Đề tài Trung Quốc - Thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam – Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu

Các doanh nghiệp trong nước vẫn chưa tận dụng tốt cơ hội từ Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc. Cụ thể, từ khi triển khai hiệp định (năm 2004), tác động của hiệp định này đối với xuất khẩu sang Trung Quốc chỉ tăng 2%, trong khi nhập khẩu từ thị trường này tăng 30%. Nguyên nhân do các mặt hàng xuất khẩu của VN trùng lặp, cơ cấu xuất khẩu chuyển dịch chậm, chủ yếu là nông sản và nguyên liệu thô, trong khi các sản phẩm khác không có tiến bộ rõ nét. Trong khi đó, cơ cấu nhập khẩu từ Trung Quốc lại khá đa dạng, chủ yếu là các mặt hàng nguyên liệu, đã gây sức ép cạnh tranh cho các mặt hàng trong nước như sắt thép, hàng tiêu dùng, vải, nguyên liệu dệt may, thiết bị xây dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc có thể khiến thâm hụt thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc tăng hơn. Lý do là Trung Quốc có lợi thế chi phí thấp trong các ngành hàng sản xuất sử dụng nhiều lao động. Trong quan hệ thương mại giữa hai nước, Việt Nam hiện chủ yếu xuất khẩu nguyên liệu, nông, lâm thuỷ sản và nhập khẩu hàng công nghiệp của Trung Quốc, khác với các nước ASEAN khác, vốn có quan hệ ngang hàng với Trung Quốc, xuất nhập khẩu đều chủ yếu là hàng công nghiệp. Đồng thời, khả năng xâm nhập sâu của hàng hoá Việt Nam vào thị trường Trung Quốc chưa cao. Chủng loại hàng hoá đơn điệu, chất lượng thiếu ổn định và chưa hiện diện nhiều trong hệ thống phân phối. Khi hàng rào thuế và phi thuế được hạ thấp, hàng hoá và doanh nghiệp Trung Quốc sẽ dễ dàng thâm nhập thị trường Việt Nam hơn, và điều này đồng nghĩa với việc nhiều doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải vất vả hơn để có thể đứng vững trên thị trường nội địa, đặc biệt là đối với các ngành công nghiệp trẻ. Điều dễ nhận thấy là các doanh nghiệp Trung Quốc mạnh hơn doanh nghiệp Việt Nam ngay trong cả các ngành nước ta đang tương đối có lợi thế cạnh tranh như: dệt may, da giày, sản xuất hàng tiêu dùng.

docx61 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2868 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Trung Quốc - Thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam – Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sữa 3805 2637 200 -1168 -30.70 -2437 -92.43 Thức ăn gia súc và NPL chế biến 69246 98824 140894 29578 42.71 42070 42.57 Thuốc trừ sâu và nguyên liệu 169492 200263 202129 30770 18.15 1866 0.93 Vải các loại 1346794 1544143 1565976 197348 14.65 21833 1.41 Xăng dầu các loại 464620 446100 1290162 -18520 -3.99 844062 189.21 Xe máy nguyên chiếc 53913 36572 20315 -17342 -32.17 -16257 -44.45 Các sản phẩm khác 2765413 3645200 4489675 879787 31.81 844475 23.17 Tổng cộng 12502004 15652126 16440952 3150122 25.20 788826 5.04 Nguồn: Tổng cục Thống kê Trung Quốc xuất khẩu sang Việt Nam Tháng 7/2010 7 tháng 2010 (triệuUSD) (triệuUSD) Động vật, các sản phẩm chế biến từ động vật 8,241 31,628 Sản phẩm từ thực vật 79,086 392,901 Thựcphẩm, đồ uống, thuốc lá và các chế phẩm 22,859 135,272 Khoáng sản các loại ( bao gồm xăng dầu ) 104,067 1.062,574 Hóa chất và các chế phẩm cùng loại 128,846 841,969 Nhựa, cao su và các chế phẩm cùng loại 60,346 353,586 Da, giả da và các chế phẩm cùng loại 8,726 53,994 Gỗ và các chế phẩm cùng loại 14,049 81,074 Bột giấy và các chế phẩm cùng loại 12,684 87,047 Nguyên phụ liệu, hàng dệt may 408,649 2.276,672 Giày, dép, mũ, ô .. 17,877 124,147 Đồ sứ, thủy tinh 41,035 223,201 Vàng, bạc, đá quý 0,265 1,971 Sắt thép, kim loại mầu 256,346 1.691,500 Hàng cơ điện, máy móc các loại 585,318 3.573,235 Phương tiện vận tải 50,758 389,327 Vũ khí, đạn dược ......... 0,000 0,056 Thiết bị quang học, y tế 23,307 168,535 Tạp hóa 37,944 237,611 Theo Vietnamnet Nhận xét: Nhìn lại thì quá trình phát triển quan hệ thương mại Việt-Trung kể từ khi bình thường hoá đến nay, cho thấy có 5 mặt được.  Thứ nhất, đó là: tiềm năng và tính bổ sung lẫn nhau trong phát triển kinh tế giữa hai nước ngày càng được khai thác và phát huy, thể hiện qua cơ cấu hàng hoá trao đổi ngày càng phản ánh sát thực lực, trình độ phát triển kinh tế và nhu cầu phụ thuộc lẫn nhau của hai nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường, cùng tiến hành cải cách và mở cửa và cùng hướng ra xuất khẩu. Hàng Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc chủ yếu là dầu thô, than đá, và các loại nông sản nhiệt đới bao gồm: cao su, rau hoa quả, hạt điều, hạt tiêu, sắn lát, đồ gỗ cao cấp, thực phẩm chế biến, thuỷ hải sản... Hàng nhập khẩu từ Trung Quốc gồm: Máy móc thiết bị, sắt thép, phân bón và vật tư nông nghiệp, hoá chất, phương tiện vận tải, nguyên phụ liệu dệt may, da. Các nhóm hàng trên chiếm trên 90% kim ngạch nhập khẩu hàng năm từ Trung Quốc. Thứ hai, phương thức mậu dịch ngày càng phát triển và đa dạng. Giai đoạn từ 1991-2000, quan hệ thương mại hai nước chủ yếu thông qua mậu dịch biên giới. Từ 2001 đến nay, mậu dịch chính ngạch đã chiếm vị trí áp đảo trong tổng giá trị thương mại hai nước với các loại hình thương mại đa dạng như: tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu, quá cảnh, gia công... Thứ ba, quan hệ hợp tác, thương mại giữa các địa phương hai nước từ chỗ chỉ tập trung giữa các tỉnh biên giới phía Bắc nước ta với hai tỉnh Quảng Tây, Vân Nam đã phát triển rộng đến các tỉnh, thành phố nằm sâu trong nội địa như Thượng Hải, Quảng Đông, Hải Nam, Giang Tô... Thứ tư, bộ mặt xã hội, đời sống của nhân dân ở vùng biên giới hai nước thay đổi cơ bản. Hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng nhộn nhịp cùng với sự ra đời của hàng loạt các khu kinh tế tại cửa khẩu đã giúp các địa phương điều chỉnh cơ cấu kinh tế phù hợp với xu thế mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ năm, điểm tăng trưởng mới trong quan hệ thương mại hai nước đã hình thành và ngày càng phát huy tác dụng quan trọng. Đó là các dự án hợp tác kinh tế và đầu tư trực tiếp vào các lĩnh vực chế biến nguyên liệu, nâng cao giá trị hàng hoá đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mỗi nước đang được triển khai mạnh mẽ và từng bước đi vào hoạt động. Những thành công và thuận lợi mà Việt Nam đã đạt được Thuận lợi Cả hai nước đều chọn con đường phát triển là chủ nghĩa xã hội, tư tưởng chính trị không có mâu thuẫn đối kháng. Từ đó mỗi nước đều xây dựng hệ thống nhà nước theo nguyên tắc kế hoạch hoá dưới sự lãnh đạo của một đảng thống nhất. Do vậy có sự thông hiểu lẫn nhau trong việc phát triển kinh tế thương mại. Ðây là thuận lợi quan trọng nhất. Việt Nam và Trung Quốc đều thực hiện chủ trương hội nhập với kinh tế thế giới và mở cửa thị trường, tích cực tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế của mỗi nước tạo ra sự nhất quán cao hơn trong chính sách thương mại của hai nước, nhất là trong phạm vi điều ước của tổ chức kinh tế quốc tế mà hai nước cùng tham gia. Việt Nam gia nhập ASEAN là một bước quan trọng để thúc đẩy Trung Quốc đẩy mạnh quan hệ kinh tế với Việt nam. Một thành viên ASEAN là đối trọng đáng kể với Trung Quốc, là một cánh cửa để Trung Quốc có cơ hội thâm nhập vào thị trưòng của 10 nước thành viên. Do vậy quan hệ kinh tế với Việt Nam được Trung Quốc phải coi trọng hơn trước nhiều. Trung Quốc nhạn ra rằng Việt Nam có vị trí quan trọng hơn nhiều so với một Việt Nam cô lập trong khu vực. Việt Nam không bị tác động lớn của cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á, vẫn duy trì tốc độ phát triển kinh tế cao ở khu vực , đã và đang đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là một thuận lợi lớn trong việc thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại 2 nước. Việc quan hệ trao đổi hàng hoá giữa hai nước đi vào giai đoạn phát triển theo chiều sâu. Ðã hình thành hệ thống nhóm hàng, nhu cầu xuất nhập khẩu tương đối rõ ràng, nên tạo ra sự thông hiểu nhu cầu của nhau. Ðó là cơ sỏ cần thiết cho sự phát triển tiếp theo và cũng là căn cứ để chúng ta điều chỉnh cơ cấu hàng hoá trong quan hệ với Trung Quốc một cách phù hợp. Những điều kiện thuận lợi đối với buôn bán qua biên giới Việt Nam và Trung Quốc trong thời gian tới: Thứ nhất: Việt nam và Trung Quốc, núi liền núi, sông liền sông,có đường biên giới chung trên đất liền dài chừng 1350 km chạy qua sáu tỉnh (31 huyện) của Việt Nam và 2 tỉnh gồm 6 thành phố, địa khu, châu ( 14 huyện) của Trung Quốc. Trên biên giới trung của cả hai nước có 15 cửa khẩu ( 5 cửa khẩu quốc gia và 10 cửa khẩu cấp tỉnh). Số km biên giới chung của cả hai nước, cũng như số cửa khẩu các cấp đều nhiều hơn so với các nước Ðông Nam A khác ( Myanmar và Lào). Gần đây nhiều cửa khẩu như Ðông Hưng- Móng Cái, Bang Tường- Ðồng Ðãng, Pò- Chài- Tân Khanh, Hà Khẩu- Lào Cai, đã có ý tưởng xây dựng thành những khu buôn bán tự do, đây là điều kiện hết sức thuận lợi cho điều kiện buôn bán giữa hai nước. Thứ hai: Phát triển buôn bán qua biên giới Việt Nam và Trung Quốc không thể tách rời trong bối cảnh chung về quan hệ của hai nước, tháng 2 năm 1999 Tổng Bí Thư hai nước, đã xác lập khuôn khổ mới cho hai nước Việt Nam và Trung Quốc theo phương châm 16 chữ " Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tói tương lai, phương cham này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ hợp tác kinh tế hai nước trong tương lai, trong đó có buôn bán qua biên giới hai nước. Thứ ba: Trung Quốc và Việt Nam đều có trên 50 thành phần dân tộc khác nhau trong dó có hơn một chục dân tộc sống cả hai biên giới, đáng lưu ý là gần một triệu người Hoa đang sinh sống ở Việt Nam, sẽ là chiếc cầu nối tốt cho sự hợp tác kinh tế hai bên và sẽ góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy sự phát triển buôn bán qua biên giới hai nước trong thời gian tới. Thư tư: Trung Quốc ( đất rộng thứ ba thế giới), người đông ( chiếm 1/5 nhân loại) và Việt nam là một nước lớn ở Ðông Nam A, đâylà hai thị trường có tiềm tàng mà chưa khai thác hết, nó sẽ góp phần thúc đẩy hơn nữa vào việc buôn bán qua biên giới hai nước. Thứ năm: Cả hai đều chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng ở vùng biên giới của hai bên, chú trọng xây dựng môi trường phần cứng ( đường, điện , nước…) , rà phá mìn, xây dựng các thành phố cửa khẩu biên giới. Ðồng thời chú ý xây dựng môi trường phần mềm, hai nước đã ký kết 19 Hiệp định hợp tác kinh tế thương mại ( trong tổng số 30 Hiệp định và thoả thuận đã được ký kết), đáng lưu ý là Hiệp định kinh tế buôn bán; Hiệp định tạm thời về việc xử lý những việc biên giới hai nước; Hiệp định hợp tác và bảo đảm và chứng nhận lẫn nhau về hàng hoá xuất nhập khẩu; Ghi nhận hội đàm chống buôn lậu, Hiệp định về mua bán hàng hoá ở vùng biên giới giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Trung Hoa ( năm 1998); Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa hai nước vừa ký kết ( 30/12/1999). Những Hiệp định trên đây là cơ sở hạ tầng được nâng cấp từ hai bên ( năm 1998). Những hiệp định trên dây là cơ sở hạ tầng được nâng cấp của hai bên sẽ góp phần tích cực vào việc thúc đẩy buôn bán qua biên giới giữa hai nước. Thứ sáu: Theo một số ý kiến của nhà hoạch định chính sách, buôn bán hai chiều của Việt Nam- Trung Quốc dự kiến từ năm 2000 đến 2010 sẽ đạt mức tăng từ 8-15%. Nếu đạt được mức này thì mục tiêu năm 2000 đạt 2 tỷ USD là có khả năng đạt được và mức buôn bán đôi bên còn tiếp tục phát triển hơn nữa. Thứ bẩy: Xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá ngày càng phát triển, với Việt Nam trở thành thành viên của khu vực buôn bán tự do ASEAN , AFTA, việc Trung Quốc trở thành thfnh viên của tổ chức mậu dịch thế giới (WTO); Cả Việt Nam và Trung Quốc hiện là thành viên của tổ chức hợp tác kinh tế Châu A, Thái Bình Dương( APEC). Trong đó các cảng của Việt Nam ( đặc biệt là Hải Phòng) trở thành khu vực thông ra biển rất gần khu vực Ðại Tây Nam Trung Quốc và khu mậu dịch tự do, với việc khu mậu dịch tự do (Ðông Hưng – Móng Cái, Bằng Tường- Ðồng Ðăng...) thì mức buôn bán qua biên giới Việt- Trung có rất nhiều khả năng hơn nữa. Thứ tám: Việc phát triển buôn bán qua biên giới hai nước trong lịch sử 50 năm qua đặc biệt là 10 sau khi bình thường hoá quan hệ không ngừng tăng sẽ là cơ sở buôn bán hai bên còn có khả năng phát triển hơn nữa. Tóm lại, dù cho buôn bán hai nước còn có những khó khăn trở ngại, những điều kiện thuận lợi là cơ bản, với sự cố gắng của hai bên, tin rằng trong thế kỷ Châu Á - Thái Bình Dương này, tiềm năng buôn bán qua biên giới Việt- Trung còn phát triển hơn nữa. Thành công Những Hiệp định thương mại được kí kết giữa hai bên. Với quyết tâm xây dựng mối quan hệ kinh tế lâu dài và bền vững, từ tháng 11 năm 1991 đến nay, Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước cộng hoà nhân dân Trung Quốc đã cùng nhau ký kết nhiều Hiệp định kinh tế thương mại quan trọng như: Hiệp định thương mại giữa hai nước, Hiệp định tạm thời giải quyết công việc vùng biên giới (hai Hiệp định này được ký tại Bắc Kinh trong chuyến đi thăm chính thức Trung Quốc lần thứ nhất của Tổng bí thư Ðỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt ngày 5-11-1991); Hiệp định Hợp tác kinh tế Việt Nam – Trung Quốc (ký tại Hà Nội nhân dịp phó Thủ tướng kiêm ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Tham sang thăm Việt Nam, tháng 2 năm 1992); Hiệp định hợp tác kinh tế kỹ thuật, Hiệp định hợp tác khoa học ký thuật (hai Hiệp định này được ký kết tại hà Nội nhân dịp Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng sang thăm chính thức Việt Nam vào cuối tháng 11 đầu tháng 12 năm 1992); Hiệp định về thanh toán và hợp tác giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng nhân dân Trung Quốc (Hiệp định này được ký ngày 26-5-1993 tại Bắc Kinh); Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ cộng hoá nhân dân Trung Hoa về hàng hoá quá cảnh (ký tại Hà Nội ngày 9-4-1994); Hiệp định về thành lập Uỷ ban hợp tác kinh tế thương mại Việt Nam-Trung Quốc, Hiệp định về bảo đảm hàng hoá chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu và công nhân lẫn nhau, Hiệp định về vận tải đường bộ (ba Hiệp định này được ký kết tại Hà Nội nhân chuyến đi thăm chính thức Việt Nam của Tổng bí thư Ðảng, Chủ tịch nước Cộng hoà Trung Quốc Giang Trạch Dân ngày 199-11-1994); Hiệp định về mua bán hàng hoá ở vùng biên giới giữa Chính phủ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa (đã ký 7-11-1998 tại Bắc Kinh); Hiệp định về biên giới trên bộ được ký kết ngày 23-2-1999 nhân dịp thủ tướng Chu Dung Cơ sang thăm Việt Nam. Những Hiệp định trên đã giúp cho quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước ngày càng được củng cố và phát triển, chúng giải quyết được những yêu cầu bức xúc trong thực tiễn hoạt động của mỗi bên. Các hiệp định được ký kết mang những nội dung chủ yếu sau đây: Mục đích hợp tác Cho dù được ký kết trên lĩnh vực nào thì các hiệp định cũng mang một mục đích chung là đẩy mạnh quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Song bên cạnh những mục đích nêu trên mỗi một Hiệp định đều mang những mụch đích riêng của mình, những Hiệp định ký sau bổ sung và hoàn thiện hơn cho các Hiệp định ký trước đó. Hiệp định thương mại được ký kết nhằm mục đích thúc đẩy hơn nữa sự hợp tác thân thiện giữa hai nước trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi. Hiệp định tạm thời giải quyết công việc trên vùng biên giới hai nước được ký kết với mục đích là tạo điều kiện thuận tiện cho sinh hoạt và sự qua lại của nhân dân vùng biên giới, thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại hai nước phát triển, xây dựng biên giới Việt – Trung thành biên giới hoà bình hữu nghị. Nếu Hiệp định hợp tác khoa học kỹ thuật được ký kết với mục đích là đẩy mạnh hợp tác khoa học kỹ thuật thì Hiệp định về thanh toán và hợp tác giữa ngân hàng nhà nước Việt Nam và ngân hàng nhân dân Trung Hoa lại được ký kết với mục đích là để tăng cường, thúc đẩy phát triển về mậu dịch, kinh tế và hợp tác tiền tệ, thực hiện tốt công tác thanh toán giữa hai nước. Ðể đảm bảo sức khỏe, sự an toàn của nhân dân, bảo vệ môi trường thiên nhiên và lợi ích người tiêu dùng hai nước, đảm bảo chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu, chất lượng phục vụ, thúc đẩy sự phát triển kinh tế và thương mại giữa hai nước. Hiệp định về đảm bảo chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu và công nhận lẫn nhau đã được hai Chính phủ hai nước cùng nhau ký kết. Về vấn đề xúc tiến, mở rộng hợp tác thương mại Ngay từ những hiệp định đầu tiên được ký kết giữa hai Chính phủ đã thể hiện ý chí, mong muốn xúc tiến thương mại giữa hai nước với những nội dung như sau: Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Hoa đồng ý tạo điều kiện dễ dàng thuận lợi cho nhau trong các hoạt động xúc tiến mậu dịch như hội chợ thương mại, triển lãm thương mại v.v.. mà các cơ quan hữu quan của nước kia tổ chức tại nước mình. Hai bên ký kết đồng ý thúc đẩy buôn bán dân gian ở biên giới hai nước, các vấn đề cụ thể của việc buôn bán này sẽ được giải quyết theo các quy định có liên quan của hai bên (điều 6,7 của hiệp định thương mại ký ngày 7/11/1991). Trong hoạt động thương mại hai bên cam kết dành cho nhau ưu đãi tối huệ quốc đối với việc đánh thuế hq hàng nhập khẩu và hàng xuất khẩu cũng như trong việc giải quyết các thủ tục quy chế về quản lý haỉ quan; đãi ngộ này không liên quan đến các ưu đãi và lợi ích mà mỗi nước đã và sẽ dành cho các đối tượng thương mại đặc thù của mình (Ðiều 2 Hiệp định Thương Mại, Hiệp định tránh đánh thuế hai lần). Hiệp định hợp tác kinh tế giữa hai nước được ký kết ngày 14/2/1992 Chính phủ Việt Nam và Trung Quốc đã bổ sung thêm các lĩnh vực được khuyến khích và giúp đỡ để phát triển kinh tế như: + Ðấu thầu các loại công trình và hạng mục. + Cung cấp máy móc, thiết bị, phụ tùng, vật tư, cử chuyên gia và cung cấp dịch vụ tư vấn và kinh tế. + Tiến hành đầu tư theo luật đầu tư nước ngoài của nước kia + Hợp tác gia công + Hợp tác với nước thứ ba. Vấn đề Biên giới. a. Ðối tượng được phép xuất nhập cảnh, qua lại biên giới Theo Ðiều 6 Hiệp định tạm thời về việc giải quyết công việc trên vùng biên giới giữa Chính phủ nức CHXHCN Việt Nam và Chính phủ CHND Trung Hoa được chia thành 3 loại: - Cư dân biên giới sử dụng giấy thông hành Nhân viên mậu dịch biên giới ở vùng biên giới và nhân viên vùng biên giới được mời tham gia các hoạt động văn hoá, sử dụng giấy thông hành. Công dân hai nước hoặc nước khác có hộ chiếu thị thực xuất nhập cảnh tại cửa khẩu quy định. b. Hệ thống cửa khẩu: Hệ thống cửa khẩu chia làm 3 loại: + Cửa khẩu hàng hoá mậu dịch và xuất nhập cảnh bằng hộ chiếu thị thực xuất nhập cảnh hoặc quá cảnh gồm ba đường bộ: Hữu Nghị- Hữu Nghị Quan; Móng Cái- Ðông Hưng; Lào Cai- Hà Khẩu và một cặp đường sắt : Ðồng Ðăng- Bằng Tường. + Cửa khẩu hàng hoá mậu dịch địa phương và mậu dịch biên giới, hành khách xuất nhập cảnh bằng hộ chiếu, thị thực và giấy thông hành gồm 3 cặp: Tà Lùng- Thuỷ Khẩu, MaLuThàng- Kinh Thuỷ Hà, Thanh Thuỷ- Thiên Bảo. + Cửa khẩu hàng hoá mậu dịch biên giới và xuất nhập cảnh bằng giấy thông hành ( hiện thường gọi là cửa khẩu đại phương hay cửa khẩu tiểu ngạch) gồm 14 cặp cửa khẩu, về phía Việt nam gồm Hoành Mô ( Quảng Ninh), Chi Ma, Bình Nghi ( Lạng Sơn), Hạ Lang, Lý Vạn, Phô Pheo, Trà Lĩnh, Sóc Giang ( Cao Bằng), Săm Phun, Phó Bảng, Xín Mần ( Hà Giang), Mường Khương, Lào CAi, Ma Lu Thàng, Thun Lưu, A pha chải( Lai Châu). c. Hoạt động mậu dịch diễn ra tại khu vực biên giới: Hình thức có hai loại: Mậu dịch biên giới và mậu dịch địa phương. Chủ thể tiến hành: Cơ quan mậu dịch có quyền kinh doanh mậu dịch biên giới và mậu dịch địa phương của hai nước. Biện pháp thực hiện: Chính quyền địa phương cáp tỉnh vùng biên giới hiệp thương với nhau xác định theo pháp luật hiện hành và quy định có liên quan của Chính phủ hai nước. Hàng hoá trao đổi và phương tiện vận chuyển trong mậu dịch xuất nhập khẩu phù hợp với quy định pháp luật có liên quan của hải quan được phép được cấp phép của nhà chức trách mỗi bên. Thuế quan và các loại thuế quan khác đối với hàng hoá của các hình thức mậu dịch trong hiệp định này căn cứ pháp luật hiện hành của mỗi nước. d. Vấn đề chợ biên giới: Ðiểm chợ và chợ cụ thể do chính quyền địa phưong cấp tỉnh biên giới hai bên thoả thuận theo pháp luật hiện hành và quy định có liên quan của Chính phủ hai nước. Vấn đề phối hợp, hợp tác quản lý trị an ngăn chặn buôn lậu; do chính quyền địa phương hai bên giải quyết. e. Vấn đề gìn giữ, quản lý trị an biên giới: Chính phủ Trung ương hai nước có thẩm quyền mọi ván đề về biên giới , không ngành nào và địa phương nào của hai bên làm thay đổi đường biên giới giữa hai nước, nếu làm thay đổi sẽ bị coi là không có giá trị và bị huỷ bỏ. Hai bên đồng ý cùng giữ gìn biên giới mốc, bất kỳ bên nào nếu phát hiện mốc biên giới và các tiêu chí biên giới khác có thay đổi thì cần nhanh chóng thông báo cho phía bên kia. Người của hai bên sẽ cùng nhau ghi nhận lại và báo cáo lên ngành chủ quản của mỗi bên. Ngành chủ quản của hai bên sẽ tuỳ theo tình hình hiệp thương giải quyết hoặc chờ đến khi đàm phán biên giới sẽ giải quyết. Hai bên sẽ hợp tác giữ gìn trật tự trị an xã hội vùng biên giới hai nước. Hai bên cùng nhau giải quyết các vấn đề như: Người xuất nhập cảnh trái phép, tổ chức điều tra xử lý các vụ án có liên quan tới hai nước, phối hợp điều tra, truy lùng, bắt giữ, chuyển giao các tội phạm vượt biên giới. Phối hợp ngăn ngừa và trừng trị các hoạt động phạm tội vượt biên buôn lậu, buôn ma tuý, vũ khí, làm bạc giả, dụ dỗ và buôn bán phụ nữ, trẻ em. f. Sản xuất và các hoạt động khác ở vùng biên giới: Các vấn đề có liên quan đến dòng chảy biên giới hai bên cần hiệp thương tiến hành trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng lợi ích của nhau và tránh gây tổn thất cho phía bên kia, tránh làm thay đổi dòng chảy biên giới. Khi tiến hành các công trình có thể ảnh hưởng tới dòng chảy vùng biên giới thì sau khi hai bên nhất trí mới tiến hành. Khi tiến hành các hoạt động chụp ảnh trên không và thả vật thể thăm dò trên không với mục đích hoà bình ở vùng gần biên giới cần thông báo trước cho phía bên kia, nếu cần bay vào không phận phía bên kia, cần phải được phía bên kia đồng ý. Các lĩnh vực hoạt động bị cấm hoạt động trên vùng biên giới đó là: Cấm tuỳ tiện nổ súng, gây nổ trong phạm vi 2 km của mỗi bên kể từ đường biên giới. Nếu cần thiết gây nổ trong phạm vi này cần thông báo trước cho phía bên kia. Cấm đốt rẫy trong phạm vi 1 km của mỗi bên kể từ đường biên giới. Những hoạt động trên không được làm tổn hại đến mốc biên giới và các tiêu chí khác cũng an toàn của người và gia súc. Cấm dân biên giới vượt biên giới chặt gỗ, củi, chăn dắt , canh tác, săn bắn, khai thác đặc sản hoặc tiến hành các hoạt động với mục đích phi pháp khác. g. Các quy định về quá cảnh hàng hoá: - Các hàng hoá muốn quá cảnh cần được cơ quan có thẩm quyền của nước cho quá cảnh cho phép trên cơ sở đơn xin quá cảnh của chủ hàng nước xin quá cảnh. - Phải tuân thủ pháp luật hải quan của nước cho quá cảnh. - Số lượng hàng ra đúng bằng số lượng hàng vào - Hàng quá cảnh phải được vận chuyển đúng tuyến đường, đúng cửa khẩu, đúng thời gian quy định trong giấy phép và chịu sự giám sát của hải quan nước đó. - Trường hợp hàng quá cảnh cần lưu kho, lưu bãi tại nước cho quá cảnh, trường hợp đặc biệt phải được phép của Bộ Thương mại nước CHXHCN Việt Nam, nếu tiêu thụ tại Việt Nam hoặc của Bộ mậu dịch và hợp tác kinh tế đối ngoại của nước CHND Trung Hoa nếu tiêu thụ tại Trung Quốc và nộp thuế, các chi phí khác theo quy định của nước cho quá cảnh. h.Vấn đề quản lý chất lượng và giám định hàng hoá Các quy định về quản lý chất lượng hàng hoá và giám định hàng hoá đã được Chính phủ hai nước thống nhất thông qua Hiệp định về đảm bảo chất lượng và công nhận lẫn nhau với những nội dung chủ yếu như: Ðể đảm bảo chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu, cơ quan được uỷ quyền của mỗi bên căn cứ vào thoả thuận về nội dung và phương pháp theo tiêu chuẩn quốc tế để thẩm định hệ thống chất lượng của cơ sở sản xuất hàng hóa xuất nhập khẩu của nước mình. Các tổ chức kiểm tra chất lượng này sẽ cấp giấy chứng nhận chất lượng hoặc tem (dấu) kiểm nghiệm cho lô hàng xuất khẩu của đơn vị mình khi thoả mãn các yêu cầu sau đây: - áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng hàng xuất khẩu về an toàn, vệ sinh mà hai bên đã thừa nhận, đồng thời phù hợp với yêu cầu của Hợp đồng ngoại thương và các điều kiện bổ sung mà hai bên đã ký kết. - Hàng hoá xuất khẩu đã được phòng kiểm nghiệm hai bên công nhận lẫn nhau. Cơ quan được uỷ quyền của hai bên sẽ cung cấp cho bên kia mẫu giấy chứng nhận chất lượng hoặc tem kiểm nghiệm của mỗi nước mình để mỗi bên giao cho hải quan lưu giữ để kiểm tra.  i. Quy định về thanh toán Nói chung, hầu hết các hiệp định đều thống nhất rằng: việc thanh toán, kết toán trong mua bán hàng hoá ở vùng biên giới, trong các hợp đồng ngoại thương được ký kết giữa hai nước được thực hiện bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi hoặc đồng Việt Nam hoặc đồng Nhân dân tệ theo các phương thức thanh toán do hai bên mua bán thoả thuận. Các hiệp định được ký kết trước ngày 26/5/1993 chưa đề cập đến vấn đề hàng đổi hàng giữa hai nước hiệp định về thanh toán và hợp tác giữa hai ngân hàng hai nước đã khắc phục được thiếu sót này như sau: trong trường hợp nếu có sự chênh lệch giữa xuất và nhập thì có thể thanh toán trả bằng hàng nếu được doanh nghiệp hai nước thoả thuận (điều 3). Ngân hàng thương mại hai bên tuỳ điều kiện của từng nước quyết định thành lập quầy đổi tiền để phục vụ cho dân cư biên giới đi lại, trao đổi, mua bán (điều 4) tạo điều kiện thanh toán cho hoạt động mậu dịch tiểu ngạch bằng các đồng tiền bản địa. Giá cả hàng hoá trong các hợp đồng ngoại thương dựa vào mức giá của hàng hoá đấy, do các công ty ngoại thương của hai nước thoả thuận. (điều 4, 5 hiệp định thương mại ký ngày 7/11/1991). Ðối với việc thanh toán lệ phí, chi phí từ hoạt động quá cảnh hiệp định về quá cảnh hàng hoá được quy định như sau: Lệ phí quá cảnh thu theo hiệp ước hữu nghị song phương và các hiệp định quốc tế mà hai bên cùng tham gia nếu không có các hiệp định trên sẽ theo quy định hiện hành của mỗi nước phù hợp với thông lệ quốc tế (điều 4 hiệp định về quá cảnh hàng hoá). Lệ phí và chi phí phát sinh từ các hoạt động quá cảnh trong hiệp định này được thanh toán bằng đồng tiền tự do chuyển đổi phù hợp với những quy định của hiệp định thanh toán và hợp tác giữa ngân hàng Nhà nước Việt nam và Ngân hàng nhân dân Trung Quốc ký tại Bắc Kinh ngày 26/5/1993 và các quy định về ngoại hối của mỗi nước. k.Vấn đề giải quyết tranh chấp Hầu hết các Hiệp định được ký kết giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đều thống nhất quy định rằng: Các tranh chấp phát sinh trong quá trình thức hiện các Hiệp định sẽ do các đại diện có thẩm quyền của hai nước ký kết thgương lượng giải quyết thông qua con đường ngoại giao. Những tranh chấp giữa các doanh nghiệp trong quá trình thực hiện các hợp đồng sẽ do các doanh nghiệp giải quyết thông qua thương lượng, nếu thương lượng không đạt kết qủa sẽ do tổ chức trọng tài thương mại quốc tế của nước đó giải quyết. Với Việt Nam hiện là trung tâm trọng tài kinh tế quốc tế (VIAC – Vietnam International Arbitration Center trực thuộc Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam), phán quyết của trọng tài kinh tế quốc tế theo thông lệ quốc tế có giá trị chung và hiệu lực bắt buộc thi hành như pháp luật không thêt bị kháng cáo bởi toà án hoặc một cơ quan giải quyết tranh chấp khác. Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Hoa đồng ý cho các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành và chính quyền địa phương biên giới hai nước tuỳ theo sự cần thiết, tiến trình trao đổi, thương lượng, phối hợp và giải quyết những vấn đề hoặc tranh chấp nảy sinh có thể nảy sinh trong mua bán hàng hoá ở vùng biên giới . Ngoài ra, Hiệp định vận tải đường bộ – điều 17 có quy định khác so với các Hiệp định khác: NHững vấn đề không thể giải quyết được theo hiệp định này hoặc các Hiệp định song phương đa phương mà hai bên ký kết tham gia thì căn cứ theo luật pháp của mỗi bên ký kết để giải quyết. l.Thời hạn hiệu lực của các Hiệp định Hầu hết các Hiệp định đều có hiệu lực kể từ ngày ký với thời hạn hiệu lực ba năm. Nếu trong vòng ba tháng, sáu tháng (tuỳ từng hiệp định có quy định khác nhau) trước khi Hiệp định hết hạn mà không bên nào trong hai bên ký kết đề xuất bằng văn bản chấm dứt Hiệp định thì thời gian hiệu lực của bản Hiệp định sẽ mặc hiên kéo dài thêm ba năm và tiếp tục được kéo dài theo thể thức đó. Trong thời gian hiệu lực của Hiệp định một trong một trong hai bên ký kết có thể tiến hành bằng văn bản việc bổ sung và sửa đổi các điều khoản của Hiệp định. Bên ký kết kia phải trả lời trong vòng 3 tháng kể từ khi nhận được kiến nghị đó. Các điều khoản được sửa đổi, bổ sung đã được hai bên ký kết đồng ý được coi là bộ phận cấu thành của hợp đồng của Hiệp định và có cùng hiệu lực như bản hiệp định. Thực tiễn đã phát sinh là có những trường hợp hợp đồng thực hiện theo Hiêp định thương mại đựoc ký kết giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa chưa thực hiẹn xong nhưng thời hạn hiệu lực của Hiệp định đã kết thúc thì giải quyết ra sao trong điều 9 của Hiệp định này đã ghi rõ "Sau khi hiệp định này đã hết hạn, các hợp đồng buôn bán ký kết theo Hiệp định này nhưng chưa thực hiện xong sẽ tiếp tục có hiệu lực cho thới khi thực hiện xong" Ðối với các Hiệp định đã ký kết để hợp tác thì trong thời hạn hiệu lực là 5 năm kể từ ngày ký, nếu 6 tháng trước khi Hiệp định hết hạn mà không bên nào thông báo bằng văn bản cho bên kia ý định kết thúc Hiệp định thì Hiệp định sẽ mặc nhiên kéo dài thêm từng 5 năm một ( ví dụ Hiệp định Hợp tác ký thuật, Hiệp định hợp tác kinh tế ). Ðối với các Hiệp định được ký kêt mang tính chất tạm thời thì thời hạn hiệu lực của hiệp định thường là 2 năm nếu 6 tháng trước khi hết thời hạn hiệu lực của Hiệp định, nếu không có bên nào thông báo bằng văn bản cho bên kia chấm dứt Hiệp định thì Hiệp định sẽ tự gia hạn thêm 2 năm một, sau tháng trước khi Hiệp định này hết hạn nếu thấy cần thiết hai bên sẽ họp lại để kiểm điểm, rút kinh nghiệm việc thực hiện hoặc xác định bổ sung sửa đổi Hiệp định. Trên đây là một số Hiệp định cơ bản được Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ký kết trong thời gian gần đây. Nhờ các Hiệp định trên, quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước Việt Nam, Trung Quốc ngày càng mở rộng hơn. Hiệp định Thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc. Hiệp định Thương mại tự do ASEAN-Trung Quốc (ACFTA hay CAFTA) là hiệp định về việc thành lập khu vực mậu dịch tự do được kí kết giữa Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ý tưởng của việc thành lập khu vực mậu dịch vào tháng 1 năm 2010 được nêu ra và kí nghị định khung vào 4 tháng 10 năm 2002 tại thủ đô Phnom Penh của Campuchia. Hiệp định kí kết bắt đầu có hiệu lực vào 1 tháng 1 năm 2010. Đây là khu vực mậu dịch tự do lớn nhất thế giới xét về diện tích và dân số (1,9 tỉ người trong đó Trung Quốc là hơn 1,3 tỉ người), nhưng đứng thứ 3 về tổng thu nhập quốc dân sau Khu vực Mậu dịch Tự do Bắc Mỹ và khu vực mậu dịch tự do của Châu Âu Bước đầu, theo thỏa thuận chung, các quốc gia thành viên (gồm Trung Quốc và 6 nước sáng lập ASEAN là Brunei, Indonesia, Mã Lai, Philippines, Singapore và Thái Lan) sẽ gỡ bỏ 90% hàng rào thuế quan đối với hàng hóa nhập khẩu của nhau kể từ năm 2010 . Những thành viên khác của ASEAN như Việt Nam hay Campuchia, Lào sẽ tham gia khu vực này theo một lộ trình kéo dài trong 5 năm. Quá trình hình thành khu vực mậu dịch tự do lớn nhất thế giới này được phát động năm 2002 với việc ký kết Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc. Tiếp đó Hiệp định về Thương mại hàng hóa (2005), Hiệp định về Thương mại dịch vụ (2006), Hiệp định về Đầu tư (2009) lần lượt được ký kết, hình thành ba trụ cột hợp tác trong ACFTA. Với gần 2 tỉ người tiêu dùng, ACFTA là thị trường có quy mô lớn nhất thế giới. Về GDP, với 2.000 tỉ đô la Mỹ, khu vực mậu dịch tự do này còn kém Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ, Liên hiệp châu Âu. Nhưng điều đáng nói là ACFTA bao gồm các nền kinh tế được coi là năng động, đầy tiềm năng đang hướng tới thiết lập vị thế mới của mình trong kinh tế thế giới. Liên tục từ năm 1992, ASEAN là bạn hàng lớn thứ năm của Trung Quốc. Kim ngạch thương mại hai khối đạt tốc độ tăng trưởng trung bình trên 20% mỗi năm. Nếu năm 2003 (thời điểm trước khi thực hiện Chương trình Thu hoạch sớm) tổng kim ngạch ASEAN - Trung Quốc là 78,2 tỉ đô la Mỹ, thì năm 2008 con số này đã đạt trên 192 tỉ. ASEAN cũng đồng thời là một nhà đầu tư quan trọng vào thị trường Trung Quốc với trên 40 tỉ đô la Mỹ vốn đăng ký. Với Việt Nam, cả ASEAN và Trung Quốc hiện đang là các đối tác thương mại hàng đầu. Tổng giá trị thương mại với các nước này chiếm tới 35% tổng kim ngạch thương mại của nước ta với thế giới. Những cơ hội cho thương mại: Trong ba hiệp định đã ký kết, những cơ hội rõ rệt nhất đối với Việt Nam liên quan tới Hiệp định Thương mại hàng hóa (TIG). Do hạn chế về năng lực, xuất khẩu dịch vụ và đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam còn thấp nên ta chưa tranh thủ được nhiều lợi ích từ các hiệp định dịch vụ và đầu tư. Từ năm 2004, nông thủy sản xuất khẩu của Việt Nam bắt đầu được hưởng lợi từ Chương trình Thu hoạch sớm. Theo đó, các nhóm hàng từ chương 1 đến chương 8 của Biểu thuế (nhóm hàng nông, thủy sản) sẽ cắt giảm thuế trước trong khi chưa đạt được thỏa