Tổ chức thương mại thế giới đã quy định về các biện pháp tự vệ trong Điều XIX và hành
động tự vệ khẩn cấp của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT 1994, được cụ thể
hoá trong Hiệp định về các biện pháp tự vệ của Tổ chức thương mại thế giới. Hầu hết các nước
trên thế giới đều đã có luật quy định về cơ chế tự vệ của nước mình, hay chấp nhận và thực thi
Hiệp định về các biện pháp tự vệ của WTO. Ngay trong phạm vi các khu vực mậu dịch tự do mà
AFTA là một ví dụ, cũng có quy định cho phép các nước thành viên áp dụng các biện pháp tự vệ
khi có sự gia tăng nhập khẩu gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước. Như vậy có thể nói các
biện pháp tự vệ giống như chiếc van an toàn, hợp pháp nhằm bảo vệ nền kinh tế ngay trong
trường hợp thương mại diễn ra lành mạnh. Biện pháp tự vệ giúp các ngành công nghiệp nông
nghiệp non trẻ trong nước có đủ thời gian phát triển vững chắc trước sự cạnh tranh ồ ạt từ nước
ngoài. Tuy vậy, biện pháp này “không miễn phí”, chính vì thế không thể là lựa chọn lâu dài cho
nền kinh tế trong nước. Đây chỉ là một động lực giúp thúc đẩy nền kinh tế tự phát triển và thích
nghi dần dần trong xu thế hội nhập kinh tế hiện nay.
21 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4616 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tổng quan chung về hiệp định tự vệ trong WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO VIỆT NAM
KHOA KINH TẾ QUỐC TẾ
* * *
TIỂU LUẬN
Toàn cầu hóa và WTO
Đề tài:
TỔNG QUAN CHUNG
VỀ HIỆP ĐỊNH TỰ VỆ TRONG WTO
NHÓM: 18
Thành viên nhóm:
- Nguyễn Huyền Trang - Lớp D 34
- Nguyễn Ngọc Minh - Lớp D 34
- Lê Thị Vân Anh - Lớp I 34
- Nguyễn Thị Mai Phương - Lớp I 34
- Nguyễn Trà Linh - Lớp I 34
Hà Nội, 2010
1
LỜI NÓI ĐẦU
Tổ chức thương mại thế giới - WTO chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01 tháng 01 năm
1995 sau kết quả của vòng đàm phán Uruguay. Mục đích khi thành lập tổ chức này là tạo một
diễn đàn, là nơi để cho các Quốc gia đàm phán thúc đẩy tự do hoá thương mại thông qua việc dỡ
bỏ các hàng rào làm trở ngại đến tiến trình này. Là một cơ chế quốc tế bao gồm các Hiệp định đa
biên và nhiều bên về thương mại, tổ chức thương mại thế giới tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
của các Quốc gia khác nhau có thể xâm nhập thị trường nước ngoài một cách tự do, bình đẳng và
không bị hạn chế nhằm tìm kiếm cơ hội kinh doanh, thu lợi nhuận một cách hợp pháp.
Thực hiện chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế quốc tế, dần dần hội
nhập kinh tế quốc tế một cách có hiệu quả trên cơ sở đảm bảo độc lập tự chủ thì việc xây dựng
một văn bản pháp lý có giá trị cao để điều chỉnh các nguyên tắc cơ bản khi tham gia hội nhập vào
nền kinh tế thế giới, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia tích cực
vào hoạt động ngoại thương là cần thiết. Chính vì vậy, nhu cầu đặt ra cho việc từng bước hội
nhập vào kinh tế thế giới và khu là nghiên cứu một cách nghiêm túc các quy định quốc tế, học tập
kinh nghiệm của các nước đi trước để vận dụng vào điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của mình. Nhu
cầu áp dụng biện pháp tự vệ trong một số trường hợp để hạn chế sự gia tăng đột biến của một
loại sản phẩm cụ thể nào đó là cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong
nước phát triển.
Xuất phát từ thực tiễn thương mại về bảo hộ hàng hoá tự vệ thương mại, với mong muốn tìm
hiểu sâu hơn về vấn đề này trên cơ sở đó có thể đóng góp một số ý kiến nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả của hoạt động bảo hộ tự vệ thương mại cũng như của pháp luật về tự vệ thương mại ở
Việt Nam, Nhóm 18 đã chọn đề tài “Tổng quan về hiệp định tự vệ trong WTO” nhằm đưa đến
cho các bạn cái nhìn chung và toàn diện nhất về nội dung và ý nghĩa của hiệp định này.
Đây là một đề tài còn mới và chưa được nghiên cứu sâu, nguồn tài liệu tham khảo còn hạn
chế nên bài luận này không tránh được những thiếu sót, rất mong nhận được sự phê bình, nhận
xét và đóng góp ý kiến của thầy giáo và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn.
2
PHẦN I: GIỚI THIỆU CHUNG
VỀ ĐIỀU KHOẢN TỰ VỆ TRONG WTO
* * * * *
1 / Khái niệm về các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
Các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế có thể được hiểu theo hai nghĩa:
- Theo nghĩa rộng: các biện pháp tự vệ bao gồm các biện pháp mà một nước sử dụng nhằm
bảo hộ cho các nhà sản xuất hay hàng hoá của nước đó trước sự cạnh tranh của hàng hoá nước
ngoài. Các biện pháp tự vệ theo nghĩa trên là rất rộng, được áp dụng trong nhiều trường hợp khác
nhau và chịu sự giám sát của các Hiệp định đa biên của WTO, chẳng hạn như các biện pháp kiểm
dịch thực vật, các biện pháp trợ cấp, các biện pháp chống bán phá giá…Cần lưu ý là các Hiệp
định đa biên tương ứng chịu trách nhiệm giám sát việc thực thi các biện pháp trên trong những
điều kiện chặt chẽ chứ không nhằm mục đích tạo điều kiện cho các nước thành viên sử dụng
thường xuyên các biện pháp bảo hộ trên nhằm làm cản trở đến tự do hoá thương mại.
