dần lên và đến năm 2007 đã là 11 073 học sinh, tăng 6 268 học sinh so với năm 2003. Con số này không phải là lớn so với khối THPT, càng không đáng kể so với khối Phòng giáo dục, nhưng xét trong khối ĐH – CĐ thì đây là một kết quả đáng mừng, bởi trên địa bàn tỉnh chỉ có duy nhất 1 trường ĐH, 4 trường CĐ với qui mô của các trường không lớn, nên số lượng học sinh không đông, kết quả khai thác của khối này đã đạt hiệu quả khá khả quan, tỷ lệ học sinh tham gia bảo hiểm rất cao; năm 2003 tỷ lệ học sinh tham gia bảo hiểm trong tổng số học sinh chiếm 85%, năm 2005 là 90% và đến năm 2007 là 97.5%. Nhìn vào cơ cấu khai thác, các trường mẫu giáo, tiểu học chiếm tỷ lệ cao, trung bình đạt trên 65%; nguyên nhân là do địa bàn tỉnh Phú Thọ chiếm phần lớn là các trường phổ thông nên khai thác ở khối này được số lượng khách hàng là lớn nhất. Tuy nhiên tỷ lệ tham gia bảo hiểm của học sinh ở các trường này chưa cao mặc dù học số học sinh ở lứa tuổi này chiếm số lượng rất lớn, nguyên nhân là do các em học sinh lứa tuổi mẫu giáo phần nhiều được gia đình giữ trông coi ở nhà nên không tham gia bảo hiểm học sinh. Nhìn vào cơ cấu khai thác của khối THPT ta thấy khối chiếm tỷ lệ khai thác không cao, thấp hơn khối Phòng giáo dục do số lượng các trường THPT trong địa bàn tỉnh không nhiều, phần lớn chỉ tập trung ở thành phố Việt Trì, các vùng lân cận hầu như không có hoặc rất ít nên khai thác khách hàng trong thị trường này so với thị trường của khối Phòng giáo dục đạt hiệu quả không cao. Cơ cấu khai thác của khối CĐ, ĐH không cao, nhìn chung đều dưới 6%, nguyên nhân làm cho tỷ lệ khai thác của khối này không cao như các khối khác như đã nói ở trên là do thị trường của khối này nhỏ nên lượng khách hàng khai thác được ở khối này ít. Như vậy, tại Bảo Việt Phú Thọ thị trường tiềm năng của nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh chủ yếu là các đối tượng học sinh thuộc các trường mẫu giáo, tiểu học. Tỷ lệ học sinh tham gia bảo hiểm thuộc khối này chưa cao Công ty cần tăng cường công tác khai thác, tuyên truyền và phổ biến hơn nữa nghiệp vụ bảo hiểm này đến nhà trường, gia đình và đến chính các em học sinh để các em hiểu hơn về bảo hiểm học sinh, thấy được tác dụng của nó trong những trường hợp cần thiết, nhất là đối với học sinh và gia đình học sinh ở vùng sâu, vùng xa. Bên cạnh đó, vẫn cần thiết phải giữ vững được và nâng cao hơn nữa kết quả đã đạt được ở khâu khai thác thị trường của khối THPT và khối ĐH – CĐ nhằm làm tăng hiệu quả hoạt động của Công ty. Bảng 2: Bảng doanh thu phí bảo hiểm học sinh trong những năm gần đây. Năm Doanh thu Tỷ lệ tăng trưởng Tỷ trọng so với tổng DT của công ty 2003 2 381 _ 20.4 2004 3 324 39.6 23.2 2005 4 423 33.1 25.7 2006 5 214 17.9 28.3 2007 6 427 23.3 26.1 Đơn vị Tr.đồng % % Doanh thu phí bảo hiểm tương đối cao và tăng trưởng qua các năm. Năm 2003 đạt 2 381 triệu đồng, năm 2004 đạt 3 324 triệu đồng ( 0.943 triệu đồng so với năm 2003). Năm 2005 tổng doanh thu phí bảo hiểm từ nghiệp vụ này đạt 4 423 triệu đồng tăng 33.1% so với năm 2004. Năm học 2006 là 5 214 triệu đồng, lượng tăng có giảm hơn so với các năm trước, chỉ tăng 17.9% so với năm 2005. Năm 2007 tổng doanh thu phí bảo hiểm từ nghiệp vụ này là 6 427 triệu đồng, tiếp tục tăng trưởng hơn so với năm 2006 mặc dù tỷ lệ tăng trưởng không được tăng nhanh như 2 năm 2004 và 2005, tỷ lệ tăng trưởng đạt 23.3%. Nguồn phí thu từ nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh chiếm tỷ trọng cao trong tổng phí của Công ty. Năm 2003 tỷ trọng doanh thu từ bảo hiểm học sinh so với tổng doanh thu đạt 20.4%, đến năm 2004 đạt 23.2%, năm 2005 đạt 25.7%. Năm 2006, tổng doanh thu đạt 25 526 triệu đồng, thì nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh chiếm 28.3% trong tổng doanh thu. Năm 2007, tổng doanh thu lên tới 32 304 triệu đồng, nghiệp vụ này chiếm 26.1% trong tổng doanh thu. Những con số đó đã thể hiện vai trò của Bảo hiểm học sinh đối với Công ty, đây là một trong những nghiệp mũi nhọn và chiếm tỷ trọng cao trong tổng doanh thu từ tất cả các nghiệp vụ bảo hiểm. Để đạt được kết quả như trên, không chỉ dựa vào nỗ lực của cán bộ phòng bảo hiểm mà còn nhiều nguyên nhân khác, cụ thể: Công ty Bảo Việt Phú Thọ là doanh nghiệp trực thuộc Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam, đây vốn là một doanh nghiệp đang hoạt động trên thị trường bảo hiểm. Thương hiệu Bảo Việt đã khẳng định được vị thế của mình, do đó Công ty đã tạo được ấn tượng tốt đối với khách hàng. Trong lĩnh vực bảo hiểm toàn diện học sinh, Bảo Việt Phú Thọ luôn tạo được ấn tượng tốt đối với các bậc phụ huynh, cũng như đối với bản thân các em. Địa bàn tỉnh Phú Thọ có một lượng học sinh, sinh viên đông đảo, đặc biệt là số học sinh; mặt khác Công ty đã có sẵn mối quan hệ với các trường trong địa bàn tỉnh vì đã triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này từ nhiều năm, do đó đây là điều kiện rất thuận lợi cho Công ty khi khai thác tại khu vực này. Từ năm 2003 – 2007 ta thấy bên cạnh việc một số học sinh tham gia bảo hiểm ngày càng tăng làm cho doanh thu phí càng tăng lên, một nguyên nhân khác làm tăng phí bảo hiểm phải kể đến là các học sinh, sinh viên tham gia bảo hiểm với số tiền bảo hiểm ngày càng cao. Khi kinh tế càng phát triển thì khả năng tài chính này càng tăng, các bậc cha mẹ cũng như các em học sinh có thể thamgia bảo hiểm với mức phí ngày càng cao. Cũng do đời sống vật chất tăng do đó yêu cầu chăm sóc sức khỏe khi xảy ra rủi ro tăng lên thì việc mọi người tham gia bảo hiểm với STBH tăng là điều hoàn toàn tự nhiên. Bảo Việt Phú Thọ có đội ngũ cộng tác viên làm việc nhiệt tình, có tinh thần trách nhiệm cao. Mặt khác, chế độ đãi ngộ của phòng đối với các cộng tác viên được thực hiện tốt, ngoài khoản tiền chi trả hoa hồng thì còn có chế độ khen thưởng cho các cộng tác viên làm việc có hiệu quả cao. Những biện pháp trên đây đã làm cho đội ngũ cộng tác viên với công ty làm việc có tinh thần trách nhiệm và có hiệu quả tốt hơn. Ngoài những nguyên nhân đã