Đề tài Tổ chức trò chơi đóng kịch nhằm phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5 – 6 tuổi ở trường Mầm non

Một trong những nguyên nhân là do giáo viên chưa biết tận dụng TCĐK làm phương tiện để phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ và họ thực sự còn khó khăn trong việc lựa chọn, tìm kiếm các biện pháp tổ chức TCĐK nhằm phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ. Trên cơ sở lí luận và thực tiễn, luận văn đã xây dựng được một số biện pháp tổ chức TCĐK nhằm phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5 – 6 tuổi: Biện pháp 1: Lựa chọn kịch bản từ nhiều nguồn khác nhau (trong tuyển tập truyện cổ tích, trên mạng Internet, trong chương trình GDMN, cô tự chuyển thể.) có nội dung hấp dẫn, phù hợp với nhận thức của trẻ Biện pháp 2: Khuyến khích trẻ kể lại nội dung truyện và khắc họa tính cách nhân vật bằng lời nói Biện pháp 3: Tăng cường luyện tập lời thoại thông qua các vai chơi khác nhau trong kịch bản

doc112 trang | Chia sẻ: phamthachthat | Lượt xem: 6960 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tổ chức trò chơi đóng kịch nhằm phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5 – 6 tuổi ở trường Mầm non, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phân tích về kịch bản với trẻ. Có như vậy mới tạo điều kiện cho lời nói mạch lạc của trẻ phát triển tốt. - Động viên, khích lệ và tác động kịp thời khi trẻ gặp khó khăn trong cách thể hiện nhân vật trong quá trình phân tích kịch bản. - Giáo viên không chỉ cung cấp cho trẻ về cơ sở vật chất mà còn phải biết cách tổ chức, hướng dẫn trẻ chơi. Đồng thời khuyến khích trẻ tìm tòi, phát hiện và biết giải quyết vấn đề trong khi chơi. - Giáo viên phải nắm rõ các tiêu chí lựa chọn TPVH và cách chuyển thể kịch bản. Đồng thời giáo viên phải nhận thức được rằng, trẻ chơi đóng kịch chứ không phải diễn kịch nên không được gò ép trẻ thể hiện quá với khả năng của mình. - Lời nói mạch lạc là một kĩ năng khó. Vì vậy giáo viên cần phải kiên trì tổ chức rèn luyện một cách liên tục duy trì và phát huy cho trẻ. Lời nói mạch lạc chỉ phát triển tốt khi trẻ được phát biểu, nêu ra những suy nghĩ của mình một cách tự nhiên, không bắt buộc hay gò ép. Biện pháp 2: Khuyến khích trẻ kể lại nội dung truyện và khắc họa tính cách nhân vật bằng lời nói * Mục tiêu, ý nghĩa: Kể lại truyện giúp trẻ phát triển lời nói mạch lạc một cách hiệu quả. Khi kể lại truyện, trẻ phải thể hiện cái hồn của tác phẩm, tình cảm, suy nghĩ, thái độ của mình đối với tác phẩm, trải nghiệm tình cảm của mình trong đó và thể hiện chúng cách sử dụng những phương tiện biểu cảm như lời nói, nét mặt, cử chỉ, ánh mắt, điệu bộ...Những kĩ năng mà trẻ có được trong quá trình kể lại truyện như cách mở đầu, diễn biến đến kết thúc truyện, cách điều chỉnh giọng điệu, hơi thở ngắt nghỉ một cách tự nhiên, kín đáo, bình tĩnh sẽ giúp trẻ chất lượng của lời nói, làm cho lời nói trở nên mạch lạc. Quá trình tổ chức cho trẻ khắc họa tính cách nhân vật bằng giọng nói có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển lời nói mạch lạc của trẻ. Nó không chỉ giúp trẻ thuộc lời thoại, tăng khả năng sử dụng từ trong lời nói, và hiểu sâu sắc tính cách nhân vật và còn giúp trẻ tìm kiếm những phương tiện biểu cảm phù hợp với nhân vật để tăng sức hấp dẫn trong lời nói, tạo được sự cuốn hút cho người nghe. * Nội dung và cách tiến hành - Khi trẻ đã nắm được kịch bản, giáo viên tổ chức cho trẻ kể lại truyện. Không nên cho một trẻ kể từ đầu đến cuối truyện mà tạo cơ hội cho các trẻ đều được tham gia kể lại truyện. Giáo viên có thể tổ chức cho trẻ lần lượt trẻ kể mở đầu, trẻ kể tiếp diễn biến và một trẻ kết thúc. Hoặc có thể cho trẻ kể nối tiếp, trẻ kể dừng lại ở chỗ nào thì trẻ tiếp theo sẽ kể tiếp từ chỗ đó. - Sau khi trẻ kể lại truyện, giáo viên tổ chức khắc họa sâu hơn tính cách nhân vật bằng lời nói. Giáo viên cùng trẻ đàm thoại, nhận xét về từng nhân vật và nhắc lại lời thoại của nhân vật đó. Ví dụ như cô giáo đàm thoại với trẻ về nhân vật: chú gà Mơ rất kiêu hãnh và tự hào với chiếc mào đỏ rực tuyệt đẹp của mình. Khi gà Mơ khoan khoái đập cánh, chú đã hát như thế nào nhỉ? Trẻ đồng thanh “Cục ta cục tác, mào ta đã mọc, cục ta cục tác, mào ta đã mọc”. Còn khi gà Mơ bối rối hỏi bạn thì gà Mơ nói gì? Trẻ sẽ biến đổi giọng bối rối của gà Mơ “Bạn làm sao thế?”... - Trong quá trình khắc họa sâu tính cách nhân vật, giáo viên có thể kết hợp với tranh minh họa để trẻ thấy được rõ nét sự biến đổi sắc thái biểu cảm trên khuôn mặt cũng như hành động của nhân vật, để từ đó khi diễn kịch trẻ có những biểu cảm phù hợp. - Giáo viên cần sử dụng lời nói, cử chỉ dịu dàng, hấp dẫn, lôi cuốn sự chú ý của trẻ vào các tình tiết trong truyện, cho nhiều trẻ tham gia để các trẻ đều có cơ hội thể hiện năng lực của mình. - Cô giáo cũng cần có sự động viên, khích lệ kịp thời với những biểu hiện tốt của trẻ trong quá trình tham gia hoạt động. Giáo viên luôn là điểm tựa, là cầu nối để trẻ tiến lại gần hơn với tác phẩm, với nhân vật trong kịch bản văn học. * Điều kiện thực hiện - Giáo viên chuẩn bị tranh minh họa đầy đủ, sinh động, đẹp mắt, phản ánh chân thực nội dung và tính cách của nhân vật. - Tạo bầu không khí vui vẻ, thoải mái, bình đẳng cho trẻ. - Tôn trọng mọi ý kiến của trẻ - Đảm bảo tất cả các trẻ đều được tham gia hoạt động. - Cô cùng các bạn cổ vũ, khích lệ khi trẻ có những biểu cảm chính xác, sinh động, sáng tạo. Biện pháp 3: Tăng cường cho trẻ luyện tập lời thoại thông qua các vai chơi khác nhau trong kịch bản * Mục tiêu, ý nghĩa: Trong TCĐK trẻ thường thích những nhân vật tốt bụng, dũng cảm, hiền lành còn nhân vật phản diện thì không ai chịu nhận. Mỗi nhân vật trong kịch đều có lời nói, cử chỉ, điệu bộ khác nhau tạo nên tình huống hấp dẫn trong kịch. Chính vì vậy việc tăng cường cho trẻ luyện tập lời thoại thông qua các vai chơi sẽ tạo cơ hội cho trẻ được trải nghiệm tất cả các tuyến nhân vật để trẻ cảm nhận được sự giàu có của ngôn ngữ, biết cách sử dụng nhiều loại cấu trúc câu khác nhau trong lời nói, biết thể hiện lời nói sao cho phù hợp với từng nhân vật...Trong quá trình luyện tập lời thoại trẻ có thêt thêm, bớt từ, thêm vào những đoạn lặp, những từ cảm thán, nhấn giọng, chuyển giọng theo cảm xúc của trẻ để tăng tính biểu cảm, thuyết phục người xem mà không làm ảnh hưởng đến nội dung tác phẩm. * Nội dung và cách tiến hành: - Sau khi phân từng nhóm chơi, giáo viên cho trẻ (có thể là nhóm trưởng) chủ động phân vai chơi và tổ chức luyện tập lời thoại. - Trong quá trình luyện tập, giáo viên có thể tham gia vừa làm người dẫn truyện vừa làm đạo diễn kịch. Người dẫn truyện giúp tạo nên sự liền mạch và nhất quán cho trò chơi.