Đề tài Tổng quan về thị trường bán lẻ ở Việt Nam

1. Việt Nam trở thành thị trường đầu tư bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới Tháng 6/2008, hãng tư vấn Mỹ A.T. Kearney công bố báo cáo thường niên về chỉ số phát triển bán lẻ toàn cầu (GRDI), theo đó Việt Nam đã soán ngôi số một của Ấn Độ để trở thành thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất trong số các thị trường mới nổi (năm 2007, Việt Nam xếp thứ 4). Theo A.T. Kearney, thị trường bán lẻ Việt Nam tuy quy mô còn nhỏ (khoảng 20 tỷ USD) song vẫn rất hấp dẫn bởi áp lực cạnh tranh chưa lớn trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm khá cao, thể chế chính sách lại đang được điều chỉnh theo hướng thân thiện hơn với nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, người tiêu dùng Việt Nam thuộc hàng trẻ nhất châu Á và ngày càng mạnh tay chi tiêu. Theo A.T. Kearney, “bây giờ là lúc thích hợp nhất để tham gia vào thị trường bán lẻ Việt Nam”. 2. Bốn nhà bán lẻ Việt Nam lọt vào Top 500 khu vực Châu Á – Thái Bình Dương Hàng năm, dựa trên kết quả khảo sát của Tập đoàn nghiên cứu thị trường Euromonitor International tại 14 quốc gia và vùng lãnh thổ, tạp chí Retail Asia tổ chức bình chọn 500 nhà bán lẻ hàng đầu khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Năm 2008, dựa trên kết quả kinh doanh của năm 2007, có 4 doanh nghiệp Việt Nam lọt vào danh sách này. Đứng đầu là Saigon Co-op với thứ hạng 321/500, tiếp đó là Công ty Vàng bạc Đá quý TPHCM (SJC) hạng 349/500; hệ thống siêu thị điện máy Nguyễn Kim xếp thứ 402/500 và Công ty Vàng bạc Đá quý Phú Nhuận (PNJ) xếp thứ 481/500. Đây là năm thứ 5 liên tiếp Saigon Co-op lọt vào bảng xếp hạng của Retail Asia và đoạt giải vàng Nhà bán lẻ hàng đầu Việt Nam. PNJ cũng đã 5 năm liền có mặt trong bảng xếp hạng này. Xếp hạng thị trường bán lẻ toàn cầu Việt Nam rơi năm bậc SGTT - Theo kết quả nghiên cứu lựa chọn xếp hạng 30 nền kinh tế có thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới năm nay vừa được tập đoàn tư vấn A.T. Kearney công bố, với “chỉ số phát triển bán lẻ chung năm 2009” (The 2009 A.T. Kearney Global Retail Development Index, viết tắt là GRDI) chỉ đạt 55 điểm, thị trường bán lẻ Việt Nam rơi năm bậc xuống vị trí thứ sáu. Cần lưu ý rằng, đây là bước rơi mạnh, bởi trong bảng xếp hạng của tổ chức này trong suốt sáu năm qua, chỉ mới có ba quốc gia là Slovenia, Croatia, Ukraine và Ai Cập là bị đẩy khỏi “tốp 5”, và nhất là khi đã lọt được vào “tốp 3” rồi, thì cả ba “người khổng lồ” Ấn Độ, Nga và Trung Quốc đều “cố thủ” rất chắc chắn. Mặc dù vậy, điều an ủi là, trong điều kiện khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, GRDI của tất cả các quốc gia đều rơi và khoảng cách giữa thị trường bán lẻ của nước ta với “tốp 5”, đặc biệt là với cả ba quốc gia đứng ngay sát trên chỉ duy nhất “một bước chân”. Cụ thể là, thay vì cao ngất ngưởng ở mức 88 – 100 điểm những năm trước đây, GRDI của Ấn Độ chiếm “ngôi hậu” năm nay chỉ là đạt 68 điểm, về nhì là Nga cũng chỉ đạt 60 điểm, còn ba quốc gia đứng liền kề trên chúng ta là Arập Saudi, các tiểu vương quốc Arập thống nhất và cả Trung Quốc đều chỉ đạt 56 điểm, tức là chỉ hơn thị trường bán lẻ của nước ta vỏn vẹn 1 điểm. Điều này có nghĩa là, cho dù tụt năm hạng là một bước rơi tự do đối với một quốc gia ở trong thế phát triển ổn định như nước ta là nghiêm trọng, nhưng cũng không thể phủ nhận một thực tế khác là tất cả “cùng rơi tự do” gần như nhau, cho nên cơ hội vươn lên các thứ hạng cao hơn của thị trường bán lẻ nước ta là không nhỏ. Thế nhưng, trước khi nói đến chuyện “phục thù”, điều có ý nghĩa quyết định lúc này là cần phải xem nguồn cơn dẫn đến “thảm hoạ này”. Trước hết, GRDI là chỉ số do tập đoàn tư vấn A.T. Kearney xây dựng dựa theo thang điểm 100. Trong đó, thị trường nào có điểm số càng cao có nghĩa là độ hấp dẫn và triển vọng phát triển của thị trường đó càng lớn. Trong đó, các tiêu chí hình thành GRDI được chia thành bốn nhóm lớn, đều có trọng số giống nhau là 25% và đều được đánh giá theo thang điểm 100, gồm: 1) Mức độ rủi ro quốc gia và rủi ro kinh doanh (Country and business risk), trong đó 0 điểm là rủi ro cao và 100 điểm là rủi ro thấp; 2) Độ hấp dẫn của thị trường (Market attractiveness), trong đó 0 điểm là độ hấp dẫn thấp và 100 điểm là độ hấp dẫn cao; 3) Độ bão hoà của thị trường (Market saturation), trong đó 0 điểm là bão hoà và 100 điểm là không bão hoà; 4) Áp lực thời gian (Time pressure), trong đó 0 điểm là không có áp lực về thời gian và 100 điểm là cần khẩn trương thâm nhập thị trường. Theo cách đánh giá này, ở tiêu chí mức độ rủi ro quốc gia và rủi ro kinh doanh của thị trường bán lẻ nước ta, sau bốn năm cho dù còn chậm, nhưng vẫn có tiến bộ, thì năm nay đã rơi tự do. Đó là, theo A. T. Kearney, nếu như mức độ rủi ro quốc gia và rủi ro kinh doanh năm 2004 là 52 điểm; năm 2005 nhích lên 54 điểm; năm 2006 tụt xuống còn 43 điểm; còn hai năm 2007 – 2008 đều đạt 57 điểm, thì hiện nay rơi tự do xuống chỉ còn 34 điểm, tức là đã không chỉ giảm mất 40,35% số điểm đã đạt được, mà còn đang ở mức “đáy”. Không những vậy, ở tiêu chí độ hấp dẫn của thị trường bán lẻ nước ta, tình hình thực sự còn tồi tệ hơn nữa. Bởi lẽ, sau “những bập bõm ban đầu”, chúng ta đã có tiến bộ đáng kể trong hai năm 2007 – 2008, nhưng hiện đã rơi tự do thảm hại không những chỉ so với những gì chúng ta đã đạt được, mà còn ở mức “đáy” so với cả 30 quốc gia có tên trong bảng xếp hạng của A.T. Kearney. Cụ thể, ở tiêu chí này, nếu như thị trường bán lẻ của nước ta năm 2004 đạt 29 điểm, năm 2005 và 2006 tụt xuống chỉ còn 24 điểm, còn hai năm 2007 – 2008 cùng đạt 34 điểm, thì hiện nay rơi tự do xuống chỉ còn 16 điểm, tức là đã “đánh rơi” mất hơn một nửa số điểm đã đạt được và chỉ bằng gần 60% số điểm của quốc gia thấp nhất trong 29 quốc gia khác có trong danh sách 30 quốc gia này của A.T. Kearney năm nay. Mặc dù vậy, ở cả hai tiêu chí còn lại, thị trường bán lẻ của nước ta cũng phần nào có được “sự an ủi”. Đó là, ở tiêu chí độ bão hoà của thị trường, theo đánh giá của A.T. Kearney, thay vì 67 điểm năm 2008, với 74 điểm, độ bão hoà của thị trường bán lẻ nước ta đã “loãng hơn”, tức là nhu cầu tăng tiêu dùng hiện nay đã lớn hơn năm 2008 và gần trở lại mức của năm 2007. Đặc biệt, ở tiêu chí áp lực thời gian, với 97 điểm, tăng 7 điểm so với năm 2008, còn so với năm 2004 thì tăng tới 31 điểm và gần “chạm trần”, thị trường bán lẻ nước ta đang có “sức mời gọi” các nhà đầu tư nhanh chóng tham gia kinh doanh lớn nhất. Nói tóm lại, tuy rơi tự do trong bảng xếp hạng, nhưng nếu ổn định được tình hình vĩ mô và khôi phục được sự hấp dẫn, thì tương lai phát triển của thị trường bán lẻ nước ta sẽ rất sáng trở lại. Năm 2008, thị trường bán lẻ nước ta “qua mặt” cả ba “người khổng lồ” Ấn Độ, Nga và Trung Quốc để chiếm “ngôi hậu” trong “làng bán lẻ” thế giới.