- Theo nghĩa hẹp: các biện pháp tự vệ là các biện pháp thương mại khẩn cấp do một nước áp
dụng tạm thời để giúp làm giảm nhẹ gánh nặng cho ngành công nghiệp nội địa của mình khi
ngành này bị tổn hại do hàng nhập khẩu gia tăng. Trong những điều kiện nhất định, một nước có
thể áp dụng những biện pháp thương mại nhằm hạn chế lượng hàng nhập khẩu của một sản phẩm
nào đó để bảo vệ ngành sản xuất nội địa đó của mình. Đôi khi người ta còn gọi đó là “ điều khoản
giải thoát” bởi vì nó giúp cho một nước “thoát khỏi” nghĩa vụ của mình trong những trường hợp
đặc biệt. Theo cách hiểu này thì khi tiến hành mở cửa thị trường và thực thi chính sách tự do hoá
thương mại, ngành sản xuất trong nước có thể bị suy yếu và gặp khó khăn nghiêm trọng do gặp
phải sự cạnh tranh của hàng hoá nước ngoài. Do vậy, ngành sản xuất đó có thể yêu cầu cơ quan
có thẩm quyền của nước mình về khả năng áp dụng các biện pháp tự vệ để ngành này có thể thích
nghi được với sự cạnh tranh. Các biện pháp tự vệ trong trường hợp này chịu sự điều chỉnh của
Hiệp định về các biện pháp tự vệ trong khuôn khổ WTO.
* Các nguyên tắc về các biện pháp tự vệ đầu tiên được quy định trong Điều XIX, GATT
1947, hiện nay đã được quy định rõ ràng và đầy đủ hơn trong Hiệp định về các biện pháp tự vệ -
một trong các Hiệp định đa biên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Lời nói đầu của Hiệp định này đã ghi nhận rằng các Quốc gia thành viên thừa nhận sự
cần thiết phải làm rõ và củng cố các định chế của GATT 1994, đặc biệt là điều XIX của GATT
1994 nhằm thiết lập một sự giám sát đa phương trên cơ sở các biện pháp tự vệ và triệt tiêu các
3
biện pháp nhằm né tránh sự giám sát này. Theo đó, nếu do hậu quả của những diễn biến không
lường trước được của các tình huống và do kết quả của các cam kết theo Hiệp định này, một sản
phẩm được nhập khẩu vào lãnh thổ của bên ký kết đó với số lượng tăng mạnh và với điều kiện tới
mức gây tổn hại hay đe doạ gây tổn hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất sản phẩm tương tự hay
cạnh tranh trực tiếp trong nước thì bên ký kết có thể dừng hay trì hoãn thực hiện toàn bộ hay một
phần các cam kết theo các Hiệp định của WTO về hàng hoá, có thể rút bỏ hay điều chỉnh nhân
nhượng về thuế quan, trong chừng mực liên quan đến sản phẩm đó và trong thời gian cần thiết để
dự liệu và khắc phục tổn hại đó.
Trên cơ sở của Điều XIX của GATT 1947 và sau này Tổ chức thương mại thế giới WTO đã
kế thừa, Điều II, Hiệp định đa biên về các biện pháp tự vệ trong khuôn khổ WTO cũng đã quy
định rằng một thành viên có thể áp dụng một biện pháp tự vệ cho một sản phẩm chỉ khi thành
viên đó đã xác định được, theo những điều khoản trong Hiệp định, là sản phẩm đó được nhập
vào lãnh thổ mình khi có sự gia tăng nhập khẩu tương đối hay tuỵêt đối so với sản phẩm nội địa,
và theo đó có thể gây ra hoặc đe doạ gây ra tổn hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp nội địa
sản xuất ra sản phẩm tương tự hoặc các sản phẩm cạnh tranh trực tiếp.
2 / Lịch sử phát triển của các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
Theo quy định của GATT 1947
GATT 1947 quy định rằng nếu do hậu quả của những diễn biến không lường trước được của
các tình huống và do kết quả của các cam kết theo Hiệp định này, khi một sản phẩm được nhập
khẩu vào lãnh thổ của bên ký kết đó với số lượng tăng mạnh và với điều kiện gây tổn hại hay đe doạ
gây tổn hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất sản phẩm tương tự hay cạnh tranh trực tiếp trong
nước thì bên ký kết có thể dừng toàn bộ hay một phần các cam kết, rút bỏ hay điều chỉnh nhân
nhượng về thuế quan, trong chừng mực liên quan đến sản phẩm đó và trong thời gian cần thiết để
dự liệu và khắc phục tổn hại đó.
Theo quy định của WTO
Thứ nhất, khác với quy định của GATT 1947, Hiệp định về các biện pháp tự vệ đã giải
thích cụ thể các điều kiện để áp dụng biện pháp tự vệ đồng thời làm rõ các khái niệm mà Hiệp
định chung GATT 1947 không quy định chặt chẽ. Việc giải thích này đã phần nào hạn chế việc
sử dụng tuỳ tiện các khái niệm dựa trên ý chí chủ quan của nước nhập khẩu.
4
Thứ hai, Hiệp định xoá bỏ biện pháp hạn chế xuất khẩu tự nguyện, hay bất kỳ các biện pháp
tương tự nào khác muộn nhất là đến ngày 1/1/1999 trừ trường hợp đặc biệt không quá một năm nhưng
phải được sự đồng ý của Tổ chức thương mại thế giới. Đó là trường hợp của Liên minh Châu âu đối với
việc nhập khẩu ô tô từ Nhật Bản với thời gian kéo dài là muộn hơn 1 năm, đến ngày 1/1/2000.
Thứ ba, các nước thành viên nhập khẩu khi áp dụng biện pháp tự vệ phải chịu sự giám sát,
kiểm tra của Uỷ ban tự vệ của WTO, đồng thời phải tiến hành tham vấn các bên có liên quan để
các bên này có quyền trình bày ý kiến, quan điểm và đưa ra chứng cứ bảo vệ quyền lợi của mình.
Thứ tư, trong trường hợp cần thiết để ngăn chặn thiệt hại thì nước nhập khẩu có thể áp
dụng các biện pháp tự vệ tạm thời trong một thời hạn hợp lý với điều kiện các biện pháp điều tra
vẫn được tiến hành sau đó.
Thứ năm, thời hạn áp dụng các biện pháp tự vệ không kéo dài như trước đây mà giới hạn
trong khoảng thời gian tối đa là 8 năm.
Thứ sáu, GATT 1947 cho phép tự do áp dụng các biện pháp thuế quan và phi thuế quan
trong khi GATT 1994 khuyến khích áp dụng các biện pháp thuế quan và tiến tới hạn chế việc áp
dụng biện pháp phi thuế quan.
3 / Vai trò của các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế
Thứ nhất, các biện pháp tự vệ nhằm giảm nhẹ hay trợ giúp khắc phục thiệt hại gây ra do
việc nhập khẩu hàng hoá tăng một cách bất thường, không thể lường trước vào thị trường
nội địa.
Thứ hai: các biện pháp tự vệ góp phần tăng cường, khuyến khích tính cạnh tranh thông qua
việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất chứ không phải vì mục đích ưu đãi, bảo hộ ngành sản xuất
trong nước hay hạn chế sự cạnh tranh của hàng hoá nước ngoài trong thị trường nội địa.