Đạo diễn hướng dẫn, khơi gợi, động viên, tăng cường cảm xúc cho trẻ khi trẻ thể hiện vai chơi. - Giáo viên cần gợi ý, hướng dẫn trẻ thể hiện vai chơi một cách sinh động và sáng tạo. Khơi gợi trí tưởng tượng cho trẻ về nhân vật trẻ tham gia chơi để trẻ nhập vai tốt hơn. Bên cạnh đó, giáo viên tạo cơ hội, dành thời gian cho trẻ suy nghĩ, tìm kiếm những biểu cảm về nhân vật qua giọng nói, cử chỉ, điệu bộ trên khuôn mặt để thể hiện đúng tính cách nhân vật. - Giáo viên tổ chức cho trẻ luyện tập lời thoại cùng nhau để trẻ biết cách phối hợp ăn ý với nhau khi chơi đóng kịch. Ví dụ trẻ A nói: “Dê kia! Mày đi đâu? Trẻ B tiếp lời: “tao đi tìm kẻ nào hay gây sự đây!”. - Giáo viên khích lệ trẻ thể hiện sự sáng tạo trong lời nói bằng cách có thể thêm, bớt những từ, nhấn giọng, chuyển giọng... sao cho phù hợp với nhân vật. Ví dụ trong kịch bản “Sự tích hoa hồng” các loại hoa nói “Ước gì chúng ta có nhiều màu sắc như các loại hoa khác”, trẻ có thể thêm từ và ngắt giọng để câu nói xúc cảm hơn, thể hiện rõ sự khao khát có được màu sắc rực rỡ của những bông hoa hồng như: “Hey! Ước gì...chúng ta có nhiều màu sắc như các loại hoa khác” (nhấn giọng mạnh vào cụm từ “nhiều màu sắc”) - Lần luyện tập sau giáo viên cho trẻ tập lời thoại của nhân vật khác trong kịch bản, trẻ A đã tập lời thoại vai Sói thì lần này tập lời thoại của Dê đen. - Việc luyện tập lời thoại cần tổ chức linh hoạt, tránh nhàm chán, căng thẳng cho trẻ. Giáo viên cần tôn trọng ý kiến của trẻ, tạo cho trẻ cảm giác mình đang được thỏa mãn niềm đam mê diễn xuất, tập làm những người nghệ sĩ chuyên nghiệp, giúp cảm xúc của trẻ được thăng hoa tối đa. * Điều kiện thực hiện: - Khi tổ chức TCĐK cho trẻ cần phải có đủ thời gian và không gian cho trẻ hoạt động. - Giáo viên phải nắm được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để giao nhiệm vụ cho phù hợp. - Giáo viên cần tôn trọng cảm xúc của trẻ, không can thiệp thô bạo làm mất đi cảm hứng của trẻ. Biện pháp 4: Tạo điều kiện, cơ hội cho trẻ trao đổi, bàn bạc, đưa ra ý tưởng, cách xây dựng, trang trí sân khấu, chuẩn bị đạo cụ, trang phục, hóa trang * Mục tiêu, ý nghĩa: Đối với TCĐK, việc trang trí sâu khấu, trang phục biểu diễn, hóa trang có ý nghĩa to lớn. Tất cả những cái đó tạo ra ấn tượng về một vở kịch thực sự, tạo ấn tượng tốt cho trẻ, kích thích nhu cầu và hứng thú tham gia trò chơi của trẻ và tạo nên sự thành công cho TCĐK. Khi tham gia trao đổi, bàn bạc trẻ sẽ đưa ra những ý kiến của mình như truyện “Chú Dê đen” cần cây cối, cỏ, dòng suối,.. Truyện “Hoa mào gà” thì phải có các loại hoa rực rỡ, bể nước, cây cỏ xung quanh... hay khi chuẩn bị trang phục, giúp bạn mặc trang phục, hóa trang trẻ sẽ không ngừng đưa ra những ý kiến đóng góp của mình. Qua đó sẽ giúp trẻ phát triển vốn từ vựng, rèn kĩ năng sử dụng từ ngữ, ngữ âm và kĩ năng giao tiếp. Từ nó lời nói mạch lạc của trẻ sẽ phát triển tốt. Quá trình trao đổi, bàn bạc và thực hiện này còn tạo nên bầu không khí thân thiện, cởi mở, gắn kết trẻ với giáo viên và trẻ với trẻ. Nó sẽ tạo cơ hội cho trẻ nảy sinh ý tưởng mới về cách nhập vai chơi, cách phối hợp với bạn chơi. Hơn thế nữa khi trẻ được tự mình tham gia trang trí, tô vẽ, chuẩn bị trang phục góp phần phát triển thẩm mĩ, óc sáng tạo. Bên cạnh đó trẻ tự hào vì được biểu diễn trẻn sân khấu, được khoác trên mình những trang phục do chính tay mình làm ra. * Nội dung và cách tiến hành: - Giáo viên lựa chọn vị trí chơi đảm bảo rộng rãi, thoáng mát, thuận tiện, an toàn, vệ sinh phù hợp với TCĐK và với điều kiện cụ thể của lớp học. - Bàn bạc với trẻ xem kịch bản này thì cần phải chuẩn bị những gì trên sâu khấu? trang phục cần có những gì? hóa trang như thế nào?...Sau khi thống nhất được những thứ cần chuẩn bị, giáo viên cùng trẻ bắt tay vào thực hiện.Trong khi thực hiện giáo viên trò chuyện và hướng dẫn trẻ để kích thích trẻ bộc lộ và rèn luyện lời nói mạch lạc. - Giáo viên không chỉ cung cấp cho trẻ về cơ sở vật chất mà còn phải biết cách tổ chức, hướng dẫn trẻ làm đồ dùng, đồ chơi. Đồng thời khuyến khích trẻ tìm tòi, sáng tạo trong cách chuẩn bị đồ dùng trang trí sân khấu hay mũ nhân vật để phản ánh sinh động được nội dung truyện trẻ tham gia chơi đóng kịch. - Giáo viên chủ động và khuyến khích trẻ cùng sưu tầm những vật dụng, nguyên vật liệu có sẵn, dễ kiếm, dễ làm để tạo ra đồ dùng, đồ chơi phục vụ TCĐK nói riêng và hoạt động khác. - Giáo viên làm chủ được kĩ năng làm việc với trẻ. Biết quan sát và nắm bắt được nhu cầu, sở thích, hứng thú chơi của trẻ. Biết đặt mình vào vị trí của trẻ cùng trẻ tạo ra những sản phẩm nghệ thuật đẹp mắt, có giá trị sử dụng cao. - Sau khi hoàn tất các vật dụng cần thiết cho trò chơi, giáo viên cùng trẻ sắp xếp, bày trí lên sân khấu tái hiện lại hoàn cảnh diễn ra câu chuyện trẻ sắp tham gia chơi. * Điều kiện thực hiện: - Cần có không gian và thời gian để lựa chọn, làm đồ dùng, đồ chơi, sắp xếp trang phục, trang trí sân khấu. - Cần có sự đầu tư và quan tâm đến việc tạo không gian chơi hấp dẫn, mang tính phát triển. Tạo cơ hội cho trẻ được rèn luyện lời nói mạch lạc qua trò chơi. - Không gian chơi của trẻ phải thực sự an toàn, hấp dẫn, thoải mái, tự do, thỏa mãn nhu cầu chơi của trẻ. - Đồ dùng, vật dụng trẻ tham gia thực hiện cần an toàn, thẩm mĩ, mang tính giáo dục. - Giáo viên cần hiểu rõ đặc điểm, tính chất, công dụng của những nguyên vật liệu được sử dụng để làm đồ dùng, dụng cụ chơi cho trẻ. - Giáo viên có kĩ năng và trình độ nhất định về trang phục, hóa trang, bày trí sân khấu. Biện pháp 5: Tạo điều kiện cho nhiều trẻ đều được tham gia chơi đóng kịch trong các buổi chơi hằng ngày ở trường mầm non * Mục tiêu, ý nghĩa: Các biện pháp tổ chức TCĐK nhằm phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ chỉ thực đạt hiệu quả cao khi có nhiều trẻ được tham gia chơi đóng kịch. Biện pháp này giúp cho các trẻ đều có cơ hội như nhau để thể hiện mình, nghe nhiều kịch bản, trải nghiệm các vai diễn khác nhau, được tham gia vào các buổi tổ chức chơi đóng kịch...