pdf51 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4353 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tổng quan về thị trường bán lẻ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh này. Ví dụ điển hình là Liên minh mua hàng thực phẩm Promode với thành viên sáng lập, điều hành là Cap. Liên minh này hiện bao gồm rất nhiều thành viên. Vai trò “nâng cao sức cạnh tranh” của liên minh mua hàng được thể hiện qua nhiều mặt. Trước hết, liên minh có thể là đầu mối cung cấp thông tin cho các thành viên, ví dụ như thông tin về giá cả của các nhà cung cấp. Thứ hai, liên minh có thể tập hợp đơn hàng của các thành viên thành một đơn hàng lớn, đáp ứng yêu cầu về số lượng của nhà cung cấp để được hưởng chiết khấu. Đây là vai trò “thụ động” bởi số lượng để được hưởng chiết khấu và mức chiết khấu là do nhà cung cấp định đoạt, liên minh chỉ “tổng hợp lực lượng” để đáp ứng các yêu cầu đó mà thôi. Thứ ba, liên minh có thể yêu cầu nhà cung cấp đàm phán về các điều kiện mua hàng. Bằng cách này, liên minh “chủ động” thể hiện vai trò mang lại lợi ích cho các thành viên. Liên minh mua hàng góp phần làm giảm chi phí giao dịch của xã hội. Nếu nhà cung cấp phải liên hệ và đàm phán với nhiều nhà bán lẻ, chi phí bỏ ra sẽ lớn hơn nhiều so với việc đàm phán và ký hợp đồng với một liên minh. Điều này đặc biệt đúng khi loại hàng hóa liên quan đòi hỏi quá trình đàm phán, giao kết hợp đồng phức tạp. Một khi giảm được chi phí, nhà cung cấp sẽ có động lực để chia xẻ khoản “tiết kiệm” này cho liên minh và từ đó làm tăng khả năng cạnh tranh qua giá cho các thành viên của liên minh. Ở chiều ngược lại, việc tiết kiệm chi phí giao dịch cũng đúng cho các thành viên của liên minh. Thí dụ, nhờ việc tham gia các liên minh mua sản phẩm và dịch vụ y tế mà mỗi bệnh viện tại Mỹ có thể tiết kiệm tới 155 ngàn USD chi phí hành chính mỗi năm. Trong bối cảnh hầu hết các nhà bán lẻ nước ta đều là doanh nghiệp nhỏ, thiếu kinh nghiệm pháp lý, vai trò của liên minh không dừng lại ở việc giảm chi phí mà có thể tiến xa hơn. Đó là nâng cao chất lượng và sự bảo đảm của các hợp đồng giao kết. Trên thực tế, nhiều nhà bán lẻ nhỏ của ta do thiếu kinh nghiệm và kiến thức pháp luật nên đã ký nhiều hợp đồng với các điều khoản bất lợi, khi xảy ra tranh chấp đành phải chấp nhận phần thua thiệt về mình. Rủi ro này sẽ giảm đi rất nhiều nếu tham gia một liên minh đủ mạnh, đủ nguồn lực để thuê các luật sư nhằm bảo đảm sự an toàn tối đa cho các thành viên. “Các doanh nghiệp Việt Nam chưa có thói quen cũng như văn hóa liên kết để tạo ra sức mạnh chung. Đây là chuyện phổ biến trong nhiều lĩnh vực, nhiều ngành chứ không riêng trong ngành bán lẻ”. Các liên minh mua hàng còn khiến các nhà cung cấp phải tăng cường cạnh tranh với nhau để bán được hàng với số lượng lớn cho liên minh. Sức ép cạnh tranh sẽ buộc các nhà cung cấp phải cân nhắc việc giảm giá bán hoặc cải thiện chất lượng sản phẩm. Tất nhiên là điều này chỉ đúng khi trên thị trường có từ 2 nhà cung cấp trở lên và họ không có ý định liên kết với nhau để tạo ra “liên minh bán hàng”. Mặt trái của đồng tiền Mặc dù có nhiều lợi ích tiềm tàng nhưng để hiện thực hóa các lợi ích này, các liên minh phải bảo đảm một số điều kiện nhất định. Trước hết, ban điều hành liên minh phải có năng lực và công minh, nhất là khi liên minh do một thành viên sáng lập quản lý. Có năng lực để bảo đảm khai thác đầy đủ các thế mạnh của liên minh và đàm phán với các nhà cung cấp. Công minh để bảo đảm các lợi ích được chuyển tới các thành viên một cách đầy đủ, bình đẳng. Việc đại diện cho liên minh để đàm phán mua hàng có thể đem lại lợi ích “ngầm” không nhỏ nên nếu thiếu hai yếu tố này, nhất là yếu tố công minh, liên minh chắc chắn sẽ tan vỡ. Nhờ việc tham gia các liên minh mua sản phẩm và dịch vụ y tế mà mỗi bệnh viện tại Mỹ có thể tiết kiệm tới 155 ngàn USD chi phí hành chính mỗi năm. Liên minh cũng không được hạn chế cạnh tranh giữa các thành viên trên thị trường bán lẻ. Liên minh được lập ra là để tăng cường vị thế của bên mua với nhà cung cấp, từ đó tăng khả năng cạnh tranh trước các nhà bán lẻ lớn chứ không phải để tạo ra các “bên mua hàng độc quyền” và lạm dụng vị thế độc quyền này, gây tổn hại cho người tiêu dùng. Liên minh phải biến các lợi ích mà mình thu được thành lợi ích của người tiêu dùng thông qua mức giá tốt hơn, điều kiện mua hàng thuận lợi hơn. Nếu các lợi ích thu được từ các nhà cung cấp không được chuyển thành lợi ích của người tiêu dùng thì mục tiêu tối cao của liên minh là “tăng khả năng cạnh tranh” sẽ không đạt được. Người tiêu dùng, với sự chủ động của họ, sẽ chỉ lựa chọn các nhà bán lẻ có mức giá thấp hoặc điều kiện ưu đãi mà thôi. Như hai mặt của một đồng tiền, liên minh mua hàng không phải chỉ có các hiệu ứng tốt. Xét cả về khía cạnh xã hội lẫn khía cạnh bán lẻ, liên minh mua hàng có thể là con dao hai lưỡi. Nếu liên minh là quá lớn, rất dễ xảy ra tình trạng “một mình một chợ” và lạm dụng vị thế để chèn ép các nhà sản xuất hoặc hạn chế cạnh tranh giữa các thành viên trong liên minh. Hệ quả là các nhà sản xuất vẫn phải bán hàng cho liên minh với giá thấp còn người tiêu dùng vẫn phải mua hàng từ liên minh với giá cao, cả hai đều thiệt hại. Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển hệ thống phân phối Việt Nam Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển hệ thống phân phối Việt Nam (VDA) được 4 doanh nghiệp phân phối hàng đầu Việt Nam là Tổng công ty Thương mại Hà Nội (Hapro), Tổng công ty Thương mại Sài Gòn (Satra), Liên hiệp Hợp tác xã thương mại TPHCM (Saigon Co.op) và Công ty Cổ phần Tập đoàn Phú Thái (Phu Thai Group) lập ra vào ngày 01 tháng 02 năm 2007 với số vốn ban đầu là 1.500 tỷ đồng để xây dựng cơ sở hạ tầng thương mại, trong đó có hệ thống tổng kho với các trang thiết bị hiện đại. Dự kiến từ cuối 2008 sẽ đầu tư tiếp 3.000 - 6.000 tỷ đồng xây dựng các đại siêu thị, trung tâm bán buôn, tham gia thị trường chứng khoán, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp để tạo thành tập đoàn phân phối số 1 Việt Nam. VietNamNet, 01/02/2007 Các liên minh mua hàng lớn còn có thể gây thiệt hại, thậm chí tiêu diệt các nhà bán lẻ khác bởi họ không thể tiếp cận nguồn hàng với các điều kiện ưu đãi như liên minh. Nguy cơ này thường xảy ra với các liên minh dạng “đóng”. Các liên minh mua hàng quá lớn, gồm nhiều thành viên quan trọng trên thị trường bán lẻ cũng có thể sử dụng thế mạnh để gây tổn hại, thậm chí tiêu diệt các nhà cung cấp nếu không chịu chấp nhận các điều kiện của liên minh. Trường hợp của Toys ‘R’ Us (TRU), nhà bán lẻ đồ chơi lớn nhất Hoa Kỳ, có thể lấy làm ví dụ về một tác hại nữa của liên minh. Với gần 1.000 cửa hàng tại Hoa Kỳ và trên thế giới, hệ thống TRU đã trở thành khách hàng quan trọng nhất, chiếm hơn 30% sản lượng của các nhà sản xuất đồ chơi. TRU đã lợi dụng vị thế này của mình để “đi đêm” với các nhà sản xuất, hứa hẹn chia chác lợi ích với họ để yêu cầu họ không bán hàng cho các nhà phân phối khác, từ đó hạn chế cạnh tranh và gây thiệt hại cho người tiêu dùng Lịch sử dịch vụ phân phối tại các nước phát triển cho thấy sự ra đời của các liên minh mua hàng thường bắt nguồn từ nhu cầu của chính các doanh nghiệp nhỏ khi phải đối mặt với cạnh tranh