Tranh chấp tồn tại một cách khách quan, nhu cầu về trọng tài thương mại
là một tất yếu. Khi kinh tế ngày càng phát triển, trọng tài sẽ có nhiều cơ hội
hơn để phát triển. Trọng tài ở Việt Nam tuy còn non trẻ nhưng đã có nhiều
bước tiến đáng mừng. Các trung tâm cần phát huy hơn nữa những thuận lợi
đang có, vận dụng hết nội lực của mình để cung cấp cho các doanh nghiệp
dịch vụ trọng tài tốt nhất. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ đem đến những thời cơ
và cả thách thức mới với tất cả các trung tâm trọng tài nói riêng, với tất cả các
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân Việt Nam nói chung. Điều đó buộc các trung
tâm trọng tài phải có những bước đi chiến lược đúng đắn để có thể trụ vững
trong một môi trường đầy tính cạnh tranh và năng động.
87 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2322 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Trọng tài – phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế giữa các doanh nghiệp thực trạng và giải pháp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ức trên
100.000 USD, trong đó đa số các vụ tranh chấp có giá trị trong khoảng 10.000
USD đến 100.000 USD (giá trị vừa), chiếm khoảng 50% tổng số vụ hàng
năm. Nhóm có giá trị nhỏ (dƣới 10.000 USD), lớn (100.000 USD đến
200.000 USD), rất lớn (trên 200.000 USD) chiếm tỷ trọng ít hơn. Nhƣng cần
phải nói rằng, trong đó tỷ trọng của nhóm rất lớn cũng chiếm tỷ trọng khá,
điều này làm cho giá trị trung bình của các vụ hàng năm tăng lên trên 100.000
USD. Nhóm có giá trị vừa chiếm tỷ trọng lớn nhất là điều dễ hiểu đối với các
doanh nghiệp Việt Nam. Ở Việt Nam, các doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn
chiếm một lƣợng lớn trong tổng số các doanh nghiệp. Hơn nữa, các doanh
nghiệp Việt Nam không phải lúc nào cũng tiếp cận đƣợc nguồn vốn tín dụng
lớn để đầu tƣ vào các thƣơng vụ, và nếu có nguồn vốn lớn thì các doanh
nghiệp cũng muốn phân tán rủi ro, thƣờng chỉ đầu tƣ vào các thƣơng vụ vừa
để có thể thu đƣợc một khoản lợi nhuận nhất định và không mất quá nhiều khi
rủi ro xảy ra.
Trong số các vụ tranh chấp đƣa ra giải quyết tại VIAC thì nguyên nhân cơ
bản dẫn đến tranh chấp giữa các bên thƣờng là việc một trong hai bên không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ cơ bản của mình: bên bán không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ giao hàng, bên mua không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thanh toán của mình. Số vụ tranh chấp
có một trong hai nguyên nhân này hoặc cả hai nguyên nhân chiếm khoảng 70%
đến 80% tổng số vụ tranh chấp tại VIAC. Ngoài ra còn có một số nguyên nhân
tranh chấp khác nhƣ: không thanh toán tiền vi phạm hợp đồng, không thực hiện
nghĩa vụ thuê tàu, không cung cấp dịch vụ nhƣ đã cam kết...
Vì là một trung tâm trọng tài của Việt Nam nên hầu hết các vụ tranh
chấp đều có một bên là bên Việt Nam, bên còn lại thƣờng là các doanh
nghiệp, tổ chức của các nƣớc: Hàn Quốc, Hồng Kông, Nhật Bản, Thái Lan,
Singapore, Trung Quốc, Malaixia, Anh, Áo, Pháp, Thụy Điển, Canada,
Bahama, Mỹ, Ukraina,...
Các vụ tranh chấp đƣợc đƣa ra giải quyết tại VIAC không phải đều
đƣợc đƣa ra phán quyết cuối cùng. Lý do có thể là do bên nguyên tự rút đơn
kiện, do hai bên hòa giải đƣợc trƣớc khi Hội đồng trọng tài đƣợc thành lập
hay đơn giản vì họ không nộp phí trọng tài nên không đƣợc Trung tâm thụ lý.
Có thể xem xét tình hình này qua bảng sau:
Bảng 2: Tình hình giải quyết các vụ án đƣa ra VIAC trong giai
đoạn 1996 - 2002
Năm Tổng
số vụ
Xét xử ra
phán quyết
Hòa giải Rút đơn kiện Không đủ điều
kiện thụ lý
hồ sơ
Lƣợng Tỷ lệ
(%)
Lƣợng Tỷ lệ
(%)
Lƣợng Tỷ lệ
(%)
Lƣợng Tỷ lệ
(%)
1996 25 17 68,0 4 16,0 2 8,0 2 8,0
1997 24 16 66,7 1 4,2 4 16,7 3 12,5
1998 18 11 61,1 1 5,6 2 11,1 4 22,2
1999 20 11 55,0 2 10,0 3 15,0 4 20,0
2000 23 15 65,2 3 13,0 2 8,7 2 8,7
2001 16 10 62,5 1 6,3 3 18,8 2 12,5
2002 19 11 57,9 0 0,0 4 21,1 2 10,5
Tổng 145 91 62,3 12 7,9 20 14,2 19 13,5
(Nguồn: Sổ theo dõi các vụ kiện của VIAC)
Nhƣ vậy, trong giai đoạn 1996-2002 số vụ đƣa ra phán quyết cuối cùng
chiếm trung bình 62,3% tổng số vụ, số vụ hòa giải chiếm trung bình 7,9%
tổng số vụ, số vụ rút đơn kiện chiếm trung bình 14,2% tổng số vụ. Số vụ kiện
đến VIAC nhƣng không đủ điều kiện thụ lý hồ sơ còn khá nhiều. Tỷ lệ trung
bình của số vụ loại này trong giai đoạn 1996-2002 là 13,5%. Năm thấp nhất
nhƣ năm 1996, tỷ lệ này là 8%. Năm cao nhất là năm 1998, lên tới 22,2%
tổng số vụ không đủ điều kiện thụ lý hồ sơ do đƣơng sự không nộp đủ phí
hoặc thỏa thuận trọng tài không hợp lệ vì thiếu sự thống nhất giữa các bên.
Do vậy số vụ giải quyết bao gồm cả tổ chức xét xử và hòa giải trƣớc xét xử
trung bình chỉ đạt 70,2%. Tỷ lệ hòa giải trƣớc xét xử đạt 7,9% là tỷ lệ đáng
khích lệ của Trung tâm, điều đó thể hiện Trung tâm luôn coi trọng lợi ích kinh
tế của đƣơng sự để nâng cao uy tín của Trung tâm, đồng thời phù hợp với cơ
chế mới. Tỷ lệ hòa giải không ổn định qua các năm phản ánh thực tế là bên
cạnh sự nỗ lực của ủy ban trọng tài, sự thành công của hòa giải đòi hỏi phụ
thuộc rất lớn vào thiện ý và tinh thần hợp tác của các bên đƣơng sự. Tỷ lệ hòa
giải cao còn thể hiện hiệu quả giải quyết tranh chấp cao, xét về khía cạnh
chuyên môn.
2.2 Tình hình giải quyết tranh chấp trong kinh doanh quốc tế tại Trung
tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam từ 2003 đến nay
Sau khi Pháp lệnh Trọng tài Thƣơng mại Việt Nam ra đời, nhiều điều
kiện thuận lợi cho hoạt động của trọng tài đã đƣợc thiết lập. Điều này ảnh
hƣởng tích cực đến hoạt động của các trung tâm trọng tài trên cả nƣớc, trong
đó có VIAC. Pháp lệnh trọng tài Thƣơng mại 2003 có nhiều điểm mới:
Thứ nhất, mở rộng thẩm quyền xét xử của trọng tài thƣơng mại. Điều
này thể hiện ở việc Pháp lệnh đã đƣa ra định nghĩa khái quát về hoạt động
thƣơng mại chứ không liệt kê các hoạt động thƣơng mại nhƣ trong Luật
Thƣơng mại Việt Nam năm 1997.