để cùng phát triển lời nói mạch lạc. * Nội dung và cách tiến hành: - Giáo viên chia lớp ra thành 3 – 5 nhóm, tùy theo kịch bản mà phân chia số lượng trẻ trong mỗi nhóm cho hợp lí. - Giáo viên cho các nhóm bầu ra nhóm trưởng và nhận nhiệm vụ về cho nhóm mình. Nhiệm vụ cụ thể như sau: + Nhóm 1: Luyện tập lời thoại + Nhóm 2: Xây dựng sân khấu kịch + Nhóm 3: Chuẩn bị đạo cụ (mặt nạ, trang phục, hóa trang) - Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, giáo viên tổ chức, hỗ trợ trẻ đúng lúc, kịp thời để trẻ duy trì cảm xúc, hứng thú chơi. - Ở buổi chơi khác các nhóm tráo đổi nhiệm vụ cho nhau. Giáo viên cần đảm bảo các trẻ đều được tham gia vào tất cả các hoạt động tổ chức TCĐK * Điều kiện thực hiện: - Tạo cơ hội cho tất cả các trẻ đều được tham gia TCĐK - Môi trường vật chất và tâm lí đầy đủ, an toàn. - Giáo viên động viên, khích lệ trẻ hoàn thành tốt nhiệm vụ của nhóm. Biện pháp 6: Thường xuyên cho trẻ chơi TCĐK tại góc nghệ thuật và tổ chức các buổi giao lưu biểu diễn nghệ thuật kịch vào các buổi chơi hằng ngày của trẻ ở trường mầm non * Mục tiêu, ý nghĩa Thường xuyên chơi TCĐK sẽ hình thành nhu cầu và mong muốn tham gia TCĐK ở trẻ. Cũng qua việc thường xuyên chơi đóng kịch, ngôn từ, lời nói trong kịch bản đã được chau chuốt, chắt lọc về từ ngữ, ngữ pháp, cách tình huống xảy ra và cách giải quyết tình huống đó sẽ đi vào cuộc sống của trẻ một cách tự nhiên nhất. Nhờ các hoạt động cùng nhau trong quá trình tổ chức TCĐK, trẻ học hỏi ở nhau nhiều điều mới mẻ.Từ đó vốn từ, kĩ năng sử dụng từ, kĩ năng giao tiếp, kinh nghiệm sống của trẻ tăng lên nhanh chóng. Biểu diễn trên sân khấu là kết quả cuối cùng của TCĐK. Khi ấy trẻ được trải nghiệm cảm giác trở thành những nghệ sĩ thực sự. Điều này giúp TCĐK trở nên có ý nghĩa hơn với trẻ bởi sau những lần chơi, những lần tập luyện vất vả trẻ được biểu diễn, được các bạn vỗ tay, hò reo, tán thưởng khiến trẻ hào hứng và thích thú với những lần chơi TCĐK sau đó. Về phía các bạn khán giả, khi được xem bạn mình biểu diễn, thấy bạn được làm diễn viên sao thú vị vậy? Từ đó sẽ nảy sinh nhu cầu, mong muốn được chơi TCĐK, được biểu diễn như các bạn đó. Quá trình trao đổi cùng nhau, bàn bạc, thống nhất phương án giải quyết vấn đề cũng như tham gia biểu diễn kịch là điều kiện thuận lợi giúp trẻ phát triển lời nói mạch lạc nói riêng và phát triển toàn diện nhân cách nói chung. * Nội dung và cách tiến hành Trong các buổi chơi của trẻ, giáo viên tích cực tổ chức cho trẻ chơi đóng kịch dưới nhiều hình thức khác nhau. Có thể phân chia các nhóm, mỗi nhóm đảm nhận một công việc nhất định, ví dụ: nhóm đóng vai sẽ tập kịch, nhóm xây dựng sẽ chuẩn bị sân khấu – trang trí sân khấu, nhóm hóa trang sẽ chuẩn bị trang phục, đạo cụ, hóa trang,... Các buổi chơi sau sẽ đổi nhiệm vụ cho các nhóm chơi để đảm bảo tất cả trẻ đều được tham gia vào các hoạt động của TCĐK. Sau khi tập luyện kĩ lưỡng thông qua các buổi chơi hàng ngày, các nhóm trẻ trong lớp hoặc từng nhóm trong các lớp sẽ được thể hiện mình trên sâu khấu. Lúc này trẻ chủ động toàn bộ trên sâu khấu mà không có sự tác động của giáo viên, trẻ biểu diễn như những diễn viên kịch thực sự từ lời nói, điệu bộ, cử chỉ đến việc phối hợp với bạn diễn. Trước khi biểu diễn giáo viên cần bố trí, sắp xếp trang phục, hóa trang, sân khấu, chỗ ngồi cho khán giả... sao cho buổi biểu diễn được diễn ra suôn sẻ. Có thể tổ chức nhiều buổi biểu diễn để các nhóm trẻ có cơ hội được thể hiện sự tiến bộ của mình sau mỗi lần biểu diễn. Cuối cùng sẽ chọn ra nhóm trẻ biểu diễn xuất sắc nhất để biểu diễn trước toàn trường vào các ngày hội, ngày lễ. Sau mỗi buổi biểu diễn, giáo viên tổ chức nhận xét, rút kinh nghiệm. Khuyến khích trẻ và các nhóm trẻ thể hiện tình cảm của mình và đưa ra nhận xét, đóng góp cho từng vai chơi cũng như nhân vật trong TPVH. * Điều kiện thực hiện - Phòng lớp gọn gàng, thoáng mát, an toàn tránh bày quá nhiều đồ chơi không liên quan đến chủ đề giáo dục. - Nếu tổ chức ngoài trời cần chú ý thời tiết, sân chơi thoáng mát, an toàn. - Chuẩn bị chu đáo, đầy đủ đồ dùng, dụng cụ, đồ chơi... cho các góc chơi. - Đồ dùng, đồ chơi, nguyên vật liệu đa dạng, an toàn, dễ sử dụng, màu sắc đẹp mắt, mang tính giáo dục cao. - Tạo tâm lí thoải mái, hào hứng, dân chủ cho trẻ khi tham gia chơi. 3.2. Thực nghiệm 3.2.1. Mục đích TN - Tiến hành TN để xem xét mức độ ảnh hưởng của các biện pháp đã đề xuất đối với việc tổ chức TCĐK cho trẻ 5- 6 tuổi ở trường MN. - Đánh giá hiệu quả thực nghiệm với việc phát triển lời nói mạch lạc của trẻ 5 – 6 tuổi thông qua các bài tập xây dựng (mục 2.3.1), đồng thời kiểm nghiệm tính đúng đắn của giả thuyết khoa học đề ra. 3.2.2. Đối tượng thực nghiệm Chọn 50 cháu lớp MGL 5 – 6 tuổi làm đối tượng TN và chia làm 2 lớp, trong đó: + Lớp TN: Lớp 5 tuổi A, 25 trẻ + Lớp ĐC: Lớp 5 tuổi B, 25 trẻ 3.2.3. Địa bàn, thời gian thực nghiệm - Địa bàn: Trường MN Hoa Hồng, TP Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. - Thời gian: Thực hiện từ tháng 12 năm 2014 đến cuối tháng 4 năm 2015 3.2.4. Điều kiện thực ngiệm Lớp TN và lớp ĐC không có sự chênh lệch quá lớn về: - Trẻ: Trẻ ở lớp TN và ĐC tương đương nhau về độ tuổi, giới tính, nhận thức và mức độ lĩnh hội TPVH. - GV: Giáo viên dạy lớp TN và ĐC có trình độ tương đương (Trình độ cao đẳng, chuyên ngành sư phạm mầm non), có tuổi nghề từ 8 – 14 năm. 3.2.5. Nội dung thực nghiệm Thực nghiệm 6 biện pháp đã đề xuất ở mục 3.1 3.2.6. Tiêu chí và thang đánh giá - Tiêu chí: Được cụ thể thành các bài tập (mục 2.3.1). - Thang đánh giá: Căn cứ vào các bài tập TN, chúng tôi xây dựng mức độ đánh giá của mỗi bài tập như sau: + Mức độ cao: 9 - 10 điểm + Mức độ tương đối cao : 7 - <9 điểm + Mức độ trung bình: 5 - <7 điểm + Mức độ thấp: dưới 5 điểm - Tổng số có 4 bài tập. Số điểm tối đa của mỗi bài tập đánh giá trẻ là 10 điểm. Như vậy, tổng điểm tối đa trẻ đạt được là 40 điểm. - Xếp loại cụ thể: + Tốt: 35 - 40 điểm + Khá: 25 - <35 điểm + Trung bình: 20 - <25 điểm + Yếu: <20 điểm 3.2.7. Quy trình tổ chức thực nghiệm - Giai đoạn 1: Thực nghiệm điều tra Kiểm tra mức độ phát triển ngôn ngữ mạch lạc ở 2 nhóm TN và ĐC trước khi tiến hành TN tác động theo các bài tập đã xây dựng thực hiện với chủ đề Thế giới động vật (Phụ lục). - Giai đoạn 2: Thực nghiệm tác động Ở nhóm TN, chúng tôi bồi dưỡng cơ sở lý luận cần thiết cho GV và hướng dẫn GV tiến hành tổ chức TCĐK theo các biện pháp đã đề ra (mục 3.1) Nhóm ĐC thì vẫn dạy theo cách thức thông thường. Tiếp tục sử dụng các bài tập đã xây dựng với các chủ đề Thế giới động vật, Thế giới thực vật, nhằm đánh giá sự phát triển lời nói mạch lạc của trẻ sau khi tiến hành các biện pháp TN tác động (Phụ lục). Xử lý, phân tích, so sánh, tổng hợp số liệu thu được để đánh giá hiệu quả của các biện pháp GD đã đề ra đối với việc phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ. 