kể trên, một nguyên nhân rất quan trọng cần phải kể đến là công ty Bảo Việt Phú Thọ đã biết áp dụng những biện pháp khai thác tốt, trong đó phải kể đến: Công ty đã thực hiện biện pháp tuyên truyền, quảng cáo để quảng bá hình ảnh của Công ty. Biện pháp tuyên truyền rất đa dạng: trên báo, đài, các phương tiện thông tin đại chúng, qua bạn bè, người thân của các em học sinh cũng như của các gia đình giới thiệu về công ty. Công ty đã áp dụng tốt 4 điều kiện bảo hiểm đã kể ở trên, điều kiện bảo hiểm nào cũng lấy tính mạng và tình trạng sức khỏe của các em học sinh đặt lên hàng đầu nên các em học sinh và cha mẹ các em luôn cảm thấy yên tâm khi tham gia nghiệp vụ bảo hiểm này. Ngoài ra, Bảo Việt Phú Thọ còn có chính sách nhận bảo hiểm miễn phí cho học sinh, sinh viên là con liệt sỹ, thương bệnh binh loại I, trẻ em tật nguyền. Điều này vừa thể hiện tấm lòng biết ơn của Công ty đối với những người có công với đất nước, đồng thời thông qua việc làm này còn tạo được hình ảnh tốt đẹp của Công ty đối với các bậc phụ huynh học sinh, với nhà trường từ đó góp phần tạo được mối quan hệ của Công ty đối với hầu hết các Công ty trên địa bàn tỉnh. Việc áp dụng tốt những biện pháp nói trên cộng với sự nỗ lực cố gắng của cả Công ty đã dẫn đến doanh thu phí bảo hiểm từ bảo hiểm toàn diện học sinh khá cao và liên tục tăng trưởng dương. Qua phân tích trên ta thấy: Công ty đã tạo được mối quan hệ tốt đẹp với các trường trong tỉnh, đồng thời do làm tốt công tác tuyên truyền quảng cáo Công ty đã thu hút được một số lượng đông đảo học sinh, sinh viên tham gia nghiệp vụ bảo hiểm này. Công ty đã đề ra một chiến lược khai thác tốt, phát huy được những mặt mạnh cũng như hạn chế tối đa được các mặt còn yếu kém nhằm khai thác được nhiều nhất số lượng khách hàng trong tỉnh. Bên cạnh đó, Công ty vẫn còn có những mặt hạn chế cần khắc phục đó là: Sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng ác liệt hơn, một số công ty bảo hiểm khác với mục đích nhằm mở rộng thị phần, muốn chiếm lĩnh thị trường nên đã sử dụng các đòn bẩy kinh tế như: giảm phí, tăng tỷ lệ hoa hồng cho đại lý, hoa hồng để lại trường. Chính vì thế mà một số trường trên địa bàn đã không tham gia bảo hiểm ở Bảo Việt Phú Thọ. Phú Thọ là một tỉnh miền núi, trung du nền kinh tế còn nghèo nàn nên việc tham gia bảo hiểm tích cực và đầy đủ của các em còn rất khó khăn nếu Công ty không có các biện pháp giảm mức phí cho phù hợp với mức sống của người dân. 2.3. Công tác đề phòng hạn chế tổn thất. Để thực hiện tốt công tác đề phòng hạn chế tổn thất Công ty Bảo Việt Phú Thọ đã hướng dẫn các phòng bảo hiểm trên địa bàn tỉnh Phú Thọ triển khai những biện pháp cụ thể: Phối hợp với gia đình, ban giám hiệu nhà trường, các thầy cô giáo hướng dẫn các em học sinh tham gia những hoạt động vui chơi giải trí lành mạnh, đề ra thời gian biểu cho các em học tập, vui chơi ở nhà và trường học. Nghiêm cấm chơi các trò nguy hiểm như: đua xe, trèo cây cao, trèo cột điện, bơi ở sông, hồ... Phổ biến cho các em học sinh kiến thức về chăm sóc sức khỏe, luật lệ an toàn giao thông, cấp kinh phí cho nhà trường dùng để mua thuốc men, sách báo về chăm sóc sức khỏe, khuyến khích các trường thành lập Hội chữ thập đỏ hướng dẫn học sinh phòng và chữa bệnh. Phối hợp với cảnh sát giao thông công cộng, các cơ quan truyền hình báo chí nhằm tuyên truyền luật lệ an toàn giao thông cho các em, xây dựng biển báo, áp phích.. ở cổng trường hay các đoạn đường dễ xảy ra tai nạn nhằm nhắc nhở các em chú ý khi tham gia giao thông. Tổ chức hay hỗ trợ các cuộc thi tìm hiểu luật lệ an toàn giao thông, hình thành ý thức cho các em học sinh biết cách tự bảo vệ tính mạng và sức khỏe cho bản thân mình. Khuyến khích khen thưởng kịp thời cho những đơn vị làm tốt công tác đề phòng hạn chế tổn thất. Để có kinh phí cho các hoạt động kể trên, hàng năm sau khi thu phí xong Công ty sẽ trích một khoản tiền nhất định để lập quỹ dự phòng. Quỹ này thường được chi cho các hoạt động chủ yếu sau: Tuyên truyền quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng về ý thức chăm sóc sức khỏe, kiến thức về an toàn giao thông... Chi khen thưởng cho cộng tác viên, cán bộ nghiệp vụ thực hiện tốt nghiệp vụ đề phòng, ngăn ngừa tai nạn, rủi ro xảy ra. Tỷ lệ chi đề phòng hạn chế tổn thất, cũng như cơ cấu chi cho từng hoạt động là khác nhau ở mỗi công ty. Điều này phụ thuộc vào chính sách mục tiêu mà Công ty muốn hướng đến trong từng giai đoạn. Ngoài ra nó còn phụ thuộc vào kinh nghiệm của từng công ty cũng như môi trường cạnh tranh của Công ty, bởi thực hiện các công tác này là biện pháp để tăng khả năng của Công ty trên thị trường. Bảo Việt Phú Thọ hướng dẫn các phòng tùy thuộc vào điều kiện hoàn cảnh trên địa bàn mình mà duy trì một tỷ lệ chi thích hợp cho công tác đề phòng hạn chế tổn thất. Bảng 4: Tình hình chi cho nghiệp vụ BHHS giai đoạn 2003 - 2007. Năm Đơn vị Chi bồi thường Chi ĐP & HCTT Chi quản lý DN Chi quỹ khuyến học Chi hoa hồng 2003 Tr.đồng 1258 341.226 40.07 31 489.746 2004 “ 2024 352.296 42.15 33.2 508.132 2005 “ 3112 362.542 43.25 37.84 545.294 2006 “ 4018 368.4 47.56 37.06 601.141 2007 “ 5124 373.968 49.24 38.11 644.417 Bảng số liệu cho thấy chi phí cho công tác đề phòng hạn chế tổn thất tăng tương đối đều qua các năm, đây là khoản chi lớn của Công ty chỉ đứng sau chi bồi thường và chi hoa hồng, nguyên nhân tăng đều đặn hàng năm khoản chi này của Công ty là do: Lượng học sinh tham gia bảo hiểm ngày càng tăng lên qua các năm, đây là nguyên nhân chính dẫn đến tổng chi cho công tác đề phòng hạn chế tổn thất tăng lên. Hàng năm, Công ty trích ra một khoản tiền theo tỷ lệ phần trăm so với doanh thu vì thế nếu lượng học sinh tham gia càng đông, phí thu được càng nhiều, dẫn đến chi cho đề phòng hạn chế tổn thất tăng lên. Ngoài ra, Công ty cũng ngày càng coi trọng công tác này, đây là khâu không thể xem nhẹ, làm tốt công tác này sẽ giảm bớt được những rủi ro tai nạn xảy ra cũng như góp phần giảm bớt mức độ nghiêm trọng của tai nạn, ốm đau dẫn đến số tiền chi