Bên cạnh những mặt tích cực khi áp dụng các biện pháp tự vệ còn tồn tại những hạn chế.
Đó là việc bảo hộ một cách tràn lan hàng hoá nội địa sẽ dẫn tới sự ỷ lại của các nhà sản xuất trong
nưóc, dẫn tới việc mất khả năng cạnh tranh, không tận dụng tốt các nguồn lực sẵn có và sự hao
phí tài nguyên là không tránh khỏi. Hạn chế thứ hai, như trên đã phân tích, đó là việc nước áp
dụng biện pháp tự vệ phải hứng chịu sự trả đũa của các nước khác và là một trong những nguyên
nhân dẫn đến các cuộc chiến tranh thương mại không cần thiết, gây bất lợi cho các bên.
5
PHẦN II: NỘI DUNG CÁC ĐIỀU KHOẢN TỰ VỆ
TRONG WTO
Điều XIX của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại cho phép một thành viên GATT
áp dụng biện pháp tự vệ để bảo vệ ngành công nghiệp nội địa khỏi sự gia tăng đột biến của bất kỳ
sản phẩm nhập khẩu nào mà gây ra hoặc đe dọa gây ra tổn hại nghiêm trọng cho ngành công
nghiệp đó.
Hiệp định về các biện pháp tự vệ (Agreement on Safeguards – SG Agreement) bao gồm 14 điều,
và một phụ lục. Hiệp định là một bước đột phá mới trong việc ngăn chặn các biện pháp “vùng
6
xám” (grey area measures) và đưa ra các chi tiết về điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ, chiếu theo
điều XIX của GATT. Hiệp định là một bước đột phá mới trong việc hình thành các điều khoản
chi tiết đối với các hành động tự vệ.
1 / Điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ
Một nước nhập khẩu chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ sau khi đã tiến hành điều tra và chứng
minh được sự tồn tại đồng thời của các điều kiện sau:
* Hàng hoá liên quan được nhập khẩu tăng đột biến về số lượng;
* Ngành sản xuất sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp với hàng hoá đó bị thiệt hại
hoặc đe doạ bị thiệt hại nghiêm trọng; và
* Có mối quan hệ nhân quả giữa hiện tượng nhập khẩu tăng đột biến và thiệt hại hoặc đe
doạ thiệt hại nói trên.
Một điều kiện chung là tình trạng nói trên phải là hệ quả của việc thực hiện các cam kết trong
WTO của các thành viên mà họ không thể thấy hoặc lường trước được khi đưa ra cam kết.
Song song với các điều kiện chung này, một số nước khi gia nhập WTO phải đưa ra những cam
kết riêng liên quan đến biện pháp tự vệ. Trường hợp của Việt Nam, không có ràng buộc hay bảo
lưu nào lớn về các biện pháp tự vệ này, do đó việc áp dụng biện pháp tự vệ ở Việt Nam đối với
hàng hóa nước ngoài, nếu có, sẽ tuân thủ đầy đủ các quy định của WTO về vấn đề này.
Hiệp định tự vệ đã đưa ra chi tiết thế nào là “tổn hại nghiêm trọng” và những nhân tố cần được
xem xét khi quyết định ảnh hưởng của nhập khẩu.
Một trong các điều kiện để có thể áp dụng biện pháp tự vệ là phải điều tra chứng minh được rằng
ngành sản xuất nội địa phải chịu thiệt hại nghiêm trọng từ việc hàng nhập khẩu tăng ồ ạt. Cụ thể:
• Về hình thức, các thiệt hại này có thể tồn tại dưới hai dạng: thiệt hại thực tế, hoặc nguy
cơ thiệt hại (nguy cơ rất gần);
• Về mức độ, các thiệt hại này phải ở mức nghiêm trọng (tức là ở mức cao hơn so với
thiệt hại đáng kể trong trường hợp của các vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp);
• Về phương pháp, các thiệt hại thực tế được xem xét trên cơ sở phân tích tất cả các yếu
tố có liên quan đến thực trạng của ngành sản xuất nội địa (ví dụ tỷ lệ và mức tăng lượng nhập
khẩu, thị phần của sản phẩm nhập khẩu, thay đổi về doanh số, sản lượng, năng suất, nhân công…)
Trong cuộc điều tra để áp dụng biện pháp tự vệ, việc chứng minh thiệt hại nghiêm trọng chủ yếu
thuộc trách nhiệm của ngành sản xuất nội địa liên quan. Vì vậy, để đạt được mục tiêu của mình,
ngành sản xuất nội địa cần có sự chuẩn bị kỹ về các số liệu, tập hợp trong một thời gian tương đối
dài để có đủ dữ liệu chứng minh.
7
Ngoài ra, để áp dụng biện pháp tự vệ, “sự gia tăng nhập khẩu đột biến” phải đáp ứng các điều
kiện sau:
Sự gia tăng này là gia tăng tuyệt đối (ví dụ lượng nhập khẩu tăng gấp 2 lần) hoặc tương đối
so với sản xuất trong nước (ví dụ lượng hàng nhập khẩu hầu như không tăng nhưng cùng
thời điểm đó lượng hàng sản xuất trong nước lại giảm mạnh);
Sự gia tăng này phải mang tính đột biến (diễn ra đột ngột, nhanh và tức thời)
Điều kiện chung: sự gia tăng nhập khẩu này phải thuộc diện “không dự đoán trước được” vào
thời điểm nước nhập khẩu đàm phán tham gia Hiệp định tự vệ.
Một số yếu tố lưu ý khi xác định “gia tăng nhập khẩu đột biến”
Sự gia tăng về trị giá nhập khẩu không phải là yếu tố bắt buộc điều tra trong vụ việc tự vệ.
Sự gia tăng lượng nhập khẩu cần được xem xét theo diễn tiến trong suốt giai đoạn điều tra
chứ không chỉ đơn thuần là so sánh lượng nhập khẩu thời điểm đầu và cuối cuộc điều tra.
Sự thay đổi về xu hướng thời trang và ảnh hưởng của nó đến cạnh tranh được xem là một
việc không thể dự đoán trước bởi các nhà đàm phán.
2/ Quy định về việc áp dụng biện pháp tự vệ
Biện pháp tự vệ sẽ chỉ được áp dụng trong chừng mực cần thiết để ngăn chặn hay khắc phục tổn
hại nghiêm trọng và để tạo thuận lợi cho việc điều chỉnh. Nếu biện pháp hạn chế định lượng được
áp dụng, thì những biện pháp này sẽ không làm giảm số lượng nhập khẩu dưới mức nhập khẩu
bình quân của 3 năm đại diện gần nhất có số liệu thống kê trừ khi có chứng cứ rõ ràng rằng cần
có một mức khác để ngăn chặn hoặc khắc phục thiệt hại nghiêm trọng.