3.2.8. Chuẩn bị cho thực nghiệm 3.2.8.1. Hướng dẫn giáo viên - Hướng dẫn GV về mục đích, nội dung, cách thức tiến hành TN theo hướng nghiên cứu của đề tài và chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc tổ chức chương trình TN. - Hướng dẫn cách thức đánh giá mức độ phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ qua hệ thống bài tập và cách thực hiện kế hoạch tổ chức quá trình TN. 3.2.8.2. Cách lấy số liệu và kỹ thuật đo * Cách lấy số liệu: Được tiến hành qua các bước sau: Bước 1: Hướng dẫn GV của lớp TN nắm được cách tiến hành TN đồng thời ghi lại kết quả thực hiện các bài khảo sát của trẻ. Bước 2: Tiến hành đo trước TN ở cả hai nhóm TN và ĐC tại cùng một thời điểm với nội dung bài tập như nhau. Bước 3: Tổ chức trò chơi đóng kịch ở nhóm TN theo các biện pháp đã đề xuất. Ở nhóm ĐC tổ chức trò chơi đóng kịch theo cách thức thông thường. Bước 4: Tiến hành đo sau TN ở cả hai nhóm TN và ĐC cũng tại cùng một thời điểm với nội dung như nhau. Sau khi đo xong, tiến hành phân tích và tổng hợp các số liệu thu được từ TN và xếp loại mức độ phát triển lời nói mạch lạc của trẻ. Bước 5: Tiến hành kiểm tra tính khách quan của số liệu thu được bằng toán thống kê. * Phương pháp xử lý số liệu thực nghiệm. Về mặt định tính: Chúng tôi tiến hành phân tích, mô tả, nhận xét, đánh giá mức độ phát triển lời nói mạch lạc của trẻ trong điều kiện TN theo các bài tập đánh giá đã được xây dựng. Về mặt định lượng: Chúng tôi thu thập kết quả TN bằng các công thức toán thống kê kết hợp sử dụng phần mềm tin học Excel như: Tính điểm tổng, giá trị trung bình cộng, độ lệch chuẩn, so sánh sự khác biệt giữa kết quả của nhóm TN và nhóm ĐC. Để đánh giá hiệu quả của thực nghiệm tác động, chúng tôi tiến hành so sánh kết quả trước và sau thực nghiệm của nhóm thực nghiệm và đối chứng; so sánh kết quả đạt được sau tác động của nhóm trẻ thực nghiệm với trước khi tác động. Nếu kết quả nhóm thực nghiệm sau tác động sư phạm tốt hơn so với trước tác động và so với nhóm đối chứng, chúng tôi tiến hành kiểm nghiệm bằng giá trị thống kê t để đảm bảo tính khách quan, khoa học. Dùng bảng Student với = 0,05 để tìm tα. Nếu t > tα có thể kết luận: Việc áp dụng các biện pháp tổ chức TCĐK do chúng tôi đưa ra nhằm phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5 - 6 tuổi là có hiệu quả. Còn nếu t tα thì sự khác nhau giữa hai nhóm không có ý nghĩa chứng tỏ việc áp dụng các biện pháp do chúng tôi đưa ra là không có hiệu quả. 3.3. Kết quả thực nghiệm 3.3.1. Kết quả kiểm tra trước thực nghiệm Trong chương trình TN khảo sát, chúng tôi sử dụng hệ thống bài tập đã xây dựng ở chương 2 (Phụ lục), áp dụng với chủ đề Động vật để kiểm tra mức độ phát triển lời nói mạch lạc ở cả hai nhóm TN và ĐC: Bài tập 1: Nói nhanh theo hình Mục đích: Để đo vốn từ cơ bản của trẻ Nội dung: Có 25 hình ảnh là các con vật trong chủ đề TGĐV, trẻ gọi tên đưa ra 1 đặc điểm (hành động hoặc bản chất) của đối tượng có trong hình. Bài tập 2: Đặt câu với từ cho sẵn Mục đích: Kiểm tra kĩ năng sử dụng từ trong lời nói, cấu trúc ngữ pháp và ngữ âm của trẻ. Nội dung: Trẻ nói được câu hoàn chỉnh với các từ sau: con chim, bơi, sư tử, gia đình, rực rỡ. Bài tập 3: Dựng truyện theo tranh Mục đích: Kiểm tra ở trẻ vốn từ vựng, kĩ năng sử dụng lời nói, khả năng diễn đạt lôgic, mạch lạc, biểu cảm. Nội dung: Có 4 bức tranh kể về cuộc chơi trốn tìm của 2 bạn Nai và Thỏ. Trẻ phải dựng truyện theo diễn biễn có trong mỗi bức tranh. (Tranh ở phần phụ lục) Bài tập 4: Nói theo tranh tự chọn Mục đích: Kiểm tra ở trẻ vốn từ vựng, kĩ năng sử dụng từ trong lời nói, kĩ năng trình bày có biểu cảm, có trình tự có lô gic một nội dung nhất định, khả năng nói cho người khác hiểu và hiểu lời người khác nói. Nội dung: Trẻ lựa chọn 1 hình bất kì có trong 25 hình đã kiểm tra về vốn từ cơ bản ở bài tập 1 và trình bày về bức hình đã chọn. Sau khi trẻ nói xong, cô và các bạn sẽ đặt ra các câu hỏi để hỏi thêm. Sau khi tiến hành các bài tập trên, chúng tôi thu được kết quả cụ thể ở hai nhóm như sau: Bảng 3.1. Mức độ sử dụng lời nói mạch lạc của nhóm TN và ĐC trước TN Lớp TS Xếp loại () (∂) Tốt Khá Trung bình Yếu SL % SL % SL % SL % ĐC 25 1 4 5 20 11 44 8 32 20,36 6,42 TN 25 1 4 6 24 10 40 8 32 19,32 6,77 Từ kết quả thu được ở bảng 3.1, chúng tôi lập biểu đồ so sánh mức độ phát triển lời nói mạch lạc của hai nhóm trẻ Biểu đồ 3.1. So sánh mức độ phát triển lời nói mạch lạc của trẻ nhóm ĐC và nhóm TN trước TN (Tính theo %) Sau khi tiến hành TN khảo sát và phân tích số liệu thu được, chúng tôi nhận thấy mức độ phát triển lời nói mạch lạc của trẻ cả hai nhóm ĐC và TN là thấp, trẻ chủ yếu đạt mức độ TB và yếu ở cả bốn bài tập. Cụ thể như sau: - Về việc xếp loại kết quả theo mức độ điểm của trẻ: Số lượng trẻ có mức độ phát triển lời nói mạch lạc “Tốt” ở 2 nhóm chỉ có 4%; loại “Khá” nhóm ĐC chiếm 20%, nhóm TN chiếm 24%; loại “Trung bình” nhóm ĐC chiếm 44%, nhóm TN chiếm 40% và loại “Yếu” ở cả 2 nhóm chiếm đến 32%. Nhìn chung, sự chênh lệch là không đáng kể. - Điểm trung bình chung (): nhóm ĐC có là 20,36 và nhóm TN là 19,32. Điểm trung bình của nhóm ĐC cao hơn nhóm TN 1,04 điểm. Do vậy, điểm số trung bình cộng của hai nhóm có thể coi là tương đương nhau đều xấp xỉ mức trung bình theo thang đánh giá mà chúng tôi xây dựng. Ở bài tập 1, nhìn chung trẻ gọi tên được các con vật nhưng rất ít trẻ miêu tả được đặc điểm của các con vật trong bộ hình mà chúng tôi đưa ra. Với bài tập 2, trẻ cần phải đặt câu với từ cho trước: con chim, bơi, sư tử, gia đình, rực rỡ....Tuy nhiên trẻ chủ yếu lặp lại các câu đơn đánh giá tính cách của một số con vật: Con chim biết bay, sư tử hung dữ, con cá bơi dưới nước, bông hoa rực rỡ... hoặc có trẻ còn lúng túng, ngượng ngùng khi cô giáo đưa ra yêu cầu đặt câu. Kết quả thực hiện bài tập 3 và 4 hạn chế hơn nhiều, đa số trẻ chỉ gọi tên nhân vật, con vật yêu thích mà không thể dựng lại câu chuyện theo tranh hoặc giới thiệu mạch lạc về đề tài con vật trẻ yêu thích. - Độ lệch chuẩn (∂) của nhóm TN và nhóm ĐC có sự khác biệt không đáng kể: ∂2 = 6,42 và ∂1 = 6,77. Tỷ lệ chênh lệch 0,35. - Giá trị kiểm định: Dùng bảng phân phối T-student ứng với α = 0,05 ta có: tα = 1,708. Trong khi đó, t = 0,55. So t với tα, ta thấy rằng: t < tα nên khác biệt ở nhóm TN và nhóm ĐC trước TN là không có ý nghĩa hay nói cách khác là không có sự khác biệt, kết quả các bài tập đo khả năng mạch lạc trong lời nói của trẻ hai nhóm gần như nhau. Đa số trẻ chưa sử dụng được nhiều câu ghép, câu mở rộng khi giao tiếp hoặc hoàn thành theo yêu cầu của bài tập Như vậy, trình độ của hai nhóm là tương đương nhau, giữa các trẻ trong mỗi nhóm có sự chênh lệch điểm số khá cao. Một số trẻ như Ngọc Ánh, Gia Khánh, Thùy Lâm cao trội hẳn so với