Đề tài Tự do hoá dịch vụ bán lẻ Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Dịch vụ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của các nước nói riêng và trong thương mại quốc tế nói chung. Nhận thức được điều này, WTO đã thông qua hiệp định GATS năm 1995. Đây là tập hợp các quy định có hiệu lực thi hành bắt buộc đối với các thành viên của WTO, gồm 29 điều, trong đó có quy định về việc gỡ bỏ các rào cản trong thương mại dịch vụ nhằm sớm đạt được tự do hoá trong lĩnh vực này. Năm 2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO, điều này đồng nghĩa với việc nước ta phải thực hiện các cam kết mở cửa thị trường dịch vụ bao gồm cả thị trường bán lẻ. Để thực hiện cam kết của WTO, ngày 01/01/2009 Việt Nam đã chính thức cho phép các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được hoạt động trong lĩnh vực phân phối tại đây. Chính sách này chắc chắn tác động rất lớn đến các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam, đặc biệt trong tình hình các doanh nghiệp phân phối trong nước còn chưa phát triển. Với mục tiêu tìm hiểu rõ hơn về thực trạng thị trường bán lẻ Việt Nam, từ đó đưa ra các giải pháp cho doanh nghiệp Việt Nam trong thời kì mở cửa, chúng em lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Tự do hoá dịch vụ bán lẻ Việt Nam: Thực trạng và giải pháp”. Đối tượng nghiên cứu là thị trường bán lẻ Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu: phân tích, tổng hợp. Bài tiểu luận của chúng tôi chia làm 3 phần chính: I.Khái quát chung về tự do hoá dịch vụ bán lẻ II. Thực trạng thị trường bán lẻ Việt Nam III. Giải pháp cho ngành bán lẻ Việt Nam trong môi trường tự do hoá

doc30 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3148 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tự do hoá dịch vụ bán lẻ Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Dịch vụ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của các nước nói riêng và trong thương mại quốc tế nói chung. Nhận thức được điều này, WTO đã thông qua hiệp định GATS năm 1995. Đây là tập hợp các quy định có hiệu lực thi hành bắt buộc đối với các thành viên của WTO, gồm 29 điều, trong đó có quy định về việc gỡ bỏ các rào cản trong thương mại dịch vụ nhằm sớm đạt được tự do hoá trong lĩnh vực này. Năm 2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO, điều này đồng nghĩa với việc nước ta phải thực hiện các cam kết mở cửa thị trường dịch vụ bao gồm cả thị trường bán lẻ. Để thực hiện cam kết của WTO, ngày 01/01/2009 Việt Nam đã chính thức cho phép các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được hoạt động trong lĩnh vực phân phối tại đây. Chính sách này chắc chắn tác động rất lớn đến các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam, đặc biệt trong tình hình các doanh nghiệp phân phối trong nước còn chưa phát triển. Với mục tiêu tìm hiểu rõ hơn về thực trạng thị trường bán lẻ Việt Nam, từ đó đưa ra các giải pháp cho doanh nghiệp Việt Nam trong thời kì mở cửa, chúng em lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Tự do hoá dịch vụ bán lẻ Việt Nam: Thực trạng và giải pháp”. Đối tượng nghiên cứu là thị trường bán lẻ Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu: phân tích, tổng hợp. Bài tiểu luận của chúng tôi chia làm 3 phần chính: Khái quát chung về tự do hoá dịch vụ bán lẻ Thực trạng thị trường bán lẻ Việt Nam Giải pháp cho ngành bán lẻ Việt Nam trong môi trường tự do hoá Khái quát chung về tự do hoá ngành dịch vụ bán lẻ Lý luận chung Khái niệm tự do hóa Một cách tổng quát, tự do hoá dùng để chỉ việc nới lỏng đối với những chính sách đã từng được siết chặt trước đó của chính phủ, thường là trong lĩnh vực xã hội và kinh tế. Thông thường, thuật ngữ này dùng để chỉ các chính sách tự do hoá kinh tế, đặc biệt là tự do hoá thương mại hay tự do hoá thị trường vốn, và gọi chung là chính sách tân tự do. Ngành dịch vụ bán lẻ Khái niệm, mục đích Bán lẻ nói chung là hoạt động kinh doanh bằng cách mua với số lượng lớn từ nhà sản xuất, hoặc nhà bán sỉ rồi chia nhỏ và bán lẻ cho người tiêu dùng nhằm phục vụ nhu cầu cá nhân hay gia đình. Theo xu hướng hiện nay, nhiều nhà sản xuất trực tiếp tổ chức điểm bán lẻ để đưa sản phẩm của mình đến người tiêu dùng. Hệ thống bán lẻ trực tiếp này ngoài chức năng bán hàng thường nhằm vào hai mục đích chính: Sử dụng điểm bán lẻ làm kênh truyền thông tương tác với người tiêu dùng. Cửa hàng được xem như là một điểm quảng cáo cố định, phần lớn diện tích mặt tiền được sử dụng với mục đích truyền thông xây dựng thương hiệu (billboard, màn hình LCD, trưng bày sản phẩm). Ngược lại, cũng có xu hướng nhà bán lẻ phát triển hoạt động ngược về hướng đầu nguồn của chuỗi cung cấp. Nhiều nhà bán lẻ lớn thay vì mua lại sản phẩm của các nhà phân phối hoặc nhà bán sỉ, họ tiếp xúc thẳng với nhà sản xuất để mua hàng và làm luôn chức năng phân phối. Nhiều nhà bán lẻ thậm chí còn tham gia vào việc phát triển sản phẩm. Họ yêu cầu nhà sản xuất sản xuất sản phẩm theo thiết kế của mình. Thậm chí họ còn đặt hàng nhà sản xuất cung cấp sản phẩm thô và tiếp thị dưới thương hiệu của nhà bán lẻ. Nhiều nhà sản xuất coi đây là một mối đe dọa đối với mình. Nhờ vào lợi thế kinh tề về qui mô, hiệu quả kinh doanh của chuỗi hệ thống cửa hàng bán lẻ thường cao hơn so với những của hàng bán lẻ đơn độc, do vậy chuổi hệ thống cửa hàng bán lẻ ngày càng trở nên phổ biến. Kết quả là kinh doanh bán lẻ trở thành một trong những nghành kinh doanh lớn nhất trên thế giới. Chức năng Ngành bán lẻ có thể được phân định trong phạm vi 4 chức năng chính. Khai thác một số nhóm mặt hàng và dịch vụ thích hợp: Tuy tất cả các cửa hàng bán lẻ đều cung cấp rất nhiều mặt hàng và thương hiệu khác nhau, nhưng mỗi cửa hàng đều có một xu hướng thiên về một nhóm sản phẩm làm nòng cốt. Chia những lô hàng lớn thành những đơn vị nhỏ: Từ “retailler” (bán lẻ) bắt nguồn từ tiếng Pháp mang nghĩa là cắt nhỏ, chia nhỏ. Chúng ta đều biết rằng bán sản phẩm trực tiếp đến người tiêu dùng là điều không hề đơn giản đối với đa số các nhà sản xuất và các nhà bán sỉ. Do vậy các nhà sản xuất và các nhà bán sỉ thường thích bán từng lô lớn cho những nhà bán lẻ chuyên nghiệp, để họ chia nhỏ ra rồi bán lại cho người tiêu dùng theo qui cách phù hợp với thói quen mua sắm của người tiêu dùng tại địa phương ấy. Lưu trữ sẵn hàng hóa: Một trong những chức năng chính của nhà bán lẻ là lưu trữ hàng hóa nhằm làm cho hàng hóa lúc nào cũng có sẵn mỗi khi người tiêu dùng cần đến. Người bán lẻ thông thường không tích trữ chỉ một vài mặt hàng với khối lượng lớn, ngược lại họ tích trữ nhiều mặt hàng với khối lượng càng nhỏ càng tốt. Vì như thế khách hàng luôn luôn có nhiều sự chọn lựa hơn. Hưởng lợi từ chức năng này của người bán lẻ, khách hàng không phải mua trữ nhiều sản phẩm trong nhà. Họ chỉ mua đủ dùng vì sản phẩm lúc nào cũng có sẵn ở cửa hàng bán lẻ. Trưng bày hàng hóa và dịch vụ cộng thêm: Các nhà bán lẻ tạo ra mặt bằng trưng bày hàng hóa rộng lớn để có thể trưng bày hàng hóa một cách đa dạng và phong phú, giúp khách hàng thoải mái xem, thử, chọn lựa trước khi quyết định mua. Không chỉ chấp nhận thanh toán bằng những loại thẻ tín dụng phổ biến, nhiều nhà bán lẻ còn phát hành thẻ tín dụng riêng của họ nhằm giúp cho khách hàng có được một hạn mức tín dụng để mua hàng trước và trả tiền sau. Phân loại Có thể nói chọn hình thức bán lẻ là một quyết định quan trọng nhất đối với một chiến lược bán lẻ. Trên thế giới hình thức bán lẻ là vô cùng đa dạng, nhưng chung qui lại, dưới đây là những hình thức phổ biến nhất. Cửa hàng tiện lợi (Convenience store) Cửa hàng đặc chủng (Speciality store) Siêu thị (Super market) Cửa hàng giảm giá (Discounted store) Trung tâm bán lẻ (Superstore or combination store) Cửa hàng bách hóa (Department store) Đại siêu thị (Hypermarket) Kho hàng (Warehouse store) Trung tâm mua sắm (Shopping mall) Bán hàng theo catalogue (Direct catalogue retailing) Cửa hàng trên mạng Internet (Web store) Xu hướng tự do hoá ngành dịch vụ bán lẻ trên thế giới Thị trường bán lẻ ngày nay không chỉ còn tập trung ở các nước phát triển mà đang ngày càng được mở rộng. Xu thế mở cửa thị trường bán lẻ của các quốc gia trên thế giới đã đưa các đại gia lớn như Carrefour, Wal-Mart, Dairy Farm đến với khắp các nước trên thế giới, đặc biệt là những nước châu Á và các quốc gia đang phát triển.Cuộc suy thoái kinh tế hiện tại đã và đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến các tập đoàn bán lẻ trên thế giới, nhất là các nhà bán lẻ Mỹ. Hàng loạt cửa hàng kinh doanh kém hiệu quả bị đóng cửa, một số tập đoàn đệ đơn xin phá sản (Circuit City Stores Inc., Linens ‘n Things Inc., Sharper Image Corp. và Steve & Barry’s LLC) do thị trường tín dụng đóng băng và tình hình suy thoái kinh tế khiến doanh số của họ giảm sút nghiêm trọng. Dự đoán năm 2009 các tập đoàn bán lẻ Mỹ sẽ đóng cửa khoảng 12 nghìn cửa hàng bán lẻ và danh sách các tập đoàn xin phá sản sẽ còn dài hơn.Người tiêu dùng thế giới đang thực hiện cắt giảm những khoản chi tiêu không cần thiết. Tại các trung tâm mua sắm, chủ yếu là người đi xem hàng trong khi người