2.1 / Các biện pháp tự vệ
- Thuế quan: Ngoài các điều kiện chung để áp dụng biện pháp tự vệ, coi đó là biện pháp bảo vệ
nền công nghiệp trong nước phát triển, thì hiệp định về tự vệ không có hướng dẫn cụ thể thực
hiện biện pháp cân bằng thông qua việc tăng đột biến thuế suất như thế nào.
- Hạn ngạch nhập khẩu: Mức hạn ngạch nhập khẩu không được thấp hơn mức nhập khẩu bình
quân của 3 năm đại diện gần nhất có số liệu thống kê trừ khi có chứng cứ rõ ràng rằng cần có một
mức khác để ngăn chặn hoặc khắc phục thiệt hại nghiêm trọng. Việc chia hạn ngạch cho các quốc
gia xuất khẩu cũng dựa trên tình hình trước đây.
Nước nhập khẩu áp dụng biện pháp tự vệ không nhất thiết phải có giải trình rõ ràng và cụ thể về
việc tại sao biện pháp được lựa chọn (về phạm vi, hình thức, mức độ) là cần thiết để ngăn chặn
hoặc bù đắp các thiệt hại và để ngành sản xuất nội địa tự điều chỉnh
8
Một biện pháp tự vệ được áp dụng mà không tuân thủ đầy đủ 03 điều kiện để áp dụng biện pháp
tự vệ sẽ đương nhiên bị coi là “vượt quá mức cần thiết”
2.2 / Thời hạn của các biện pháp tự vệ
Thời gian áp dụng biện pháp tự vệ sẽ không vượt quá 4 năm mặc dù thời hạn này có thể được kéo
dài tối đa đến 8 năm, tùy thuộc vào sự xác định mức độ cần thiết gia hạn của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và nếu có chứng cứ rõ ràng rằng ngành công nghiệp này đang được điều chỉnh.
Bất kỳ biện pháp nào được áp dụng trong khoảng thời gian trên 1 năm sẽ từng bước được nới
lỏng trong suốt thời gian áp dụng.
Không một biện pháp tự vệ nào được áp dụng trở lại đối với một sản phẩm đã từng bị áp dụng
biện pháp này trong thời hạn bằng thời hạn mà biện pháp đó đã được áp dụng trước đây với điều
kiện là thời hạn không áp dụng phải ít nhất là 2 năm.
Có thể áp dụng lại một biện pháp tự vệ đối với việc nhập khẩu một sản phẩm trong thời hạn 180
ngày hoặc ít hơn nếu ít nhất 1 năm sau khi biện pháp tự vệ này được áp dụng đối với sản phẩm
đó, và nếu biện pháp tự vệ này chưa được áp dụng hơn hai lần cho cùng một sản phẩm trong
vòng 5 năm ngay trước ngày áp dụng biện pháp này.
Những biện pháp có thời hạn dài hơn 3 năm phải được xem xét lại vòa giữa kỳ. Và tùy thuộc vào
sự thay đổi của tình hình mà thành viên đang sử dụng biện pháp tự vệ phải rút bỏ hoặc nới lỏng
dần các biện pháp.
2.3 / Ngoại lệ đối với các các nước thành viên đang phát triển
Các biện pháp tự vệ sẽ không được áp dụng đối với sản phẩm có xuất xứ từ các nước thành viên
đang phát triển nếu thị phần sản phẩm liên quan không vượt quá 3%, và với điều kiện là tổng thị
phần nhập khẩu từ các Thành viên đang phát triển có thị phần nhập khẩu riêng lẻ nhỏ hơn 3%
không vượt quá 9% tổng kim ngạch nhập khẩu sản phẩm liên quan.
Một nước thành viên đang phát triển có quyền kéo dài thời hạn áp dụng biện pháp tự vệ trong
thời hạn không quá 2 năm sau khi hết thời hạn tối đa bình thường.
Một nước thành viên đang phát triển có thể áp dụng lại một biện pháp tự vệ đối với một sản phẩm
đã từng bị áp dụng biện pháp này trước đó sau thời gian bằng một nửa thời gian mà biện pháp này
được áp dụng trước đây, với điều kiện là thời gian không áp dụng ít nhất là 2 năm.
2.4 / Điều khoản tự vệ đặc biệt dành cho Nông Nghiệp
Hiệp định về Nông nghiệp có qui định đặc biệt (Điều 5) về tự vệ. Điều khoản tự vệ đặc biệt đối
với Nông nghiệp khác so với tự vệ thông thường, cụ thể là:
9
Thuế tự vệ cao hơn có thể được áp dụng tự động khi kim ngạch nhập khẩu tăng trên mức
nhất định hoặc nếu giá giảm dưới mức nhất định.
Không cần phải giải trình thiệt hại nghiêm trọng gây ra cho ngành công nghiệp trong nước.
Tự vệ đặc biệt trong Nông nghiệp được áp dụng đối với những sản phẩm đã được đánh thuế với
số lượng dưới 20% của khối lượng hàng Nông nghiệp. Nhưng nó không được áp dụng đối với
nhập khẩu trong quota tính thuế. Thực tế, tự vệ đặc biệt trong Nông nghiệp chỉ sử dụng trong một
vài trường hợp.
Các đề xuất bắt nguồn từ việc tiếp tục các qui định hiện tại tiến tới xoá bỏ hoặc sửa đổi nhằm
ngăn ngừa sản phẩm từ các nước đang phát triển. Một số nước đang phát triển đã đề xuất chỉ có
họ mới được phép sử dụng biện pháp tự vệ đặc biệt còn các nước phát triển không được phép làm
như vậy.
Nhật bản và Hàn quốc đề nghị hình thức mới của tự vệ đặc biệt có thể áp dụng đối với
sản phẩm mau hỏng và theo mùa vụ nhưng nhiều nước đã phản đối việc này.