trả bồi thường giảm, từ đó làm tăng lợi nhuận của Công ty. Mặt khác, việc trích lại một phần phí bảo hiểm để lại trường để mua chi phí y tế, thuốc men, sách báo thể hiện sự quan tâm của Công ty tới tất cả các em học sinh không phân biệt có tham gia bảo hiểm hay không làm cho chất lượng phục vụ tăng lên, từ đó làm tăng sức cạnh tranh của Công ty. 2.4. Công tác giám định bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm. Khi người tham gia bảo hiểm gặp rủi ro, để xét mức độ thiệt hại làm cơ sở cho việc bồi thường các công ty bảo hiểm phải tiến hành hoạt động giám định tổn thất, làm tốt công tác giám định sẽ đảm bảo cho việc bồi thường tiến hành nhanh chóng, chính xác và hợp lý. Giám định tổn thất được thực hiện bởi các chuyên viên giám định. Tùy theo từng nước, từng loại hình DNBH và từng nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau mà quy chế về chuyên viên giám định cũng khác nhau. ở nước ta trong nghiệp vụ bảo hiểm học sinh các chuyên viên giám định thường là các cán bộ của Công ty phụ trách khai thác về nghiệp vụ bảo hiểm này đảm nhiệm. Các chuyên viên giám định phải công minh, cẩn thận và hiểu biết một cách thấu đáo về từng nghiệp vụ mà mình phụ trách. Yêu cầu đối với công tác giám định phải đảm bảo các yêu cầu sau: Việc ghi nhận thiệt hại phải đảm bảo tính chính xác kịp thời, khách quan và trung thực bao gồm: ghi lại thực trạng và xác định mức độ trầm trọng và nguyên nhân xảy ra thiệt hại. Phải biết đề xuất các biện pháp bảo quản phòng ngừa thiệt hại, khi tổn thất xảy ra, chuyên viên giám định phải có nhiệm vụ can thiệp để giảm thiểu mức độ trầm trọng của tổn thất và tình trạng gia tăng thiệt hại. Thông tin mà chuyên viên giám định cung cấp cho DNBH là những chi tiết về sự kiện xảy ra và các vấn đề liên quan như: tình trạng hiện trường nơi xảy ra tổn thất, các quyết định của cơ quan công an và chính quyền địa phương. Những thông tin này sẽ không có giá trị nếu được cung cấp quá muộn bởi nó sẽ không được đưa ra thảo luận và làm bằng chứng khi lập biên bản giám định. Như vậy, hiểu được vai trò quan trọng của công tác giám định, nên trong thời gian qua, phòng bảo hiểm con người thuộc Công ty Bảo Việt Phú Thọ đã không ngừng nâng cao chất lượng của khâu giám định. Chi phí cho giám định tổn thất ngày càng tăng lên, chất lượng giám định được thực hiện tốt hơn so với các năm trước. Các cán bộ giám định của phòng thường là đội ngũ đại lý chuyên nghiệp hoặc là cán bộ khai thác. Khi có rủi ro phát sinh đòi hỏi phải được giám định, phòng sẽ cử cán bộ giám định xuống xác định rõ nguyên nhân, mức độ thiệt hại, rủi ro xảy ra có thuộc phạm vi bảo hiểm hay không. Đồng thời cán bộ khảo sát cũng kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp của tổn thất từ đó sẽ đề xuất phương án giải quyết bồi thường cho phù hợp. Quá trình giám định được thực hiện nghiêm túc. Bên cạnh đó, phòng cũng phân công cán bộ thường xuyên xuống trường mà mình phụ trách để nắm bắt tình hình. Nếu có sự cố bảo hiểm xảy ra sẽ lập tức hướng dẫn người tham gia bảo hiểm lập hồ sơ tai nạn, giúp thủ tục nhận tiền được thực hiện nhanh chóng hơn. Các cán bộ giám định của phòng đã tạo được mối quan hệ chặt chẽ với cảnh sát giao thông và các cơ sơ y tế. Trong trường hợp có rủi ro cần phải tiến hành giám định, cán bộ giám định sẽ phối hợp làm việc với các lực lượng bên cảnh sát giao thông và cơ sở y tế. Một số trường hợp khi người tham gia bảo hiểm khai báo có rủi ro xảy ra và khi đưa các chứng từ chứng minh, các cán bộ giám định sẽ đi kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp của các chứng từ này xem có gì sai phạm hay không. Nhìn chung công tác này được tiến hành khá chính xác, chống được nhiều hiện tượng tiêu cực, trục lợi bảo hiểm như: lập hồ sơ giả, khai man chi phí, khai báo sai sự thật... Tuy nhiên cũng phải khẳng khái thừa nhận rằng bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được công tác giám định tổn thất cũng còn một số vấn đề sau: Do bảo hiểm học sinh có địa bàn hoạt động rộng, số lượng học sinh tham gia bảo hiểm đông, do đó không thể tiến hành giám định hết các vụ rủi ro xảy ra được, phòng chỉ giám định được một số trường hợp có dấu hiệu nghi ngờ hay những vụ có mức độ tổn thất lớn. Mặt khác, các rủi ro xảy ra lại rất đa dạng và phức tạp nên không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định, chính vì vậy hiện tượng trục lợi bảo hiểm đâu đó vẫn xảy ra. Một số cán bộ giám định do sự hiểu biết còn hạn chế nên việc xem xét, kiểm tra chứng từ giám định, nguyên nhân xảy ra tai nạn còn gặp nhiều khó khăn gây ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ và chất lượng của công tác bồi thường, chưa đáp ứng được yêu cầu của người tham gia bảo hiểm. Sự hiểu biết của người tham gia bảo hiểm còn hạn chế, vì vậy có những trường hợp cán bộ giám định đã xác định nguyên nhân xảy ra tai nạn không thuộc phạm vi bảo hiểm, mặc dù đã cố gắng giải thích cho khách hàng hiểu nhưng vẫn xảy ra hiểu lầm của khách hàng đối với Công ty, họ cho rằng Bảo hiểm là lừa đảo, không có tác dụng. Đối với công tác bồi thường. Để đảm bảo công tác bồi thường diễn ra nhanh chóng, chính xác Bảo Việt Phú Thọ quy định rõ các phòng trực thuộc phải tiến hành bồi thường chính xác, nhanh gọn theo đúng quy định của phòng. Và trong giai đoạn qua, phòng BHCN đã thực hiện nghiêm túc theo quy định đã nêu ở phần trên ( phần I). Bảng 5: Tình hình giải quyết bồi thường của BHHS giai đoạn 2003 - 2007. Về chỉ tiêu tài chính Chỉ tiêu Đơn vị 2003 2004 2005 2006 2007 Tổng số học sinh tham gia BH Người 169 657 178 530 181 761 192 454 194 625 Tổng số PBH thu được Tr.đồng 2 381 3 324 4 423 5 214 6 427 Tổng STBT Tr.