các trẻ khác và cao tương đối đồng đều khi thực hiện các bài tập đo về vốn từ, khả năng sử dụng từ, đặc biệt là kĩ năng giao tiếp của những trẻ này nổi bật, rất mạnh dạn, tự tin.... Bên cạnh đó các cháu Mạnh Hùng, Ngọc Khanh, Tấn Minh, Anh Ngọc, Ngọc Yến (Nhóm TN) và Quang Lâm, Ngọc Ninh, Hà Lan (Nhóm ĐC)... lại có điểm số rất thấp. Mỗi nhóm chỉ có một vài trẻ đạt kết quả cao (nhóm TN có Ngọc Ánh; nhóm ĐC có Gia Khánh, Thùy Lâm), số trẻ có điểm thấp chiếm tỷ lệ nhiều hơn, mỗi nhóm có 8 cháu loại yếu, những trẻ này theo quan sát của chúng tôi thường rất ngại ngùng khi giao tiếp. Có thể nói, khả năng phát triển lời nói mạch lạc của trẻ không đồng đều tạo nên sự chênh lệch lớn về điểm số. Kết quả trên cho thấy việc chọn mẫu TN của chúng tôi là khách quan. Hai nhóm có kết quả tương đương nhau. Đây là cơ sở để tạo nên sự chính xác của các phép đo trong thực nghiệm 3.3.2. Kết quả kiểm tra sau thực nghiệm Ngay sau khi kết thúc đợt TN kiểm tra, chúng tôi tiến hành thực hiện một loạt các biện pháp đã đề xuất để tổ chức TCĐK cũng như phối kết hợp với một số HĐ giáo dục khác diễn ra trong thời gian thực hiện các chủ đề: Thế giới động vật, Thế giới thực vật đối với lớp TN. Chúng tôi tiếp tục sử dụng hệ thống bài tập đã xây dựng ở trên thêm vào đó là hệ thống bài tập với chủ đề Thế giới thực vật để kiểm tra khả năng sử dụng lời nói mạch lạc ở trẻ cả hai nhóm như sau: Bài tập 1: Nói nhanh theo hình Mục đích: Để đo vốn từ cơ bản của trẻ Nội dung: Có 25 hình ảnh là các loại hoa, cây, rau, củ, quả trong chủ đề TGTV, trẻ gọi tên và đưa ra 1 đặc điểm của đối tượng có trong hình. Bài tập 2: Đặt câu với từ cho sẵn Mục đích: Kiểm tra kĩ năng sử dụng từ trong lời nói, cấu trúc ngữ pháp và ngữ âm của trẻ. Nội dung: Trẻ nói được câu hoàn chỉnh với các từ sau: hoa hồng, màu tím, bay, mùa hè, rung rinh. Bài tập 3: Dựng truyện theo tranh Mục đích: Kiểm tra ở trẻ vốn từ vựng, kĩ năng sử dụng lời nói, khả năng diễn đạt lôgic, mạch lạc, biểu cảm. Nội dung: Có 4 bức tranh kể về buổi dọn vườn và trồng rau của 2 bạn Mi và Nô. Trẻ phải dựng truyện theo diễn biễn có trong mỗi bức tranh. (Tranh ở phần phụ lục) Bài tập 4: Nói theo tranh tự chọn Mục đích: Kiểm tra ở trẻ vốn từ vựng, kĩ năng sử dụng từ trong lời nói, kĩ năng trình bày có biểu cảm, có trình tự có lô gic một nội dung nhất định, khả năng nói cho người khác hiểu và hiểu lời người khác nói. Nội dung: Trẻ lựa chọn 1 hình bất kì có trong 25 hình đã kiểm tra về vốn từ cơ bản ở bài tập 1 và trình bày về bức hình đã chọn. Sau khi trẻ nói xong, cô và các bạn sẽ đặt ra các câu hỏi để hỏi thêm. Kết quả các bài tập đánh giá sự phát triển lời nói mạch lạc của trẻ sau thực nghiệm như sau: Bảng 3.2. Mức độ sử dụng lời nói mạch lạc của nhóm TN và ĐC sau TN Lớp TS Xếp loại () (∂) Tốt Khá Trung bình Yếu SL % SL % SL % SL % ĐC 25 2 8 7 28 11 44 5 20 24,56 6,83 TN 25 6 24 8 32 9 36 2 8 28,72 6,23 Căn cứ vào kết quả phân tích số liệu trên chúng tôi lập biểu đồ so sánh Biểu đồ 3.2. So sánh mức độ phát triển lời nói mạch lạc của trẻ nhóm ĐC và nhóm TN sau TN (Tính theo%) Nhìn vào biểu đồ so sánh mức độ phát triển lời nói mạch lạc của hai nhóm chúng ta thấy đã có sự khác biệt. Cụ thể nhưa sau: + Loại tốt: nhóm TN có 6/25 trẻ chiếm tỷ lệ 24% ; nhóm ĐC có 2 trẻ chiếm tỷ lệ là 8%. Tỷ lệ chênh lệch là 16%, nhóm TN đạt kết quả cao hơn. Dựa vào phiếu điểm đánh giá cũng như quá trình làm việc với trẻ, chúng tôi nhận thấy số trẻ nhóm TN có khả năng sử dụng lời nói mạch lạc tốt, trẻ có vốn từ tốt, khả năng diễn đạt lưu loát, tự tin, chủ động trong giao tiếp. Phần lớn trẻ nhóm TN đọc chính xác tên của các đối tượng trong hình, nêu được các đặc điểm nổi bật theo yêu cầu bài tập 1. Ở bài tập 2, trẻ đặt các câu đều đúng cấu trúc ngữ pháp, loại câu cũng khá phong phú VD: Với từ hoa hồng, Ngọc Ánh đã nhanh chóng chỉ ra: Con thưa cô, hoa hồng có màu đỏ, nhiều cánh, thân nó có nhiều gai sắc và nhọn... bạn Minh Anh thì đặt câu: Ôi Hoa hồng, một loài hoa tôi vô cùng yêu thích. Nó không những đẹp mà còn rất thơm nữa, bạn Hà Chi đặt câu ngắn gọn nhưng đã thể hiện được tình cảm của mình đối với loài hoa mà bạn yêu thích: Vì Hoa hồng đẹp nên con rất thích nó. Với bài tập 3, 4 nhóm các bạn này đều đạt những yêu cầu đưa ra và trình bày rất lôgic những gì trẻ thích, cũng như nhanh chóng tìm ra câu trả lời khi GV và các bạn trong lớp hỏi. Bảo Khanh đã nói về bức hình hoa hoa cúc mà bạn chọn như sau: Con thưa cô và các bạn, con tên là Nguyễn Bảo Khanh, con rất thích hoa cúc, đặc biệt là những bông hoa cúc màu trắng vì nó không những đẹp mà còn là bông hoa tượng trưng cho lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ...Khi được các bạn hỏi: Vì sao bạn biết hoa cúc trắng là bông hoa của lòng hiếu thảo? Bảo Khanh đã tự tin giải thích: Lớp mình đã được nghe cô giáo kể chuyện Bông hoa cúc trắng rồi. Từ sau khi nghe câu chuyện ấy tớ biết đó là bông hoa của lòng hiếu thảo và tớ rất thích hoa cúc trắng. Trẻ được tham gia vào rất nhiều hoạt động chúng tôi tổ chức: Đóng kịch và thay nhau diễn kịch trong các buổi hoạt động vui chơi theo góc với nhiều hình thức: Biểu diễn, thi đua giữa các đoàn kịch...; tổ chức hội thi với quy mô giữa các khối lớp; Công diễn kịch với sân khấu ngoài trời...Bởi vậy trẻ mạnh dạn, tự tin lên rất nhiều trong giao tiếp với cô và các bạn. + Loại khá: nhóm TN có 8/25 trẻ chiếm tỷ lệ 32% ; nhóm ĐC có 7 trẻ chiếm tỷ lệ là 28%, nhóm TN đạt kết quả cao hơn nhóm ĐC (4%). Trẻ thông thường rất thích tham gia vào hoạt động vui chơi, đặc biệt thích tham gia vào các hoạt động biểu diễn nghệ thuật với hình thức đóng vai diễn kịch. Chẳng hạn như bạn Mạnh Chiến, bình thường bạn rất kiệm lời, không thân thiện với các bạn trong lớp. Sau khi tham gia đóng kịch “Hoa mào gà” bạn tỏ vẻ thích thú với nhân vật cái cây bên bể nước. Mạnh Chiến nói “con thích đóng là cái cây bên bể nước. Ngoài việc được bạn gà an ủi và nhường chiếc mào đỏ chót, con còn được đứng cạnh rất nhiều bông hoa đẹp khác nữa.” Bạn Mạnh Chiến nói thêm “con quí bạn Hùng Mạnh vì bạn ấy là chú gà mái tốt bụng đã nhường chiếc mào cho con”. Việc tổ chức cho trẻ chơi TCĐK không những giúp lời nói mạch lạc của trẻ phát triển mà còn tạo điều kiện cho trẻ bộc lộ cảm xúc chân thực của mình, giúp cho tình bạn của trẻ trở nên khăng khít, gắn bó hơn. Ở lớp ĐC, số trẻ đạt mức độ khá không chênh lệch nhiều so với nhóm TN, trẻ thực hiện các bài tập đều ở mức khá, thậm chí các bài tập đánh giá vốn từ, sử dụng từ, đặt câu hay dựng truyện theo tranh trẻ đều thực hiện khá tốt. Mạnh Chiến từ cậu bé ít nói trở