Thứ hai, Pháp lệnh công nhận hình thức trọng tài Ad-hoc của Việt
Nam. Trƣớc đây, chúng ta chỉ công nhận hình thức trọng tài Ad-hoc của các
quốc gia khác mà không có quy định nào nói về hình thức trọng tài Ad-hoc
của Việt Nam. Đây là một hạn chế lớn của chúng ta bởi trọng tài Ad-hoc rất
thuận tiện cho các vụ tranh chấp có giá trị nhỏ, cần xử lý nhanh gọn và ít tốn
kém. Nó đảm bảo quyền tự do lựa chọn các hình thức trọng tài của các bên
đƣơng sự. Cùng với việc công nhận hình thức trọng tài này, Pháp lệnh cũng
quy định về việc lƣu trữ hồ sơ trọng tài đối với trọng tài Ad-hoc.
Thứ ba, Pháp lệnh sửa đổi tiêu chuẩn trọng tài viên theo hƣớng đơn
giản hóa và ít thủ tục hơn theo đúng tinh thần cải cách thủ tục hành chính của
ta hiện nay.
Thứ tƣ, đơn giản hóa thủ tục xin phép thành lập trung tâm trọng tài.
Thứ năm, Pháp lệnh đã công nhận tính chung thẩm của phán quyết
trọng tài. Trƣớc đây, điều này đã đƣợc quy định tại Điều 31 Quy tắc tố tụng
của VIAC có hiệu lực từ ngày 20/08/1993 nhƣng cho đến thời điểm đó mới
đƣợc chính thức đƣa vào một văn bản luật có giá trị pháp lý cao nhƣ Pháp
lệnh Trọng tài. Theo đó, Tòa án không có quyền xét xử lại vụ án, không có
quyền đƣa ra quyết định phán quyết của trọng tài đã tuyên là đúng hay sai một
khi vụ tranh chấp đã có thỏa thuận đƣa ra giải quyết tại trung tâm trọng tài.
Tòa án chỉ có quyền xem xét lại thẩm quyền xét xử của trọng tài và quá trình
tố tụng có đúng theo quy định của pháp luật hay không, từ đó đƣa ra quyết
định bác bỏ phán quyết của trọng tài hoặc cho cƣỡng chế thi hành phán quyết
của trọng tài đã đƣợc tuyên. Điều này giúp các bên yên tâm khi đƣa tranh
chấp ra giải quyết tại các trung tâm trọng tài. Một điểm đáng ghi nhận nữa
của Pháp lệnh Trọng tài Thƣơng mại là: tại Điều 33 đã quy định rõ sự hỗ trợ
của Tòa án đối với trọng tài bằng việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm
thời. Những biện pháp khẩn cấp tạm thời đƣợc đƣa ra giúp cho quá trình xét
xử và thi hành phán quyết của trọng tài đƣợc thuận lợi hơn rất nhiều và các
bên cũng có thể đảm bảo đƣợc lợi ích trực tiếp của mình không bị xâm hại
hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại. Sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài
cũng đƣợc quy định tại Điều 26 trong trƣờng hợp các bên tự thành lập Hội
đồng trọng tài (trọng tài Ad-hoc) Tòa án sẽ chỉ định trọng tài viên giúp cho
các bên nếu nhƣ các bên không thống nhất đƣợc việc chọn trọng tài viên hoặc
khi một bên cố tình không chọn trọng tài viên trong thời hạn quy định.
Nhƣ vậy, Pháp lệnh Trọng tài Thƣơng mại 2003 đã khắc phục đƣợc hầu
hết các nhƣợc điểm và bất cập của các văn bản pháp lý trƣớc đó về trọng tài,
giúp cho việc xét xử của trọng tài từ đó về sau đƣợc thuận lợi hơn và tạo đƣợc
sự yên tâm của các bên khi chọn trọng tài làm cơ quan xét xử tranh chấp.
Tiếp đó, căn cứ theo quy định của Pháp lệnh, Trung tâm đã ban hành
Quy tắc tố tụng trọng tài có hiệu lực từ ngày 01/07/2004 (Quy tắc 2004). Bên
cạnh đó, Trung tâm vẫn đồng thời giữ lại Quy tắc 1993 và Quy tắc 1996 để
giải quyết các vụ tranh chấp có thỏa thuận trọng tài ký trƣớc ngày Pháp lệnh
có hiệu lực.
So với các bản Quy tắc 1993 và Quy tắc 1996 vốn đƣợc xây dựng trong
thời điểm hệ thống pháp luật về trọng tài của Việt Nam còn có nhiều bất cập
và thiếu đồng bộ. Quy tắc 2004 đã khắc phục đƣợc những thiếu sót, bất cập
cơ bản trong các Quy tắc 1993 và Quy tắc 1996. Bên cạnh những quy định
còn phù hợp trong Quy tắc 1993 và Quy tắc 1996, Quy tắc 2004 có những
điểm mới và ƣu điểm sau:
Thứ nhất, về tổng thể, Quy tắc 2004 đã đáp ứng và thể hiện đƣợc các
tiêu chí cơ bản của Pháp lệnh Trọng tài Thƣơng mại, Pháp luật và tập quán
trọng tài quốc tế hiện đại.
Thứ hai, áp dụng thuận tiện, Quy tắc đƣợc áp dụng chung để giải quyết
cả các vụ tranh chấp có yếu tố nƣớc ngoài và tranh chấp trong nƣớc.
Thứ ba, các thủ tục tố tụng đƣợc quy định chi tiết nhƣng rõ ràng và
không phức tạp, đảm bảo tính đồng bộ, công khai và công bằng về quyền và
nghĩa vụ của các bên.
Thứ tƣ, tôn trọng tối đa ý chí tự do thỏa thuận của các bên. Các bên
đƣợc tự do thỏa thuận nhiều vấn đề liên quan tới tố tụng nhƣ thời gian, ngôn
ngữ, địa điểm, luật áp dụng...
Bên cạnh những điểm mới cơ bản trên, Quy tắc 2004 còn có một số quy
định cụ thể, chi tiết cho quá trình tố tụng, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các bên.
Pháp lệnh Trọng tài Thƣơng mại và Quy tắc 2004 đã tạo ra một khung
pháp lý thuận tiện cho hoạt động của Trung tâm. Bên cạnh đó, Trung tâm
cũng có thêm nhiều thuận lợi nhƣ các doanh nghiệp biết đến phƣơng thức giải
quyết tranh chấp này ngày càng nhiều, đặc biệt khi chúng ta tham gia sâu hơn
vào xu hƣớng hội nhập kinh tế quốc tế, đội ngũ trọng tài viên sau một thời
gian làm việc và học hỏi đã tích lũy đƣợc nhiều kiến thức chuyên sâu và kinh
nghiệm thực tiễn, tiếp tục nhận đƣợc sự hỗ trợ của Phòng Thƣơng mại và
Công nghiệp Việt Nam...
Nhờ những điều kiện thuận lợi trên mà hoạt động của VIAC từ 2003
trở lại đây đã đạt đƣợc một số kết quả nhƣ sau:
Bảng 3: Số vụ tranh chấp đƣa ra VIAC trong giai đoạn 2003-2006
Năm Số vụ
tranh chấp
Tăng so với
năm trƣớc
Tranh chấp
trong nƣớc
Tranh chấp
quốc tế
Số
vụ
Tỷ lệ
(%)
Số
vụ
Tỷ lệ
(%)
Số
vụ
Tỷ lệ
(%)
2003 16 - - 2 12,50 14 87,50
2004 32 16 100 6 18,75 26 81,25
2005 24 - 8 25 2 8,33 22 91,67
9 tháng đầu
năm 2006
28 - - - - - -
(Nguồn: Sổ theo dõi các vụ kiện của VIAC)
Từ 2003 đến nay, trung bình mỗi năm Trung tâm giải quyết 27 vụ. Đặc
biệt, năm 2004 số vụ kiện đến VIAC là 32, tăng 100% so với năm 2003. Chín
tháng đầu năm nay (2006), Trung tâm tiếp nhận 28 vụ, là một kết quả khá khả
quan. Đây là một điều đáng mừng đối với VIAC. Con số này đã thể hiện ngày
càng rõ ràng rằng vị trí của VIAC đối với các bên đƣơng sự khi chọn trọng tài
giải quyết tranh chấp ngày càng đƣợc nâng cao. Trong tổng số các vụ đƣa ra
giải quyết tại VIAC, số vụ tranh chấp quốc tế vẫn chiếm tỷ trọng lớn.