đồng 1 258 2 024 3 112 4 018 5 124 Nguồn: phòng BHCN Bảo Việt Phú Thọ. Đồng thời xét về chỉ tiêu kinh tế của công tác bồi thường ta có: Về chỉ tiêu kinh tế: Chỉ tiêu Đơn vị 2003 2004 2005 2006 2007 Số vụ đã giải quyết Vụ 5 580 5 779 6 196 8 608 9 691 STBT bình quân/ vụ Nghìn đồng/vụ 225 350 502 467 529 Tỷ lệ gặp rủi ro % 3.3 3.1 3.4 4.5 5 Tỷ lệ chi bồi thường % 52.8 60.9 70.4 77.1 77.8 Nhìn vào bảng số liệu ta thấy: Công tác giải quyết bồi thường của phòng được thực hiện tốt thể hiện ở số vụ tai nạn xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm đều được giải quyết trong năm. Điều này thể hiện chất lượng phục vụ rất tốt của phòng, không để xảy ra tình trạng người tham gia bảo hiểm đến phòng nhiều lần để lấy tiền bồi thường. Khi tiến hành trả tiền, toàn bộ số tiền Công ty chỉ trả trong một lần, thêm vào đó thái độ phục vụ của phòng lại niềm nở, tác phong nhanh nhẹn thể hiện sự tôn trọng đối với khách hàng. Vì vậy, đã tạo được lòng tin đối với khách hàng. Giai đoạn 2003 – 2007 số vụ tai nạn phát sinh tăng qua các năm, đồng thời tỷ lệ học sinh gặp rủi ro có xu hướng tăng, cụ thể: năm 2003 tỷ lệ học sinh gặp rủi ro là 3.3% mà đến năm 2006 tỷ lệ này là 4.5% và đến năm 2007 tỷ lệ này đã là 5%. Cả hai chỉ tiêu tổng STBH, STBT bình quân/ vụ đều tăng trong giai đoạn 2003 – 2006 và giảm ở năm 2006 và tiếp tục tăng lên ở năm 2007, điều đó thể hiện: tổng số học sinh tham gia bảo hiểm tăng, tổng số vụ tai nạn trong năm lại tăng lên rõ rệt cho thấy mức độ nghiêm trọng của các vụ tai nạn đang giảm dần. Tuy nhiên, tỷ lệ học sinh gặp rủi ro lại tăng, cần phải làm tốt công tác đề phòng hạn chế tổn thất hơn nữa, phối hợp với các bậc phụ huynh chăm sóc và bảo vệ tốt hơn nữa đến sức khỏe và tính mạng của con cái họ. Tỷ lệ chi bồi thường biến động trong giai đoạn 2003 – 2007, tỷ lệ này thấp nhất vào năm 2003 là 52.8%, sau đó tăn dần ở năm 2004 là 60.9% và năm 2005 là 70.4%, tăng lên trong năm 2006 là 77.1% và đến năm 2007 tăng một cách ổn định so với năm 2006 là 77.8%, thể hiện Công ty ngày càng chú trọng và quan tâm đến cuộc sống của các em học sinh nhất là các em không may gặp rủi ro tai nạn và gia đình của các em khi lâm vào cảnh khó khăn. Vậy, trong thời gian qua ( giai đoạn 2003 – 2007), phòng đã làm tốt công tác giám định bồi thường, không có trường hợp tồn đọng hồ sơ không giải quyết trong năm. Nếu tiếp tục giữ vững và phát huy như vậy, phòng Bảo hiểm con người của Bảo Việt Phú Thọ sẽ giúp Công ty luôn đứng vững trên thị trường. Đặc biệt, nghiệp vụ bảo hiểm học sinh lại có liên quan đến nhiều đối tượng, làm tốt công tác này cũng là biện pháp quảng cáo hữu hiệu nhất đến với đông đảo khách hàng. Tuy nhiên, trong công tác chi trả bảo hiểm vẫn còn những tồn tại như: những trường hợp rủi ro mức độ nghiêm trọng chưa được bảo hiểm do không tham gia bảo hiểm. Một số trường hợp khai chưa đúng với sự thật như: khai tăng ngày điều trị, tai nạn nhẹ nhưng khai báo nặng, sửa chữa chứng từ điều trị... đã ảnh hưởng đến công tác trả tiền của Bảo Việt Phú Thọ cũng như ảnh hưởng chung đến chế độ chi trả bảo hiểm. Cần có đề nghị với các cơ sở giáo dục quản lý tốt vấn đề này nhằm giải quyết chi trả tiền bảo hiểm cho đối tượng theo đúng mức độ rủi ro, đảm bảo sự bình đẳng, tính cộng đồng của hoạt động bảo hiểm. 2.5. Vấn đề trục lợi Bảo hiểm học sinh tại Bảo Việt Phú Thọ. Cùng với sự tăng trưởng về khách hàng tham gia bảo hiểm, đa dạng hóa các loại hình bảo hiểm, các sản phẩm bảo hiểm, mở rộng kênh phân phối sản phẩm, cộng với sự hiểu biết của khách hàng về bảo hiểm từ đó phát sinh trục lợi bảo hiểm là không thể tránh khỏi. Để đề phòng và hạn chế trục lợi bảo hiểm Công ty thường xuyên quan tâm chỉ đạo các phòng ban thực hiện nghiêm chỉnh các quy trình về khai thác, giám định, tính toán bồi thường, quản lý ấn chỉ, cấp phát, thanh quyết toán các loại ấn chỉ, hóa đơn, quản lý về rủi ro nhằm hạn chế mức tối thiểu nhất các trường hợp gian lận trục lợi bảo hiểm. Bảng 6: Tình hình giám định của phòng trong giai đoạn 2003 - 2007. Chỉ tiêu Đơn vị 2003 2004 2005 2006 2007 Tổng số vụ tai nạn Vụ 5 580 5 779 6 196 8 608 9 691 Số vụ phát hiện sai phạm Vụ 18 22 25 28 31 Chi phí giám định Tr.đồng 93.8 114.3 151.6 165.2 181.4 Nguồn: phòng BHCN Bảo Việt Phú Thọ Từ bảng số liệu ta thấy chi phí giành cho công tác giám định trong thời gian qua còn thấp, ở cả năm chi phí này mới chỉ chiếm khoảng một tỷ trọng nhỏ trong tổng chi. Mặc dù vậy, trong thời gian qua phòng BHCN cũng đã phát hiện ra các vụ vi phạm tránh được sự trục lợi bảo hiểm, từ phía người tham gia góp phần làm giảm chi phí bồi thường, đồng thời còn làm tăng uy tín của Công ty đối với các bậc phụ huynh. Qua số liệu về công tác hạn chế tổn thất ở 5 năm ta thấy số vụ được tiến hành giám định tăng qua các năm, đồng thời số vụ phát hiện vi phạm tăng ở các năm. Điều đó thể hiện công tác giám định đề phòng và hạn chế tổn thất của Công ty ngày càng đạt hiệu quả tốt, có nghĩa là tính công bằng, hiệu quả khi triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh được tăng cao. Điều này có tác dụng làm cho ý thức của người dân ngày càng cao. Như đã nói ở trên, nghiệp vụ bảo hiểm học sinh đâu đó vẫn có những hành vi gian lận, trục lợi bảo hiểm như: khai tăng ngày điều trị, sửa chữa chứng từ điều trị, tai nạn nhẹ nhưng khai nặng, ... nên các cán bộ phòng bảo hiểm con người cần thực hiện tốt hơn nữa công tác giám định và chi trả tiền bảo hiểm để hạn chế mức thấp nhất số vụ trục lợi bảo hiểm xảy ra, nhằm đảm bảo uy tín của Công ty đối với các bậc phụ huynh và nhằm làm tăng lợi nhuận cho Công ty. III. Đánh giá tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm học sinh tại Bảo Việt Phú Thọ trong những năm gần đây. 3.1. Những thuận lợi và những kết quả đạt được trong quá trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm học sinh tại Bảo Việt Phú Thọ trong những năm gần đây. 3.1.1. Những thuận lợi. Công ty Bảo Việt Phú Thọ là công ty có phạm vi hoạt động rộng trong tỉnh, trụ sở chính đặt tại Việt Trì là nơi có nhiều trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế, do đó trong quá trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm nói chung và bảo hiểm học sinh nói riêng có rất nhiều thuận lợi. Đây là cơ sở để Công ty có kế hoạch xây dựng và phát triển kinh doanh, nhằm phát huy các yếu tố tích cực, hạn chế những tiêu cực để đạt được