3 / Thủ tục áp dụng biện pháp tự vệ
3.1 / Thủ tục kiện áp dụng biện pháp tự vệ
Khác với trường hợp các vụ kiện chống bán phá giá hay chống trợ cấp, WTO không có nhiều quy
định chi tiết về trình tự, thủ tục kiện áp dụng biện pháp tự vệ. Tuy nhiên, Hiệp định về Biện pháp
tự vệ của WTO có đưa ra một số các nguyên tắc cơ bản mà tất cả các thành viên phải tuân thủ, ví
dụ:
• Đảm bảo tính minh bạch (Quyết định khởi xướng vụ điều tra tự vệ phải được thông báo
công khai; Báo cáo kết luận điều tra phải được công khai vào cuối cuộc điều tra…)
• Đảm bảo quyền tố tụng của các bên (các bên liên quan phải được đảm bảo cơ hội trình
bày các chứng cứ, lập luận của mình và trả lời các chứng cứ, lập luận của đối phương);
• Đảm bảo bí mật thông tin (đối với thông tin có bản chất là mật hoặc được các bên trình
với tính chất là thông tin mật không thể được công khai nếu không có sự đồng ý của bên đã trình
thông tin);
• Các điều kiện về biện pháp tạm thời (phải là biện pháp tăng thuế, và nếu kết luận cuối
cùng của vụ việc là phủ định thì khoản chênh lệch do tăng thuế phải được hoàn trả lại cho bên đã
nộp; không được kéo dài quá 200 ngày…)
Trình tự thông thường của một vụ điều tra áp dụng biện pháp tự vệ:
1. Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ của ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu;
10
2. Khởi xướng điều tra;
3. Điều tra và công bố kết quả điều tra về các yếu tố:
- Tình hình nhập khẩu;
- Tình hình thiệt hại;
- Mối quan hệ giữa việc nhập khẩu và thiệt hại;
3.2 / Quyền ra quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp tự vệ
Việc điều tra và áp dụng biện pháp tự vệ, mặc dù có nhiều yếu tố giống một trình tự tố tụng tư
pháp, nhưng đây bản chất là một thủ tục hành chính, do một cơ quan hành chính nước nhập khẩu
tiến hành, để xử lý một tranh chấp thương mại giữa các nhà xuất khẩu nước ngoài (về nguyên tắc
là từ tất cả các nước đang xuất khẩu hàng hóa liên quan vào nước nhập khẩu) và ngành sản xuất
nội địa liên quan của nước nhập khẩu. Việc này được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật nội địa
nước nhập khẩu và về nguyên tắc không phải là công việc giữa các Chính phủ.
Tuy nhiên, do vấn đề này đã được ràng buộc bởi các nguyên tắc bắt buộc có liên quan trong Hiệp
định tự vệ của WTO nên các thành viên có thể thông qua WTO để xử lý những trường hợp nước
nhập khẩu tiến hành điều tra mà vi phạm WTO.
3.3 / Nguyên tắc áp dụng biện pháp tự vệ.
Nguyên tắc không phân biệt đối xử.
Biện pháp tự vệ phải được áp dụng theo cách không phân biệt đối xử về xuất xứ hàng hoá nhập
khẩu liên quan. Như vậy khác với biện pháp chống bán phá giá và biện pháp chống trợ cấp (chỉ
áp dụng đối với nhà xuất khẩu từ một hoặc một số nước xuất khẩu nhất định bị điều tra), biện
pháp tự vệ áp dụng cho tất cả các nhà sản xuất, xuất khẩu của tất cả các nước đang xuất mặt hàng
đó sang nước nhập khẩu.
Trường hợp biện pháp tự vệ là hạn ngạch, nước nhập khẩu cần tiến hành thoả thuận với các nước
xuất khẩu, chủ yếu về việc phân định hạn ngạch.
Nếu không đạt được thoả thuận, việc phân bổ sẽ được thực hiện theo thị phần tương ứng của từng
nước xuất khẩu trong giai đoạn trước đó.
Nguyên tắc áp dụng các biện pháp tự vệ trong phạm vi và mức độ cần thiết.
11
Theo nguyên tắc này thì nước nhập khẩu chỉ được áp dụng biện pháp tự vệ ở giới hạn cần thiết và
chỉ nhằm để ngăn cản hay khắc phục những thiệt hại do lượng nhập khẩu tăng đột biến gây ra và
nhằm tạo thuận lợi cho việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nội địa mà không phải nhằm bất cứ mục
đích nào khác1.. Nội dung của nguyên tắc này thể hiện qua quy định bên nhập khẩu chỉ được áp
dụng các biện pháp thuế quan và biện pháp hạn chế số lượng, cụ thể là hạn ngạch và giấy phép
nhập khẩu.
Nguyên tắc đảm bảo việc bồi thường tổn thất thương mại.
Khác với các biện pháp chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh do hành động bán phá
giá hay hành động trợ cấp của Chính phủ, một nước thành viên khi áp dụng biện pháp tự vệ phải
đảm bảo việc đền bù thoả đáng cho nước bị áp dụng biện pháp tự vệ do tác động bất lợi đối với
lợi ích thương mại của nước đó. Việc đền bù thiệt hại dành cho nước cung cấp hàng hoá thường
được thể hiện thông qua việc giảm thuế đối với một số hàng hoá có lợi ích xuất khẩu cho nước bị
áp dụng biện pháp tự vệ. Mức độ đền bù phải tương đương đáng kể. Trong trường hợp biện pháp
tự vệ là tăng thuế thì có thể dễ dàng đánh giá mức độ tương đương đó. Còn nếu biện pháp tự vệ
có tính chất hạn chế định lượng thì mức độ tương đương này cần phải được tính dựa trên dự đoán
xấp xỉ về số lượng nhập khẩu bị cấm sau khi áp dụng hạn chế. Trên thực tế không dễ dàng đạt
được mức độ tương đối chính xác, do đó các nước sẽ giải quyết vấn đề này tuỳ theo tình hình
thực tiễn.
3.4 / Bồi thường khi áp dụng biện pháp tự vệ.
Biện pháp tự vệ được thừa nhận trong thương mại quốc tế nhưng lại đi ngược lại mục tiêu “tự do
hoá thương mại”, biện pháp tự vệ là một công cụ “không miễn phí”. Điều này có nghĩa là các
nước được phép áp dụng nó bảo vệ ngành sản xuất của nước mình nhưng phải “trả giá” cho
những thiệt hại mà biện pháp này gây ra cho các nhà sản xuất nước ngoài (như một hình thức cân
bằng cam kết thương mại với nước khác).
WTO quy định nước nhập khẩu áp dụng biện pháp tự vệ phải bồi thường tổn thất thương mại cho
các nước xuất khẩu liên quan (thường là việc nước nhập khẩu tự nguyện giảm thuế nhập khẩu cho
một số nhóm hàng hoá khác đến từ các nước xuất khẩu đó).
Nước nhập khẩu áp dụng biện pháp tự vệ phải tiến hành thương lượng với các nước xuất khẩu về
biện pháp đền bù thương mại thoả đáng. Trường hợp không đạt được thoả thuận, nước xuất khẩu
liên quan có thể áp dụng biện pháp trả đũa (thường là việc rút lại những nghĩa vụ nhất định trong
1 Điều 5 Hiệp định về các biện pháp tự vệ – GATT 1994
12
WTO, bao gồm cả việc rút lại các nhượng bộ về thuế quan - tức là từ chối giảm thuế theo cam kết
WTO - đối với nước áp dụng biện pháp tự vệ).