mua thực tế không nhiều bất chấp các chương trình khuyến mãi, giảm giá được tung ra. Các khoản chi tiêu được cho là giảm nhiều nhất bao gồm các khoản chi cho quần áo phụ nữ, hàng điện tử và đồ trang sức. Thế giới đang trông chờ vào tín hiệu tích cực từ kết quả của các chính sách khuyến khích tiêu dùng đang được một số nước Châu Á thực hiện như trao một khoản tiền mặt trực tiếp trị giá tối thiểu gần 130 USD cho gần như tất cả mọi người sống trên đất Nhật hay chính sách phát phiếu mua hàng trị giá 108 USD của chính phủ Đài Loan.Với tình hình này, giá cả là nhân tố quyết định hàng đầu trong cuộc cạnh tranh bán lẻ khắc nghiệt. Theo báo cáo của Deloitte - 2009 Global Power of Retailing, trong thời gian tới, để sống còn qua cuộc suy thoái này, các nhà kinh doanh bán lẻ sẽ có xu hướng tập trung cắt giảm chi phí, quản trị và phân chia rủi ro, tạo cho người tiêu dùng có được kinh nghiệm mua sắm tốt, quản trị nguồn nhân lực, đa dạng nguồn hàng, cân nhắc thu gọn cửa hàng, phân khúc thị trường tốt hơn, tìm kiếm thêm những thị trường ngoại quốc tiềm năng, tối ưu hóa dây chuyền cung ứng và xây dựng thương hiệu nhà bán lẻ. Ngoài ra, sáp nhập cũng là một hướng cứu cánh trong hoàn cảnh hiện nay. Mặc dù khủng hoảng kinh tế nhưng những tín hiệu lạc quan của thị trường bán lẻ đã lan truyền đến mọi khu vực trên thế giới. Các tập đoàn bán lẻ lớn xâm nhập vào các nước đang phát triển ngày càng nhiều, đồng thời các tập đoàn bán lẻ của các quốc gia châu Á mới nổi cũng xuất hiện và phát triển rất mạnh mẽ. Châu Mỹ La tinh và châu Á chính là hai khu vực có thị trường mặt bằng bán lẻ gặt hái được nhiều thành công nhất. Một điểm sáng tiêu biểu là thị trường Hồng Kông. Đối với phân khúc mặt bằng bán lẻ thì Peru, Colombia, Brazil là những nơi triển vọng khá sáng sủa, các quốc gia khác như Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc và Ấn Độ thì tình hình không khả quan bằng nhưng vẫn rất đáng ghi nhận. Australia, các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất, Anh là những quốc gia có tình hình thị trường bán lẻ được cải thiện khá tốt. Còn hai cường quốc hàng đầu là Mỹ và Nhật lại chưa cải thiện được gì nhiều đối với phân khúc thị trường này. Các quốc gia châu Âu khác như Ireland, Pháp và Tây Ban Nha được ghi nhận là có viễn cảnh thị trường bán lẻ u ám nhất vào thời điểm hiện tại. Niềm tin của nhà đầu tư chính là chìa khoá có tác động lớn đối với thị trường. Chính vì lẽ đó, tương lai của thị trường mặt bằng bán lẻ ở Brazil, Hồng Kông, Hàn Quốc, Trung Quốc và Ấn Độ sẽ khá sáng sủa trong thời gian tới. Thực trạng thị trường bán lẻ Việt Nam Việt Nam mở cửa thị trường bán lẻ Trước khi mở cửa Thị trường bán lẻ Việt Nam có sức hút lớn với các tập đoàn bán lẻ trên thế giới. Cụ thể, Việt Nam là nước có nền kinh tế phát triển nhanh trong nhiều năm qua, khoảng 8%. Mặt khác, Việt Nam có một thị trường tiêu thụ rộng lớn với trên 86 triệu dân, dân số trẻ, 65% trong độ tuổi lao động, hơn một nửa dân số có độ tuổi dưới 30, thu nhập ngày càng tăng. Chi tiêu của người tiêu dùng tăng 16% và doanh số bán lẻ tăng 20% trong giai đoạn 2004-2005. Doanh số bán lẻ Viêt Nam dự tính đạt 20 tỷ USD mỗi năm. Sức hút của thị trường bán lẻ Việt Nam tăng nhanh khi năm 2007, Việt Nam xếp hạng 2 trên thế giới (sau Ấn Độ) và đến năm 2006 Việt Nam đứng số 1 theo xếp hạng của Công ty tư vấn Mỹ A.T.Keaney về chỉ số phát triển kinh doanh bán lẻ toàn cầu. Ngoài ra, theo số liệu của Bộ Công Thương, trong giai đoạn 2001 - 2005 doanh thu bán lẻ thị trường Việt Nam tăng bình quân 18%/ năm, cao gấp khoảng 2 lần so với mức tăng trưởng bình quân của GDP cùng kỳ. Tuy nhiên, hệ thống phân phối của ta vẫn chưa phát triển và còn thô sơ. Theo số liệu thống kê tại thời điểm cuối năm 2006 thì hàng hoá đến người tiêu dùng chủ yếu vẫn qua hệ thống chợ (khoảng 40%) và qua hệ thống các cửa hàng bán lẻ độc lập, cửa hàng truyền thống (khoảng 44%), qua hệ thống phân phối hiện đại (trung tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng tự chọn) mới chỉ chiếm khoảng 10%, do nhà sản xuất trực tiếp bán thẳng là 6%. Xuất phát từ những lý do trên, trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, nhiều thành viên đã đưa ra yêu cầu rất cao, đề nghị Việt Nam mở cửa thị trường dịch vụ phân phối và coi đây là điều kiện tiên quyết cho việc chấp nhận nước ta gia nhập WTO. Do đã cam kết mở cửa thị trường dịch vụ phân phối trong Hiệp định thương mại song phương Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA) nên nước ta đã đồng ý đàm phán với các thành viên