khốc liệt, rất giống với tình hình của ta hiện nay. Trong bối cảnh ta sắp mở cửa thị trường phân phối một cách toàn diện, liên minh mua hàng là một hình thức rất đáng để các nhà bán lẻ trong nước và cơ quan quản lý nghiên cứu, triển khai. Yếu tố quan trọng nhất trong việc thành lập hay tham gia liên minh là tự nguyện. Khi tham gia liên minh mua hàng, từng nhà bán lẻ sẽ phải từ bỏ “chủ quyền” của mình trong việc lựa chọn nhà cung cấp. Đó là điều đáng để suy nghĩ nhưng với các lợi ích tiềm năng mà liên minh mua hàng đem lại, có lý do để cân nhắc và đưa ra quyết định có lợi nhất cho doanh nghiệp của mình. Về phía cơ quan quản lý Nhà nước, có thể và nên khuyến khích sự ra đời của các liên minh này nhưng song song với đó, cũng cần có biện pháp để hạn chế các tác động bất lợi tiềm tàng của liên minh. Phập phồng chuyện mở thêm điểm bán lẻ Thứ bảy, 06 Tháng 6 2009 03:28 Đến thời điểm này, Bộ Công Thương cho biết đã hoàn thành việc ban hành các văn bản hướng dẫn thực thi cam kết WTO về mở cửa thị trường bán lẻ. Tuy nhiên, không ít luật gia và doanh nghiệp lại khẳng định, Bộ Công Thương vẫn còn “nợ” các hướng dẫn về hệ tiêu chí cấp phép, một vấn đề mà bất cứ nhà đầu tư nước ngoài nào cũng phải đụng tới khi muốn lập thêm cơ sở bán lẻ tại Việt Nam. Theo cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), các nhà bán lẻ nước ngoài tại Việt Nam, nếu muốn lập thêm cơ sở bán lẻ, phải được phép của cơ quan quản lý Nhà nước. Việc cấp phép sẽ được tiến hành trên cơ sở xem xét một số điều kiện, hay tiêu chí, mà Việt Nam đã cam kết với WTO. Quá trình này, theo thuật ngữ WTO, được gọi là Kiểm tra nhu cầu kinh tế. Tại hội thảo về Mở cửa thị trường trong lĩnh vực phân phối - bán lẻ tổ chức vào ngày 13/10 vừa qua, một quan chức của Bộ Công Thương cho biết, từ nay đến 01/01/2009, Bộ có thể sẽ không ban hành thêm hướng dẫn về Kiểm tra nhu cầu kinh tế bởi với các văn bản đã được ban hành, hệ điều kiện đã khá rõ và doanh nghiệp có thể căn cứ vào đó để làm đơn xin mở thêm điểm bán lẻ. Thông báo này gây không ít ngạc nhiên bởi cách đây chưa lâu, khi ban hành Thông tư 05 để sửa đổi, bổ sung các quy định về mua bán hàng hóa của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Bộ Công Thương đã hứa là sẽ sớm ban hành các quy định cụ thể hoá các tiêu chí cấp phép mở thêm điểm bán lẻ cho nhà đầu tư nước ngoài. Cách bài trí trong siêu thị ở Việt Nam khá giống nhau Nguyên Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển trước đây cũng đã khẳng định sự cần thiết phải cụ thể hoá hệ tiêu chí trong việc cấp phép mở điểm bán lẻ. Các tiêu chí này bao gồm (xin trích nguyên văn): “số lượng các cửa hàng bán lẻ đã có trong một khu vực địa lý”, “sự ổn định của thị trường”, “quy mô địa lý”, “mật độ dân cư trên địa bàn” và “sự phù hợp của dự án đầu tư với quy hoạch của tỉnh, thành phố”. Bằng con mắt chuyên môn lẫn không chuyên môn, có thể nhận thấy ngay là hệ tiêu chí nêu trên chưa đủ rõ. Thí dụ, khi cấp phép, phải căn cứ vào “số lượng các cửa hàng bán lẻ” và “mật độ dân cư” trên địa bàn. Số lượng là bao nhiêu, mật độ là thế nào? Chỉ riêng 2 câu hỏi đó đã đủ làm đau đầu những người đang có ý định mở thêm điểm bán lẻ. Sự thiếu vắng những quy định cụ thể và rõ ràng sẽ gây nhiều lúng túng và thấp thỏm cho nhà đầu tư. “Hướng dẫn có thể coi là đã đầy đủ. Nếu doanh nghiệp nước ngoài thực hiện đúng theo hướng dẫn, họ sẽ được xem xét cấp phép”- vị quan chức của Bộ Công Thương khẳng định và cho biết thêm: “nếu nhà đầu tư thực sự có thiện chí và thực sự chuyên nghiệp, việc lập hồ sơ sẽ không hề khó khăn đối với họ”. Theo vị quan chức này, trong bản nghiên cứu khả thi, các nhà đầu tư hãy “cố gắng giải trình tối đa” theo các tiêu chí đã được công bố, Bộ Công Thương sẽ có trách nhiệm xem xét, trả lời “thoả đáng”. Quan chức này cũng cho rằng, việc cụ thể hoá hơn nữa các tiêu chí cấp phép là việc làm “máy móc” và có thể sẽ “sớm lạc hậu” vì Việt Nam đang phát triển rất nhanh và trình độ phát triển của các địa phương rất không đồng đều. Thêm vào đó, tiêu chí cấp phép của một số nước như Pháp và Trung Quốc cũng dừng ở mức “chung chung” như Việt Nam mà thôi. Theo quan chức này, ngay cả WTO cũng quy định mơ hồ về Kiểm tra nhu cầu kinh tế nên việc áp dụng sẽ phải phụ thuộc vào hoàn cảnh của từng quốc gia. Giới doanh nghiệp và chuyên gia dường như không nghĩ vậy. Nhiều luật gia cho rằng, các tiêu chí cấp phép mà Bộ Công Thương đưa ra tuy không trái với cam kết WTO nhưng rất không rõ ràng. Ngay giới luật gia cũng chưa hiểu thì doanh nghiệp làm sao hiểu và “giải trình” được trong các bản “nghiên cứu khả thi”? Chưa kể, việc hiểu hệ tiêu chí này như thế nào là việc của Nhà nước bởi Nhà nước mới là người đưa ra tiêu chí, không phải doanh nghiệp. Quầy thu tiền của Metro tại Ấn Độ Luật sư Đặng Trọng Hiếu, Công ty Luật Vision & Associates cho rằng, hầu hết các tiêu chí cấp phép mở thêm điểm bán lẻ đều chưa được giải thích và cụ thể hoá. Đơn cử, doanh nghiệp không biết phải hiểu thế nào về “sự ổn định của thị trường”. Liệu doanh nghiệp có phải tự chứng minh rằng thị trường nơi mình chuẩn bị lập cơ sở bán lẻ là “ổn định”? Có tiêu chí mới nghe tưởng như rất “xuôi” là “phù hợp với quy hoạch”. Thế nhưng, chứng minh được điều này là cả một vấn đề bởi phần lớn các tỉnh, thành mới chỉ có quy hoạch chợ, quy hoạch hạ tầng thương mại, chưa có quy hoạch cho hệ thống bán lẻ. “Địa phương chưa có quy hoạch thì làm sao chứng minh được dự án có phù hợp hay không?”- ông Hiếu nói. Theo ông, Bộ Công Thương nên hướng dẫn thêm và không nên so bì với Trung Quốc và Pháp, nơi mà thông tin về quy hoạch, tổng cung, tổng cầu, mật độ dân cư ... vốn rất đầy đủ và sẵn sàng. Ông Hiếu cho rằng, sự thiếu vắng những quy định cụ thể và rõ ràng sẽ gây nhiều lúng túng và thấp thỏm cho nhà đầu tư. Không có những tiêu chuẩn cụ thể, nhà đầu tư có thể lâm vào tình trạng mất rất nhiều thời gian và công sức cho việc điều nghiên, sưu tầm tài liệu để giải trình nhưng vẫn không biết liều lượng giải trình như thế đã đủ chưa và cơ hội có được giấy phép là nhiều hay ít. Khi không có căn cứ, tiêu chuẩn cụ thể, việc đánh giá, thẩm định dự án sẽ phụ thuộc rất nhiều vào chủ quan của cơ quan xét duyệt. “Những quy định không rõ ràng như vậy sẽ rất dễ làm nảy sinh tiêu cực và cơ chế xin-cho”- ông Hiếu nói. Ông Nguyễn Thái Dũng, Phó Tổng giám đốc Big C Thăng Long cho rằng, thất bại trong việc xin cấp giấy phép mở thêm điểm bán lẻ không chỉ làm mất thời gian và công sức mà trong nhiều trường hợp, còn gây tổn hại về kinh tế cho doanh nghiệp. “Giả dụ doanh nghiệp đã tìm đươc địa điểm, đã làm nghiên cứu khả thi và đặt cọc cả tiền thuê địa điểm nhưng khi trình hồ sơ thì bị cơ quan chức năng từ chối ..” - ông Dũng băn khoăn. Ông giải thích doanh nghiệp nước ngoài thường phải đặt cọc tiền thuê địa điểm, hay chí ít cũng phải có được một biên bản ghi nhớ về việc thuê địa điểm trước khi nộp hồ sơ vì “địa điểm” là thứ gắn liền với hồ sơ. Thậm chí, việc có được giấy phép cũng sẽ là vô nghĩa nếu doanh nghiệp không thuê hoặc mua được địa điểm mà mình đã mô tả trong hồ sơ. “Những tiêu chí cấp phép chưa được cụ thể hoá có thể là rào cản vô hình đối với doanh nghiệp nước ngoài”- ông Dũng nói. Tiến sĩ Anne-Laure Nguyễn, Văn