Việc giải quyết các vụ đƣợc đƣa ra VIAC nhƣ sau:
Bảng 4: Tình hình giải quyết các vụ án đƣa ra VIAC giai đoạn
2003-2006
Năm
Tổng
số vụ
Xét xử ra
phán quyết
Hòa giải Rút đơn kiện
Không đủ
điều kiện thụ
lý hồ sơ
Lƣợng Tỷ lệ
(%)
Lƣợng Tỷ
lệ
(%)
Lƣợng Tỷ lệ
(%)
Lƣợng Tỷ lệ
(%)
2003 16 11 68.75 1 6.25 2 12.50 2 12.50
2004 32 18 56.25 2 6.25 5 15.63 7 21.88
2005 24 16 66.67 1 4.17 1 4.17 6 25.00
9 tháng
đầu
năm
2006
28 21 75.00 1 3.57 3 10.71 3 10.71
Tổng 100 66 66.00 5 5.00 11 11.00 18 18.00
(Nguồn: Sổ theo dõi các vụ kiện của VIAC)
Từ đầu năm 2003 đến hết 9 tháng đầu năm 2006 tổng số vụ tranh chấp
đƣa ra giải quyết tại Trung tâm là 100. Trong đó, số vụ đƣa ra phán quyết cuối
cùng đạt 66% (66 vụ), số vụ hòa giải chiếm 5% (5 vụ), số vụ rút đơn kiện
chiếm 11% (11 vụ) và số vụ không đủ điều kiện thụ lý chiếm 18% (18 vụ).
Nhìn chung, các phán quyết của trọng tài ở Trung tâm đƣợc đánh giá là
có chất lƣợng cao, bảo vệ đƣợc quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các
bên không phân biệt quốc tịch, thành phần kinh tế. Tuy nhiên, vẫn còn một số
vụ chƣa đƣợc xét xử kịp thời, một vài vụ khác phải đƣa ra phán quyết sửa đổi,
bổ sung.
Một thách thức lớn của Trung tâm hiện nay là sự cạnh tranh của các tổ
chức trọng tài nƣớc ngoài, hoạt động rộng khắp trên thế giới. Các nƣớc, lãnh
thổ trong khu vực nhƣ Đài Loan, Trung Quốc, Sigapore, Thái Lan, Mỹ, Anh
Thụy Điển, ... đều có các tổ chức trọng tài lớn về quy mô tổ chức cũng nhƣ cơ
sở vật chất với uy tín cao và kinh nghiệm đi trƣớc chúng ta hàng chục năm
luôn muốn mở rộng hoạt động đến các nƣớc khác. Họ đã tiến hành tiếp thị ở
Việt Nam dịch vụ của họ. Họ có thể xét xử bằng nhiều thứ tiếng và tiến hành
xét xử thông qua mạng Internet. VIAC luôn phải chuẩn bị để đƣơng đầu với
các đối thủ cạnh tranh trên thế giới để đến một lúc nào đó có thể xâm nhập
vào thị trƣờng "dịch vụ trọng tài quốc tế" chứ không chỉ là giải quyết các vụ
tranh chấp có ít nhất một bên đƣơng sự là Việt Nam.
Hơn nữa, dù đã nhận đƣợc sự giúp đỡ của Phòng Thƣơng mại và Công
nghiệp Việt Nam về cả nguồn nhân lực và cơ sở vật chất nhƣng những điều
kiện cần thiết để trở thành một Trung tâm trọng tài mang tầm quốc tế thì
Trung tâm còn thiếu rất nhiều. Những trọng tài viên có kiến thức sâu rộng, có
kinh nghiệm lâu năm đã nhiều tuổi, cần đào tạo thêm đội ngũ mới đảm bảo
chất lƣợng, đông đảo hơn nhằm tránh tụt hậu so với khu vực và thế giới.
CHƢƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƢỢNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH
QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI TRONG THỜI GIAN TỚI
I. DỰ BÁO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHƢƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI Ở VIỆT NAM TRONG
THỜI GIAN TỚI
1. Các nhân tố ảnh hƣởng tới sự phát triển của trọng tài ở Việt Nam
1.1. Nhân tố truyền thống văn hóa
Văn hóa Châu Á nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng đều coi
trọng hòa giải khi xảy ra tranh chấp bởi ngƣời Việt Nam vốn có truyền thống
dĩ hòa vi quý, không bao giờ muốn làm mất lòng đối tác kinh doanh. Điều này
hoàn toàn khác với những ngƣời Châu Âu luôn coi trọng khía cạnh pháp luật
trong kinh doanh và ít coi trọng cái “tình” trong các mối quan hệ xã hội.
Chính vì vậy, ngƣời Châu Á rất hiếm khi kiện nhau ra tòa, thƣờng thì họ tìm
cách giải quyết các tranh chấp xảy ra thông qua các biện pháp nhƣ thƣơng
lƣợng, hòa giải hay trọng tài trong những năm gần đây.
Trọng tài thƣơng mại Việt Nam đã và đang phát triển mạnh mẽ trong
giai đoạn gần đây. Là một nƣớc Châu Á, Việt Nam có nhiều điểm tƣơng đồng
với các nƣớc Châu Á khác, đặc biệt các nƣớc ASEAN có truyền thống giải
quyết các tranh chấp bằng hòa giải. Từ trƣớc tới nay, ở các nƣớc Châu Á, việc
sử dụng phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thƣơng mại chƣa
phổ biến. Đối với tranh chấp trong nƣớc, biện pháp thông thƣờng mà các
thƣơng nhân tìm đến nhiều nhất là thƣơng lƣợng trực tiếp hoậc hòa giải hay
trung gian. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, do thƣơng mại quốc tế phát
triển mạnh mẽ khiến nhu cầu sử dụng trọng tài ngày càng tăng. Do đó, dù
truyền thống hòa giải đã ăn sâu và tác động nhiều đến thói quen của các
thƣơng nhân, nhƣng, nhận thấy đƣợc những ƣu điểm của phƣơng thức giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài nên các doanh nghiệp sẽ sử dụng phƣơng thức
này ngày một nhiều hơn.
Truyền thống hòa giải của ngƣời Á Đông ít nhiều ảnh hƣởng tới quá
trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài. Hòa giải trƣớc khi xét xử hoặc trƣớc
khi đƣa ra phán quyết trong thủ tục trọng tài là điều các trung tâm trọng tài
Châu Á nói chung và các trung tâm trọng tài Việt Nam nói riêng rất chú
trọng. Việc hòa giải trong quá trình xét xử trọng tài giúp các bên tiết kiệm chi
phí, bảo mật đƣợc thông tin kinh doanh, giữ gìn mối quan hệ hữu hảo của các
bên, đồng thời tìm ra hƣớng để các bên tự nguyện thực hiện những nghĩa vụ
và trách nhiệm của mình.
1.2. Nhân tố lịch sử
Do Việt Nam có một thời gian dài thực hiện nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung với đặc thù là Nhà nƣớc can thiệp vào hầu hết các hoạt động kinh tế
nên trọng tài ở Việt Nam cũng bị ảnh hƣởng bởi nhân tố lịch sử này.
Trƣớc kia trong thời bao cấp khi nghe thấy "trọng tài" là các doanh
nghiệp rất e ngại bởi trọng tài lúc đó là cơ quan của nhà nƣớc giám sát việc
thực hiện các hợp đồng kinh tế.