WTO để dành cho các thành viên này đối xử như Việt Nam đã dành cho Hoa Kỳ. Cam kết của Việt Nam trong WTO đối với dịch vụ phân phối được thiết kế trên cơ sở Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA). Tuy nhiên, do các thành viên WTO coi BTA chỉ là khởi điểm để đàm phán nên cam kết của Việt Nam trong WTO có nhiều thay đổi so với BTA. Trên thực tế, trước khi gia nhập WTO (trước ngày 11/1/2007), thị trường phân phối Việt Nam đã có nhiều doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài của các tập đoàn phân phối lớn trên thế giới. Ví dụ như: Metro Cash & Carry (Đức): có các siêu thị tại TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ. BigC: có các siêu thị tại  TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội và Hải Phòng. Tập đoàn bán lẻ Parkson (Malaysia): có siêu thị tại TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng. Tập đoàn Dairy Farm (Singapore) cũng nộp đơn xin thành lập công ty 100% vốn nước ngoài. Lotte (Hàn Quốc) xin thành lập liên doanh. Cam kết mở cửa thị trường bán lẻ Việt Nam Như phần trên đã đề cập, BTA là hiệp định thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ cam kết mở cửa thị trường phân phối. Và BTA là cơ sở để đàm phán với các thành viên khác trong WTO. Theo đó sau khi gia nhập WTO, Việt Nam cam kết mở cửa tất cả các phân ngành dịch vụ phân phối theo phân loại của WTO, bao gồm: Dịch vụ đại lý hoa hồng. Dịch vụ bán buôn. Dịch vụ bán lẻ (bao gồm cả hoạt động bán hàng đa cấp). Dịch vụ nhượng quyền thương mại. Cần nhấn mạnh rằng 1/1/2009 không phải là “giờ G” hay thời điểm “mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ”. Thực tế việc mở cửa thị trường dịch vụ phân phối đã được thực hiện ngay sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO (tháng 1-2007) theo hình thức liên doanh. Nhưng từ 1-1-2009, doanh nghiệp nước ngoài mới được hoạt động trong lĩnh vực phân phối dưới hình thức 100% vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, việc mở cửa cho các doanh nghiệp nước ngoài gắn liền với một số điều kiện chứ không phải ồ ạt đổ bộ vào thị trường Việt Nam. Trong danh mục hàng hóa mà doanh nghiệp nước ngoài được phân phối theo lộ trình từ 1-1-2009 có  máy kéo, phương tiện cơ giới, ô tô con, xe máy. Từ 1-1-2010 có thêm: xi măng, clinke, phân bón, sắt, thép, giấy, lốp xe, thiết bị nghe nhìn... Những hàng hóa doanh nghiệp nước ngoài không được quyền phân phối gồm: lúa gạo, đường, thuốc lá - xì gà, dầu thô và dầu đã qua chế biến, dược phẩm, thuốc nổ, sách-báo-tạp chí, kim loại quý-đá quý, vật phẩm đã ghi hình trên mọi chất liệu (đĩa, băng, các phương tiện đã lưu trữ thông tin). Hiện có năm tập đoàn bán lẻ nước ngoài quy mô lớn đang hoạt động tại Việt Nam. Trong đó, tập đoàn Metro đăng ký kinh doanh theo hình thức bán buôn nhưng thực ra hoạt động phần lớn là bán lẻ (bán cho người mua cuối cùng). Big C hoạt động theo hình thức bách hóa tổng hợp. Parkson có mô hình bán hàng bách hóa chuyên về hàng công nghiệp. Lotte kinh doanh cả siêu thị lẫn gian hàng. Còn Louis Vuiton chỉ bán sản phẩm mang thương hiệu của họ. Song, điều đáng lo ngại nhất là trong 10 nhà bán lẻ hàng đầu thế giới mới chỉ có Metro (đứng thứ 5) xâm nhập vào Việt Nam. Lotte Mart của Hàn Quốc tuy có những chiến dịch quảng bá rầm rộ nhưng vẫn chỉ là nhà bán lẻ đứng thứ 79 thế giới và thứ 14 châu Á, vậy mà đã khiến nhiều doanh nghiệp nội địa “hoảng hốt”, huống chi sắp tới, dự báo sẽ còn hàng loạt tên tuổi trong top 10 nhà bán lẻ thế giới đổ bộ vào Việt Nam. Theo thông tin mới nhất, tập đoàn Tesco của Anh (đứng thứ 4) đã có sẵn 2 địa điểm để mở đại siêu thị ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Phương thức tiếp cận của tập đoàn này là mua một thương hiệu bán lẻ nội địa hoặc liên doanh với một đơn vị trong nước để mở hệ thống phân phối, bán lẻ. Sắp tới sẽ là Tập đoàn Carrefour của Pháp (đứng thứ 2), Seven-Eleven của Nhật. Ngoài 8 siêu thị trên toàn quốc, Metro Cash & Carry đang có ý định mở thêm 4 trung tâm nữa tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang và Đồng Nai. Hay Tập đoàn Bourbon, chủ sở hữu Hệ thống siêu thị Big C cũng đang chuẩn bị xây dựng thêm 4 siêu thị mới tại Hà Nội, làm tròn chuỗi 10 siêu thị mà họ đang sở hữu. Tập đoàn bán lẻ Dairy Farm (HongKong) thông qua công ty con là Giant South Asia Việt Nam cũng vừa khai trương siêu thị đầu tiên tại thành phố Hồ Chí Minh. Lotte Mart khai trương vào ngày 18-12-2008 cũng quyết định nâng chỉ tiêu mở rộng mạng lưới từ 15 lên 30 siêu thị trong vòng 10 năm với tổng vốn