nên tự tin khi nói về bức tranh mình chọn ở bài tập đánh giá số 3: “Quả khế có 5 múi, có vị chua và dùng để nấu canh cua rất ngon” khi nghe cô giáo hỏi “sao con biết khế nấu canh cua rất ngon?”, Mạnh Chiến trả lời “vì ở nhà mẹ con nấu canh cua với khế, con ăn thấy ngon lắm ạ!” + Loại trung bình: nhóm TN có 9/25 trẻ chiếm tỷ lệ 36% ; nhóm ĐC có 11 trẻ chiếm tỷ lệ là 44%, nhóm ĐC có nhiều trẻ xếp loại TB hơn nhóm TN (8%). Trong số các bài tập trẻ hoàn thành, trẻ chủ yếu thực hiện được các bài tập 1,2 hoặc có những trẻ có thể kể lại chuyện được nghe, hoặc nói được các sự kiện diễn ra trong tranh nhưng chưa thể gắn kết thành nội dung câu chuyện được nghe. VD: Khi nhìn vào những bức tranh cô đưa ra trẻ tỏ ra thích thú, tuy nhiên khi yêu cầu trẻ dựng truyện, nhóm trẻ đạt mức TB thường chờ đợi vào sự gợi ý của cô và các bạn. Nhiều trẻ khi giới thiệu về bản thân tác phong chưa chững chạc, nói trước các bạn chưa lưu loát (Đức Minh, Minh Ánh, Hoàng Dũng, Trung Minh, Tố Uyên... (nhóm ĐC) và Thu Hương, Thu Huyền, Gia Khánh (nhóm TN)) + Loại yếu: nhóm TN có 2/25 trẻ chiếm tỷ lệ 8% ; nhóm ĐC có 5 trẻ chiếm tỷ lệ là 20%. Tỷ lệ chênh lệch là 12%, nhóm ĐC có nhiều trẻ xếp loại yếu hơn nhóm TN. Mặc dù điểm số trong từng bài tập có sự tăng lên đáng kể nhưng việc sắp xếp tranh dựng truyện cũng như chọn chủ đề hoặc nhân vật để giới thiệu trước lớp thực sự là nhiệm vụ khó khăn với trẻ. Với những cháu xếp loại yếu, trẻ thường chưa xâu chuỗi, sắp xếp được các nội dung diễn đạt theo chủ đề. Trẻ thường ngại ngùng, bối rối khi thực hiện các bài tập. Đặc biệt là nhóm ĐC, do các cháu rất ít khi được tổ chức đóng kịch biểu diễn trước lớp vào các buổi vui chơi hoặc biểu diễn trên sân khấu... nên rất nhiều trẻ chưa có sự mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp (Mạnh Hùng, Yến Vi (Nhóm TN) và Quang Lâm, Trung Kiên, Ngọc Ninh, Phương Nga, Minh Thư... (Nhóm ĐC)) Phân tích bảng số liệu 3.2 chúng ta có thể thấy rằng: số trẻ có biểu hiện lời nói mạch lạc ở mức độ tốt và yếu ở nhóm TN và nhóm ĐC có tỷ lệ chênh điểm cao hơn, trong đó loại giỏi tập trung nhiều hơn trong nhóm TN, loại yếu tập trung nhiều hơn trong nhóm ĐC. Loại khá ở nhóm TN cao hơn nhóm ĐC. Loại trung bình ở nhóm TN giảm rõ rệt. Những số liệu trên cho thấy sau thời gian thực nghiệm các biện pháp tổ chức TCĐK cho trẻ 5-6 tuổi, sự phát triển lời nói mạch lạc của trẻ nhóm TN cao hơn so với nhóm ĐC. Qua thời gian làm việc với trẻ trong 2 chủ đề, chúng tôi nhận thấy các cháu trong nhóm TN tích cực, hứng thú chủ động tham gia các hoạt động luyện tập kịch, đóng kịch và đổi vai biểu diễn. Trẻ rất hào hứng cùng cô chuẩn bị trang phục, đạo cụ...và nêu ra ý tưởng mới khi luyện tập các vai diễn... Tất cả các hoạt động đó góp phần tạo nên cho trẻ sự mạnh dạn, tự tin cũng như tích cực sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp và khả năng phát triển lời nói mạch lạc của trẻ có sự tiến bộ rõ rệt. Như vậy có thể thấy những biện pháp chúng tôi xây dựng và tổ chức được trẻ đón nhận và có tác động tích cực đến trẻ. - Nhận xét theo giá trị trung bình (): Thực nghiệm tác động đã giúp cho trẻ phát triển lời nói mạch lạc tốt hơn. Điểm trung bình của nhóm TN là 28,72 tương ứng với mức khá trong thang đánh giá; nhóm ĐC là 24,56 thuộc mức trung bình song cũng gần đạt mức khá theo thang đánh giá mà chúng tôi xây dựng. Giá trị trung bình của nhóm TN cao hơn nhóm ĐC 4,16 điểm, số điểm tuy nhỏ song phần nào thể hiện được hiệu quả tác động của các biện pháp mà chúng tôi sử dụng trong TN. - Theo độ lệch chuẩn: Độ lệch chuẩn ∂1 = 6,23; ∂2 = 6,83 điểm. Điều này cho thấy độ phân tán kết quả điểm số ở nhóm ĐC cao hơn nhóm TN. Như vậy, sau TN tác động, điểm số của trẻ nhóm TN đồng đều hơn so với nhóm ĐC. Hay nói cách khác mức độ phát triển lời nói mạch lạc của trẻ ở nhóm TN sau thời gian tác động các biện pháp (sau TN) là tương đối đồng đều, trẻ đạt mức độ tốt, khá cao, chỉ có 2 trẻ ở mức độ yếu. Điều đó cũng có nghĩa là những biện pháp đề ra đã tác động phù hợp với trẻ. - Để làm rõ hơn kết quả sau đợt TN tác động cũng như sự phát triển lời nói mạch lạc của trẻ, chúng tôi tiến hành so sánh kết quả điểm trung bình của từng nhóm bài tập. Kết quả thu được như sau: Bảng 3.3. So sánh điểm trung bình () của trẻ nhóm TN và ĐC qua kết quả thực hiện các bài tập sau TN Nhóm BT1 BT2 BT3 BT4 ĐC 6,84 6,32 6,48 5,08 TN 7,88 7,68 6,84 6,16 Biểu đồ 3.3. So sánh mức độ phát triển lời nói mạch lạc của nhóm TN và ĐC sau thực nghiệm (Theo ) Theo số liệu của bảng 3.3 và biểu 3.3, kết quả thực hiện các bài tập được đánh giá (theo ) của nhóm ĐC và nhóm TN có sự chênh lệch đáng kể, điểm trung bình chung của tất cả các bài tập của nhóm TN cao hơn nhóm ĐC. - Để đảm bảo tính khách quan, khoa học những kết quả phân tích ở trên, chúng tôi tiến hành kiểm nghiệm bằng giá trị thống kê T nhằm đánh giá hiệu quả của thực nghiệm tác động Bảng 3.4. Kiểm định hiệu quả TN ở nhóm TN và nhóm ĐC sau TN Chỉ số Nhóm ∂ T (n=25) Tα (α= 0,05) ĐC 24,56 6,83 2,259 1,708 TN 28,72 6,23 Dùng bảng phân phối T-student ứng với α = 0,05 ta có: tα = 1,708 < t = 2,259 So t với tα, ta thấy rằng: t > tα và lớn hơn 0,551 nên khác biệt về điểm số ở nhóm TN và nhóm ĐC sau TN là có ý nghĩa (với độ tin cậy 95%) hay nói cách khác là có sự khác biệt, nhóm TN đã có kết quả cao hơn, khả năng phát triển lời nói mạch lạc thể hiện ở các mức độ cao hơn: vốn từ phong phú hơn, có khả năng kể chuyện, dựng truyện theo tranh và đặc biệt là khả năng giao tiếp tự tin, mạnh dạn hơn nhóm ĐC. Như vậy, chúng tôi có thể kết luận, nếu được tác động bởi các biện pháp mà đề tài đã đề xuất nhóm TN có kết quả cao hơn so với nhóm ĐC. Điều này chứng tỏ rằng những tác động của việc sử dụng các biện pháp chúng tôi đề xuất đã đạt được những kết quả nhất định, việc áp dụng các biện pháp tổ chức TCĐK nhằm phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5-6 tuổi là có hiệu quả. 3.3.3. Đánh giá chung về sự phát triển lời nói mạch lạc của trẻ trước và sau TN Bảng 3.5. Xếp loại khả năng phát triển lời nói mạch lạc của trẻ trước và sau TN Nhóm trẻ Xếp loại ∂ Tốt Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL % ĐC TTN 1 4 5 20 11 44 8 32 20,36 6,42 STN 2 8 7 28 11 44 5 20 24,56 6,83 TN TTN 1 4 6 24 10 40 8 32 19,32 6,77 STN 6 24 8 32 9 36 2 8 28,72 6,23 Biểu đồ 3.4. So sánh khả năng phát triển ngôn ngữ mạc lạc của trẻ trước và sau TN (theo %) Bảng 3.5 và biểu 3.4 cho thấy: Sau khi tiến hành TN, khả năng phát triển lời nói mạch lạc của trẻ nhóm ĐC và nhóm TN đều có sự tiến bộ hơn so với trước, nhưng nhóm