Xét về mặt lịch sử, trọng tài nhà nƣớc xuất hiện và phát triển cùng với
sự phát triển của chế độ hợp đồng kinh tế. Năm 1960, Thủ tƣớng Chính phủ
ban hành Nghị định số 04/TTg (04/01/1960) quy định điều lệ tạm thời về hợp
đồng kinh tế. Mƣời ngày sau đó, ngày 14/01/1960, trọng tài nhà nƣớc ra đời
trên cơ sở Nghị định số 20/TTg. Tổ chức, chức năng và nhiệm vụ của trọng
tài nhà nƣớc đƣợc hoàn thiện dần. Đỉnh điểm của sự phát triển Trọng tài kinh
tế Nhà nƣớc ở Việt Nam là việc thành lập cơ quan Trọng tài kinh tế Nhà nƣớc
theo Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế ban hành ngày 10/01/1990. Theo Điều 2 của
Pháp lệnh này thì Trọng tài kinh tế có các nhiệm vụ và quyền hạn sau:
- Giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế
- Kiểm tra, kết luận và xử lý các hợp đồng kinh tế trái pháp luật
- Tuyên truyền, hƣớng dẫn thực hiện pháp luật hợp đồng kinh tế và
trọng tài kinh tế
- Bồi dƣỡng nghiệp vụ công tác hợp đồng kinh tế và trọng tài kinh tế
- Trọng tài kinh tế có thể đƣợc giao nhiệm vụ và quyền hạn khác khi
cần thiết
Nhƣ vậy ta thấy rõ ràng là Trọng tài kinh tế Nhà nƣớc có thẩm quyền
đƣơng nhiên trong việc kiểm tra việc ký kết và thực hiện hợp đồng của các
doanh nghiệp. Chính xuất phát từ địa vị pháp lý đặc biệt nhƣ vậy mà trong thủ
tục xét xử tranh chấp hợp đồng kinh tế và thủ tục xử lý vi phạm pháp luật hợp
đồng kinh tế của trọng tài kinh tế nhà nƣớc là sự đan xen giữa tố tụng tƣ pháp
với thủ tục hành chính. Mặc dù trong Pháp lệnh trọng tài kinh tế ngày
10/01/1990 cũng quy định những nguyên tắc cơ bản của tố tụng trọng tài nhƣ:
khi giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế, xử lý vi phạm pháp luật hoạt động
kinh tế, trọng tài viên độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; các bên tranh chấp
bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng trọng tài kinh tế, có quyền tự
mình hoặc thông qua đại diện hoặc nhờ luật sƣ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình bằng tranh luận và biện minh trƣớc trọng tài; ghi nhận quyền
thỏa thuận lựa chọn tổ chức trọng tài giải quyết của các bên đƣơng sự trong
phạm vi nhất định... Nhƣng hoạt động của trọng tài kinh tế nhà nƣớc trong
suốt thời gian tồn tại của mình vẫn mang tính hình thức, chƣa có bề rộng cũng
nhƣ chiều sâu, mang tính mệnh lệnh hành chính của cơ quan nhà nƣớc. Điều
này đã gây tâm lý e ngại cơ quan này trong suốt một thời gian dài. Chính vì
vậy mà kể cả khi Trọng tài kinh tế nhà nƣớc bị giải thể vào tháng 7 năm 1994
và chức năng của nó đƣợc chuyển giao cho Tòa án kinh tế và trọng tài phi
chính phủ thì rất nhiều doanh nghiệp vẫn chƣa hiểu rõ vai trò và lợi ích của
trọng tài phi chính phủ hiện nay. Họ vẫn còn bị ám ảnh bởi sự nhũng nhiễu và
phiền hà của Trọng tài kinh tế Nhà nƣớc trƣớc đây.
Hệ thống pháp luật của chúng ta một thời gian dài còn khá nhiều bất
cập, vừa thiếu lại không đồng bộ do chúng ta thiếu quan tâm đến việc xây
dựng hệ thống pháp luật trong những năm dài chiến tranh. Tƣ duy và cơ chế
tập trung bao cấp vẫn còn ảnh hƣởng rất nặng nề đến hoạt động của các cơ
quan công quyền và thực thi pháp luật. Chính vì vậy mà việc giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài phi chính phủ ở nƣớc ta chƣa phát huy đƣợc hiệu quả và
tạo lập đƣợc uy tín trong giới doanh nhân trong và ngoài nƣớc.
1.3. Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và ảnh hưởng sau khi Việt Nam gia
nhập WTO
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế khách quan, không một quốc gia
nào có thể đứng ngoài xu thế đó. Tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế sẽ giúp các nƣớc có điều kiện tốt nhất để phát triển nền kinh tế của
mình. Điều này càng đúng hơn với các nƣớc đang phát triển, trong đó có Việt
Nam. Đối với các nƣớc đang phát triển, hội nhập là con đƣờng ngắn nhất và
hiệu quả nhất để phát triển kinh tế đất nƣớc, phát huy những lợi thế so sánh
vốn có của mình, tránh tụt hậu so với những nƣớc khác có lịch sử phát triển
lâu đời.
Trong quá trình tích cực tham gia vào hội nhập kinh tế, chúng ta đã đạt
đƣợc nhiều thành tựu đáng mừng. Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ thƣơng
mại với gần 200 quốc gia và vùng, lãnh thổ, trở thành thành viên của ASEAN,
APEC, ASEM, ... thu hút đƣợc nhiều vốn đầu tƣ nƣớc ngoài dƣới cả hình
thức trực tiếp và gián tiếp. Đặc biệt trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế,
Việt Nam đã có những bƣớc chuyển đổi đáng khích lệ. Và những cố gắng của
Việt Nam đã đã đƣợc đền đáp, ngày 7/10/2006 vừa qua, Việt Nam đã chính
thức đƣợc kết nạp vào tổ chức kinh tế lớn nhất toàn cầu - WTO.
Thƣơng mại ngày càng phát triển, tranh chấp xảy ra trong kinh doanh
và hoạt động thƣơng mại càng nhiều hơn. Với mong muốn quá trình kinh
doanh thông suốt, thuận lợi, giải quyết nhanh chóng những vấn đề tranh chấp
xảy ra đồng thời nhận thức đƣợc những ƣu điểm của phƣơng thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài. Do đó, chắc chắn trong thời gian tời nhu cầu sử
dụng "dịch vụ trọng tài" của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ rất lớn. Đây là
một điều kiện vô cùng thuận lợi cho sự phát triển của VIAC cũng nhƣ các
trung tâm trọng tài khác trong cả nƣớc.
II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CỤ THỂ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI
1. Nhóm kiến nghị đối với các tổ chức trọng tài thƣơng mại
Nâng cao hiệu quả hoạt động giải quyết tranh chấp là vấn đề sống còn
đối với các trung tâm trọng tài. Thật vậy, mặc dù nhu cầu giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài ngày càng nhiều nhƣng cũng không thể tránh khỏi sẽ ngày
càng nhiều trung tâm trọng tài mới sẽ đƣợc ra đời, đó là còn chƣa kể đến sự
"xâm nhập thị trƣờng" của các trung tâm trọng tài nƣớc ngoài. Do đó, sự cạnh
tranh giữa các trung tâm sẽ ngày càng gay gắt để có thể tạo đƣợc niềm tin đối
với các doanh nghiệp, xây dựng đƣợc thƣơng hiệu của chính mình. Chỉ có
nhƣ vậy, các bên đƣơng sự với quyền tự do lựa chọn của mình mới tìm đến
một trung tâm cụ thể nào đó.
Là một trung tâm đã tạo dựng đƣợc hình ảnh trong giới doanh nhân,
đồng thời có nhiều lợi thế hơn hẳn so với các trung tâm khác, VIAC cũng
phải không ngừng nâng cao chất lƣợng giải quyết tranh chấp của mình để có
thế giữ vững và nâng cao hơn nữa vị thế hiện nay của mình.
Để đảm bảo không ngừng nâng cao năng lực và uy tín của mình, VIAC
và các trung tâm trọng tài khác cần tập trung chủ yếu vào những điểm sau:
1.1 Chú trọng hơn nữa tới số lượng và chất lượng trọng tài viên
Là tổ chức phi chính phủ, các trung tâm trọng tài không đƣợc nhà nƣớc
bao cấp, giám sát sự thành công hay thất bại của mỗi trung tâm, cả về lợi
nhuận và các lợi ích khác. Điều này vừa có mặt lợi, vừa có mặt hạn chế. Hạn
chế ở chỗ trung tâm sẽ thiếu đi một phần hỗ trợ vô cùng to lớn, nhƣng ngƣợc
lại, các trung tâm lại có đƣợc quyền chủ động trong hoạt động của mình. Các
trung tâm cần phát huy ƣu điểm này. Muốn vậy, các trung tâm cần có nội lực
mạnh mẽ, mà nhân tố quyết định đến nội lực của các trung tâm trọng tài chính
là đội ngũ trọng tài viên của mỗi trung tâm. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ
và tƣ cách đạo đức của các trọng tài viên có vai trò quyết định đến phán quyết
trọng tài và sự phục tùng của các bên với phán quyết trọng tài đƣợc tuyên.
Các trung tâm cần chú ý đến ý kiến và nhu cầu của khách hàng để chọn
đƣợc những trọng tài viên có uy tín, phù hợp với yêu cầu của các doanh
nghiệp về làm việc cho mình.
Mặc dù phải chú trọng vào cả chất lƣợng và số lƣợng trọng tài viên
nhƣng vấn đề đặt lên hàng đầu vẫn phải là chất lƣợng các trọng tài viên. Các
trọng tài cần tạo điều kiện thuận lợi cho các trọng tài viên hiện có tích lũy
kinh nghiệm, trao đổi thông tin, bồi dƣỡng nghiệp vụ bằng các hình thức thích
hợp; đồng thời tìm kiếm thêm những ngƣời đạt yêu cầu để mời làm trọng tài
viên cho trung tâm.
Các trung tâm cần phải chuẩn bị cả về điều kiện vật chất và trình độ
pháp lý để tiến hành mở rộng nguồn trọng tài viên trong tƣơng lai gần. Các
trung tâm nên lựa chọn cả những chuyên gia nƣớc ngoài làm trọng tài viên
hoặc tƣ vấn cho trung tâm. Đây là một trong những biện pháp hữu hiệu giúp
các trung tâm tiếp cận và học hỏi kinh nghiệm của nƣớc ngoài trong hoạt
động giải quyết tranh chấp, nâng cao chất lƣợng đội ngũ trọng tài viên. Mặt
khác, có nhƣ vậy các trung tâm mới có thể vƣơn ra thị trƣờng trọng tài quốc
tế.
Đối với VIAC, đội ngũ trọng tài viên của trung tâm hiện nay đang ở vị
trí hàng đầu. Hơn nữa, Quy chế bốn năm tổ chức bầu lại trọng tài viên 1 lần là
hợp lý, tạo điều kiện cho trung tâm duy trì, củng cố và tăng cƣờng chất lƣợng
trọng tài viên. Tuy nhiên, để phát huy những gì đã có, trung tâm cũng không
đƣợc lơ là công tác nâng cao chất lƣợng đội ngũ trọng tài viên.
1.2 Nghiên cứu, xây dựng và kiện toàn bộ máy thường trực của các trung tâm
Các trung tâm nên xúc tiến việc nghiên cứu, xây dựng (đối với những
trung tâm chƣa có), kiện toàn (với những trung tâm đã có) Hội đồng nghiên
cứu khoa học pháp lý. Biến Hội đồng này trở thành bộ phận thƣờng trực, sẵn
sàng hỗ trợ, cung cấp thông tin tài liệu cho các Hội đồng trọng tài hoạt động
và các trọng tài viên... giúp họ có thể cho ra những phán quyết có chất lƣợng
cao.
Các trung tâm cần chuẩn bị nguồn nhân lực để mở rộng hoạt động của
mình trên khắp cả nƣớc. Đây không những là biện pháp mở rộng hoạt động
của các trung tâm mà nó còn giúp các trung tâm theo sát và hiểu rõ thực tế
kinh doanh tại địa bàn, nâng cao kiến thức thực tế của các trọng tài viên.
Các trung tâm cũng cần bố trí kinh phí hợp lý cho việc thiết lập trung
tâm thông tin, tủ sách trọng tài, chú trọng đầu tƣ cho việc cập nhật thông tin,
thiết lập mạng trao đổi thông tin nội bộ và với các cơ quan, tổ chức có liên
quan nhƣ Tòa án, Bộ Tƣ pháp, các trung tâm trọng tài khác... nhằm tăng
cƣờng hỗ trợ cho các doanh nghiệp, tổ chức muốn tìm hiểu về các tổ chức
trọng tài và phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
1.3 Đẩy mạnh hợp tác trong nước và quốc tế trong lĩnh vực giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài
Lịch sử phát triển của trọng tài phi chính phủ ở Việt Nam chƣa dài,
trọng tài phi chính phủ của Việt Nam đang trong quá trình theo đuổi mặt bằng
chung của trọng tài trên thế giới. Chính vì vậy, việc tăng cƣờng hợp tác quốc
tế để học hỏi kinh nghiệm, trao đổi thông tin là hết sức cần thiết. Các trung
tâm nên tích cực tham gia và tổ chức các cuộc hội thảo với sự tham gia của
các nhà luật học, các nhà kinh tế học, các doanh nghiệp trong và ngoài nƣớc.
Tích cực thiết lập quan hệ hợp tác trao đổi thông tin với các trung tâm trọng
tài trong và ngoài nƣớc. Tổ chức các cuộc tham quan lẫn nhau giữa các trung
tâm trọng tài trong và ngoài nƣớc. Thƣờng xuyên mời các chuyên gia, các luật
sƣ nổi tiếng trên thế giới tƣ vấn, hỗ trợ cho các trung tâm trong quá trình hoạt
động đặc biệt là trong công tác giải quyết tranh chấp.
1.4 Đa dạng hóa các dịch vụ tư vấn của các tổ chức trọng tài
Các trung tâm trọng tài trong quá trình giải quyết các tranh chấp trở
thành cầu nối giữa các quy định pháp luật và quá trình thực hiện pháp luật ở
các doanh nghiệp. Các trung tâm trọng tài giúp cho các doanh nghiệp hiểu
hơn về các quy định của nhà nƣớc. Các trung tâm cũng thực hiện vai trò đƣa
ra những quyết định phù hợp với thực tế cũng nhƣ tham gia vào các Hiệp
định, các Công ƣớc quốc tế phù hợp với điều kiện Việt Nam và tập quán quốc
tế ... góp phần hoàn thiện hơn môi trƣờng pháp lý của Việt Nam hiện nay.
Việc đa dạng hóa các dịch vụ tƣ vấn nên tận dụng trình độ chuyên môn
và kinh nghiệm của đội ngũ trọng tài viên trong tất cả các lĩnh vực thƣơng
mại, hàng hải, đầu tƣ, bảo hiểm... giúp doanh nghiệp tránh đƣợc những rủi ro
pháp lý khi ký kết hợp đồng nhất là trong điều kiện trình độ hiểu biết pháp
luật và tập quán kinh doanh của các cán bộ kinh doanh của ta còn nhiều hạn
chế. Dịch vụ tƣ vấn mặt khác giúp cho các trung tâm tiếp cận đƣợc thực tế
kinh doanh của các doanh nghiệp, lắng nghe những tâm tƣ nguyện vọng của
họ để có hƣớng đáp ứng kịp thời và đầy đủ.
Bên cạnh đó các trung tâm cần tăng cƣờng công tác tuyên truyền,
quảng cáo về trung tâm, kèm theo những hƣớng dẫn cụ thể để giúp doanh
nghiệp có thể chọn đƣợc cách giải quyết tranh chấp hiệu quả nhất và tránh
đƣợc sự không rõ ràng, không thống nhất về điều khoản trọng tài cũng nhƣ
điều khoản về tranh chấp nói chung trong hợp đồng.