đầu tư lên đến 5 tỉ USD. Trước đó, Dairy Farm đã mua lại toàn bộ chuỗi 6 siêu thị Citimart của Công ty Đông Hưng. Dự kiến, Dairy Farm sẽ rót tới 5 triệu USD nhằm mở rộng kinh doanh tại thị trường Việt Nam. Đánh giá những thuận lợi khó khăn sau khi mở cửa thị trường bán lẻ a. Thuận lợi Quy mô thị trường Thị trường bán lẻ Việt Nam tuy quy mô không lớn (55 tỷ USD trong năm 2008), nhưng rất hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài do mức lưu chuyển hàng hóa liên tục tăng trong những năm gần đây. Quy mô thị trường bán lẻ Việt Nam năm 2007 khoảng 20 tỉ USD và đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 8%/năm. Kênh bán lẻ hiện đại có tỉ trọng 13%, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm rất cao – khoảng 30%. Doanh số bán lẻ thị trường Việt Nam được dự tính khoảng trên 20 tỷ USD mỗi năm. Riêng tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, kênh bán lẻ hiện đại có tỉ trọng khoảng 28% (năm 2008) và dự kiến lên đến 37% vào năm 2010. Mức độ HOT của thị trường bán lẻ Việt Nam (Tháng 11 - 2008) (Nguồn: Nielsen Việt Nam) Quy mô và mức dân số đang trong thời điểm có khả năng chi tiêu đã làm cho Việt Nam khác biệt so với các thị trường kinh doanh bán lẻ khác tại châu Á. Việt Nam có số dân hơn 86 triệu người và hằng năm tăng trên 1 triệu người là thị trường có tiềm năng rất hấp dẫn đối với các nhà bán lẻ. Công ty nghiên cứu thị trường của Mỹ RNCOS trong báo cáo "Phân tích thị trường bán lẻ Việt Nam từ năm 2008 đến năm 2012" đã cho rằng tuy quy mô thị trường bán lẻ nhỏ hơn nhiều so với các nền kinh tế đang phát triển khác tại châu Á, nhưng đổi lại, Việt Nam có những yếu tố căn bản cho sự phát triển mạnh với doanh thu bán lẻ tăng từ 23,7 tỉ đô la Mỹ năm 2005 lên gần 39 tỉ đô la Mỹ năm 2008. Với một thị trường tiêu thụ rộng lớn khoảng 86 triệu dân, thu nhập ngày càng cao, cùng với áp lực cạnh tranh giữa các hệ thống bán lẻ chưa nhiều thì thị trường bán lẻ Việt Nam thực sự có sức hấp dẫn rất lớn. Thói quen chi tiêu Thu nhập tăng và văn hóa tiêu dùng đang dần dần xuất hiện đã góp phần thúc đẩy sức tiêu dùng gia tăng. Chi tiêu cho các loại hàng tiêu dùng tăng 20% mỗi năm. Năm 2000, chi tiêu cho bán lẻ tại Việt Nam chỉ đạt mức 15 tỉ USD, năm 2006 đã đạt mức 36 tỉ USD và đến năm 2010 dự kiến con số này sẽ vượt mức 50 tỉ USD. Việt Nam có tiềm năng lớn về sức mua với tốc độ tăng trưởng cao và dân số trẻ. Tính tự cấp tự túc giảm nhanh, tỷ lệ tiêu dùng thông qua mua bán tăng rất mạnh (tỷ lệ tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng so với tiêu dùng cuối cùng đã tăng từ 64,7% năm 1995 lên 68,5% năm 2000, 82,1% năm 2005, 93,1% năm 2007 và có khả năng vượt qua mốc 95% trong năm nay). Mức tiêu dùng bình quân đầu người tuy còn thấp, nhưng tốc độ tăng quy mô và tổng mức bán lẻ hàng hóa cũng như doanh thu dịch vụ tiêu dùng, nếu loại trừ tốc độ tăng giá tiêu dùng vẫn tăng cao (tăng 12,3%/ năm), ước tính đạt 57,6 tỉ USD trong năm nay. Tỷ lệ dân số đô thị chưa cao (năm 2007 mới đạt 27,44%, thuộc loại thấp trên thế giới), nhưng đang có xu hướng tăng nhanh, nên cơ cấu tiêu dùng cũng sẽ có sự chuyển dịch nhanh. Đến năm 2011 gần 3/4 dân số (69%) sẽ nằm trong độ tuổi từ 15-64, và môi trường kinh doanh bán lẻ của Việt Nam dự đoán sẽ trưởng thành cùng với thế hệ những người tiêu dùng trẻ, tạo nên cuộc cách mạng về thị trường kinh doanh bán lẻ tại khắp các khu vực thành thị của Việt Nam. Môi trường kinh tế vĩ mô Công ty nghiên cứu thị trường RNCOS còn khẳng định, với việc Chính phủ Việt Nam cho phép các công ty nước ngoài gia nhập thị trường bán lẻ, doanh thu của thị trường này tại Việt Nam vào năm 2012 sẽ vượt mức 85 tỉ đô la Mỹ và các kênh bán lẻ hiện đại sẽ đóng vai trò chủ chốt trong sự phát triển của ngành công nghiệp này trong tương lai. Trong khi Việt Nam tăng trưởng kinh tế vẫn thuộc loại cao so với các nước, tốc độ tăng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tuy thấp hơn các năm trước nhưng tính chung 10 tháng qua vẫn còn tăng 6,1%, thì thị trường Việt Nam vẫn còn rất hấp dẫn. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái (triệu USD) (Nguồn: Tổng cục Thống kê) Cơ cấu tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cũng có một số điểm đáng lưu ý. Theo ngành hoạt động, chiếm tỷ trọng lớn nhất vẫn là ngành thương nghiệp (tức là thương mại thuần túy), năm 2007 là 77%, năm 2008 cao hơn chủ yếu do giá tăng cao hơn. Lĩnh vực thương mại dịch vụ (khách sạn nhà hàng, du lịch, dịch vụ) mặc dù tăng lên, nhưng hiện vẫn còn chiếm tỷ trọng nhỏ (khách sạn nhà hàng năm 2007 chiếm 11,8%, 10 tháng này giảm còn 11,3%; du lịch, dịch vụ năm 2007 chiếm 11,2%, 10 tháng này còn 6,3%). Theo xếp loại của hãng tư vấn thị trường toàn cầu Mỹ AT Kearney, những năm gần đây Việt Nam liên tục đứng top đầu về sự hấp dẫn của thị trường bán lẻ: năm 2005, 2006, 2007, có thứ tự là 8; 3; 4; đặc biệt năm 2008 đứng thứ 1. Việt Nam có đến 65% dân số là người tiêu dùng trẻ, chi tiêu mạnh tay. Tầng lớp trung lưu với thu nhập 250USD/tháng trở lên đang tăng nhanh. Riêng tầng lớp trung lưu thu nhập trên 500USD/tháng chiếm trên 1/3 số hộ gia đình ở thành thị. Chính vì thế, sức hút của thị trường bán lẻ VN tăng nhanh khi năm 2007, Việt Nam xếp hạng 2 trên thế giới sau Ấn Độ, nhưng tháng 6.2008 – theo xếp hạng của Công ty tư vấn Mỹ A.T.Keaney về chỉ số phát triển kinh doanh bán lẻ toàn cầu thì Việt Nam đã đứng số 1. Hiện nay một số nhà sản xuất và các nhà phân phối bán lẻ hàng đầu đã hoạt động tại Việt Nam như Metro Cash & Carry, Big C, Parkson, và Wal-Mart cũng đang đặt sự chú ý rất nhiều vào thị trường bán lẻ Việt Nam. b. Khó khăn Khó khăn của doanh nghiệp Việt Nam Nghiên cứu ở hai thành phố lớn là Hà Nội và TP.HCM cho thấy kênh phân phối từ hệ thống siêu thị đã tăng từ 18% trong năm 2004 lên 23% năm 2005 và hiện nay dự đoán khoảng hơn 40%. Kênh phân phối truyền thống (chợ, cửa hàng, người bán dạo) đang giảm xuống đáng kể. Xu hướng tiêu dùng hiện đại thể hiện rõ nhất ở khu vực miền Nam với 63,7% người tiêu dùng chọn kênh phân phối siêu thị. Với tốc độ phát triển như hiện tại, nếu các nhà bán lẻ trong nước không liên kết lại, xây dựng được chiến lược cạnh tranh hợp lí thì việc phân phối hàng hoá nội địa ở các đô thị rơi vào tay các tập đoàn nước ngoài không phải là điều khó hiểu. Hiện tại, tỉ lệ doanh thu của các siêu thị nội chiếm chưa tới 10% hệ thống phân phối siêu thị. Thực tế cho thấy các đơn vị bán lẻ trong nước còn chưa nhiều, lại thiếu tính chuyên nghiệp và vốn ít; hệ thống hậu cần như kho bãi, xe chuyên dùng, nguồn hàng rời rạc, thiếu đồng bộ và chưa đạt chuẩn; hạ tầng giao thông kém. Bên cạnh đó, Chính phủ hầu như chưa phát huy được vai trò của mình trong việc định hướng cũng như giúp đỡ các doanh nghiệp trong nước. Điển hình là việc cấp giấy phép hoạt động cho các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài, nhìn lại ta sẽ thấy hầu hết những siêu thị, trung tâm thương mại nước ngoài đều chọn được những vị trí đẹp nhất, gần vị trí trung tâm, nơi tập trung dân cư, giao thông thuận tiện, mặt bằng rộng. Khó khăn đối với doanh nghiệp và hộ kinh doanh Việt Nam đó là năng lực cạnh tranh của từng doanh nghiệp yếu vì đại bộ phận các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, trình độ quản lý lạc hậu, phương thức kinh doanh chưa tiên tiến, cơ sở hạ tầng kinh doanh chưa hiện đại, chiến lược kinh doanh chưa được quan tâm đúng mức. Đồng thời, tính liên kết giữa các doanh nghiệp yếu như: liên kết dọc giữa nhà sản xuất - nhà bán buôn - nhà bán lẻ; liên kết ngang giữa nhà bán buôn với nhà bán buôn, nhà bán lẻ với nhà bán lẻ; liên kết giữa nhà phân phối với các nhà cung ứng dịch vụ ngân hàng. Tuy nhiên, hiện nay hàng hoá đến người tiêu dùng chủ yếu vẫn qua hệ thống chợ (khoảng 40%) và qua hệ thống các cửa hàng bán lẻ độc lập, cửa hàng truyền thống (khoảng 44%), qua hệ thống phân phối hiện đại (trung tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng tự chọn...) mới chỉ chiếm khoảng 10%, 6% là do nhà sản xuất trực tiếp bán thẳng. Khi cánh cửa đã mở ra công bằng cho mọi nhà bán lẻ, cả trong và ngoài nước vào ngày 01/01/2009, một mặt, Chính phủ cũng lo ngại liệu các nhà bán lẻ trong nước có hợp tác và cạnh tranh tốt với các nhà bán lẻ nước ngoài vốn “mạnh gạo bạo tiền” và dày dạn kinh nghiệm hay không. Mặt khác, Chính phủ cũng kỳ vọng các nhà bán lẻ nước ngoài sẽ góp phần tạo ra một môi trường bán lẻ phong phú, đa dạng, chuyên nghiệp nhưng cũng phải rất Việt Nam. Khó khăn của nhà đầu tư nước ngoài Đến thời điểm này, sau một năm mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ, chỉ có một số tập đoàn bán lẻ nước ngoài có quy mô tương đối lớn hoạt động tại Việt Nam như Metro Cash&Carry, Bourbon, Parkson, Lotte. Các tập đoàn bán lẻ lớn như Wal Mart, Dairy Farm, Carrefour đã từng được xem là các nhà đầu tư tiềm năng nhưng hiện vẫn chưa vào Việt Nam. Từ khi Việt Nam bắt đầu mở cửa từ cách đây 3 năm, không có một doanh nghiệp bán lẻ mới nào xin cấp quyền kinh doanh, chỉ có một số tập đoàn đã kinh doanh tại Việt Nam từ trước như Metro, Big C xin mở thêm các địa