TN đã tiến bộ hơn: - Loại tốt của nhóm ĐC và nhóm TN trước TN đều bằng nhau là 4%; loại yếu của 2 nhóm này trước TN cũng bằng nhau là 32%. Sau TN, nhóm ĐC tăng là 8% tốt và chỉ còn 20% yếu; nhóm TN tăng là 24% tốt và chỉ còn 8% yếu. - Loại khá: nhóm ĐC trước TN là 20% còn nhóm TN là 24%; sau TN thì nhóm ĐC tăng là 28% còn nhóm TN tăng là 32%. - Loại TB: nhóm ĐC có kết quả giữ nguyên là 44% nhưng điểm thành phần của từng bài tập trong các tiêu chí của trẻ có tăng lên rõ rệt, số trẻ đạt mức điểm cận trên của mỗi thang điểm tăng nhiều hơn; còn nhóm TN sau TN giảm 4% trẻ TB so với trước TN. Kết luận chương 3 Luận văn đã đề xuất được 6 số biện pháp tổ chức TCĐK nhằm phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5 – 6 tuổi ở trường mầm non. Kết quả thực nghiệm một số biện pháp tổ chức TCĐK nhằm phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5 – 6 tuổi ở trường mầm non Hoa Hồng và trường mầm non Hoa Phượng thành phố Bắc Ninh cho thấy: Trước TN, mức độ biểu hiện lời nói mạch lạc 5 - 6 tuổi ở cả hai nhóm TN và ĐC là tương đương nhau, trong đó tập trung chủ yếu ở mức trung bình, số trẻ ở mức độ yếu vẫn chiếm một tỷ lệ đáng kể. Độ lệch chuẩn còn cao và điểm số ở các trẻ không đồng đều. Sau TN, mức độ biểu hiện lời nói mạch lạc của trẻ thuộc nhóm TN cao hơn hẳn so với trước TN và cao hơn so với nhóm ĐC, trong đó tập trung nhiều ở mức độ tốt, khá, mức độ yếu giảm đi. Độ lệch chuẩn giảm đi và điểm số ở các trẻ đồng đều hơn. Kiểm định sự khác biệt về sự phát triển lời nói mạch lạc sau TN giữa nhóm ĐC và nhóm TN chúng tôi thấy sự khác biệt này là có ý nghĩa thống kê (|t|= 2,259 > t= 1,708). Điều đó có nghĩa là những biện pháp tổ chức TCĐK mà chúng tôi đề xuất tác động tốt đến sự phát triển lời nói mạch lạc của trẻ. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Lời nói mạch lạc đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc phát triển toàn diện nhân cách trẻ. Vì thế, phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo là một việc làm cần thiết đòi hỏi phải xem đây như là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong chương trình GDMN hiện nay. TCĐK là trò chơi đóng vai theo TPVH của trẻ mẫu giáo ở trường MN. TCĐK mang tính nghệ thuật cao nhưng vẫn là trò chơi của trẻ nên nó mang đầy đủ những tính chất của trò chơi là trẻ được vui vẻ, thoải mái thể hiện cảm xúc chân thực mà trẻ cảm nhận từ TPVH. TCĐK giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, là một trong những con đường thuận lợi để phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5 - 6 tuổi. Vì vậy giáo viên cần có những biện pháp phù hợp nhằm phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ, chuẩn bị hành trang bước vào học lớp 1. Kết quả điều tra thực trạng tại một số trường mầm non trên địa bàn thành phố Bắc Ninh cho thấy: phần lớn số giáo viên đều nhận thức được sự cần thiết phải phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5 - 6 tuổi. Họ cũng cho rằng TCĐK là hình thức giáo dục có hiệu quả phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non. Tuy nhiên, giáo viên vẫn chưa tận dụng hết được những ưu thế của TCĐK trong việc phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ. Thực trạng mức độ biểu hiện lời nói mạch lạc của trẻ tập trung ở mức TB và yếu còn nhiều. Trong quá trình hoạt động cũng như trong khi chơi TCĐK, trẻ chưa biết cách diễn đạt lưu loát, tự tin một vấn đề do vốn từ và khả năng sử dụng từ trong lời nói còn hạn chế. Bên cạnh đó trẻ chưa thể hiện được sự mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp với bạn, không chủ động bàn bạc, chia sẻ với bạn qua cả quan hệ thực lẫn quan hệ chơi. Một trong những nguyên nhân là do giáo viên chưa biết tận dụng TCĐK làm phương tiện để phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ và họ thực sự còn khó khăn trong việc lựa chọn, tìm kiếm các biện pháp tổ chức TCĐK nhằm phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ. Trên cơ sở lí luận và thực tiễn, luận văn đã xây dựng được một số biện pháp tổ chức TCĐK nhằm phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5 – 6 tuổi: Biện pháp 1: Lựa chọn kịch bản từ nhiều nguồn khác nhau (trong tuyển tập truyện cổ tích, trên mạng Internet, trong chương trình GDMN, cô tự chuyển thể...) có nội dung hấp dẫn, phù hợp với nhận thức của trẻ Biện pháp 2: Khuyến khích trẻ kể lại nội dung truyện và khắc họa tính cách nhân vật bằng lời nói Biện pháp 3: Tăng cường luyện tập lời thoại thông qua các vai chơi khác nhau trong kịch bản Biện pháp 4: Tạo điều kiện, cơ hội cho trẻ trao đổi, bàn bạc, đưa ra ý tưởng, cách xây dựng, trang trí sân khấu, chuẩn bị đạo cụ, trang phục, hóa trang Biện pháp 5: Tạo điều kiện cho nhiều trẻ đều được tham gia chơi đóng kịch trong các buổi chơi hằng ngày ở trường mầm non Biện pháp 6: Thường xuyên cho trẻ chơi TCĐK tại góc nghệ thuật và tổ chức các buổi giao lưu biểu diễn nghệ thuật kịch vào các buổi chơi hằng ngày của trẻ ở trường mầm non Thực nghiệm các biện pháp giáo dục đã đề xuất cho thấy, trẻ ở nhóm thực nghiệm có biểu hiện lời nói mạch lạc cao hơn hẳn nhóm đối chứng. Vốn từ của trẻ tăng lên, hầu hết trẻ nói câu đúng cấu trúc ngữ phápkhả năng sử dụng từ trong lời nói cũng linh hoạt và chính xác hơn, trẻ tự tin nói lôgic, liền mạch biểu cảm... Kết quả TN khẳng định độ tin cậy, tính khả thi và hiệu quả của biện pháp tổ chức TCĐK nhằm phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5 – 6 tuổi ở trường MN đã được xây dựng trong luận văn. 2. Kiến nghị Để việc tổ chức TCĐK nhằm phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5 – 6 tuổi ở trường mầm non mang lại hiệu quả cao hơn luận văn đưa ra một số kiến nghị sau: * Đối với các cấp quản lý giáo dục MN - Cần đưa vấn đề phát triển lời nói mạch lạc vào nội dung trọng tâm của chương trình giáo dục trẻ và triển khai cụ thể vấn đề này trong thực tiễn. - Biên soạn và hỗ trợ tài liệu hướng dẫn thực hiện nội dung phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ ở các trường MN. - Tổ chức tham quan học tập, chia sẻ kinh nghiệm việc quản lý và thực hiện chương trình giáo dục MN với các trường MN trên toàn quốc. - Đổi mới trong cách quản lý, cách kiểm tra đánh giá. Đồng thời tạo điều kiện và khuyến khích giáo viên được bộc lộ sự sáng tạo của mình trong tổ chức TCĐK cho trẻ mẫu giáo. * Đối với trường MN - Thường xuyên tổ chức các chuyên đề, các buổi trao đổi kinh nghiệm giữa các giáo viên, giữa các lớp trong trường về vấn đề phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo trong TCĐK. - Khuyến khích và