hiệu quả kinh doanh ngày càng tốt hơn. Nhìn chung, trong quá trình triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh, Công ty có những điểm thuận lợi sau: Công ty Bảo Việt Phú Thọ thuộc Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam, là một tập đoàn Tài chính – Bảo hiểm với trên 40 năm có bề dày kinh nghiệm và uy tín trên thị trường, vì vậy sẽ rất thuận lợi cho Công ty trong quá trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này. Một điều chắc chắn rằng Tập đoàn Tài chính – Bảo hiểm là một doanh nghiệp lâu đời nhất, lớn nhất và duy nhất ở Việt Nam cung cấp cả dịch vụ bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ. Với hơn 60 loại sản phẩm Bảo hiểm khác nhau Bảo Việt có vị thế mạnh hơn hẳn các doanh nghiệp cùng ngành, thỏa mãn được nhu cầu đa dạng về số lượng cũng như chất lượng của hầu hết các đối tượng khách hàng khác nhau. Nhờ có sự hỗ trợ khác nhau giữa những sản phẩm bảo hiểm của mình, Bảo Việt có điều kiện giảm phí, nâng cao chất lượng dịch vụ, qua đó thu hút nhiều đối tượng cũng như nhiều lượt khách hàng tham gia. Bảo Việt luôn tự hào về tiềm lực tài chính vững chắc của mình, không chỉ có vậy, đây là doanh nghiệp đi đầu cả nước về nghiên cứu và giới thiệu dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ tài chính mới, hầu hết các sản phẩm bảo hiểm ở Việt Nam đều do Bảo Việt tung ra đầu tiên. Với phương châm “ Phục vụ khách hàng là cách tốt nhất để phát triển” Bảo Việt đã không ngừng hoàn thiện mình, thực hiện các biện pháp đổi mới có tính đột phá trong công tác tổ chức quản lý cũng như trong phong cách phục vụ khách hàng. Vì vậy, Bảo Việt đã tạo được uy tín cũng như sự tin tưởng từ phía khách hàng. Nền kinh tế phát triển, đời sống vật chất tinh thần của người dân ngày càng cao, người dân ngày càng có nhu cầu tiếp xúc và sử dụng sản phẩm bảo hiểm. Đây là điều kiện thuận lợi giúp các DNBH dễ dàng hơn khi tiếp cận các dịch vụ bảo hiểm và mở rộng thị trường. Riêng đối với nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh, khi điều kiện kinh tế càng tốt thì họ càng có điều kiện chăm sóc con cái, không chỉ quan tâm đến chuyện ăn mặc hàng ngày, các bậc phụ huynh còn có gắng dành cho con mình điều kiện tốt nhất để phát triển như điều kiện học tập, vui chơi giải trí, chăm sóc bảo vệ các em... và trong đó có cả nhu cầu về mua Bảo hiểm cho con em mình. Thị trường bảo hiểm ngày càng sôi động, cạnh tranh diễn ra mạnh mẽ, sự cạnh tranh ấy đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn tự đổi mới và tự hoàn thiện mình, đồng thời cũng tạo ra được cơ hội, một phong cách học hỏi kinh nghiệm, cách làm ăn sáng tạo của các công ty cạnh tranh để từ đó tìm cho mình một phương thức kinh doanh có hiệu quả. Vì muốn tồn tại trong môi trường cạnh tranh gắt thì chỉ còn cách là làm sao để khách hàng nhận thấy được sản phẩm bảo hiểm mà mình cung cấp phải đem lại lợi ích hơn hẳn các sản phẩm bảo hiểm khác. Muốn vậy thì việc phải ngày càng hoàn thiện mình là điều không thể tránh khỏi và việc học tập các phương thức kinh doanh của đối thủ cũng là một phương pháp hoàn thiện khá tốt. So với các khu vực khác trong toàn tỉnh thì thành phố Việt Trì là nơi tập trung nhiều trường CĐ, THCN, DTNT... Hàng năm lượng học sinh theo học các trường này rất đông đảo và ngày càng có xu hướng tăng lên. Đây là thị trường tiềm năng để các công ty bảo hiểm nói chung và Bảo Việt Phú Thọ nói riêng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm học sinh. Điều này giải thích tại sao nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh luôn là sản phẩm bảo hiểm thế mạnh của Công ty, doanh thu từ phí bảo hiểm học sinh, sinh viên luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng số phí thực thu. Vì đã triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này khá lâu ( ngay từ những ngày đầu công ty được thành lập) Công ty đã tạo được mối quan hệ tốt với các trường trong khu vực, đặc biệt là các trường lớn, vì vậy rất thuận lợi cho Công ty khai thác ở khu vực này. Về nhân sự, Công ty có đội ngũ cán bộ, đại lý có khả năng trong khai thác và quản lý khách hàng. Trải qua gần 27 năm hoạt động, đội ngũ cán bộ, đại lý của Công ty đã tiếp thu được khá nhiều kinh nghiệm thực tế, đồng thời họ lại chịu khó học hỏi trau dồi kiến thức để tự hoàn thiện mình từ đó làm việc có hiệu quả hơn. 3.1.2. Những kết quả đạt được. Kết quả và hiệu quả chung của hoạt động kinh doanh của phòng bảo hiểm con người Bảo Việt Phú Thọ: Bảng 7: Kết quả kinh doanh Bảo hiểm học sinh giai đoạn 2003 - 2007 . Chỉ tiêu Đơn vị 2003 2004 2005 2006 2007 I. Doanh thu phí Tr.đồng 2 381 3 324 4 423 5 214 6 427 II. Tổng chi Tr.đồng 2 160.042 3 059.778 4 200.926 5 042.161 6 229.735 III. Lợi nhuận Tr.đồng 220.958 264.222 222.074 171.839 197.265 Tỷ lệ tăng lợi nhuận % _ 19.6 _ _ 14.8 Nguồn: phòng BHCN Bảo Việt Phú Thọ Qua bảng số liệu ta thấy, kết quả kinh doanh của phòng ngày càng tăng, thể hiện qua chỉ tiêu doanh thu của Công ty tăng dần qua các năm. Sở dĩ có sự biến động như vậy là do số tỷ lệ học sinh tham gia bảo hiểm gặp tai nạn tăng qua các năm, nhưng mức độ nghiêm trọng lại không giống nhau với từng năm nói chung và với mỗi em học sinh nói riêng nên có sự biến động của lợi nhuận thu được của Công ty không đều qua các năm. Tổng chi cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm tăng qua các năm nhưng tốc độ tăng này thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng của doanh thu, vì vậy mà lợi nhuận mới có xu hướng biến động như vậy. Trong cơ cấu các khoản chi của hoạt động kinh doanh nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh thì chi hoa hồng và chi bồi thường là hai khoản chi lớn nhất trong tổng chi. Đánh giá hiệu quả: Đứng trên góc độ xã hội: Hiệu quả xã hội được thể hiện qua hai chỉ tiêu: Hx = Ktg/ Cbh Hy = Kbt/ Cbh Trong đó: Hx, Hy: hiệu quả xã hội của Công ty Cbh: tổng chi phí cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong kỳ Ktg: số học sinh tham gia bảo hiểm trong kỳ Kbt: số học sinh được bồi thường trong kỳ. Bảng 8: Hiệu quả xã hội của nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh. Chỉ tiêu Đơn vị 2003 2004 2005 2006 2007 Cbh Tr.