Tuy nhiên, việc trả đũa không được thực hiện trong 3 năm đầu kể từ khi biện pháp tự vệ được áp
dụng (nếu biện pháp áp dụng tuân thủ đầy đủ các quy định của WTO và thiệt hại nghiêm trọng là
thiệt hại thực tế).
4 / Tác động của biện pháp tự vệ đối với các quốc gia thành viên WTO
4.1 / Tác động tổng quan
Trong điều kiện Thế giới hiện nay, cơ chế quản lý xuất nhập khẩu của các quốc gia luôn được
điều chỉnh theo các chuẩn mực quốc tế, các biện pháp hạn chế định lượng và hàng rào phi thuế
được loại bỏ dần, thay vào đó là các các Hiệp định đa phương trong WTO, việc sử dụng biện
pháp tự vệ có thể có các tác động sau đây:
Những tác động tích cực
Có một công cụ bảo hộ hợp pháp, ngăn chặn hoặc hạn chế những diễn biến bất lợi do
việc nhập khẩu hàng hoá gia tăng bất thường gây ra;
Sản xuất trong nước đỡ chịu nguy cơ bị đảo lộn, thậm chí bị phá sản do nhập khẩu hàng
hoá quá mức gây ra;
Góp phần xây dựng một hệ thống chính sách quản lý thương mại rõ ràng và ổn định hơn;
Chủ động chế định hoá các định chế của WTO vào luật pháp trong nước và điều chỉnh
luật pháp trong nước phù hợp với các chuẩn mực của thế giới và WTO.
Những tác động tiêu cực
Việc áp dụng các biện pháp tự vệ cũng có thể làm giảm cơ hội của các ngành sản xuất sử
dụng hàng hoá nhập khẩu đầu vào cho sản xuất với giá thấp hoặc chất lượng tốt hơn, hạn chế
người tiêu dùng có được những hàng hoá tương tự với giá rẻ hơn;
Trong một số trường hợp, việc áp dụng các biện pháp tự vệ có thể làm thay đổi đáng kể
các cơ hội thị trường mà các đối tác nước ngoài có được và do vậy có thể dẫn đến sự khiếu nại từ
phía Chính phủ nước ngoài, thậm chí khi tham vấn liên Chính phủ không thành công có thể bị trả
đũa;
Nếu lạm dụng các biện pháp tự vệ sẽ làm nảy sinh sự ỷ lại của các doanh nghiệp vào sự
bảo hộ quá mức của nhà nước.
4.2 / Tác động theo nhóm nước
13
Có thể phân nhóm tác động của biện pháp tự vệ ra làm hai nhóm, trong mỗi nhóm tác động bao
gồm hai nhóm quốc gia với các tác động khác nhau:
* Nhóm các nước nhập khẩu và các nước xuất khẩu
Nước nhập khẩu:
- Áp dụng biện pháp tự vệ trong thương mại đối với một mặt hàng sẽ giúp các doanh nghiệp trong
nước sản xuất mặt hàng đó tránh được sự cạnh tranh tạm thời của các sản phẩm cùng loại đc sx ở
nước ngoài.
Nước xuất khẩu:
- Khi bị nước nhập khẩu đối xử bằng cách sử dụng biện pháp tự vệ trong thương mại, nước
xuất khẩu sẽ bị đặt vào thế bị động. Khi đó, hai nước này sẽ bàn bạc nhằm tìm ra thoả thuận
chung về việc nước nhập khẩu sẽ đền bù thiệt hại cho nước xuất khẩu như thế nào.
Không nước nào có lợi hơn nước nào. Trong ngắn hạn, nước nhập khẩu vì muốn “cứu” một
mặt hàng này sẽ phải nhượng bộ nước xuất khẩu ở một mặt hàng khác.
* Nhóm các nước đang phát triển và nhóm các nước phát triển
Nhóm các nước đang phát triển:
- Thường là nước áp dụng các biện pháp tự vệ trong thương mại trước do một mặt hàng nào đó
chưa phát triển đủ mạnh, sức cạnh tranh chưa cao trên thị trường. Nếu mới ra mắt mà đã bị các
sản phẩm cùng loại được nhập khẩu cạnh tranh khốc liệt thì sẽ nhanh chóng biến mất khỏi thị
trường, doanh nghiệp do đó sẽ “chết yểu”. Tuy nhiên, để không bị nước xuất khẩu mặt hàng nói
trên “trả đũa”, nước nhập khẩu phải nhượng bộ ở một mặt hàng khác. => cái lợi trong ngắn hạn,
lợi ích trước mắt.
Nhóm các nước phát triển:
- Dù ở thế bị động nhưng qua quá trình thoả thuận sau đó hoặc nếu không tìm được một
thoả thuận chung nào thì các nước này được quyền sử dụng biện pháp trả đũa, vị thế lại cân bằng.
Lợi ích cũng được cân bằng trở lại.
“Chân lý thuộc về kẻ mạnh”. Khi tham gia vào cuộc chơi “tự do hoá thương mại”, tuy có
nhiều cơ hội dành cho các nước đang phát triển nhưng thách thức mà những nước này phải đối
mặt cũng không phải là ít. Và làm sao để hàng hoá của nước mình không bị “thua ngay trên sân
nhà” là một trong những thách thức đó.
14
Phần III: Tình hình thực tiễn sử dụng các biện pháp tự vệ ở
một số nước trên thế giới và Việt Nam
Số liệu các vụ tự vệ ở một số thị trường lớn trên thế giới
(tính từ 1/1/1995 đến 19/06/2008)
1 / Thực tiễn sử dụng các biện pháp tự vệ ở Liên minh Châu âu (EU)
1.1 / Sơ lược về Quy chế số 3285/94/EC- Quy chế về các biện pháp tự vệ của EU
Đây là một trong số các Quy chế chung của EU. Nó còn được gọi là Quy chế số 3285/94/EC,
Quy chế này được thiết lập dựa trên nguyên tắc của tự do nhập khẩu tuy nhiên nó cho phép EU
trong những trường hợp cần thiết có thể áp dụng các biện pháp tự vệ nhằm bảo vệ quyền lợi của
Tên nước Số vụ điều tra Số vụ áp dụng
biện pháp tự vệ
Số vụ bị kiện tại
WTO
Tất cả các thành viên 164 79 25
Ấn Độ 15 9 0
Thổ Nhĩ Kỳ 14 7 0
Hoa Kỳ 10 6 9
Philippines 7 5 0
EU 4 3 2
Nhật Bản 1 0 0
15
mình khi có sự gia tăng không lường trước được của hàng nhập khẩu vào EU gây ra thiệt hại cho
các nhà sản xuất trong Cộng đồng trước tác động của chính sách tự do hoá thương mại trong điều
kiện cạnh tranh bình đẳng. Được sửa đổi và bổ sung lần 1 vào năm 1996, lần 2 vào năm 2000,
Quy chế này được áp dụng đối với mọi loại hàng hoá nhập khẩu (ngoại trừ các sản phẩm dệt
may) có xuất xứ từ tất cả các nước thứ ba- là những nước không nằm trong EU, ngoại trừ một số
nước đang phát triển như Albanie, Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG) và một số nước Châu á
như Trung quốc, Mông cổ, Bắc Triều Tiên và Việt Nam (việc nhập khẩu hàng hoá từ những nước
này sẽ chịu sự điều chỉnh của một Quy chế khác- quy chế số 519/94/EC
1.2 / Thủ tục áp dụng biện pháp tự vệ của EU.