phòng luật Baker & McKenzie, đồng thời là người đại diện cho nhóm các doanh nghiệp chế tạo và phân phối tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam tháng 12/2007 cũng cho rằng, Chính phủ cần sớm làm rõ các tiêu chí cấp phép mở thêm điểm bán lẻ và định nghĩa rõ hơn về “dịch vụ bán lẻ”. Theo bà, sự chậm trễ trong việc đưa ra định nghĩa và làm rõ tiêu chí sẽ hạn chế sự phát triển của thị trường bán lẻ. Cái đáng ngại nhất không phải là sự xuất hiện của các nhà bán lẻ nước ngoài mà là không biết họ sẽ “bất thình lình” xuất hiện thêm vào lúc nào và ở đâu. “Trong bối cảnh nền kinh tế có tốc độ lạm phát cao, giá cả hàng hóa đắt đỏ, việc gia tăng số lượng các nhà bán lẻ trên thị trường sẽ làm tăng áp lực cạnh tranh giữa họ với nhau và giảm giá hàng hoá theo hướng có lợi cho người tiêu dùng”- luật gia này nói. Những tiêu chí cấp phép không rõ ràng đối với nhà đầu tư nước ngoài dường như đang mang lại lợi ích cho các nhà bán lẻ trong nước. Tuy nhiên, một vài người trong số họ lại không nghĩ như vậy. Theo họ, sự mù mờ có thể là con dao hai lưỡi, bởi cấp phép hay không cấp phép là hoàn toàn tùy thuộc vào chủ quan của cơ quan chức năng. Điều gì sẽ xảy ra nếu “cơ quan chức năng” ở các tỉnh, thành lại “vận dụng” theo hướng bất lợi cho doanh nghiệp trong nước? Tốt nhất là nên làm rõ hệ tiêu chí để còn biết thách thức nằm ở đâu, từ đó có hướng điều chỉnh chiến lược kinh doanh. Cái đáng ngại nhất không phải là sự xuất hiện của các nhà bán lẻ nước ngoài (bởi họ đã xuất hiện rồi!) mà là không biết họ sẽ “bất thình lình” xuất hiện thêm vào lúc nào, ở đâu, với quy mô ra sao. Những câu hỏi đó chỉ có thể trả lời khi có một hệ tiêu chí cấp phép rõ ràng. Nhiều luật gia cho rằng, các tiêu chí cấp phép mà Bộ Công Thương đưa ra tuy không trái với cam kết WTO nhưng rất không rõ ràng. Ngay giới luật gia cũng chưa hiểu thì doanh nghiệp làm sao hiểu và “giải trình” được. 10 sự kiện bán lẻ nổi bật năm 2008 Thứ hai, 11 Tháng 5 2009 14:57 Năm 2008 đã qua đi đầy sôi động. Trước thềm năm mới Kỷ Sửu, Thương Trường điểm lại 10 sự kiện bán lẻ nổi bật trong năm qua. 1. Việt Nam trở thành thị trường đầu tư bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới Tháng 6/2008, hãng tư vấn Mỹ A.T. Kearney công bố báo cáo thường niên về chỉ số phát triển bán lẻ toàn cầu (GRDI), theo đó Việt Nam đã soán ngôi số một của Ấn Độ để trở thành thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất trong số các thị trường mới nổi (năm 2007, Việt Nam xếp thứ 4). Theo A.T. Kearney, thị trường bán lẻ Việt Nam tuy quy mô còn nhỏ (khoảng 20 tỷ USD) song vẫn rất hấp dẫn bởi áp lực cạnh tranh chưa lớn trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm khá cao, thể chế chính sách lại đang được điều chỉnh theo hướng thân thiện hơn với nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, người tiêu dùng Việt Nam thuộc hàng trẻ nhất châu Á và ngày càng mạnh tay chi tiêu. Theo A.T. Kearney, “bây giờ là lúc thích hợp nhất để tham gia vào thị trường bán lẻ Việt Nam”. 2. Bốn nhà bán lẻ Việt Nam lọt vào Top 500 khu vực Châu Á – Thái Bình Dương Hàng năm, dựa trên kết quả khảo sát của Tập đoàn nghiên cứu thị trường Euromonitor International tại 14 quốc gia và vùng lãnh thổ, tạp chí Retail Asia tổ chức bình chọn 500 nhà bán lẻ hàng đầu khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Năm 2008, dựa trên kết quả kinh doanh của năm 2007, có 4 doanh nghiệp Việt Nam lọt vào danh sách này. Đứng đầu là Saigon Co-op với thứ hạng 321/500, tiếp đó là Công ty Vàng bạc Đá quý TPHCM (SJC) hạng 349/500; hệ thống siêu thị điện máy Nguyễn Kim xếp thứ 402/500 và Công ty Vàng bạc Đá quý Phú Nhuận (PNJ) xếp thứ 481/500. Đây là năm thứ 5 liên tiếp Saigon Co-op lọt vào bảng xếp hạng của Retail Asia và đoạt giải vàng Nhà bán lẻ hàng đầu Việt Nam. PNJ cũng đã 5 năm liền có mặt trong bảng xếp hạng này. 3. Người tiêu dùng thắt lưng buộc bụng Giá cả tăng cao kết hợp với thu nhập giảm sút đã khiến người tiêu dùng thắt chặt hầu bao trong năm 2008. Sau 3 tháng đầu năm 2008, nếu loại trừ yếu tố tăng giá, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng chỉ tăng được 13%, thấp hơn mức tăng 15% của 3 tháng đầu năm 2007. Xu hướng giảm tiếp tục được khẳng định trong năm và đến tháng 11/2008, sau khi loại trừ yếu tố tăng giá, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng chỉ còn tăng được 6,2%, bằng 1/2 tốc độ tăng của cùng kỳ năm trước và là mức thấp nhất trong vài năm trở lại đây. 4. Giá gạo “sốt ảo” Tháng 4/2008, lợi dụng tình hình khan hiếm lương thực ở một số nước trên thế giới, một số kẻ xấu đã tung tin thất thiệt về khả năng mất cân đối lương thực trong nước để tiến hành thu gom lúa, gạo với mục đích đầu cơ trục lợi. Giá gạo, vì vậy, đã lên cơn “sốt ảo” trong các ngày 25, 26 và 27/4. Tuy nhiên, nhờ có sự phản ứng nhanh nhạy của Chính phủ, chỉ trong vòng 2 ngày, giá gạo đã bình ổn trở lại. 5. Giá xăng tăng kỷ lục, giảm nhỏ giọt Tháng 7/2008, trước việc giá dầu thô trên thị trường thế giới liên tục tăng cao và đạt mức kỷ lục 147 USD/thùng, giá xăng dầu tại thị trường Việt Nam cũng được điều chỉnh tăng với mức tăng bình quân cao nhất từ trước tới nay. Cụ thể, ngày 21/7/2008, giá xăng A92 tăng vọt 31%, từ 14.500 đồng/lít lên 19.000 đồng/lít. Tuy nhiên, chỉ trong vòng chưa đầy 1 tháng, giá xăng dầu lại quay đầu đi xuống. Tới ngày 10/12/2008, sau 10 lần liên tiếp giảm gía nhỏ giọt (số lần giảm giá liên tiếp kỷ lục từ trước tới nay), giá xăng A92 chỉ còn 11.000 đồng/lít, giảm 42% so với mức đỉnh tháng 7/2008 và là mức thấp nhất kể từ tháng 5/2007. Bên cạnh đó, theo Quyết định số 79/2008 ngày 16/9/2008 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, kể từ trưa ngày 16/9/2008, Nhà nước chấm dứt bù lỗ cho dầu diezel, mặt hàng cuối cùng trong danh sách trợ giá xăng dầu của Chính phủ, chuyển toàn bộ hoạt động kinh doanh xăng dầu sang vận hành theo cơ chế thị trường. 6. Sự cố melamine Ngày 9/9/2008, các phương tiện truyền thông Trung Quốc đăng tin 16 trẻ em ở tỉnh Cam Túc bị sạn thận do sử dụng sữa nhiễm melamine của Công ty Tam Lộc, mở màn cho “sự cố melamine” và làn sóng tẩy chay các sản phẩm sữa của Trung Quốc trên toàn thế giới. Dù Bộ Y tế đã lên tiếng khẳng định 9 tháng đầu năm 2008, tổng lượng sữa Trung Quốc nhập khẩu vào Việt Nam chỉ khoảng 772 tấn, trong đó số sữa nhiễm melamine và sữa không rõ nguồn gốc phải tiêu hủy chỉ chiếm chưa đầy 1% nhưng người nuôi bò sữa và các nhà sản xuất sữa Việt Nam đã phải trải qua nhiều ngày lao đao. Mãi đến ngày 16/12/2008, sau gần hai tháng triển khai các biện pháp loại trừ sản phẩm sữa không rõ nguồn gốc và sữa bị nhiễm melamine ra khỏi thị trường, Cục trưởng Cục An toàn Vệ sinh Thực phẩm (Bộ Y tế) Nguyễn Công Khẩn mới khẳng định thị trường sữa Việt Nam đã an toàn. 7. Phát động chiến dịch “dùng hàng Việt” Ngày 02/12/2008, Thứ trưởng Bộ Công Thương Lê Dương Quang cho biết Bộ Công Thương đã đề xuất phối hợp với Bộ Thông tin Truyền thông phát động chiến dịch “dùng hàng Việt Nam”. Trong chiến dịch này, Bộ Công Thương dự tính sẽ phối hợp với các nhà phân phối lớn tổ chức tuần lễ hoặc ngày tiêu dùng hàng Việt. Chiến dịch trên nhằm hưởng ứng chủ trương kích cầu sản xuất trong nước của Chính phủ, đồng thời góp phần tổ chức lại thị trường nội địa. Được biết trước đó, một chiến dịch “dùng hàng Việt” cũng đã được Trung tâm Nghiên cứu Kinh doanh và Hỗ trợ Doanh nghiệp (BSA) phối hợp với CLB hàng Việt Nam chất lượng cao phát động và nhận được sự hưởng ứng khá nhiệt tình của các nhà phân phối. 8. Hà Nội chính thức cấm bán hàng rong Sau nhiều lần trì hoãn, chủ trương cấm bán hàng rong của Hà Nội đã chính thức được thực hiện từ ngày 1/7/2008. Theo đó, 62 tuyến đường, tuyến phố và 48 di tích lịch sử văn hóa được đưa vào danh sách những khu vực cấm bán hàng rong. Nếu vi phạm sẽ bị xử phạt. Đại diện của Sở Giao thông Công chính Hà Nội cho biết, chủ trương cấm bán hàng rong của Hà Nội là để lập lại trật tự quản lý đô thị, khắc phục ùn tắc giao thông và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Tuy nhiên, đúng như dự đoán, chỉ sau một tháng phát động, trong khá nhiều tuyến phố trên, người bán hàng rong lại xuất hiện như chưa hề có…lệnh cấm. 9. Mạng mua bán trực tuyến eBay vào Việt Nam Ngày 17/6/2008, mạng mua bán trực tuyến toàn cầu eBay đã thiết lập quan hệ đối tác với Công ty PeaceSoft Solution của Việt Nam. Theo thỏa thuận giữa hai bên, trang mua bán trực tuyến chodientu.vn của PeaceSoft Solution sẽ kết nạp thêm thương hiệu eBay. Với thỏa thuận này, Việt Nam trở thành thị trường thứ 40 trên thế giới mà eBay có mặt. Phó chủ tịch eBay phụ trách các thị trường mới nổi Dan Neary đánh giá Việt Nam là thị trường trực tuyến tăng trưởng nhanh với tiềm năng khổng lồ. 10. Tiêu thụ gặp khó, giá ôtô giảm không phanh Sau nhiều tháng liên tiếp chứng kiến mức tiêu thụ sụt giảm, các nhà sản xuất và kinh doanh xe hơi Việt Nam đã có đợt giảm giá tưng bừng trong tháng 12 vừa qua. Trong một động thái gây sốc, Công ty Ôtô Hyundai Việt Nam (HMV) quyết định từ ngày 20/12/2008 đến 20/2/2009 sẽ giảm giá hàng loạt cho các loại xe Getz. Giá của Getz 1.1, máy xăng, số sàn giảm 31% từ 23.000 USD xuống còn 15.900 USD; phiên bản 1.4, máy xăng, số sàn giảm còn 16.900 USD (giảm 28%); phiên bản 1.4, máy xăng, số tự động giảm còn 18.900 USD (giảm 29%). Lý do giảm giá, theo HMV, là để “chào đón khách hàng thứ 5.000 và mừng xuân Kỷ Sửu”. Theo logic “chào đón” này, có cơ sở để hy vọng rằng khi số lượng tiêu thụ đạt 15.000, giá xe Getz sẽ giảm tới 90%! Các nhà bán lẻ Việt Nam tự tin bước vào giai đoạn mới Thứ hai, 11 Tháng 5 2009 14:28 Năm 2008 đã đi qua với nhiều sự kiện sôi động trên thị trường bán lẻ Việt Nam (VN). Từ chỗ là thị trường bán lẻ hấp dẫn thứ 4 thế giới sau Ấn Độ, Nga và Trung Quốc theo đánh giá của A.T. Kearney, năm 2008 VN đã vươn lên vị trí dẫn đầu và được giới đầu tư nước ngoài đặc biệt quan tâm. 2008 là năm có nhiều biến động khó lường nhất từ trước tới nay. Tuy nhiên, dù phải chịu tác động của suy giảm kinh tế và trải qua các cơn bão lạm phát rồi giảm phát, thị trường bán lẻ VN vẫn giữ được mức tăng trưởng của mình. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng vẫn đạt 970 ngàn tỷ đồng, tăng gần 31% so với năm 2007. Kể cả loại trừ yếu tố tăng giá thì vẫn tăng được ở mức 6,5%. Trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn của 2008 thì tốc độ tăng trưởng như vậy là khả quan và rất đáng khích lệ. Được sự ủng hộ của các cơ quan quản lý Nhà nước, sự hợp tác của các hiệp hội và tổ chức liên quan, Hiệp hội các nhà bán lẻ VN vừa mới ra đời đã nỗ lực cùng các hội viên và doanh nghiệp trong ngành hoạt động một cách tích cực, năng động để thực hiện các chức năng của mình và chương trình hành động được xây dựng từ ngày đầu thành lập Hiệp hội. Cầu nối doanh nghiệp - Nhà nước Hiệp hội các nhà bán lẻ VN vừa mới ra đời đã nỗ lực cùng các Hội viên và doanh nghiệp trong ngành hoạt động một cách tích cực, năng động để thực hiện các chức năng của mình. Một trong những nhiệm vụ hàng đầu và trọng tâm của Hiệp hội là thực hiện vai trò cầu nối giữa doanh nghiệp với cơ quan quản lý Nhà nước. Theo hướng đó, Hiệp hội đã chủ động, tích cực thu thập các kiến nghị, đề xuất của hội viên để gửi lên các cơ quan Nhà nước, đồng thời tham gia ý kiến vào công tác hoạch định chính sách và thực thi pháp luật liên quan đến lĩnh vực bán lẻ. Ngay từ tháng đầu của 2008, Hiệp hội đã tổ chức cuộc gặp làm việc giữa đại diện BCH Hiệp hội và một số doanh nghiệp lớn của Hiệp hội với Lãnh đạo Bộ và một số Vụ, Cục của Bộ Công Thương để trao đổi các vướng mắc và phản ảnh các kiến nghị của Hiệp hội về chính sách đối với hệ thống bán lẻ trước khi VN mở cửa lĩnh vực bán lẻ vào tháng 01/2009. Tiếp theo đó, Hiệp hội đã tổng hợp và truyền đạt tới Bộ Công Thương các ý kiến của hội viên về việc sửa đổi Thông tư 09/2007 của Bộ Thương mại và Nghị định 23/2007 của Chính phủ, về đề án quản lý Nhà nước đối với thị trường bán lẻ … Gần đây nhất, để chuẩn bị cho việc mở cửa thị trường bán lẻ, Hiệp hội đã tập hợp và gửi Bộ Công Thương kiến nghị về hai vấn đề chính là diện mặt hàng mà doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được phân phối tại VN và bảo lưu về kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT). Hướng tới quyền lợi người tiêu dùng Ý thức được tầm quan trọng của việc tuyên truyền, phổ biến các thông tin và kiến thức pháp luật, đặc biệt là các cam kết về mở cửa thị trường, Hiệp hội đã tổ chức và phối hợp tổ chức nhiều hội thảo, tọa đàm và lớp tập huấn như Diễn đàn “Tiếp cận thị trường bán lẻ VN - cơ hội và thách thức”, Hội thảo quốc tế “Hệ thống phân phối bán lẻ VN, thực trạng và giải pháp cho tương lai” và các lớp đào tạo, bồi dưỡng kiến thức tại Hà Nội, TP HCM, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Bình Dương v.v... Bên cạnh đó, Hiệp hội cũng đã tranh thủ được sự hỗ trợ của các cơ quan hữu quan để tổ chức các hội thảo chuyên đề như khóa bồi dưỡng kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế tại TP. HCM (phối hợp với VCCI), các lớp tập huấn về mở cửa thị trường bán lẻ tại Bình Dương (phối hợp với Sở Công Thương và Sở Tư pháp Bình Dương), Hội thảo “Thị trường bán lẻ VN và bất động sản bán lẻ” (phối hợp với Công ty CBRE) v..v. Đặc biệt, hội thảo “Doanh nghiệp với trách nhiệm bảo vệ người tiêu dùng” do Hiệp hội phối hợp với Tạp chí Thương mại (Bộ Công Thương) tổ chức tháng 10 vừa qua tại TP HCM đã thể hiện ý thức và mối quan tâm của các doanh nghiệp bán lẻ tới vấn đề bảo vệ người tiêu dùng. Thông điệp từ hội thảo là rất rõ ràng, đó là người tiêu dùng có quyền được tôn trọng, được cung cấp hàng hóa và dịch vụ với giá cả hợp lý, bảo đảm chất lượng và an toàn. Theo đó, các nhà bán lẻ VN cần nâng cao ý thức bảo vệ người tiêu dùng, tiếp tục chú trọng nghiên cứu tâm lý và xu hướng tiêu dùng, học tập kinh nghiệm của các nhà bán lẻ quốc tế để có một cái nhìn tổng thể, lâu dài, từ đó chuẩn bị chiến lược cho tương lai. Một nỗ lực nữa của Hiệp hội được cộng đồng doanh nghiệp và các hiệp hội bạn ghi nhận là sự ra đời của Tạp chí Thương Trường - cơ quan ngôn luận của Hiệp hội (ra mắt tháng 7/2008). Tạp chí đang phấn đấu để trở thành diễn đàn chung và là người bạn đồng hành thân thiết không chỉ của các thành viên Hiệp hội mà còn của cả các doanh nghiệp trong ngành bán lẻ VN, các nhà sản xuất - cung ứng, các doanh nghiệp và hiệp hội ngành hàng liên quan. Bên cạnh đó, cuốn sách “Mua gì? Ở đâu?” với mục đích