đồng 2 160.042 3 059.778 4 200.926 5 042.161 6 229.735 Ktg Người 169 657 178 530 181 761 192 454 194 625 Kbt Người 5 580 5 779 6 196 8 608 9 691 Hx Người/vụ 83.17 61.38 45.95 41.88 34.02 Hy Người/vụ 2.74 1.97 1.57 1.87 1.69 Nguồn: báo cáo tổng kết của phòng BHCN Bảo Việt Phú Thọ Ta thấy, hiệu quả kinh doanh từ năm 2003 – 2007 ít biến động, hiệu quả đạt cao; ở chỉ tiêu Hy sự biến động về hiệu quả là không nhiều, nhìn chung là cứ 1 triệu đồng bỏ ra kinh doanh nghiệp vụ thì góp phần giải quyết cho khoảng 2 học sinh, con số này nói chung là còn thấp. ở chỉ tiêu Hx cứ 1 triệu đồng chi phí bỏ ra thu hút được khoảng 83 người vào năm 2003, và giảm đi còn 34 người trong năm 2007. Như vậy, hiệu quả xã hội của nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh chưa cao. Công ty mặc dù hàng năm vẫn có sự tăng trưởng về doanh thu và lợi nhuận, đó là kết quả của sự cố gắng hết mình của cán bộ nhân viên trong Công ty nhưng Công ty cần làm tốt hơn nữa, khai thác tốt hơn nữa, công tác đề phòng hạn chế tổn thất tốt hơn nữa để giảm đi số học sinh gặp tai nạn rủi ro hàng năm, tăng số lượng khách hàng tham gia nghiệp vụ bảo hiểm này để công tác xã hội của Công ty ngày càng đạt hiệu quả mà Công ty vẫn hoàn thành được kế hoạch đã đặt ra. Đứng trên góc độ kinh tế: Hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh được đo bằng tỷ số giữa doanh thu hoặc lợi nhuận với tổng chi phí bỏ ra trong kỳ: HD = D/ C HE = L/ C Trong đó: HD, HE: hiệu quả kinh doanh của công ty tính theo doanh thu và lợi nhuận. D: doanh thu từ phí bảo hiểm học sinh L: lợi nhuận thu được trong kỳ C: tổng chi phí bảo hiểm chi ra trong kỳ Bảng 9: Hiệu quả kinh tế của nghiệp vụ bảo hiểm học sinh giai đoạn 2003 – 2007 Chỉ tiêu Đơn vị 2003 2004 2005 2006 2007 D Tr.đồng 2 381 3 324 4 423 5 214 6 427 L Tr.đồng 220.958 264.222 222.074 171.839 197.265 C Tr.đồng 2 160.042 3 059.778 4 200.926 5 042.161 6 229.735 HD _ 1.17 1.14 1.12 1.13 1.14 HE _ 0.17 0.14 0.12 0.13 0.14 Nguồn: báo cáo tổng kết của phòng BHCN Bảo Việt Phú Thọ Nhìn vào bảng số liệu ta thấy có sự biến đổi đáng kể về hiệu quả kinh doanh. Năm 2003 cứ 1 triệu đồng bỏ ra kinh doanh thì góp phần tạo ra 1.17 triệu đồng doanh thu. Năm 2004 là 1.14 triệu đồng doanh thu và đến năm 2005 tăng lên đến 1.12 triệu đồng doanh thu và năm 2007 thì cứ 1 triệu đồng bỏ ra kinh doanh tạo ra 1.14 triệu đồng doanh thu và 0.14 triệu đồng lợi nhuận. Để đạt kết quả như vậy là do phòng thực hiện khá tốt công tác đề phòng hạn chế tổn thất, công tác bồi thường làm cho uy tín của Công ty ngày càng tăng. Hiệu quả kinh doanh hoạt động khai thác: Hiệu quả khai thác = Doanh thu phí trong kỳ/ chi phí hoạt động khai thác. Bảng 10: hiệu quả khai thác hoạt động kinh doanh Bảo hiểm học sinh giai đoạn 2003 - 2007. Chỉ tiêu Đơn vị 2003 2004 2005 2006 2007 Doanh thu phí trong kỳ Tr.đồng 2 381 3 324 4 423 5 214 6 427 Tỷ lệ tăng doanh thu % _ 39.6 33.1 17.9 23.3 Chi hoạt động khai thác Tr.đồng 106.7 121.1 153.3 205.4 215.7 Tỷ lệ tăng chi phí k.thác % _ 13.4 26.6 33.9 5.1 Hiệu quả khai thác _ 22.3 27.4 28.9 25.4 29.8 Nguồn: phòng BHCN Bảo Việt Phú Thọ Nhìn vào bảng trên ta thấy hoạt động khai thác của phòng đạt kết quả khá cao. Cứ 1 triệu đồng bỏ ra chi phí khai thác thu được 22.3 triệu đồng doanh thu năm 2003, 27.4 triệu đồng doanh thu năm 2004 và lên đến 29.8 triệu đồng năm 2007. Khi so sánh giữa tỷ lệ tăng doanh thu và tỷ lệ tăng chi phí khai thác ta thấy nhìn chung tỷ lệ tăng chi phí khai thác ở các năm đều thấp hơn tỷ lệ tăng doanh thu. Điều này chứng tỏ phòng BHCN Bảo Việt Phú Thọ có một chiến lược khai thác tốt đạt được chỉ tiêu về doanh thu và lợi nhuận của phòng. Hiệu quả kinh doanh hoạt động giám định. Hiệu quả giám định = Bảng 11: Hiệu quả giám định nghiệp vụ BHHS giai đoạn 2003 – 2007. Chỉ tiêu Đơn vị 2003 2004 2005 2006 2007 Số vụ tai nạn được BT Vụ 5 580 5 779 6 196 8 608 9 691 Chi phí giám định Tr.đồng 93.8 114.3 151.6 165.2 181.4 Hiệu quả giám định Vụ/tr 59.5 50.6 40.9 52.1 53.4 Nguồn: phòng BHCN Bảo Việt Phú Thọ Bảng số liệu trên cho thấy hiệu quả giám định có xu hướng giảm trong giai đoạn 2003 – 2005. Năm 2003, cứ 1 triệu đồng bỏ ra giám định góp phần giám định được gần 60 vụ tai nạn. Năm 2005 thì chỉ được gần 41 vụ. Sang giai đoạn 2006 – 2007 hiệu quả gia,s định lại có xu hướng tăng lên, năm 2006 giám định được gần 52 vụ và năm 2007 được gần 53 vụ; tuy có sự tăng lên về hiệu quả giám định trong giai đoạn này nhưng vẫn chưa đạt hiệu quả tốt. Nguyên nhân là do Bảo hiểm học sinh hoạt động trên địa bàn rộng, số vụ tai nạn nhiều, lại có mức độ phức tạp khác nhau bởi vậy mà chi phí giám định bỏ ra khá tốn kém, nên hiệu quả giám định của phòng chưa cao. Hiệu quả hoạt động đề phòng và hạn chế tổn thất. Hiệu quả công tác hạn chế = lợi nhuận trong kỳ/ chi phí ĐP & HCTT Bảng 12: Hiệu quả hoạt động ĐP & HCTT nghiệp vụ BHHS giai đoạn 2003 – 2007 Chỉ tiêu Đơn vị 2003 2004 2005 2006 2007 Lợi nhuận trong kỳ Tr.đồng 220.958 264.222 222.074 171.839 197.265 Chi phí ĐPHCTT Tr.