điểm bán lẻ. Các doanh nghiệp nước ngoài có quy mô lớn và cách làm việc chuyên nghiệp. Nhưng chính quy mô vừa phải của các doanh nghiệp nội địa phù hợp hơn với cách tiêu dùng truyền thống, vốn chiếm 85% lưu chuyển hàng hóa bán lẻ trong nước. Hơn nữa những tập đoàn đến từ nước ngoài không thể am hiểu văn hóa, tập quán mua sắm của người tiêu dùng Việt Nam bằng chính các nhà bán lẻ Việt Nam. Việt Nam chính thức mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ cho doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài vào đầu năm 2009 – cũng là thời điểm kinh tế thế giới khủng hoảng. Các doanh nghiệp đa quốc gia gặp nhiều khó khăn trong cuộc khủng hoảng, họ phải điều chỉnh lại chủ trương, chính sách, nguồn vốn và cân nhắc kỹ để đi đến quyết định đầu tư ở một nước khác. Mặt khác, các nhà đầu tư cũng cảm thấy các điều kiện về thủ tục đầu tư vào Việt Nam còn khó khăn nên chưa thể vào ngay được. Hiện nay, một khó khăn khác cho các nhà bán lẻ nước ngoài là thuê địa điểm kinh doanh. Bởi lẽ, một cửa hàng hay trung tâm bán lẻ cần phải tọa lạc tại vị trí trung tâm của thành phố và nằm trên những con đường lớn. Thế nhưng, tại Việt Nam, giá cho thuê mặt bằng ở các khu vực trung tâm quá đắt đỏ. Cũng theo thống kê, giá thuê trung bình tại TP.HCM và Hà Nội đã tăng nhanh chóng kể từ năm 2002 và đạt mức 40USD/m2/tháng vào cuối quí 3 năm 2007. Giá thuê của những mặt bằng tại những vị trí đẹp, hoặc tại khu trung tâm kinh doanh thương mại và tầng trệt lên đến 200USD/m2/tháng. Một khó khăn nữa là việc mở cửa thị trường bán lẻ thông qua việc lập cơ sở bán lẻ thứ hai tại Việt Nam vẫn còn phụ thuộc vấn đề kiểm tra nhu cầu kinh tế (Economic Needs Test - ENT) theo cam kết WTO. Theo Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS), ENT được sử dụng trong đàm phán thương mại dịch vụ. Có quan điểm cho rằng, một mặt ENT là công cụ để các nước thành viên mới linh hoạt hơn trong việc áp dụng các chính sách mở cửa thị trường; mặt khác, nó là một dạng rào cản tiếp cận thị trường được xác lập và hoạt động theo điều XVI của GATS. Theo Biểu cam kết cụ thể về dịch vụ của Việt Nam và WTO, ENT được quy định như là một hạn chế trong việc tiếp cận thị trường phân phối - bán lẻ Việt Nam (phần 4 - Dịch vụ phân phối, Biểu cam kết cụ thể về dịch vụ). Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam còn quy định thêm hai tiêu chí là quy hoạch của các tỉnh, thành phố và mật độ dân cư: “Việc thành lập các điểm bán lẻ ngoài điểm bán lẻ đầu tiên sẽ được xem xét theo từng trường hợp cụ thể và phụ thuộc vào số lượng điểm bán lẻ, tính ổn định thị trường, mật độ dân cư tại tỉnh, thành mà điểm bán lẻ sẽ được thiết lập, và tính phù hợp của dự án đầu tư với kế hoạch tổng thể của tỉnh, thành đó”. Như vậy, nếu cho rằng thị trường cần thêm một điểm bán lẻ thì cơ quan cấp phép địa phương sẽ cấp phép cho nhà đầu tư, còn nếu cho rằng chưa cần, cơ quan cấp phép có quyền từ chối cấp phép. Việc cấp phép sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cơ quan cấp phép của từng địa phương và từ đó có thể phát sinh tiêu cực. Cho đến nay, sau gần ba năm mở cửa thị trường bán lẻ, Việt Nam vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể nào về ENT và cụ thể hóa các tiêu chí để áp dụng ENT trong các văn bản pháp quy, cũng như chưa xác định cụ thể thế nào là điểm bán lẻ, phân định rõ ENT và phân vùng địa lí (zoning), định nghĩa thế nào là người tiêu dùng cuối cùng, đơn vị bán lẻ. Giải pháp cho ngành bán lẻ Việt Nam trong môi trường tự do hoá Giải pháp của Chính phủ Trong bối cảnh tự do hóa thị trường bán lẻ như hiện nay, các nhà bán lẻ nội địa rất cần một người nhạc trưởng để nối kết các doanh nghiệp, tăng sức mạnh cạnh tranh trước đối thủ khổng lồ từ bên ngoài. Không ai có thể làm tốt vai trò này hơn là Nhà nước. Trong lĩnh vực phân phối bán lẻ, thực sự doanh nghiệp Việt Nam còn thua kém các tập đoàn nước ngoài về nhiều mặt, vì vậy sự quan tâm, trợ giúp từ phía Chính phủ là rất cần thiết, đặc biệt là vai trò của các chính sách. Sự trợ giúp trước hết phải tập trung vào các doanh nghiệp điển hình để tạo sự bứt phá thành các đầu tàu. Mặt khác, cần có một quy hoạch tổng thể cho ngành bán lẻ, tránh đầu tư chồng chéo gây lãng phí, không những không phát huy được nội lực mà còn triệt tiêu lẫn nhau. Trong đó, cần tập trung vào các vấn đề: Thứ nhất là chính sách hỗ trợ về mặt bằng, bởi chúng ta có thể thấy khó khăn lớn nhất hiện nay của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam là thiếu mặt bằng - một yếu tố quan trọng để thành công