giới thiệu 10.000 địa chỉ mua sắm hàng hóa và dịch vụ trên địa bàn Hà Nội (hoạt động hợp tác giữa Hiệp hội và Tạp chí Kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương) đang được gấp rút hoàn thành trong tháng 01/2009, nhân dịp đón Xuân Kỷ Sửu. Năm 2008, tất cả hội viên đã được cập nhật thường xuyên về các hoạt động của Hiệp hội cũng như các thông tin quan trọng về ngành, về thị trường VN và thế giới. Các hội viên được miễn, giảm chi phí tham gia các hoạt động do Hiệp hội tổ chức, được tham gia các khoá đào tạo, bổ sung kiến thức và được nhận các ấn phẩm do Hiệp hội phát hành. Hoạt động hợp tác Tuy mới ra đời được hơn một năm nhưng Hiệp hội đã rất chú trọng đến hoạt động hợp tác quốc tế, cụ thể là đã gặp gỡ và làm việc với Hiệp hội bán lẻ Nhật Bản, Hiệp hội bán lẻ Hồng Kông, các đoàn doanh nghiệp bán lẻ của Nhật Bản, Italia v.v... và hiện đang nghiên cứu gia nhập Hiệp hội bán lẻ Châu Á -Thái Bình Dương (FAPRA). Tham khảo và học tập kinh nghiệm quốc tế trong lĩnh vực bán lẻ cũng được Hiệp hội hết sức chú trọng. Được sự hỗ trợ của Vụ Chính sách thị trường trong nước - Bộ Công Thương - Hiệp hội đã tổ chức Hội thảo quốc tế “Thị trường bán lẻ Nhật Bản và những bài học kinh nghiệm cho VN” với sự tham gia của các Giáo sư Đại học Kobe, Nhật Bản và nhiều doanh nghiệp cũng như các nhà nghiên cứu, chuyên gia trong lĩnh vực này. Hiệp hội cũng chủ động tổ chức các buổi tọa đàm với sự tham gia của các nhà phân phối nước ngoài đang hoạt động tại VN như Metro Cash & Carry, Big C ..., các công ty nghiên cứu thị trường nổi tiếng như Nielsen, TNS… để trao đổi, chia sẻ thông tin và kinh nghiệm. Nhìn về phía trước Sau 2 năm gia nhập WTO, Hiệp hội các nhà bán lẻ VN nhận thấy các doanh nghiệp bán lẻ VN không thụ động mà đã và đang từng bước thích ứng với tình hình mới, cùng liên kết và xây dựng chiến lược dài hạn, tăng cường tính chuyên nghiệp. Bên cạnh sự lớn mạnh không ngừng cả về lượng và về chất của hệ thống phân phối - bán lẻ hiện đại của Saigon Co-op, Tổng công ty Thương mại Sài Gòn, Tổng công ty Thương mại Hà Nội, Tập đoàn Phú Thái, các hệ thống bán lẻ chuyên dụng như Vinatex Mart, Nguyễn Kim, Fahasa, Trần Anh, C.T Group, Thế giới di động, Thiên Hòa, Đại siêu thị Mê Linh v.v... là sự chuyển mình và phát triển của hệ thống bán lẻ truyền thống. Năm 2009, thị trường bán lẻ VN sẽ phải đối diện với những thách thức lớn, chủ yếu do tiêu dùng dân cư và các khoản chi tiêu công đều đang ở trong tình trạng “thắt lưng buộc bụng”. Mức tăng trưởng sẽ có phần “hạ nhiệt”. Tuy nhiên, với thế mạnh về mạng lưới, về khả năng sáng tạo và phản ứng nhanh nhạy trước những biến động của thị trường, sử dụng hiệu quả các hoạt động quảng cáo, khuyến mại theo phong cách Việt và phát huy vốn hiểu biết về văn hóa, tâm lý của người tiêu dùng VN, được sự quan tâm, hỗ trợ của Nhà nước, các Hiệp hội ngành hàng, cộng với sự chuẩn bị kỹ lưỡng về nhân lực, vật lực, hoàn toàn có cơ sở để tin rằng, cộng đồng doanh nghiệp bán lẻ VN và Hiệp hội các nhà bán lẻ VN sẽ tự tin bước vào một giai đoạn phát triển mới. Thị trường bán lẻ Việt Nam: Sự thật sau những con số Doanh nhân Gửi email Bản in 04:05' PM - Thứ hai, 22/06/2009 Dường như chúng ta đã quá quen với cụm từ “sức hút từ thị trường bán lẻ của Việt Nam” mà bỏ qua thực tế, thị trường này đang tụt dốc. Mặc dù có một số kết quả xếp hạng, đánh giá thị trường bán lẻ (TTBL) của Việt Nam là thị trường mới nổi, hấp dẫn nhất của thế giới (như hãng Atkearney, năm 2008 có đánh giá TTBL Việt Nam đã vượt cả Ấn Độ, Nga, Trung Quốc trở thành TTBL hấp dẫn nhất thế giới. Trước đó, năm 2004, Việt Nam chỉ xếp thứ 7) nhưng nếu xem xét trên một loạt số liệu thống kê đầy đủ, thực sự, TTBL có thể coi vẫn là kém phát triển và liên tục có những biến động bất thường. Tuy nhanh mà thành chậm Sự phát triển của TTBL Việt Nam chỉ có thể gọi là nhanh nếu xét về mặt tốc độ. Theo số liệu của tổng cục Thống kê, nếu như mức tăng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2001 là 11,3% và năm 2005 là 20,53% (bình quân tăng 16,86%/năm), cao gấp 2,25 lần tốc độ tăng GDP, thì năm 2008 tăng kỷ lục 31%, cao gấp 4,71 lần tốc độ tăng GDP (bình quân 3 năm 2006 - 2008 tăng 26,32%/năm, cao gấp 3,46 lần tốc độ tăng GDP). Tuy nhiên, nếu xét về qui mô, vai trò thúc đẩy nền kinh tế chung thì đóng góp của TTBL không thể bằng xuất khẩu. Thậm chí, có thể khẳng định là vai trò đóng góp tăng trưởng GDP của TTBL có xu hướng giảm sút nhanh so với xuất khẩu. Cho dù tốc độ tăng có chậm lại so với tốc độ tăng của TTBL (bình quân 5 năm 2001 - 2008 tăng 17,55%/năm và 3 năm 2006 - 2008 tăng 24,57%/năm), nhưng kim ngạch xuất khẩu (chưa tính giá trị dịch vụ) đã lớn hơn cả tổng giá trị hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ của thị trường nội địa. Năm 2003, với 333,800 nghìn tỷ đồng, tương ứng với 21,654 tỷ USD, TTBL có qui mô lớn hơn một ít so với tổng kim ngạch xuất khẩu (gần 20,18 tỷ USD). Đến năm 2004, TTBL cũng chỉ đạt 25,269 tỷ USD dù tốc độ tăng là trên 19,3%, nhưng tổng giá trị TTBL đã nhỏ hơn 1,23 tỷ USD và gần 4,7% so với xuất khẩu (trên 26,5 tỷ USD). Xu hướng này càng rõ hơn trong năm 2008: TTBL đạt mức tăng kỷ lục 31%, nhưng đã nhỏ hơn xuất khẩu gần 5 tỷ USD và 7,86% (57,76 tỷ USD so với 62,68 tỷ USD). Một kết luận khác có thể đưa ra là, TTBL nội địa tuy có phát triển nhanh nhưng lại rất thất thường. Tốc độ tăng TTBL rất cao những năm đầu của thập kỷ 90 rồi liên tục giảm mạnh, đạt mức thấp nhất là 8,26% vào năm 1999. Từ năm 1999 lại tăng liên tục đạt mức tăng cao nhất vào năm 2008. Thời kỳ suy giảm có thể lý giải là do tác động của khủng hoảng kinh tế khu vực châu Á, do tốc độ tăng trưởng kinh tế một số năm giảm nhanh. Còn quá trình gia tăng mạnh từ năm 1999 đến nay có lẽ không chỉ do tăng trưởng GDP mà lại do tác động rất lớn của tốc độ tăng giá tiêu dùng. Đáng chú ý nhất là năm 2008, tốc độ tăng TTBL đạt tới 31% trong khi GDP bị giảm sút mạnh. Yếu tố giá cả rõ ràng có tác động lớn đến tốc độ tăng TTBL. Năm 2007, nếu tính đến khoảng tháng 6, tốc độ tăng của TTBL chưa loại trừ yếu tố tăng giá là 22,9%, còn nếu loại trừ thì chỉ còn 15%. Năm 2008, tốc dộ tăng TTBL cả năm nếu trừ đi yếu tố tăng giá thì chỉ còn 6,5%. Như vậy, tốc độ tăng TTBL nếu xét về danh nghĩa là cao nhưng nếu tính về giá trị thực tế lại rất thấp. Thực tế là TTBL đã giảm sút rất nhanh từ năm 2007 đến nay. Các con số thống kê đã nói lên rằng, để mua một số lượng hàng hóa hạn chế thì người tiêu dùng đã phải trả thêm rất nhiều tiền chứ không phải TTBL đã phát triển quá ấn tượng. Một điểm nữa có thể rút ra từ các số liệu thống kê chính thức là thị trường nội địa phát triển rất không đồng đều. Các sản phẩm công nghiệp và dịch vụ tăng nhanh, nhưng chủ yếu vẫn tập trung ở khu vực đô thị, nhất là ở một số đô thị lớn. Cho nên, thu nhập và sức mua của dân cư ở khu vực này tăng nhanh, trong khi thu nhập và sức mua của dân cư khu vực nông thôn hiện vẫn còn chiếm trên 72% dân số cả nước chỉ tăng rất chậm. Củng cố bằng hệ thống chính sách Cho dù nói như vậy, thị trường nội địa thực sự vẫn có một tiềm năng phát triển lớn. Cho dù kinh tế có suy giảm nhưng nhìn về trung và dài hạn thì Việt Nam có tiềm năng tăng trưởng kinh tế và đặc biệt thu nhập của người