2. Nhóm kiến nghị khác
2.1 Kiến nghị đối với nhà nước
2.1.1 Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động trọng tài
Các trung tâm trọng tài ở nƣớc ta hiện nay điều là các trung tâm trọng
tài phi chính phủ. Tuy nhiên, trọng tài phi chính phủ không có nghĩa là nhà
nƣớc sẽ không tiến hành quản lý hoạt động của những trung tâm này.
Sự can thiệp của nhà nƣớc trong quá trình trọng tài đƣợc tranh luận và
tiếp cận khác nhau ở những hệ thống pháp luật khác nhau. Nhìn chung, nhà
nƣớc cần phải đóng một vai trò nhất định trong quá trình trọng tài. Vấn đề là
nhà nƣớc tác động đến đâu, tác động đó cuối cùng ảnh hƣởng tốt hay xấu tới
quá trình trọng tài. Tác động đó là tích cực nếu nhà nƣớc quan tâm tới kết quả
và can thiệp khi cần thiết nhằm giúp các bên tham gia trọng tài đạt đƣợc mục
đích của mình trên cơ sở tôn trọng công lý, công bằng và khách quan. Ngƣợc
lại, sẽ là tác động không tốt nếu nhà nƣớc đƣa ra những quy định chỉ quan
tâm tới lợi ích chung mà không quan tâm tới lợi ích các bên, hay chỉ quan tâm
đến lợi ích của một bên nào đấy.
Trong một chừng mực nào đấy, sự giám sát của nhà nƣớc đối với hoạt
động trọng tài là cần thiết. Sự giám sát này nhằm mục đích hỗ trợ chứ không
phải để can thiệp, khống chế trọng tài. Vai trò của nhà nƣớc là đảm bảo hài
hòa giữa lợi ích chung và lợi ích riêng, giữa lợi ích của các bên.
Chức năng cơ bản của nhà nƣớc trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp là
tạo nên một hệ thống pháp luật thống nhất và năng động nhằm bảo vệ một
cách bình đẳng các quyền thƣơng mại của các bên tham gia trọng tài và
khuyến khích họ tự tìm giải pháp giải quyết tranh chấp của họ trên cơ sở thiện
chí và không vi phạm pháp luật, chính sách công cộng. Vấn đề đặt ra đối với
nƣớc ta hiện nay là làm thế nào để tăng cƣờng hiệu quả quản lý của nhà nƣớc,
nhà nƣớc nên quản lý trọng tài đến đâu và nhƣ thế nào.
Vai trò của nhà nƣớc càng trở nên quan trọng hơn trong trƣờng hợp có
đơn yêu cầu hủy quyết định trọng tài hoặc trƣờng hợp cho phép tiến hành thủ
tục thi hành cƣỡng chế quyết định trọng tài.
2.1.2 Bổ sung, sửa đổi một số quy định trong Pháp lệnh trọng tài Thƣơng mại
năm 2003
Nhà nƣớc thực hiện quản lý với các trung tâm trọng tài hiện nay thông
qua các quy định pháp luật hay thông qua các tác động khác nhƣ tham gia các
Công ƣớc Quốc tế, Điều ƣớc Quốc tế, đào tạo, hỗ trợ kinh phí và cơ sở vật chất
trong một chừng mực nào đấy... Các quy định của nhà nƣớc nói chung có thể tác
động theo hai hƣớng tích cực và tiêu cực đến hiệu quả giải quyết tranh chấp.
Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại 2003 (ngoài ra VIAC còn có thêm Quy tắc
2004) đã bổ sung, hoàn thiện dần những bất cập, thiếu sót và chồng chéo trong
những quy định trƣớc kia về trọng tài. Tuy nhiên trong Pháp lệnh trọng tài
Thƣơng mại 2003 vẫn còn một số điểm phải đƣợc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện
hơn nữa:
Thứ nhất, Pháp lệnh cần có thêm quy định về những tranh chấp không
đƣợc xét xử bằng trọng tài. Không phải hầu hết các tranh chấp trong thƣơng
mại đều nên và/hoặc có thể giải quyết bằng trọng tài. Có thể thấy rằng, hầu
hết các nƣớc đều bảo lƣu một số loại tranh chấp liên quan đến quyền con
ngƣời, tình trạng cá nhân, phá sản, phát minh, nhãn hiệu hàng hóa... Không
đƣợc phép giải quyết bằng trọng tài. Nguyên nhân là các tranh chấp nói trên
không chỉ liên quan đến quyền lợi của các bên trong tranh chấp mà còn liên
quan đến lợi ích của bên thứ ba hoặc lợi ích công cộng. Việc xét xử bằng
trọng tài các tranh chấp nói trên dễ dẫn đến tình trạng vi phạm quyền lợi của
bên thứ ba hoặc lợi ích công cộng. Nhà nƣớc thƣờng dành cho mình độc
quyền giải quyết những tranh chấp trên.
Thứ hai, việc quy định tranh chấp giữa các bên Việt Nam phải giải
quyết bằng pháp luật Việt Nam là không hợp lý (Khoản 1 Điều 7). Chúng ta
đều biết rằng hệ thống pháp luật của chúng ta cho đến nay vẫn chƣa hoàn
thiện, có nhiều vấn đề còn chƣa đề cập đến. Vậy khi trong vụ tranh chấp xảy
ra có những vấn đề mà pháp luật chƣa đề cập đến thì phải giải quyết ra sao,
hay cả trong trƣờng hợp phải áp dụng tập quán quốc tế chứ không phải luật
pháp của bất cứ nƣớc nào.
Thứ tƣ, cần đƣa ra khái niệm rõ ràng về phán quyết của trọng tài nƣớc
ngoài. Căn cứ để xác định một phán quyết là phán quyết trọng tài nƣớc ngoài
là trụ sở của trọng tài hay nơi trọng tài ra phán quyết. Điều này là rất quan
trọng đối với việc công nhận và thi hành phán quyết.
Thứ năm, cần có quy định rõ ràng, cụ thể về công nhận và đảm bảo
hiệu lực của thỏa thuận trọng tài. Hiện nay, trong Pháp lệnh trọng tài Thƣơng
mại mới chỉ có quy định rằng Tòa án phải khƣớc từ việc thụ lý vụ tranh chấp
đã có thỏa thuận trọng tài. Nhƣ vậy là chƣa đầy đủ và chặt chẽ. Hơn nữa,
Pháp lệnh cũng chƣa quy định các bên buộc phải tham gia vào quá trình trọng
tài nếu nhƣ thỏa thuận hai bên là nhƣ vậy (đƣơng nhiên phải sau quá trình
thƣơng lƣợng trực tiếp và hòa giải nếu có thỏa thuận).
2.2 Kiến nghị đối với các doanh nghiệp - thương nhân
Hiện nay, phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ngày càng
đƣợc các doanh nghiệp Việt Nam ƣa chuộng bởi những đặc tính ƣu việt của
nó. Để doanh nghiệp Việt Nam bảo vệ đƣợc lợi ích chính đáng của mình đồng
thời nâng cao uy tín của các doanh nghiệp Việt Nam trên trƣờng quốc tế, các
doanh nghiệp Việt Nam nên chú ý đến các vấn đề sau:
Thứ nhất, cần tìm hiểu kỹ về phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài để có cái nhìn đúng đắn nhất về phƣơng thức ƣu việt này chứ không
chỉ là nghe nói nó tốt, mọi ngƣời thƣờng dùng mà dùng theo xu thế. Từ đó các
doanh nghiệp vận dụng phƣơng thức để giải quyết các tranh chấp phát sinh
trong quá trình hoạt động của mình: thảo ra thoả thuận trọng tài đầy đủ các
yếu tố để thuận lợi cho quá trình tố tụng sau này, tham gia tích cực vào quá
trình tố tụng trọng tài, tôn trọng và thi hành phán quyết trọng tài đã đƣợc
tuyên, rút kinh nghiệp cho những tranh chấp phát sinh sau này.