đồng 341.226 352.296 362.542 368.4 373.968 Hiệu quả ĐP HCTT (1/2) _ 0.34 0.66 0.55 0.27 0.44 Nguồn: phòng BHCN Bảo Việt Phú Thọ Ta thấy nhìn chung hiệu quả ĐP & HCTT tăng dần lên qua các năm. Cứ 1 triệu đồng bỏ ra cho hoạt động ĐP & HCTT sẽ góp phần tạo ra 0.34 triệu đồng năm 2003, tăng lên đến 0.66 triệu đồng vào năm 2004 và đạt 0.44 triệu đồng vào năm 2007. Nguyên nhân là do Công ty ngày càng chú trọng làm tốt công tác này, số tiền chi cho ĐP & HCTT ngày càng tăng. Một phần khác là do trong cơ cấu chi ĐP & HCTT một phần lớn là chi cho tuyên truyền quảng cáo, trong khi đó hoạt động này không chỉ phát huy tác dụng vào năm đó mà còn tiếp tục có tác dụng vào những năm sau. Vì vậy, hiệu quả kinh doanh của hoạt động này ngày càng tăng. Nhận xét chung: Nhìn chung, trong mấy năm gần đây hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm học sinh diễn ra thuận lợi, đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên, để có thể tăng hiệu quả kinh doanh trong thời gian tới cần hoạt động theo các hướng sau: Đối với hoạt động khai thác: tập trung vào việc khuyến khích khen thưởng cá nhân hay tập thể làm việc đạt hiệu quả cao, tăng chi phí cho hoạt động tuyên truyền quảng cáo để ra tăng sức cạnh tranh với các doanh nghiệp bảo hiểm khác. Từ đó sẽ thu hút thêm được nhiều khách hàng tham gia và đạt hiệu quả tốt hơn. Tăng chi phí cho giám định bồi thường, mặc dù hoạt động của Bảo hiểm học sinh không thật sự phức tạp như trong bảo hiểm xây dựng lắp đặt hay bảo hiểm thân tàu, nhưng do đặc thù là nghiệp vụ có phạm vi hoạt động rộng với số lượng người tham gia cũng như số trường hợp gặp rủi ro lớn. Vì vậy mà công việc giám định đòi hỏi tốn kém nhiều chi phí. Thực tế trong thời gian qua, công tác giám định của Công ty đạt hiệu quả chưa cao, số vụ phát hiện sai phạm còn ít hơn so với con số thực tế. Vì vậy, trong thời gian tới, công ty nên chú trọng đến công tác này. 3.2. Những khó khăn và tồn tại trong việc triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh tại Bảo Việt Phú Thọ. Bên cạnh những thuận lợi ở trên, doanh nghiệp vẫn gặp phải những khó khăn trong việc triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh do một số nguyên nhân sau: Thứ nhất, Phú Thọ là một tỉnh trung du miền núi, đời sống người dân còn gặp nhiều khó khăn nhất là đối với người dân ở các huyện miền núi và nông thôn. Do đời sống còn nhiều khó khăn nên việc các em học sinh được đến trường học hết các bậc phổ thông đã là điều rất khó đối với cha mẹ các em, huống hồ là việc các em được tham gia bảo hiểm và tham gia bảo hiểm đều đặn theo các năm học lại càng khó hơn. Thứ hai, tỷ lệ người dân tham gia các loại hình dịch vụ tự nguyện còn thấp; một mặt do họ không có điều kiện để tham gia, mặt khác do họ không hiểu hết ý nghĩa của các loại hình dịch vụ tự nguyện này. Đối với nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh mà doanh nghiệp triển khai cũng không phải là một ngoại lệ. Có một số các phụ huynh do không hiểu được tác dụng của Bảo hiểm học sinh đối với con cái mình, gia đình mình và cho toàn xã hội nên đã không để con cái mình tham gia bảo hiểm; đây cũng có thể là do thiếu sót của công tác tuyên truyền quảng cáo của doanh nghiệp đã không đến được hết với người dân trong toàn bộ địa bàn tỉnh. Thứ ba, trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO, tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước càng cố gắng hơn nữa để mở rộng thị phần của mình trên thị trường. Bảo Việt Phú Thọ nói riêng và Tổng công ty Bảo hiểm Bảo Việt nói chung cũng không nằm ngoài vòng xoáy của cơn lốc thị trường này. Các doanh nghiệp bảo hiểm khác cùng kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm này với Bảo Việt Phú Thọ dùng rất nhiều biện pháp để cạnh tranh thị phần như: giảm mức phí bảo hiểm, tăng hoa hồng phí cho các đại lý. Đứng trước sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp bảo hiểm này, mặc dù thị phần của Bảo Việt Phú Thọ trong nghiệp vụ này rất cao ( hơn 90%) so với các doanh nghiệp khác trên toàn tỉnh nhưng cũng cần có những biện pháp thích hợp nhằm nâng cao hơn nữa thị phần của mình nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong công tác phục vụ khách hàng, đồng thời mang lại hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội cho doanh nghiệp mình. Chương III: Kiến nghị và giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn nghiệp vụ bảo hiểm học sinh tại Bảo Việt Phú Thọ. I. Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh tại Bảo Việt Phú Thọ. Như chúng ta đã biết, hiện nay trên thị trường đang có sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa các doanh nghiệp nhằm lôi kéo khách hàng về phía mình. Đối với nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh, Bảo Việt Phú Thọ chiếm thị phần cao hơn hẳn ( hơn 90%) so với các doanh nghiệp bảo hiểm khác, doanh nghiệp muốn giữ vững được thị phần của mình thì phải ngày càng nâng cao chất lượng dịch vụ mà mình cung cấp. Muốn làm được như vậy thì vấn đề đặt ra là phải làm sao để tạo được sự khác biệt thực sự đối với doanh nghiệp bảo hiểm khác. Trong quá trình thực tập, sau khi nghiên cứu về Bảo Việt Phú Thọ em xin mạnh dạn đề xuất ý kiến của mình về vấn đề này như sau: Thứ nhất, hiện nay Bảo Việt Phú Thọ đang cùng với sở Giáo dục - Đào tạo Phú Thọ xây dựng kế hoạch và thực hiện quỹ “ Khuyến học Bảo Việt” cho các em học sinh nghèo vượt khó. Đây là một chương trình rất thiết thực và bổ ích cho các em học sinh và cho gia đình các em, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của doanh nghiệp đến thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước. Theo em, doanh nghiệp nên tăng số lượng các suất học bổng và tăng trị giá học bổng lên cho các em vì trong điều kiện hiện nay, tình hình kinh tế biến động không ngừng việc đảm bảo đời sống của gia đình các em đã rất khó khăn thì việc trang trải các chi phí cho việc học tập của các em là việc vô cùng khó, nếu các em không đủ điều kiện đến trường thì tài năng của các em cũng mai một bị lụi tàn, uổng phí nhân tài của đất nước. Thứ hai, vì bảo hiểm học sinh, sinh viên cũng như hầu hết các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ nói chung có hình thức tự nguyện, vì vậy để thu hút đông đảo học sinh tham gia doanh nghiệp phải thực hiện tốt các tuyên truyền quảng cáo. Nhưng thực tế cho thấy, Bảo Việt quảng cáo không nhiều, hiện các hình thức mà doanh nghiệp áp dụng chủ yếu là qua báo chí, lập một số biển quảng cáo đặt trên các đường giao thông, qua catalog và qua sách báo mỏng, tờ rơi... đây là những hình thức quảng cáo đơn giản mà hiệu quả không cao. Trong thời gian vừa qua, Bảo Việt hầu như không quảng cáo trên truyền hình, do đó Bảo Việt nên đầu tư hơn nữa cho quảng cáo, nên áp dụng biện pháp quảng cáo qua truyền hình, đài phát thanh bởi có rất nhiều người xem các chương trình truyền hình, như vậy thì việc quảng cáo sẽ có tác dụng cao hơn. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể xem xét tài trợ các giải đấu thể thao, các sân chơi trên truyền hình, các chương trình từ thiện, đây là những hình thức quảng cáo rất hiệu quả, vừa quảng bá được hình ảnh của doanh nghiệp, vừa tăng uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Riêng với bảo hiểm học sinh, Bảo Việt nên xem xét tặng các suất học bổng cho các em có thành tích học tập xuất sắc và học sinh nghèo vượt khó. Thứ ba, Công ty nên thực hiện việc thu phí bảo hiểm vào tháng 1 hàng năm vì vào đầu năm học các em phải đóng góp nhiều loại quỹ nên khá khó khăn cho gia đình các em trong việc cho các em tham gia bảo hiểm toàn diện học sinh. II. Giải pháp để thực hiện mục tiêu đề ra cho năm 2008. Để hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp năm 2008 đạt hiệu quả cao trên cơ sở phân tích những thuận lợi, khó khăn và việc vận dụng chủ trương chính sách của Tổng công ty vào điều kiện thực tế của doanh nghiệp đã xác định được giải pháp kinh doanh như sau: Doanh nghiệp phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với sở Giáo dục - Đào tạo, các trường Đại học, Cao đẳng, THCN và dạy nghề, các cơ sở Giáo dục, các cấp quản lý. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, in tờ rơi quảng cáo, đẩy mạnh công tác tuyên truyền từ cơ sở để bản thân các học sinh, sinh viên và các bậc phụ huynh hiểu và thấy rõ sự cần thiết, tác dụng của Bảo hiểm học sinh. Nội dung tuyên truyền, quảng cáo phải nổi bật để các bậc phụ huynh và các em hiểu rõ được tác dụng của bảo hiểm và quyền lợi các em sẽ được hưởng khi mua dịch vụ bảo hiểm này. Ngôn ngữ tuyên truyền phải cô đọng, xúc tích, sử dụng những hình ảnh quen thuộc gần gũi với cuộc sống hàng ngày để khách hàng dễ liên tưởng. Doanh nghiệp phải tích cực cải tiến công tác trả tiền bảo hiểm đảm bảo đơn giản, kịp thời, chính xác. Tuyệt đối không gây phiền hà khi thu nhận hồ sơ và thanh toán trả tiền. Nâng cao chất lượng giám định và rút ngắn thời gian luân chuyển hồ sơ trả tiền bảo hiểm. áp dụng việc thu và trả tiền bảo hiểm trực tiếp tại các trường học và các đơn vị thuộc ngành Giáo dục toàn Tỉnh thông qua việc phối hợp với mạng lưới cộng tác viên các trường và mạng lưới cán bộ chuyên nghiệp của Bảo Việt. Bảo Việt Phú Thọ phối hợp tốt với các trường Đại học, Cao đẳng, THCN, các phòng giáo dục, các trường tuyên truyền các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất, các rủi ro thường xuyên xảy ra nhằm hạn chế ở mức thấp nhất những thiệt hại tới tính mạng của người tham gia bảo hiểm. Tiếp tục đầu tư trang bị tủ thuốc cấp cứu, những công trình đề phòng hạn chế tai nạn có giá trị tại các trường nhằm phát huy thiết thực và có hiệu quả cho công tác sơ cấp cứu ban đầu và chăm sóc sức khoẻ cho học sinh. Cán bộ Bảo Việt Phú Thọ thường xuyên có mặt tại các cơ sở nắm bắt tâm tư, nguyện vọng từ phía nhà trường, các bậc phụ huynh và học sinh, từ đó có phương án giải quyết kịp thời. Duy trì tốt mối quan hệ cũng như sự ủng hộ của các cấp chính quyền, các cơ sở giáo dục, các trường và hội phụ huynh học sinh. Để hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được tốt hơn thì doanh nghiệp phải thường xuyên đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, nhân viên, các đại lý. Qua đó cung cấp những kiến thức mới về chuyên môn như: cử cán bộ đi đào tạo, tập huấn tại các lớp do Tổng công ty, doanh nghiệp tổ chức. Sau đó, cán bộ được cử đi sẽ về phổ biến cho các cán bộ hoặc nhân viên khác của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cũng có thể chủ động mở các buổi nói chuyện, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau để mọi người biết và cùng học hỏi. KẾT LUẬN Việc triển khai Bảo hiểm học sinh của các công ty bảo hiểm không chỉ nhằm mục đích kinh doanh mà còn nhằm mục đích xã hội bởi nó góp phần bảo vệ cho các em – thế hệ tương lai của đất nước, góp phần ổn định cuộc sống cho bản thân, gia đình các em và cho toàn xã hội. Nhận thức được tầm quan trọng của Bảo hiểm học sinh, Bảo Việt Phú Thọ đã nỗ lực hết mình vị mục tiêu xã hội cao cả. Công ty đã và đang cố gắng làm tốt công tác Bảo hiểm học sinh đúng như mục tiêu chính trị mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Trong những năm vừa qua, nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh đã từng bước trưởng thành và phát triển không ngừng. Mặc dù là bảo hiểm tự nguyện và do điều kiện khách quan và chủ quan, nên trong quá trình triển khai Công ty đã gặp phải những khó khăn nhất định. Nhưng bằng sự quyết tâm và cố gắng của toàn bộ tập thể cán bộ, Công ty đã mạnh dạn vừa triển khai, vừa củng cố, vừa làm vừa rút kinh nghiệm nên đã thu được những kết quả đáng kể, vượt mức kế hoạch nhiều năm, góp phần lớn vào sự nghiệp chăm sóc và giáo dục trẻ trong toàn tỉnh. Các em học sinh luôn chiếm một tỷ lệ lớn trong toàn bộ dân cư và tiềm năng khai thác của nghiệp vụ này con rất lớn. Công ty vẫn cần tiếp tục cố gắng để tiếp tục thu hút được lượng khách hàng đông đảo hơn, đảm bảo cả hai mục tiêu kinh tế và xã hội trong kinh doanh bảo hiểm. Hy vọng rằng những kiến thức nhỏ bé trên của em có thể giúp ích được phần nào cho Công ty để việc triển khai nghiệp vụ này được tốt hơn., có khả năng đứng vững và phát triển mạnh mẽ trước những thử thách mới. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình bảo hiểm. Nhà xuất bản thống kê. Giáo trình quản trị kinh doanh bảo hiểm. Nhà xuất bản thống kê. Bảo hiểm học sinh phòng chống rủi ro bất ngờ. Nhà xuất bản thống kê. Quyết định số 744/200/QĐ/TGĐ về bảo hiểm toàn diện học sinh. Web: www.baoviet.com.vn Các điều khoản bảo hiểm con người. Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam. Bảo Việt 40 nam xây dựng và phát triển. Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam. Tạp chí tài chính bảo hiểm. Số 4 – 2007 .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm học sinh, sinh viên ở Công ty Bảo Việt Phú Thọ trong những năm gần đây.DOC
Luận văn liên quan