Thủ tục cung cấp thông tin và tham vấn
Khi các nước thành viên trong Cộng đồng nhận thấy sự gia tăng của hàng nhập khẩu lên đến mức báo
động cần phải áp dụng biện pháp hạn chế thì các nước đó phải thông báo ngay cho Uỷ ban Châu âu-
dưới đây gọi tắt là Uỷ ban. Trong thông báo đó phải nêu rõ các bằng chứng hiển nhiên được xác định
trên cơ sở các tiêu chuẩn được nêu trong phần điều kiện áp dụng các biện pháp tự vệ. Uỷ ban sẽ
chuyển thông báo đó đến toàn thể các nước thành viên khác.
Việc tham vấn có thể được diễn ra theo yêu cầu của một nước thành viên bất kỳ hoặc do chính Uỷ
ban khởi xướng. Nó phải được diễn ra trong vòng 8 ngày ngay sau khi nhận được thông báo như
đã nói ở trên và trong mọi trường hợp việc tham vấn phải được diễn ra trước khi tiến hành áp
dụng các biện pháp tự vệ dưới sự điều hành của một Hội đồng tham vấn bao gồm đại diện của các
nước thành viên do một uỷ viên của Uỷ ban làm chủ tịch hội đồng. Hội đồng này được triệu tập
theo lệnh của chủ tịch hội đồng. Người này có nghĩa vụ phải thông báo đến các nước thành viên
mọi thông tin có liên quan trong thời hạn sớm nhất.
Khi quyết định tiến hành điều tra, Uỷ ban phải nghiên cứu, xem xét và kiểm tra lại tất cả những
thông tin nhận được liên quan đến vụ việc với sự trợ giúp tự nguyện của các tổ chức thành viên. Các
bên có liên quan cũng như đại điện của nước xuất khẩu có quyền được biết tất cả những thông tin
được cung cấp cho Uỷ ban trong khuôn khổ của cuộc điều tra trong chừng mực mà những thông tin
đó không được coi là thông tin bí mật. Các nước thành viên có nghĩa vụ cung cấp cho Uỷ ban các
thông tin mà họ có được về sự gia tăng loại hàng hoá đang được điều tra trên thị trường nước mình
theo thủ tục và yêu cầu của Uỷ ban .
16
Nếu các thông tin không được cung cấp trong thời hạn xác định của cuộc điều tra hoặc những
thông tin được cung cấp sai lệch, giả dối làm cản trở đến quá trình điều tra thì Uỷ ban có thể bỏ
qua những thông tin đó và đưa ra quyết định dựa trên những dữ liệu có sẵn.
Thủ tục điều tra để áp dụng biện pháp tự vệ
Căn cứ vào kết quả điều tra, nếu Uỷ ban nhận thấy không cần thiết phải áp dụng bất kỳ biện pháp
tự vệ nào thì trong vòng 1 tháng sau khi gửi thông báo lên Hội đồng tham vấn, cuộc điều tra sẽ
được chấm dứt với một bản tường trình những kết luận sơ bộ của cuộc điều tra và 1 bản tóm tắt
các lý do dẫn đến kết luận nói trên. Cả 2 văn bản này phải được công bố trên Công báo của Cộng
đồng Châu âu. Còn nếu Uỷ ban nhận thấy việc áp dụng các biện pháp tự vệ là cần thiết thì sẽ phải
đưa ra những kiến nghị yêu cầu Hội đồng tham vấn quyết định áp dụng biện pháp tự vệ phù hợp.
Kiến nghị này cũng phải được công bố trên Công báo cùng với lý do áp dụng và thời hạn áp
dụng.
1.3 / Áp dụng và thời hạn áp dụng các biện pháp tự vệ
Sau khi tiến hành điều tra, Uỷ ban chỉ có thể quyết định áp dụng biện pháp tự vệ khi đã xác định
đầy đủ các điều kiện cần thiết để áp dụng. Điều kiện thứ nhất là phải có sự gia tăng thực sự của
một loại hàng hoá nhập khẩu vào Cộng đồng và điều kiện thứ hai là trong hoàn cảnh gia tăng
hàng nhập khẩu như thế đã gây ra hay đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho các nhà sản xuất
trong Cộng đồng. Khi đó để bảo vệ quyền lợi chung của Cộng đồng, Uỷ ban theo yêu cầu của
một nước thành viên hoặc theo kiến nghị của chính Uỷ ban có thể tiến hành biện pháp tự vệ dưới
các hình thức sau:
Thay đổi thời hạn hiệu lực của các hợp đồng nhập khẩu (thường là rút ngắn thời hạn hiệu
lực của các hợp đồng này);
Tiến hành cấp giấy phép nhập khẩu theo thủ tục và trong giới hạn nhất định;
Ap dụng hạn ngạch nhập khẩu.
17
2 / Thực tiễn biện pháp tự vệ tại Việt Nam
2.1 / Các vụ kiện tự vệ đối với hàng hoá Việt Nam
Cho đến hết năm 2008, hàng hoá Việt Nam xuất khẩu đã bị vướng vào 05 vụ điều tra tự vệ tại 03
thị trường xuất khẩu. Trong đó:
03 vụ kết thúc bằng biện pháp tự vệ của nước nhập khẩu dưới hình thức bổ sung thêm
một khoản thuế khi hàng hoá Việt Nam nhập khẩu vào nước họ.
02 vụ chấm dứt mà không có biện pháp nào được áp dụng do không chứng minh được là
ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu đã phải chịu thiệt hại nghiêm trọng từ việc hàng
hoá nước ngoài nhập khẩu ồ ạt.