Thứ hai, doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào một thoả thuận trọng
tài cần nắm rõ quy tắc tố tụng trọng tài đƣợc chọn. Khi đã nắm rõ quy tắc tố
tụng, doanh nghiệp Việt Nam sẽ tận dụng đƣợc các ƣu điểm của quá trình
trọng tài, hạn chế những nhƣợc điểm của quá trình này, đảm bảo tổ chức
trọng tài đƣợc chọn sẽ thụ lý vụ án, phán quyết của trọng tài đƣa ra có giá trị
thi hành... Điều này nhằm mục đích nếu tranh chấp xảy ra sẽ đƣợc giải quyết
một cách nhanh chóng, công bằng, bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp
Việt Nam.
Thứ ba, thực hiện nghiêm túc phán quyết của trọng tài đã đƣợc tuyên.
Thực tế cho thấy, khi ở vị trí nguyên đơn, các doanh nghiệp Việt Nam đón
nhận trọng tài một cách tích cực, họ tham gia đầy đủ các bƣớc tố tụng trọng
tài ngay cả khi trọng tài tiến hành ở nƣớc ngoài vì theo đuổi tố tụng trọng tài
là phù hợp với lợi ích của họ, có lợi cho họ. Còn trong trƣờng hợp họ ở vào vị
trí bị đơn thì họ thƣờng có các cách ứng xử sau:
- Nếu trọng tài tiến hành ở Việt Nam thì doanh nghịêp bị đơn còn theo
kiện do chi phí không quá cao.
- Nếu trọng tài tiến hành ở nƣớc ngoài, doanh nghiệp bị đơn Việt Nam
hầu nhƣ không có một động thái tích cực nào: họ không chỉ định trọng
tài viên, không đóng tạm ứng phí trọng tài, đôi khi chỉ gửi một vài văn
thƣ trả lời trọng tài còn nhìn chung không tham gia tố tụng, không gửi
luận cứ bào chữa cho mình, không đi dự phiên họp xét xử trọng tài và
khi phán quyết của trọng tài đƣợc đƣa ra thì họ không tự nguyện thi
hành.
Việc bị đơn không tham gia tố tụng trọng tài, không tự nguyện thực hiện
phán quyết của trọng tài cũng là điều dễ hiểu, điều này cũng xảy ra cả khi các
doanh nghiệp nƣớc ngoài là bị đơn. Đây là một tình huống hết sức tự nhiên và
bình thƣờng. Tuy nhiên, để thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa các bên thì bản thân
bên nguyên cũng nhƣ bên bị phải nâng cao ý thức tự giác thực hiện các phán
quyết của trọng tài. Thực hiện tốt điều này sẽ giúp nâng cao hình ảnh tôn trọng
cam kết của các doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời thể hiện tính nghiêm minh
của pháp luật Việt Nam, nhất là trong bối cảnh Việt Nam sắp ra nhập WTO.
KẾT LUẬN
Tranh chấp tồn tại một cách khách quan, nhu cầu về trọng tài thƣơng mại
là một tất yếu. Khi kinh tế ngày càng phát triển, trọng tài sẽ có nhiều cơ hội
hơn để phát triển. Trọng tài ở Việt Nam tuy còn non trẻ nhƣng đã có nhiều
bƣớc tiến đáng mừng. Các trung tâm cần phát huy hơn nữa những thuận lợi
đang có, vận dụng hết nội lực của mình để cung cấp cho các doanh nghiệp
dịch vụ trọng tài tốt nhất. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ đem đến những thời cơ
và cả thách thức mới với tất cả các trung tâm trọng tài nói riêng, với tất cả các
doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân Việt Nam nói chung. Điều đó buộc các trung
tâm trọng tài phải có những bƣớc đi chiến lƣợc đúng đắn để có thể trụ vững
trong một môi trƣờng đầy tính cạnh tranh và năng động.
Với mong muốn tất cả các doanh nghiệp nhận thức đƣợc khái nệm cơ
bản nhất về phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, những đặc tính
ƣu việt của phƣơng thức giải quyết tranh chấp này so với đƣa ra giải quyết tại
Toà án. Đồng thời đƣa ra kiến nghị góp phần nâng cao chất lƣợng hoạt động
trọng tài đáp ứng kịp thời những nhu cầu mới đặt ra. Khoá luận đã cố gắng
đƣa vào những kiến thức cơ bản nhất về tranh chấp, các phƣơng thức giải
quyết tranh chấp thƣờng gặp, phƣơng thức tranh chấp đƣợc ƣa chuộng, đƣa ra
những nét khái quát nhất về hoạt động của các trung tâm trọng tài hiện nay
đặc biệt là tình hình hoạt động của VIAC và đƣa ra những kiến nghị từ góc độ
cá nhân.
Bản thân ngƣời viết mong muốn rằng khoá luận đã làm tốt nhiệm vụ và
mục đích ban đầu đã đặt ra. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một khóa luận,
bản thân ngƣời viết còn hạn chế về trình độ cũng nhƣ giới hạn về thời gian và
tài liệu nên khóa luận không thể tránh khỏi những sai sót và khía cạnh chƣa
đề cập đến... Bản thân ngƣời viết rất mong nhận đƣợc sự góp ý và phản hồi
của hội đồng và ngƣời đọc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Thông Anh, "Những điều cần biết về tố tụng trọng tài", Dân chủ
và pháp luật, số chuyên đề tháng 4/2005
2. Công ƣớc New York về công nhận và thi hành các phán quyết của
trọng tài nƣớc ngoài, Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004
3. Công ƣớc Viên 1980 (Công ƣớc của Liên Hiệp Quốc về hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế), Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004
4. Phạm Liêm Chính, "Doanh nghiệp Việt Nam đón nhận trọng tài thƣơng
mại nhƣ thế nào trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới", Dân chủ và
pháp luật, số chuyên đề tháng 4/2005
5. Vũ Ánh Dƣơng, "Những điểm mới trong quy tắc tố tụng trọng tài năm
2004 của VIAC", Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng 4/2005
6. Viên Thế Giang, "Giải quyết tranh chấp kinh doanh theo quy định của
Bộ luật tố tụng Dân sự 2004", Nhà nƣớc và Pháp luật, số 12/2005
7. Lê Thị Hồng Hạnh, "Khái niệm thƣơng mại trong pháp luật Việt Nam
và những bất cập dƣới góc độ thực tiễn áp dụng và chính sách hội
nhập", Tạp chí Luật học, số 11/2000
8. Dƣơng Văn Hậu, "Xu hƣớng phát triển văn hóa trọng tài thƣơng mại
quốc tế", Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng 4/2005
9. Trần Hữu Huỳnh, "Một số điểm về phƣơng thức giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài", Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng 4/2005
10. Trần Hữu Huỳnh, "Một số vấn đề về thỏa thuận trọng tài trong thƣơng
mại quốc tế", Tạp chí luật học, số 5/2000
11. Vũ Trần Khánh Linh, "Bàn về một vụ tranh chấp tại VIAC", Dân chủ
và pháp luật, số chuyên đề tháng 4/2005
12. Hoàng Thế Liên, "Giới thiệu khái quát về các phƣơng thức giải quyết
tranh chấp chủ yếu tại Việt Nam trong lĩnh vực thƣơng mại quốc tế và
đầu tƣ nƣớc ngoài", Kỷ yếu hội thảo Khoa học "Giải quyết tranh chấp
kinh tế có yếu tố nƣớc ngoài tại Việt Nam", NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, 2000
13. Đặng Thị Bích Liễu, Giải quyết tranh chấp kinh tế bằng con đƣờng
trọng tài, NXB Chính trị Quốc gia, 1998
14. Luật thƣơng mại Việt Nam năm 1997, Pháp luật trong hoạt động kinh
tế đối ngoại, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004
15. Luật thƣơng mại Việt Nam năm 2005, NXB Chính trị Quốc gia, 2006
16. Nguyễn Thị Hằng Nga, "Về thẩm quyền của trọng tài thƣơng mại và
những lƣu ý trong hoạt động thụ lý của các tranh chấp có trọng tài
thƣơng mại", Tạp chí luật học, số 7/2006
17. Nguyễn Khánh Ngọc, "Cơ chế của WTO về giải quyết tranh chấp
thƣơng mại", Dân chủ và Pháp Luật, số chuyên đề tháng 2/2005
18. GS.,TS. Nguyễn Thị Mơ, "Nhận dạng các loại hình tranh chấp trong
thƣơng mại quốc tế", Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 16/2006
19. Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài
nƣớc ngoài năm 1995, Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004
20. Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại năm 2003, Pháp luật trong hoạt động
kinh tế đối ngoại, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004
21. Nguyễn Thị Hoài Phƣơng, "Về các giải pháp thực hiện pháp luật điều
chỉnh quan hệ tố tụng trọng tài thƣơng mại", Nhà nƣớc và pháp luật, số
3/2006
22. Nguyễn Minh Quân, "Các quy định của WTO về thực thi pháp luật và
giải quyết khiếu kiện trong lĩnh vực thƣơng mại hàng hóa", Dân chủ và
pháp luật, số chuyên đề tháng 2/2005
23. Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC có hiệu lực từ ngày 20 tháng 8 năm
1993 (Quy tắc 1993)
24. Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC có hiệu lực từ ngày 15 tháng 4 năm
1996 (Quy tắc 1996)
25. Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm
2004 (Quy tắc 2004)
26. Bùi Ngọc Sơn, "Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh xuất nhập
khẩu ở các nƣớc có nền kinh tế thị trƣờng phát triển", Tạp chí Kinh tế
đối ngoại, số 3/2003
27. Hoàng Ngọc Thiết, Tranh chấp từ hợp đồng xuất nhập khẩu, án lệ trọng
tài và kinh nghiệm, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002
28. Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam, 50 phán quyết Trọng tài Quốc
tế chọn lọc, Hà Nội, 2002
29. Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam, Trọng tài và các phƣơng thức
giải quyết tranh chấp lựa chọn, Hà Nội, 2002
30. Nguyễn Thị Vân, "Tình hình hoạt động của trọng tài thƣơng mại ở Việt
Nam hơn một năm sau khi có Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại", Dân
chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng 4/2005
31. Ngô Quang Vịnh, "Pháp lệnh trọng tài thƣơng mại ngày 25/02/2003-
một bƣớc tiến xa so với Nghị định 116-CP năm 1994", Tạp chí Kinh tế
đối ngoại, số 5/2003
Các trang Web:
32.