dân vẫn đang được tăng lên (Việt Nam vừa được xếp vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình) nên nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng của thị trường nội địa còn rất lớn. Một điểm nữa là dân số Việt Nam còn tiếp tục tăng nhanh. Theo dự báo của Liên hiệp quốc sẽ đạt mức 110 triệu dân vào năm 2035, và 2/3 dân số ở độ tuổi lao động, có thu nhập nên nhu cầu tiêu dùng lớn. Thêm vào đó, quá trình mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam vẫn đang thu hút được nhiều sự quan tâm của giới đầu tư nước ngoài, nhất là sự có mặt của các hãng phân phối, kinh doanh bán lẻ lớn... cũng tác động làm TTBL tăng nhanh. Do đó, yêu cầu xây dựng một hệ thống chính sách để TTBL nội địa phát triển một cách bền vững là rất cấp thiết, để cùng với quá trình tiếp tục thúc đẩy, mở rộng thị trường xuất khẩu, góp phần vào tăng trưởng kinh tế chung thì sự lớn mạnh để tham gia, chiếm lĩnh, phát triển TTBL của các doanh nghiệp trong nước là rất quan trọng. Vì vậy, những năm tới Nhà nước không nên chỉ tập trung sử dụng công cụ quản lý để điều chỉnh các hoạt động lưu thông hàng hóa, hành vi của tổ chức, cá nhân kinh doanh... mà phải chú ý cơ cấu lại các ngành sản xuất, đầu tư phát triển hạ tầng thương mại - dịch vụ trong nước; bỏ cung cách điều hành thị trường bằng mệnh lệnh hành chính, thay vào đó là thúc đẩy, xây dựng một thị trường cạnh tranh hiệu quả giữa các chủ thể kinh doanh, chống độc quyền; nhanh chóng tăng cường các nguồn lực dự trữ quốc gia để can thiệp, ổn định thị trường khi có đột biến. Định vị ngành bán lẻ Việt Nam Tuổi trẻ - 25/10/2007 Đằng sau hàng loạt những tích cực, những chỉ số xếp hạng cao ngất của những tổ chức uy tín về thị trường bán lẻ Việt Nam, có một sự thật khác, một mối lo ngại khác về khả năng thất thế của hệ thống phân phối bán lẻ thuần Việt trước ngưỡng cửa 1-1-2009, khi mà ta buộc phải mở cửa thị trường. Một thị trường ồn ã Tốc độ phát triển khá nhanh của thị trường bán lẻ trong nước đang hấp dẫn các tập đoàn phân phối đa quốc gia. Mức hấp dẫn này dẫn đến một nguy cơ tiềm ẩn mà nguyên bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển phải thốt lên: “Vừa rồi, chúng ta cho phép Metro hình thành đến tám điểm, phát triển thành một chuỗi hệ thống bán buôn. Mà trong thị trường, ai hình thành được chuỗi liên kết, nắm được yếu tố cạnh tranh thì người ấy thắng. Chúng ta cam kết nhưng chúng ta vẫn có quyền hạn chế việc mở thêm các điểm bán lẻ. Do đó không nên cấp phép ồ ạt cho các nhà phân phối mở thêm đại lý lập thành chuỗi, gây ra sự cạnh tranh quá khốc liệt”. Sự khốc liệt này được diễn giải qua việc Ngân hàng Thế giới công bố chỉ số phát triển bán lẻ toàn cầu của Việt Nam năm 2007 đạt 74/100 điểm, đứng thứ 4 trên thế giới sau Ấn Độ, Nga và Trung Quốc. Với thị trường bán lẻ trị giá 37 tỉ USD mỗi năm, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng mức bán lẻ dự kiến sẽ đạt 7.000 tỉ đồng, tăng 23% so với năm ngoái. Việt Nam cũng đang dẫn đầu về tiêu dùng hàng hi-tech. Công ty nghiên cứu thị trường AC Nielsen công bố: người tiêu dùng Việt Nam xếp thứ năm về chỉ số lạc quan tiêu dùng (Global Consumer Confidence Index). Chỉ số niềm tin của người tiêu dùng Việt Nam đang ở mức cao kỷ lục, đạt 118 điểm và tăng lên 1 điểm, trong khi chỉ số này trên toàn cầu giảm 2 điểm, chỉ còn 97 so với cuối năm 2006. Với tốc độ tăng trưởng 20%/năm, nhóm chi tiêu tiêu dùng lớn nhất đang ở tuổi 22 - 55, chiếm tới 70,29% dân số Việt Nam. Chi tiêu tiêu dùng tại Việt Nam dự kiến đạt 53 tỉ USD vào năm 2010 Trong số 10 quốc gia lạc quan nhất về tình hình tài chính cá nhân, 72% người Việt Nam tham gia cho biết họ sẵn sàng bỏ tiền trang bị vật dụng kỹ thuật cao, các loại hình giải trí và quần áo mới. Khát khao sở hữu những phương tiện hiện đại của người Việt Nam cao hơn cả những nước đang phát triển như Ấn Độ, Trung Quốc, Brazil. Những điều kiện trên báo hiệu một cơ hội lớn cho sự phát triển và duy trì một thị trường bán lẻ thuận lợi. Chủ nhà đang lúng túng Hiệp hội siêu thị Hà Nội đã chỉ ra những điểm yếu đang tồn tại trong hệ thống phân phối Việt Nam: tính chuyên nghiệp yếu vì nguồn nhân lực chưa qua đào tạo, chỉ có khoảng 4-5% nhân lực được đào tạo chuyên ngành, 60-70% các đơn vị kinh doanh chưa sử dụng công nghệ thông tin vào lãnh vực quản lý và khoảng 20% đơn vị mới xây dựng web đơn giản với nội dung nghèo nàn. Ngoài ra hậu cần cho hệ thống phân phối như kho bảo quản, các kho lạnh, xe tải chuyên dùng thiếu đồng bộ, chưa đạt chuẩn khu vực và quốc tế. Việc tổ chức cung ứng hàng hoá chủ yếu là có gì bán nấy, chưa xây dựng được vùng cung cấp nguồn hàng ổn định để tiêu thụ. Tính chủ động trong hợp tác liên kết, liên doanh thu mua, tiêu thụ hàng hoá còn rời rạc. Do vậy, hệ thống thương mại bán lẻ của Việt Nam tuy đã có nhiều, nhưng còn mang nặng tính đại lý, thu lợi nhuận thấp. Chính vì thế các tập đoàn bán lẻ nước ngoài đã tìm mọi cách vào Việt Nam khai thác cơ hội từ sự sơ khai, thiếu chuyên nghiệp này. Điều này được chứng minh qua những thành quả thực tế từ doanh thu, tốc độ tăng trưởng đạt trên 40%/năm mà Metro, Big C, Parkson… đạt được khi mạnh dạn mở kinh doanh tại thị trường Việt Nam. Như Metro Cash & Carry của Đức kiếm lời khoảng 500 triệu USD/năm và tăng trưởng hàng năm đạt 45%. Trong báo cáo “Phân tích công nghiệp bán lẻ Việt Nam” của Công ty nghiên cứu, tư vấn toàn cầu RNCOS dự báo sẽ có thêm hàng loạt đại gia bán lẻ nước ngoài đến Việt Nam trong những năm tới. Thị trường bán lẻ Việt Nam đang và sẽ tăng trưởng nhanh, lãnh vực bán lẻ ở Việt Nam sẽ thu hút những khoản đầu tư khổng lồ từ nước ngoài và sẽ ra đời những trung tâm thương mại, mua sắm lớn hơn, hiện đại hơn. Theo ông Nguyễn Cẩm Tú - Thứ trưởng Bộ Công thương, mặc dù các nhà phân phối Việt Nam có nhiều động thái củng cố lại hệ thống của mình để chống lại áp lực cạnh tranh từ các nhà phân phối nước ngoài, nhưng phải thừa nhận các tập đoàn phân phối nước ngoài đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm kinh doanh trên thị trường các nước đang phát triển. Họ có nguồn vốn rất lớn, đã tiến hành các hoạt động nghiên cứu thị trường rất bài bản, sẵn sàng đưa ra giá bán buôn thấp hơn, cung cấp dịch vụ bán hàng thuận tiện và mời chào các chương trình khuyến mãi hấp dẫn. Xu hướng bán lẻ 2008 - 2010 Theo phân tích của Retailer Asia, nếu như trong bảng xếp hạng “Ngôi sao bán lẻ” (bảng xếp hạng các doanh nghiệp bán lẻ dẫn đầu từng quốc gia) năm ngoái, việc một nhà bán lẻ có mặt trong top 3 và top 10 của nhiều nước là phổ biến (Dairy Farm, Carrefoure, Aeon,…) thì năm nay chỉ còn Dairy Farm và Aeon còn trụ lại. Điều này cho thấy sức cạnh tranh nội tại của các nước trong vùng châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là các nước đang phát triển, là rất lớn. Sự xuất hiện của loại hình bán lẻ chuyên biệt chuyên về dược phẩm và/hoặc mỹ phẩm (health and beauty stores), chuyên về hàng điện tử điện máy… được tổ chức thành chuỗi cửa hàng với concept thống nhất: phản ánh xu hướng tiêu dùng của người tiêu dùng các nước này đang dần dần chuyển dịch, từ việc dành phần lớn thu nhập cho việc mua thực phẩm và các mặt hàng thiết yếu, sang tiêu dùng những mặt hàng cao cấp và có giá trị cao hơn như