phát động giáo viên viết sáng kiến kinh nghiệm về việc tổ chức TCĐK nhằm phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ 5 – 6 tuổi ở trường MN. - Phối hợp với các ban ngành, đoàn hội để bổ sung cơ sở vật chất cho các lớp học. Tăng cường việc chỉ đạo GV tận dụng các khoảng không gian ngoài lớp học để có thể tổ chức những hoạt động biểu diễn nghệ thuật tập thể. - Tuyên truyền với phụ huynh để họ hiểu và thống nhất phối hợp với nhà trường trong việc phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ. * Đối với giáo viên MN - Giáo viên mầm non phải thực sự yêu nghề, mến trẻ, tôn trọng nhân cách của trẻ. - Giáo viên cần nhận thức sâu sắc hơn nữa về tầm quan trọng của việc phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ ở trường MN trong giai đoạn hiện nay. + Giáo viên cần được bồi dưỡng thông qua các buổi thảo luận, chuyên đề, chia sẻ kinh nghiệm về nội dung, hình thức và biện pháp phát triển lời nói mạch lạc trong trường MN một cách cụ thể. + Giáo viên cần tích cực trong việc tận dụng, khai thác các điều kiện môi trường, các tình huống nhằm cho trẻ có cơ hội đưa ra ý kiến của mình nhằm phát triển lời nói mạch lạc đạt hiệu quả. + Cần sử dụng các biện pháp một cách linh hoạt, sử dụng đúng mục đích, kích thích được tính tích cực của trẻ trong hoạt động giáo dục. Qua đó, giáo viên nắm bắt được khả năng và sự phát triển của trẻ để từ đó có những kế hoạch giáo dục tiếp theo. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ GD & ĐT (2010), Chương trình Giáo dục Mầm non, NXB Giáo dục. 2. Phạm Thị Châu – Nguyễn Thị Oanh – Trần Thị Sinh (2006), Giáo dục học Mầm non, NXB ĐHQG Hà Nội. 3. Chương trình giáo dục mầm non (2012), NXB Giáo dục Việt Nam. 4. Hà Nguyễn Kim Giang (2001) , Phương pháp kể sáng tạo truyện cổ tích thần kì cho trẻ mẫu giáo, NXB ĐHQG Hà Nội. 5. Hà Nguyễn Kim Giang (2011) , Phương pháp tổ chức hoạt động làm quen với tác phẩm văn học, NXB Giáo dục Việt Nam. 6. Phạm Minh Hạc (1997), Tâm lí học Vưgốtxki, NXB Giáo dục. 7. Kak – Hainơdich (1990), Dạy trẻ học nói như thế nào?, NXB Giáo dục. 8. Nguyễn Thị Hòa (2011), Giáo trình giáo dục học Mầm non, NXB ĐHSP. 9. Nguyễn Thị Hòa (2012) , Tổ chức các hoạt động giáo dục ở trường Mầm non, Chuyên đề cao học. 10. Hồ Lam Hồng (2002) , Những đặc điểm của hoạt động ngôn ngữ trong hoạt động kể chuyện của trẻ mẫu giáo, NXB ĐHQG Hà Nội. 11. Lê Thu Hương (chủ biên, 2008), Hướng dẫn tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục trong trường mầm non theo chủ đề (trẻ 5 – 6 tuổi), NXB Giáo dục. 12. Nguyễn Xuân Khoa (2004), Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo, NXB ĐHSP. 13. Lưu Thị Lan (1997), Những bước phát triển ngôn ngữ trẻ em (0 – 6 tuổi), NXB ĐHQG Hà Nội. 14. L ônchiep A.N(1974), Khái niệm chung về hoạt động – Trích “Những cơ sở lí thuyết hoạt động lời nói”, Mátxcơva. 15. Lã Thị Bắc Lý (2013), Văn học thiếu nhi với giáo dục trẻ em lứa tuổi Mầm non, NXB ĐHSP. 16. Lã Thị Bắc Lý (2014), Giáo trình văn học trẻ em, NXB ĐHSP. 17. Lã Thị Bắc Lý, Lê Thị Ánh Tuyết (2014), Giáo trình phương pháp cho trẻ Mầm non làm quen với tác phẩm văn học, NXB Giáo dục Việt Nam. 18. Hoàng Thị Trà Mi (2013), Một số biện pháp hướng dẫn trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi nhập vai sáng tạo trong trò chơi đóng kịch, Luận văn thạc sĩ khoa học. 19. Lê Phương Nga (2009), Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu Học tập 1,2, NXB Giáo dục. 20. Lương Kim Nga, Phùng Hữu Kiếm (1991), Trò chơi đóng vai theo tác phẩm văn học trong trường mẫu giáo – nhà trẻ, Bộ GD&ĐT. 21. Lương Kim Nga (2008), Phương pháp phát triển lời nói của trẻ mẫu giáo, NXB Giáo dục. 22. Lương Kim Nga (1988), Tiếng Việt – Văn học và phương pháp giảng dạy tập 2, NXB Giáo dục. 23. Nguyễn Thị Nhung – Phạm Thị Việt (2006), Phương pháp cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, NXB ĐHQG Hà Nội. 24. Nguyễn Quang Ninh – Bùi Kim Tuyến – Lưu Thị Lan – Nguyễn Thanh Hồng (2002), Tiếng Việt và phương pháp phát triển lời nói cho trẻ em, NXB Giáo dục. 25. Hoàng Thị Oanh, Phạm Thị Việt, Nguyễn Kim Đức (2001), Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ dưới 6 tuổi, NXB ĐHQG Hà Nội. 26. Nguyễn Thị Oanh (2000), Các biện pháp phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi), Luận án Tiến sĩ Giáo dục. 27. Hoàng Thị Phương (2009), Một số biện pháp hướng dẫn trò chơi đóng kịch nhằm phát triển lời nói mạch lạc cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi, Luận văn thạc sĩ khoa học. 28. V.V.Septsenko & M.K.Bogoliupxkaia – Dịch Lê Đức Văn (1976), Đọc và kể chuyện văn học ở vườn trẻ, NXB Giáo dục. 29. Đinh Hồng Thái (2006), Giáo trình phương pháp phát triển lời nói trẻ em NXB ĐHSP. 30. Đinh Hồng Thái (2013), Giáo trình phát triển ngôn ngữ tuổi Mầm non, NXB ĐHSP. 31. Nguyễn Thu Thủy (1986), Giáo dục trẻ mẫu giáo qua truyện và thơ, NXB Giáo dục. 32. Phan Thiều (1973), Dạy nói cho trẻ em trước tuổi cấp I, NXB Giáo dục. 33. Cao Đức Tiến (chủ biên) – Nguyễn Đắc Diệu Lam – Lê Thị Ánh Tuyết (1993), Văn học và phương pháp giúp trẻ làm quen với TPVH, Trung tâm nghiên cứu đào tạo bồi dưỡng giáo viên. 34. Tikheeva E.I (1977), Phát triển ngôn ngữ trẻ em trước tuổi học, NXB Giáo dục. 35. Nguyễn Ánh Tuyết (chủ biên), Nguyễn Thị Như Mai, Đinh Thị Kim Thoa (1997), Tâm lí học trẻ em lứa tuổi mầm non, NXB ĐHQG Hà Nội. 36. Nguyễn Ánh Tuyết, Nguyễn Thị Hòa, Đinh Văn Vang (1996), Tổ chức hướng dẫn trẻ mẫu giáo chơi, NXB ĐHQG Hà Nội. 37. Nguyễn Ánh Tuyết (chủ biên) – Lê Thị Kim Anh – Đinh Văn Vang (2013), Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục mầm non, NXB ĐHSP. 38. Nguyễn Ánh Tuyết (2002), Hoạt động vui chơi với trẻ em lứa tuổi mẫu giáo, NXB Giáo dục Hà Nội . 39. Lê Thị Ánh Tuyết, Lã Thị Bắc Lý (2006 ), Phương pháp đọc, kể diễn cảm thơ, truyện cho trẻ mầm non, NXB Giáo dục Hà Nội . 40. Đinh Văn Vang (2009), Giáo trình tổ chức hoạt động vui chơi cho trẻ Mầm non, NXB Giáo dục Việt Nam. 41. L.X.Vưgôtxky (1981), Tâm Lý học nghệ thuật, NXB khoa học xã hội. 42. Viện chiến lược và chương trình giáo dục (2007), Tuyển chọn trò chơi, bài hát, thơ ca, truyện, câu đố theo chủ đề (trẻ 3 – 4 tuổi, trẻ 4 – 5 tuổi, trẻ 5 – 6 tuổi), NXB Giáo dục. 43. A.I. Xorokina (1979), Giáo dục học mẫu giáo (tập 1,2), NXB Giáo dục. 44. A.N.Xmiêcrôp – A.N.Lêônchiep – X.L.Rubintein – B.M.Chieplop (1974), Tâm lí học, NXB Giáo dục Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docto_chuc_tro_choi_dong_kich_nham_phat_trien_loi_noi_mach_lac_cho_tre_5_6_tuoi_o_truong_mam_non_8989.doc
Luận văn liên quan