thuận cắt giảm chung cho toàn bộ biểu thuế. Từ năm 2006, toàn bộ các mặt hàng này được hưởng thuế suất 0% khi xuất khẩu sang Trung Quốc và ASEAN. Nông sản, thủy sản là các mặt hàng xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam và chiếm khoảng 28% tổng kim ngạch xuất khẩu. Việc loại bỏ thuế quan bao gồm cả các dòng thuế trên 15% sẽ cải thiện đáng kể sức cạnh tranh của các mặt hàng này trên thị trường Trung Quốc. Đối với các mặt hàng cắt giảm theo lộ trình thông thường, Việt Nam sẽ hoàn thành cắt giảm thuế xuống 0% vào năm 2015. Trong khi đó, từ 1-1-2010 Trung Quốc đã hoàn thành việc loại bỏ thuế quan với trên 90% danh mục hàng hóa nhập khẩu từ ASEAN (ngoại trừ một số ít mặt hàng nhạy cảm). Như vậy, giai đoạn từ nay tới năm 2015 là cơ hội cho xuất khẩu của Việt Nam khi hàng xuất khẩu của ta không phải chịu hàng rào thuế quan trong khi chúng ta vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định cho thị trường trong nước. Từ năm 2013, Việt Nam bắt đầu cắt giảm sâu hàng rào bảo hộ thuế quan để tiến tới loại bỏ thuế với khoảng 90% danh mục hàng hóa vào năm 2015. Đây sẽ là giai đoạn thách thức cho các doanh nghiệp trong nước nếu chúng ta không tận dụng được các cơ hội ACFTA đang mở ra hiện nay. Trên thực tế, từ năm 2004 thương mại với Trung Quốc tăng mạnh, nhưng xuất khẩu chậm hơn nhập khẩu (bảng 2) dẫn tới tình trạng nhập siêu. Nguyên nhân không phải do tác động trực tiếp của ACFTA. Bởi như phân tích ở trên, lộ trình cắt giảm thuế của Việt Nam chậm hơn năm năm so với Trung Quốc và chúng ta đang trong giai đoạn có lợi thế tăng kim ngạch xuất khẩu. Những khó khăn và hạn chế mà Việt Nam phải đối mặt Khó khăn Hai nước có cùng tư tưởng chính trị, nhưng không thống nhất với nhau về quan điểm chính trị. Do vậy dẫn đến mục đích phát triển kinh tế của mỗi nước không giống nhau. Ðây là mâu thuẫn lớn nhất và quan trọng nhất, dẫn đến sự khác biệt trong việc đề ra chính sách của mỗi nước trong quan hệ kinh tế thương mại. Yêu cầu tiếp nhận đầu tư của Việt Nam là công nghệ cao, không phá hoại tài nguyên và môi trường. Trong khi Trung Quốc không có chủ trương chuyển giao công nghệ cao cho Việt Nam và họ cũng không quan tâm đến việc bảo vệ tài nguyên và môi trường của chúng ta. Việt Nam chủ trương thực hiện theo các hiệp định, nghị định ký kết chính thức giữa Chính phủ hai nước theo con đường chính ngạch, còn Trung Quốc lại muốn quan hệ kinh tế với Việt nam theo con đường biên mậu ( tiểu ngạch) để dễ bề thâm nhập vào thị trường Việt Nam, tránh hàng rào thuế quan. Trung Quốc đã và sẽ tiếp tục áp đặt đồng tiền trong thanh toán thương mại giữa hai nước là Nhân dân tệ để dễ bề điều tiết quan hệ hàng hoá- tiền tệ giữa hai nước có lợi cho Trung quốc. Ðây là vấn đề mà từ trước đến any chúng ta chưa quan tâm đúng mức và hầu như chưa có biện pháp hữu hiệu nào để lấy lại thế chủ động mà Trung quốc đang nắm giữ. Việt nam sẽ gặp không ít khó khăn nếu không giải quyết được vấn đề này. Phương tiện phục vụ quan hệ thương mại giữa hai nước còn có sự chênh lệch gây không ít khó khăn cho mỗi nước khi sự không đồng bộ xảy ra. Trung Quốc luôn tìm cách phá thế bình đẳng trong quan hệ với Việt Nam. Ví dụ như thương nhân Trung Quốc không ngần ngại khi áp dụng những biện pháp có lợi cho họ và có hại cho ta, kể cả việc gian lận và lừa đảo có tổ chức như : nâng giá tạm thời để ta tập kết hàng hoá ở biên giới rồi dìm giá hoặc bỏ không mua gây thiệt hại cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam hoặc Trung Quốc xuất khẩu hàng kém phẩm chất độc hại...việc này gây ra sự thiếu tin cậy trong quan hệ thương mại của ta đối với Trung Quốc. Buộc chúng ta phải có biện pháp đối phó thích đáng đôi khi làm căng thẳng quan hệ kinh tế thương mại hai nước. Khác với nhiều nước, Trung Quốc không có chủ trương đầu tư vào công nghiệp nặng và công nghiệp chế biến theo kêu gọi đầu tư của ta. Do vậy đã hạn chế đến tính ưu việt trong chính sách của Việt Nam đối với đầu tư trực tiếp của Trung Quốc và hạn chế hiệu quả của hợp tác thương mại hai nước. Trong tiến trình buôn bán qua biên giới Việt- Trung , trong 50 năm qua, đặc biệt là 10 năm lại đây bên cạnh những mặt thuận lợi cũng nảy sinh không ít khó khăn. Những yếu tố thuận lợi và khó khăn đó đã, đang và sẽ ảnh hưởng tới sự phát triển quan hệ buôn bán qua biên giới giữa hai nước trong tương lai. Những khó khăn trong buôn bán qua biên giới giữa hai nước trong thời gian tới: Thứ nhất: Về các mặt tư tưởng, tâm lý và mức độ tín nhiệm trong buôn bán qua biên giới của cả hai nước chưa cao. Ðôi bên có sự chênh lệch lớn về chính sách buôn bán qua biên giới tạo nên những ảnh hưởng bất lợi cho cả hai nước. Thứ hai: Cho tới nay vẫn chưa ký được Hiệp định chính thức mà vẫn còn thi hành " Hiệp định tạm thời về xử lý những việc biên giới hai nước". Nên đã ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển buôn bán qua biên giới giữa hai nước Việt- Trung. Thứ ba: Hiện nay hai bên tuy có " Ghi nhận hội đàm" chống buôn lậu, hay hiệp định hợp tác đảm bảo và chứng nhận lẫn nhau về hàng hoá xuất nhập khẩu, nhưng vẫn không ngăn chặn nổi làn sóng: Hàng giả, hàng rởm, hàng kém chất lượng vào Việt Nam, hoặc những mặt hàng quý hiếm, hàng cấm của Việt Nam vẫn xuất sang Trung Quốc. Thứ tư: Cả hai bên đều có các thiếu hợp đồng giữa các xí nghiệp trong nước , gây nên tình trạng tranh mua, tranh bán với đối phương, tạo nên sự thiệt thòi cho phía mình. Thứ năm: Mặc dù ngày 26-5-1993 Ngân hàng trung ương của Việt Nam và Trung Quốc đã ký Hiệp định hợp tác thanh toán, theo đó mọi khoản thanh toán phải thông qua Ngân hàng thương mại hai nước theo hệ thống quốc tế bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Nhưng thực tế từ 10 năm nay buôn bán qua biên giới Việt –Trung, mặc dù thanh toán xuất nhập có sự chuyển biến, từ chỗ hoàn toàn tự phát qua phương thức " Hàng đổi hàng" , buôn bán trao tay, tiến tới ký hợp đồng, thanh toán qua ngân hàng, nhưng cho đến nay lượng thanh toán qua Ngân hàng còn rất nhỏ, chỉ chiếm chưa đầy 5% tổng kim ngạch hàng hoá của cả hai bên. Ngân hàng chưa làm được chức năng kiểm soát và kinh doanh tiền tệ. Thị trường chợ đen buôn bán tiền công khai ở các cửa khẩu biên giới hai nước vẫn hoành hành, hiện tượng lừa đảo, chiếm dụng vốn, lưu hành tiền giả ở các tỉnh biên giới diễn ra thường xuyên. Ðiều này đã ảnh hưởng xấu tới quan hệ buôn bán qua biên giới Việt Nam- Trung Quốc. Thứ sáu: Quan hệ buôn bán Việt- Trung trong những năm gần đây tốc độ tăng trưởng giảm dần, và cứ đà giảm như vậy khó có thể thực hiện mục tiêu 2 tỷ USD buôn bán hai nước vào năm 2000 như các nhà lãnh đạo hai nước đề ra. Thứ bảy: Trong buôn bán với Trung Quốc, phía Việt Nam luôn bị nhập siêu ở mức lớn, Thứ tám: Trình độ phát triển khoa học và phát triển kinh tế của Trung Quốc cao hơn Việt Nam, khiến cho tính bổ xung giữa hai bên tăng lên, nhưng mặt khác cũng gây nên ảnh hưởng bất lợi đối với hàng hoá Việt Nam muốn thâm nhập vào thị trường Trung Quốc. Nhìn chung, quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam- Trung Quốc có triển vọng phát triển tốt. Thuận lợi cũng nhiều và khó khăn cũng không ít. Chúng ta chủ trương giữ vững đường lối phát triển kinh tế của đất nước là phát huy nội lực, đẩy mạnh công nghịêp hoá, hiện đại hoá đất nước vì chỉ có như vậy chúng ta mới tăng cường hợp tác kinh tế quốc tế nói chung và phát triển quan hệ kinh tế thương mại đối với Trung Quốc nói riêng. Những khó khăn, vướng mắc trong quan hệ kinh tế thương mại với Trung Quốc sẽ được Việt Nam giải quyết bằng hệ thống chính sách đổi mới, phù hợp với điều kiện Việt Nam và thiện chí hợp tác của phía bạn. Hạn chế. Các doanh nghiệp trong nước vẫn chưa tận dụng tốt cơ hội từ Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc. Cụ thể, từ khi triển khai hiệp định (năm 2004), tác động của hiệp định này đối với xuất khẩu sang Trung Quốc chỉ tăng 2%, trong khi nhập khẩu từ thị trường này tăng 30%. Nguyên nhân do các mặt hàng xuất khẩu của VN trùng lặp, cơ cấu xuất khẩu chuyển dịch chậm, chủ yếu là nông sản và nguyên liệu thô, trong khi các sản phẩm khác không có tiến bộ rõ nét. Trong khi đó, cơ cấu nhập khẩu từ Trung Quốc lại khá đa dạng, chủ yếu là các mặt hàng nguyên liệu, đã gây sức ép cạnh tranh cho các mặt hàng trong nước như sắt thép, hàng tiêu dùng, vải, nguyên liệu dệt may, thiết bị xây dựng… Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc có thể khiến thâm hụt thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc tăng hơn. Lý do là Trung Quốc có lợi thế chi phí thấp trong các ngành hàng sản xuất sử dụng nhiều lao động. Trong quan hệ thương mại giữa hai nước, Việt Nam hiện chủ yếu xuất khẩu nguyên liệu, nông, lâm thuỷ sản và nhập khẩu hàng công nghiệp của Trung Quốc, khác với các nước ASEAN khác, vốn có quan hệ ngang hàng với Trung Quốc, xuất nhập khẩu đều chủ yếu là hàng công nghiệp. Đồng thời, khả năng xâm nhập sâu của hàng hoá Việt Nam vào thị trường Trung Quốc chưa cao. Chủng loại hàng hoá đơn điệu, chất lượng thiếu ổn định và chưa hiện diện nhiều trong hệ thống phân phối. Khi hàng rào thuế và phi thuế được hạ thấp, hàng hoá và doanh nghiệp Trung Quốc sẽ dễ dàng thâm nhập thị trường Việt Nam hơn, và điều này đồng nghĩa với việc nhiều doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải vất vả hơn để có thể đứng vững trên thị trường nội địa, đặc biệt là đối với các ngành công nghiệp trẻ. Điều dễ nhận thấy là các doanh nghiệp Trung Quốc mạnh hơn doanh nghiệp Việt Nam ngay trong cả các ngành nước ta đang tương đối có lợi thế cạnh tranh như: dệt may, da giày, sản xuất hàng tiêu dùng... Vấn đề nổi cộm trong quan hệ thương mại giữa hai nước là mất cân bằng cán cân thương mại. Việt Nam đang nhập siêu lớn từ Trung Quốc, giá trị nhập siêu không ngừng tăng và đặc biệt cao trong năm 2006, 2007 - mức tăng nhập siêu cao hơn cả mức tăng trưởng thương mại giữa hai nước. Trung Quốc đã vượt qua Đài Loan và Hàn Quốc, trở thành thị trường mà Việt Nam nhập siêu lớn nhất. Năm 2008, mức nhập siêu từ Trung Quốc đạt 11,11 tỷ USD, tăng 21%. Hàng Trung Quốc vào Việt Nam từ trước đến nay qua cả hai con đường, chính thức và con đường biên mậu. Nhờ cả hai con đường đó hàng Trung Quốc có thể cạnh tranh trên thị trường Việt Nam, cạnh tranh mạnh với nhà sản xuất, nhà cung cấp ngay trên “sân nhà”, làm khó cho các doanh nghiệp Việt Nam ngay tại thị trường nội địa. Khi con đường chính thức tăng lên do giảm thuế họ vẫn cạnh tranh được mà chẳng cần phải đi đường biên mậu nữa. Nhưng dù sao con đường biên mậu vẫn hữu hiệu với họ vì biên mậu nó giúp cho doanh nghiệp nhỏ hơn của Trung Quốc- những đơn vị không có được chất lượng hoặc cách làm ăn lớn như các doanh nghiệp lớn- vẫn có thể tiếp cận thị trường Việt Nam. Họ vẫn có thể qua các cửa khác nhau để qua Việt Nam được bằng con đường biên mậu. Đường biên mậu với cách làm không chính thức đó càng gây khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam và giảm được nhiều chi phí cho công ty Trung Quốc. Trong khi hàng nhập khẩu Trung Quốc khá dễ vào Việt Nam thì hàng Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này lại "chật vật" trước nhiều tiêu chuẩn. Hàng xuất khẩu sang Trung Quốc qua cửa khẩu Lào Cai chủ yếu là nông sản, thực phẩm như hạt điều, bánh đậu xanh, sắn khô… Tất cả những mặt hàng này khi xuất sang Trung Quốc đều phải có chứng nhận xuất xứ hàng hóa (CO), phải được kiểm định khá nghiêm ngặt về chất lượng, kể cả với mặt hàng đơn giản như sắn khô. Tại khu vực cửa khẩu, hệ thống máy móc kiểm định hàng hóa đã được phía Trung Quốc đầu tư hiện đại. Như vậy, về điều kiện kỹ thuật, Trung Quốc cũng đã thiết lập được "hệ thống phòng thủ” khá chặt chẽ. Trung Quốc sử dụng công cụ thuế quan trọng điều tiết hoạt động xuất, nhập khẩu rất hiệu quả. Mỗi mặt hàng khi xuất, nhập khẩu vào nước này có thể được áp dụng hai chính sách thuế: thuế mậu dịch (chính ngạch) do Chính phủ quy định và thuế biên mậu (tiểu ngạch) do địa phương quy định. Do vậy, có trường hợp cùng một thời điểm, mặt hàng giày dép của Việt Nam khi xuất vào nước này theo đường chính ngạch phải chịu thuế suất trên 30% nhưng “đi” theo đường tiểu ngạch thì chỉ phải chịu thuế suất chưa đầy 5%. Chương ba: Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc Vấn đề nổi cộm trong quan hệ hai nước hiện nay là mất cân bằng về cán cân thương mại bởi Việt Nam đang nhập siêu lớn từ nước này. Một trong những biện pháp quan trọng giảm bớt tình trạng nhập siêu lớn của Việt Nam hiện nay là đẩy mạnh xuất khẩu sang Trung Quốc. Tuy nhiên, do kinh tế khó khăn, thị trường hàng hoá xuất khẩu bị hạn chế nên việc khai phá và tìm đường cho hàng hoá xuất khẩu của ta càng gặp khó khăn hơn bởi Trung Quốc và các nước khác đều áp dụng biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước láng giềng. Để thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường này, nhóm xin đưa ra các giải pháp về phía chính phủ, cụ thể là: Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc thiếu tính bền vững, thiếu các sản phẩm có giá trị và hàm lượng kỹ thuật cao. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc gồm 3 nhóm hàng chính là nguyên nhiên liệu và khoáng sản, chiếm trung bình 55%; nông sản, thủy sản chiếm 15%; hàng công nghiệp chiếm 10% Việt Nam chưa có nhiều mặt hàng chủ lực xuất khẩu sang thị trường này. Vì vậy, thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu sang Trung Quốc theo hướng giá trị gia tăng cao là yêu cầu cấp thiết. Chuyển hướng thị trường nhập khẩu (đặc biệt là máy móc, công nghệ) sang các thị trường khác, nhất là các thị trường có công nghệ cao như Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ. Xuất khẩu sang Trung Quốc chưa được như mong muốn một phần là do hạ tầng phục vụ cho thương mại tại các tỉnh biên giới phía Bắc còn yếu, đặc biệt là giao thông, vận tải, kho bãi, bảo quản, đóng gói… Lào Cai có kim ngạch trao đổi thương mại với Trung Quốc trên dưới 1 tỷ USD mỗi năm nhưng hạ tầng hiện rất yếu, đường sắt đáp ứng được 1/3 nhu cầu trong khi đường bộ tắc thường xuyên. Do đó cần đẩy mạnh đầu tư xây dựng các bến bãi, khu kiểm hoá tại các khu vực cửa khẩu biên giới; đẩy nhanh tiến độ xây dựng kết cấu hạ tầng thương mại tại các khu vực cửa khẩu biên giới như kho tàng, chợ biên mậu, khu gia công chế xuất, phân loại đóng gói hàng hoá xuất khẩu; Cung cấp thông tin về thị trường, cơ chế , chính sách của Trung Quốc; đề xuất với phía bạn các giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu, tạo thuận lợi tối đa trong việc cấp C/O cho các doanh nghiệp khi xuất khẩu sang Trung Quốc để tận dụng tối đa ưu đãi về thuế quan trong khuôn khổ khu vực thương mại tự do ASEAN- Trung Quốc. Hướng các doanh nghiệp xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính để đảm bảo ổn định và tránh được những rủi ro do chính sách biên mậu của Trung Quốc thay đổi. Đồng thời có cơ hội mở rộng thị trường cho hàng hoá vào sâu nội địa Trung Quốc; Nghiên cứu xây dựng hệ thống dịch vụ phân phối biên mậu để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá vào sâu trong nội địa của Trung Quốc. Ngoài ra, Chính phủ cần rà soát hệ thống văn bản hợp tác với Trung Quốc, nếu cần có thể sửa đổi, bổ sung để tránh tình trạng điều hành, chỉ đạo quản lý nhà nước lúng túng. Một biện pháp không thể thiếu để đẩy mạnh xuất khẩu là hoạt động xúc tiến thương mại. Tại Việt Nam và Trung Quốc có nhiều hội chợ tốt cho quảng bá và giới thiệu sản phẩm Việt Nam tới người tiêu dùng Trung Quốc như Vietnam Expo, Hội chợ ASEAN – Trung Quốc… Mặc dù Việt Nam luôn nhập siêu từ Trung Quốc nhưng các hợp đồng được ký tại các kỳ hội chợ thường là hợp đồng xuất khẩu với giá trị hàng trăm triệu USD. Tuy nhiên, để hỗ trợ tốt cho xuất khẩu vào thị trường Trung Quốc, hoạt động xúc tiến thương mại qui mô quốc gia hay địa phương cần phải tích cực hơn nữa. Hạn chế nhập khẩu những mặt hàng Việt Nam đã sản xuất được và có chính sách tích cực đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng thay thế hàng nhập khẩu từ Trung Quốc. Đối với các doanh nghiệp: Cần chủ động tìm hiểu về đối tác, thị trường Trung Quốc để tìm ra giải pháp tối ưu cho doanh nghiệp mình và tránh những thất bại do thiếu hiểu biết. Tích cực tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá cho thương hiệu, doanh nghiệp và tiếp cận với các đối tác Trung Quốc thông qua các hoạt động đó. Không nhất thiết cứ phải xuất khẩu những cái mình sản xuất. Các tỉnh biên giới có thể tận dụng vị trí địa lý để xuất các sản phẩm của nước thứ ba và ngược lại. Như vậy tiềm năng với thị trường Trung Quốc không đơn thuần phát triển buôn bán bình thường, các doanh nghiệp Việt Nam, các tỉnh giáp biên giới có thể tận dụng lợi thế cạnh tranh, lợi thế vị trí địa lý quốc tế phát triển hình thức buôn bán này. Bài học từ các nước ASEAN Ba quốc gia ASEAN gồm Malaysia, Thái Lan và Philippines đã nỗ lực vươn lên để thay thế các quốc gia ngoài châu Á trong nhóm 10 thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn nhất vào Trung Quốc những năm gần đây. Trong đó, Malaysia sớm thâm nhập thị trường Trung Quốc từ đầu thập kỷ 1990 với kim ngạch xuất khẩu 852 triệu đô la Mỹ và liên tục đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này (thập kỷ 1990 tăng bình quân 20,46%/năm, trong khi xuất khẩu ra thị trường thế giới nói chung chỉ tăng 12,80%/năm), cho nên quy mô xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc năm 2008 đã đạt 34,644 tỉ đô la Mỹ, chiếm 17,36% tổng kim ngạch xuất khẩu ra thị trường thế giới của Malaysia. Tương tự, Thái Lan tuy cũng thâm nhập thị trường Trung Quốc sớm và liên tục đẩy mạnh xuất khẩu nhưng với xuất phát điểm chỉ là 386 triệu đô la Mỹ, cho nên quy mô xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc của Thái Lan chỉ đứng thứ ba với 23,245 tỉ đô la Mỹ, chiếm 13,07% trong tổng kim ngạch xuất khẩu ra thị trường thế giới của quốc gia này. Khác với hai quốc gia nói trên, từ xuất phát điểm chỉ là 90 triệu đô la Mỹ năm 1990, gần hai thập kỷ vừa qua Philippines đã dồn mọi sức lực để đẩy mạnh xuất khẩu sang Trung Quốc. Nếu như nhịp độ tăng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc trong thập kỷ 1990 chỉ mới cao gấp đôi so với nhịp độ tăng xuất khẩu ra thị trường thế giới nói chung (33,98%/năm so với 16,65%/năm), thì tám năm gần đây các tỷ lệ này là 39%/năm và 3,6%/năm. Điều này giúp kim ngạch xuất khẩu của Philippines chỉ riêng sang thị trường Trung Quốc đã đạt 23,363 tỉ đô la Mỹ, chiếm tới 47,66% tổng kim ngạch xuất khẩu ra thị trường thế giới của quốc gia này. Có thể khẳng định, để tăng mạnh xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, cả ba quốc gia ASEAN nói trên không thể trông chờ vào nguồn tài nguyên thiên nhiên vốn rất hạn chế của mình, thay vào đó là dựa trên cơ sở phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ nhằm cung cấp các nguyên phụ liệu, linh kiện, phụ tùng cho thị trường Trung Quốc. Nói cách khác, sự phát triển xuất khẩu bền vững sang thị trường Trung Quốc của Malaysia, Thái Lan, Philippines là do họ đã chiếm được những vị trí nhất định trong các chuỗi giá trị gia tăng của Trung Quốc và góp phần đáng kể trong các sản phẩm "made in China". Có lẽ đây là bài học mà Việt Nam rất cần tham khảo trong việc "giải bài toán" nhập siêu vốn đang ngày càng trở nên nghiêm trọng, trong đó chủ yếu là nhập siêu từ Trung Quốc. KẾT LUẬN Thị trường Trung Quốc ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam. Hiện tại, Trung Quốc đang là nước xuất khẩu lớn nhất vào Việt Nam và là thị trường nhập khẩu lớn thứ tư của chúng ta. Do đó việc phát triển mối quan hệ về chính trị, ngoại giao và đặc biệt là kinh tế cần được Chính phủ chú trọng hơn nữa. Việc Trung Quốc chiếm 90% trong rổ nhập siêu của Việt Nam là vấn đề đáng báo động. Chính phủ cần chuyển dịch từ từ cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc để cải thiện cán cân thương mại. Đồng thời đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và thúc đấy các hoạt động giao thương ở 7 tỉnh có biên giới Việt – Trung nhằm phát huy lợi thế “láng giềng” của Trung Quốc./

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxBi 2TT Trung qu7889c.docx
  • pdfthi truong Trung Quoc.pdf
Luận văn liên quan