33.
34.
35.
page?contentId=9879
36.
=Viet Nam
37.
BSPSArbitration.htm
38.
39.
browse.php?action=shownews&category=&id=44&topicid=454
40.
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT ................................................................................ 4
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TRỌNG TÀI VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI ............................................ 5
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH
QUỐC TẾ GIỮA CÁC THƢƠNG NHÂN ................................................. 5
1. KHÁI NIỆM VỀ THƢƠNG NHÂN ................................................. 5
2. TRANH CHẤP THƢƠNG MẠI ....................................................... 6
3. TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC
TẾ...............................................8
4.TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ LÀ TRANH
CHẤP CHỦ YẾU LIÊN QUAN ĐẾN HỢT ĐỘNG CỦA CÁC
THƢƠNG NHÂN TRONG THƢƠNG MẠI QUỐC
TẾ................................................................................................................
9
II. CÁC PHƢƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG
KINH DOANH QUỐC TẾ .................................................................. 11
1. CÁC PHƢƠNG THỨC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG
KINH DOANH QUỐC TẾ THƢỜNG GẶP ...................................... 11
1.1. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG THƢƠNG LƢỢNG TRỰC
TIẾP GIỮA CÁC BÊN .................................................................... 12
1.2. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUA KHÂU TRUNG GIAN ....... 13
1.3. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ
BẰNG HÒA GIẢI ............................................................................ 13
1.4. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ
BẰNG TÒA ÁN ............................................................................... 15
1.5. GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ
BẰNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI .................................................. 17
III. TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI – PHƢƠNG THỨC GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ ĐƢỢC ƢA
CHUỘNG ................................................................................................. 17
1. KHÁI NIỆM VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI ........................... 17
2. THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI ... 18
3. CÁC LOẠI TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI .................................... 21
3.1 TRỌNG TÀI AD-
HOC...........................................................................20
3.2 TRỌNG TÀI QUY CHẾ (HAY TRỌNG TÀI THƢỜNG
TRỰC................................22
4. NHỮNG ƢU VIỆT CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI ............... 28
4.1. TÍNH CHUNG THẨM VÀ HIỆU LỰC CỦA PHÁN QUYẾT
TRỌNG TÀI .................................................................................... 27
4.2. TÍNH BÍ MẬT TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP .............. 28
4.3 TÍNH LINH HOẠT TRONG GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP..................................29
4.4 TÍNH LIÊN TỤC CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG
TRỌNG TÀI.........35
4.5 TIẾT KIỆM THỜI
GIAN........................................................................35
4.6 GIÚP CÁC BÊN DUY TRÌ ĐƢỢC MỐI QUAN
HỆ........................................35
4.7 TẬN DỤNG ĐƢỢC KINH NGHIỆM CỦA CÁC CHUYÊN
GIA..........................35
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH
DOANH QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI Ở VIỆT NAM ........................................... 38
I. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH
QUỐC TẾ THÔNG QUA CÁC TỔ CHỨC TRỌNG TÀI ....................... 38
1. MỘT SỐ NÉT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TRUNG TÂM
TRỌNG TÀI PHI CHÍNH PHỦ ......................................................... 38
2. TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH
DOANH QUỐC TẾ TẠI CÁC TRUNG TÂM TRỌNG TÀI PHI
CHÍNH PHỦ Ở VIỆT NAM ............................................................... 42
II. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH
DOANH QUỐC TẾ TẠI TRUNG TÂM TRỌNG TÀI QUỐC TẾ BÊN
CẠNH PHÒNG THƢƠNG MẠI VÀ CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM. ....... 43
1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VIAC....................... 43
2. TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TẠI VIAC ............... 51
2.1 TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TẠI VIAC TỪ 2002
TRỞ VỀ TRƢỚC ............................................................................. 52
2.2 TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH
DOANH QUỐC TẾ TẠI TRUNG TÂM TRỌNG TÀI QUỐC TẾ VIỆT
NAM BÊN CẠNH PHÒNG THƢƠNG MẠI VÀ CÔNG NGHIỆP
VIỆT NAM TỪ 2003 ĐẾN NAY....................................................... 59
CHƢƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI
TRONG THỜI GIAN TỚI............................................................................................ 65
I. DỰ BÁO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHƢƠNG THỨC GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ BẰNG TRỌNG TÀI
Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI ................................................ 65
1. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG TỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
TRỌNG TÀI Ở VIỆT NAM ............................................................... 65
1.1. NHÂN TỐ TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA .................................. 65
1.2. NHÂN TỐ LỊCH SỬ ................................................................. 66
1.3. XU THẾ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ ẢNH HƢỞNG
SAU KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO ........................................... 68
II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ CỤ THỂ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG KINH DOANH QUỐC TẾ BẰNG
TRỌNG TÀI ............................................................................................. 69
1. NHÓM KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC TRỌNG TÀI ... 69
1.1 CHÚ TRỌNG HƠN NỮA TỚI SỐ LƢỢNG VÀ CHẤT LƢỢNG
TRỌNG TÀI VIÊN .......................................................................... 70
1.2 NGHIÊN CỨU, XÂY DỰNG VÀ KIỆN TOÀN BỘ MÁY THƢỜNG
TRỰC CỦA CÁC TRUNG TÂM ....................................................... 71
1.3 ĐẨY MẠNH HỢP TÁC TRONG NƢỚC VÀ QUỐC TẾ TRONG
LĨNH VỰC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI ........ 72
1.4 ĐA DẠNG HÓA CÁC DỊCH VỤ TƢ VẤN CỦA CÁC TRUNG
TÂM TRỌNG TÀI ........................................................................... 72
2. NHÓM KIẾN NGHỊ KHÁC ........................................................... 73
2.1 KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI NHÀ NƢỚC .......................................... 73
2.2 KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP - THƢƠNG
NHÂN ............................................................................................. 76
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 79
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3432_7699.pdf