hàng điện tử, mỹ phẩm và dược phẩm. Mức thu nhập tăng lên, người tiêu dùng châu Á đang có xu hướng trang trí nội thất nhiều hơn những năm trước. Thêm vào đó, ở các thị trường phát triển hơn, với việc kích cỡ gia đình đang dần co lại, các hộ gia đình nhỏ hơn hoặc chỉ có một người mà chủ hộ là giới trẻ đang đi làm lại có xu hướng cởi mở hơn trong việc mua sắm đồ nội thất để trang trí cho ngôi nhà. Điều này đã dẫn đến những viễn cảnh tươi sáng hơn cho các cửa hàng chuyên doanh đồ dùng sửa chữa nhà cửa cũng như những cửa hàng bán đồ nội thất. Loại hình nhà sách và trung tâm thương mại đang hạn chế khách hàng. Bản chất của loại hình nhà sách đã cho thấy giới hạn trong các cơ hội đổi mới về chưng bày và bố trí cửa hàng. Thêm vào đó, cùng với những sáng tạo mới về công nghệ, người tiêu dùng châu Á - cũng như ở những nơi khác trên thế giới - đang được giới thiệu với những cách tiêu khiển trong thời gian rảnh rỗi khác hơn là đọc sách. Các trung tâm thương mại sẽ chuyển lên vị trí cao hơn trong thị trường, tập trung vào những nhãn hiệu sang trọng, duy trì được tính cao cấp và dịch vụ tốt. Loại hình siêu thị nhìn chung đang đối mặt với áp lực ngày càng tăng từ loại hình đại siêu thị. Về mặt tiến hoá của ngành bán lẻ, siêu thị có vẻ như là loại hình bán lẻ hiện đại đầu tiên xuất hiện ở các nước. Tuy nhiên chính vị trí đã ổn định của loại hình siêu thị ở hầu hết các nước, kể cả những nước đang phát triển như Việt Nam và Indonesia, ngoài Trung Quốc và Ấn Độ, là nguyên nhân làm cho siêu thị không còn dẫn đầu trong mức tăng trưởng của ngành bán lẻ tạp hoá. Cửa hàng tiện ích: việc kinh doanh của loại hình cửa hàng tiện ích khá bình lặng so với các loại hình bán lẻ khác. Để tiếp sức cho hàng Việt Báo Đầu Tư - 10/08/2009 Việc Bộ Chính trị đã chính thức chấp thuận tổ chức cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” có thể xem là sự tiếp sức cho hàng Việt Nam chiếm lĩnh thị trường nội địa. Tuy nhiên, để tổ chức thành công cuộc vận động này đòi hỏi cả doanh nghiệp, người tiêu dùng và cơ quan quản lý nhà nước phải có hành động cụ thể và nhất quán. Trước đây, Việt Nam cũng đã từng thực hiện cuộc vận động Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam, song kết quả còn rất hạn chế. Người Việt Nam vẫn sính dùng hàng ngoại, còn doanh nghiệp thì vẫn mải mê "chinh chiến" ở thị trường ngoại mà bỏ quên thị trường nội địa đầy tiềm năng. Ngay cả hiện nay, khi mà thị trường nội địa đã được xác định là "điểm tựa" để doanh nghiệp đi lên, đặc biệt là trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, thì cũng không phải doanh nghiệp nào cũng biết tận dụng cơ hội để quay về “sân nhà”. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng này, tất nhiên là xuất phát từ cả phía người tiêu dùng và doanh nghiệp, song trách nhiệm trước tiên thuộc về doanh nghiệp. Bởi để có thể chiếm lĩnh “sân nhà”, doanh nghiệp phải tạo được lòng tin của người tiêu dùng nội địa đối với sản phẩm, hàng hoá của mình. Liệu có tin được không, khi hàng loạt sản phẩm sữa bị phát hiện là nghèo đạm, chỉ tiêu chất lượng không như công bố? Liệu có dùng được không, khi trong nước tương chứa 3-MCPD, một chất gây ung thư? Còn bản thân doanh nghiệp, thì sẵn sàng xả thẳng nước thải độc hại ra môi trường, bất chấp tính mạng, sức khoẻ của người dân?... Hơn thế nữa, trong những trường hợp mua phải hàng hoá kém chất lượng, người tiêu dùng lại chưa được bảo vệ, quyền lợi không được bảo đảm. Từ đó, việc chọn lựa hàng ngoại để có cảm giác an toàn hơn trở thành tâm lý phổ biến của không ít người tiêu dùng. Cũng cần nhắc lại rằng, thị trường bán lẻ Việt Nam luôn được các công ty nghiên cứu thị trường nước ngoài đánh giá là rất tiềm năng. Mới đây, Công ty RNCOS (Mỹ) trong báo cáo của mình đã khẳng định rằng, với sự phát triển nhanh chóng của thị trường bán lẻ thời gian gần đây, Việt Nam đang trở thành điểm đến hấp dẫn của các công ty bán lẻ đa quốc gia. Quy mô thị trường bán lẻ Việt Nam vào năm 2012 có thể lên tới 85 tỷ USD. Trên thực tế, bất chấp những khó khăn của nền kinh tế, sức mua của thị trường trong nước vẫn có bước tăng trưởng đáng kể, góp phần vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế. Minh chứng là, 7 tháng đầu năm, tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ vẫn tăng tới 18,3% so với cùng kỳ năm ngoái và đây chính là điểm tựa rất căn bản cho đầu ra của các doanh nghiệp. Người tiêu dùng có một thứ quyền lực, dù "mềm" nhưng lại hết sức quan trọng đối với các doanh nghiệp. Chính thứ quyền lực này là một trong những nguyên nhân cơ bản khiến các chuyên gia thị trường cho rằng, cần phải thực hiện một chiến dịch vận động người Việt dùng hàng Việt. Một khi có được sự ủng hộ của người tiêu dùng, chẳng lo hàng hoá Việt Nam không có đường tiến bước. Tuy nhiên, doanh nghiệp phải biết tận dụng cơ hội, lợi thế của mình để tạo dựng niềm tin với người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm, hàng hoá. Trên cơ sở đó, công tác truyền thông cần hướng tới mục tiêu làm cho người tiêu dùng tin và ủng hộ sử dụng sản phẩm Việt, coi đó là biểu hiện của lòng yêu nước. Còn các cơ quan chức năng của nhà nước và Hiệp hội Bảo vệ người tiêu dùng phải có các biện pháp để bảo vệ người tiêu dùng trong những trường hợp lợi ích của họ bị xâm phạm. Dự báo ngành bán lẻ Việt Nam đạt 85 tỉ đô la năm 2012 Saigon Times - 03/08/2009 Dự báo ngành bán lẻ Việt Nam đạt 85 tỉ đô la năm 2012 Bình Nguyên (TBKTSG Online) - Công ty nghiên cứu thị trường toàn cầu RNCOS tiếp tục đưa ra những dự báo lạc quan về thị trường bán lẻ Việt Nam trong báo cáo mới nhất và dự báo doanh thu của thị trường này sẽ vượt 85 tỉ đô la Mỹ (khoảng 1.455.000 tỉ đồng) vào năm 2012. Báo cáo của RNCOS cho rằng tuy quy mô thị trường bán lẻ của Việt Nam nhỏ hơn nhiều so với các nền kinh tế đang phát triển khác tại châu Á nhưng Việt Nam có những yếu tố cần thiết thúc đẩy sự phát triển mạnh của ngành này vì doanh thu bán lẻ tăng hơn 50% trong khoảng thời gian từ 2005 đến 2008. Cụ thể, tổng doanh thu bán lẻ của thị trường Việt Nam đã tăng từ 24 tỉ đô la Mỹ năm 2005 lên 39 tỉ đô la Mỹ năm 2008. Theo RNCOS, niềm tin của người tiêu dùng tăng cao cùng với những yếu tố tích cực liên quan đến kinh tế vĩ và vi mô là nguyên nhân dẫn đến sự tăng trưởng mạnh của ngành. Việc Chính phủ đang thực hiện mở cửa hoàn toàn thị trường cho các nhà bán lẻ quốc tế và việc tăng lương trong năm 2009 đang thúc đẩy sự phát triển của dịch vụ bán lẻ tại thị trường này. Do vậy, RNCOS nhận định Việt Nam Nam sẽ vẫn là điểm đến hấp dẫn của các công ty bán lẻ đa quốc gia trong bối cảnh khó khăn chung của nền kinh tế toàn cầu. Nhà nghiên cứu thị trường này còn dự báo các kênh bán lẻ hiện đại sẽ đóng vai trò quan trọng hơn trong việc thúc đẩy sự phát triển của ngành bán lẻ tại Việt Nam, mặc dù các kênh bán lẻ truyền thống vẫn tiếp tục đóng vai trò chủ đạo. Trong vòng 5 năm tới các nhà bán lẻ nước ngoài đang hiện diện tại Việt Nam sẽ củng cố và tiếp tục mở rộng thị phần tại thị trường này. RNCOS dự báo doanh thu của ngành bán lẻ Việt Nam sẽ vượt 85 tỉ đô la Mỹ vào năm 2012 - Ảnh: Mộng Bình

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfTổng quan về thị trường bán lẻ ở Việt Nam.pdf
Luận văn liên quan