(Số liệu các vụ kiện tính đến 12/2008)
Năm Mặt hàng Nước điều tra Kết quả
2006 Hoá chất STPP Philippines Vụ kiện chấm dứt do không có
thiệt hại nghiêm trọng đối với
ngành sản xuất nội địa
2005 Xe đạp Canada Vụ kiện chấm dứt do không có
thiệt hại nghiêm trọng đối với
ngành sản xuất nội địa
2004 Tinh bột sắn Ấn Độ Thuế bổ sung 33%
2003 Kính nổi Philippines Kính nổi không màu:
3,971peso/MT
Kính nổi phủ màu:
5,016peso/MT
2001 Gạch ốp lát Philippines 2,15peso/kg
18
2.2 / Biện pháp tự vệ đối với hàng hóa nước ngoài tại Việt Nam được quy định thông
qua
Văn bản pháp luật
Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam;
Nghị định 150/2003/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh về tự vệ trong nhập
khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam;
Nghị định 04/2006/NĐ-CP về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, cơ cấu tổ chức của Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự
vệ;
Nghị định 06/2006/NĐ-CP về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh;
Nội dung
Các quy định về biện pháp tự vệ của Việt Nam tuân thủ các nguyên tắc và quy định của WTO về
vấn đề này.
Cơ quan có thẩm quyền
Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công Thương: Chịu trách nhiệm điều tra, trình kết quả điều
tra và đề xuất cách thức xử lý cho cơ quan có thẩm quyền;
Hội đồng xử lý vụ việc tự vệ - Bộ Công Thương: Xem xét, nghiên cứu kết quả điều tra
của Cục quản lý cạnh tranh, thảo luận và kiến nghị Bộ trưởng Bộ Công Thương về cách
thức xử lý;
Bộ trưởng Bộ Công Thương: Quyết định có hoặc không áp dụng biện pháp tự vệ.
KẾT LUẬN
19
Tổ chức thương mại thế giới đã quy định về các biện pháp tự vệ trong Điều XIX và hành
động tự vệ khẩn cấp của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT 1994, được cụ thể
hoá trong Hiệp định về các biện pháp tự vệ của Tổ chức thương mại thế giới. Hầu hết các nước
trên thế giới đều đã có luật quy định về cơ chế tự vệ của nước mình, hay chấp nhận và thực thi
Hiệp định về các biện pháp tự vệ của WTO. Ngay trong phạm vi các khu vực mậu dịch tự do mà
AFTA là một ví dụ, cũng có quy định cho phép các nước thành viên áp dụng các biện pháp tự vệ
khi có sự gia tăng nhập khẩu gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước. Như vậy có thể nói các
biện pháp tự vệ giống như chiếc van an toàn, hợp pháp nhằm bảo vệ nền kinh tế ngay trong
trường hợp thương mại diễn ra lành mạnh. Biện pháp tự vệ giúp các ngành công nghiệp nông
nghiệp non trẻ trong nước có đủ thời gian phát triển vững chắc trước sự cạnh tranh ồ ạt từ nước
ngoài. Tuy vậy, biện pháp này “không miễn phí”, chính vì thế không thể là lựa chọn lâu dài cho
nền kinh tế trong nước. Đây chỉ là một động lực giúp thúc đẩy nền kinh tế tự phát triển và thích
nghi dần dần trong xu thế hội nhập kinh tế hiện nay.
Đn đối với Việt Nam chúng ta, tuy đã có những thay đổi to lớn trong những năm vừa qua
nhưng nếu so sánh với các nước khác trong khu vực thì trình phát triển của chúng ta vẫn còn thua
họ một khoảng cách khá xa. Do vậy, cần có một sự bảo hộ nói chung và một cơ chế tự vệ nói
riêng cho các ngành sản xuất trong nước vì tương lai của nền kinh tế quốc nội. Tuy nhiên, cần
bảo hộ tự vệ một cách có điều kiện, không tràn lan, nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh trong nước phát triển nhưng không làm cho người sản xuất ỷ lại vào chính sách bảo
hộ mậu dịch và tự vệ thương mại, dẫn tới thói quen cẩu thả lãng phí và mất đi khả năng thích ứng
linh hoạt. Chính sách bảo hộ và tự vệ cũng cần phải giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa lợi ích
của người sản xuất và lợi ích của người tiêu dùng.
Để việc bảo hộ nền sản xuất trong nước có hiệu quả thông qua các biện pháp tự vệ và để các
doanh nghiệp trong nước thực sự phát triển và có đủ sức cạnh tranh trong điều kiện thị trường tự
do sắp tới thì Nhà nước ta một mặt cần phải xây dựng và hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp lý về
thương mại nói chung và tự vệ thương mại nói riêng, xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước
chuyên trách trong lĩnh vực tự vệ thương mại, Mặt khác cũng cần phải có những biện pháp hỗ trợ
cho các doanh nghiệp thông qua các hình thức như thành lập các trung tâm xúc tiến mậu dịch với
nhiệm vụ xúc tiến đầu tư, hỗ trợ các doanh nghiệp thâm nhập thị trường và tìm kiếm bạn hàng
mới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn bản pháp luật:
20
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại- GATT 1994
Hiệp định về các biện pháp tự vệ.
Hiệp định về việc thực thi Điều VI của Hiệp định GATT.
Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam 2002
Pháp lệnh về đối xử Tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế 2002.
Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31 tháng 7 năm 1998 quy định chi tiết thi hành luật
thương mại về hoạt động xuất nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với thương
nhân nước ngoài.
Sách và tạp chí:
Tổ chức thương mại thế giới (WTO)- Bộ Ngoại Giao, Vụ Hợp tác kinh tế đa phương, Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia 2000
Việt Nam hội nhập trong xu thế toàn cầu hoá, vấn đề và giải pháp- Bộ Ngoại Giao, Vụ Hợp tác
Kinh tế đa phương, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2002.
Những điều cần biết về Tổ chức thương mại thế giới và tiến trình gia nhập của Việt Nam-
Bộ Thương mại, Viện nghiên cứu thương mại, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 1998.
Chính sách thương mại trong điều kiện hội nhập- Hoàng Văn Thân, Đại học kinh tế quốc
dân, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 2001
Giáo trình Quan hệ kinh tế quốc tế- Trường Đại học Luật Hà nội, Nhà xuất bản Công an
nhân dân 2001.
Tài liệu, thông tin, số liệu tham khảo khác từ các trang Web:
www.wto.org www.vneconomy.com.vn
www.tapchicongsan.org.vn www.europa.eu.int
www.usitc.gov.com www.mot.gov.vn
www.dei.gov.vn www.vcci.com.vn
www.vietrade.gov.vn www.mofa.gov.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai_tong_hop_0229.pdf