trong lĩnh vực này. Thứ hai, đưa ra các quy định đối với nhà bán lẻ nước ngoài. Việc cấp phép cho các nhà đầu tư nước ngoài là điều khó tránh khỏi, song cấp như thế nào, liều lượng bao nhiêu thì cần phải tính toán thật kỹ lưỡng. Cam kết của chúng ta có quyền hạn chế việc mở thêm điểm bán lẻ. Do đó không nên cấp phép một cách ào ạt cho các nhà phân phối lập thành chuỗi lớn. Việc cấp phép đầu tư cần dựa trên quy mô của các doanh nghiệp nước ngoài và các lợi ích cam kết đối với phát triển kinh tế Việt Nam. Hơn nữa, phải xem nhu cầu phát triển bán lẻ trên địa bàn đó có cần thiết không. Thứ hai là số doanh nghiệp đã hoạt động ở đó như thế nào để bảo đảm phân bố nguồn lực một cách hợp lý. Trên một địa điểm mà tập trung nhiều nhà bán lẻ sẽ gây ra lãng phí không cần thiết. Bên cạnh đó, khi cho phép các nhà bán lẻ nước ngoài vào Việt Nam, Nhà nước nên định vị bằng những quy định cụ thể như chỉ cấp phép lập siêu thị ở nơi xa nội thành, định ra tỷ lệ nội địa hóa, đưa ra các rào cản kỹ thuật phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện của Việt Nam như: tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, môi trường. Thứ ba, định hướng phát triển cụ thể cho ngành bán lẻ Việt Nam. Bởi nếu cứ để cho ngành bán lẻ phát triển tự phát như hiện nay, chắc chắn doanh nghiệp trong nước không thể cạnh tranh với các tập đoàn bán lẻ nước ngoài. Để làm được việc này thì trước hết phải xây dựng được quy hoạch bán lẻ trên cả nước. Cần phải có những tiêu chí cụ thể như: tại mỗi tỉnh, thành phố lớn cần có bao nhiêu siêu thị, trung tâm thương mại là vừa; khu vực nào sẽ xây cao ốc, khu nào sẽ xây siêu thị, chế độ ưu đãi cho doanh nghiệp trong nước như thế nào. Trong đó, Nhà nước cần đóng vai trò nhạc trưởng để liên kết, thu hút các nhà bán lẻ, sản xuất vào sự cạnh tranh chung. Cái mà Nhà nước có thể thực hiện được mà không trái với WTO chính là làm trung gian liên kết doanh nghiệp. Các nhà phân phối, sản xuất không thể tiếp tục hoạt động đơn lẻ, mà phải liên kết lại để hỗ trợ, phát huy sức mạnh. Nhà nước cần khuyến khích các doanh nghiệp quy mô lớn mua, sáp nhập những cửa hàng nhỏ để phát triển hệ thống bán lẻ hiện đại đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Đẩy mạnh liên kết giữa các doanh nghiệp sẽ góp phần tạo sức mạnh cạnh tranh trên thị trường. Các tập đoàn bán lẻ nước ngoài khi vào Việt Nam chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn nên cơ hội vẫn còn với doanh nghiệp bán lẻ trong nước nếu họ khai thác tốt thị trường nông thôn. Đây là thị trường tiềm năng mà các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam có thể khai thác bởi 70% dân số đang sinh sống ở khu vực nông thôn nhưng triển khai như thế nào lại là vấn đề. Mới đây, Bộ Chính trị đã phát động cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam", nhưng đưa được hàng Việt về nông thôn là một chặng đường đầy gian nan. Muốn đưa hàng Việt về nông thôn thì phải có được một mạng lưới phân phối rộng khắp và chuyên nghiệp. Vì vậy, ngoài việc cần có chính sách hỗ trợ về mặt bằng để xây dựng được các kho và tổng kho nhằm rút ngắn các khâu trung gian, giảm chi phí, còn cần có những chính sách hỗ trợ về vốn để khuyến khích doanh nghiệp phân phối trong nước tham gia đầu tư. Trên cơ sở đó, thiết lập hệ thống hai chiều: sản xuất từ thành thị, phân phối về nông thôn và đưa hàng hóa sản xuất từ nông thôn về thành thị. Hệ thống hai chiều này sẽ giúp giảm chi phí vận chuyển và làm cho đường đi của sản phẩm đến người tiêu dùng ngắn nhất. Để nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp bán lẻ, trong thời gian tới nhà nước còn cần tập trung các chương trình hành động cụ thể như: Chương trình "Hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nguồn nhân lực", "Hỗ trợ thành lập doanh nghiệp" và "Hỗ trợ phát triển liên kết bền vững ngành dịch vụ phân phối". Nhà nước cần có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư xây dựng hệ thống bán lẻ tại các vùng sâu vùng xa. Ngoài ra, Nhà nước còn phải xây dựng tiêu chuẩn và hướng dẫn phát triển các loại hình tổ chức dịch vụ bán lẻ để các doanh nghiệp có cơ sở quyết định khi đầu tư vào lĩnh vực này. Xây dựng cơ chế thanh tra, giám sát cụ thể đối với từng loại hình phân phối bán lẻ, tính minh bạch trong việc niêm yết giá, những thay đổi về giá cả. Xây dựng hệ thống thông tin thương mại cho các doanh nghiệp. Cuối cùng, Nhà nước cần có chính sách ưu đãi, khuyến khích doanh nghiệp trong nước đầu tư đổi mới và mở rộng hệ thống phân phối bằng các nguồn vốn ưu đãi trong các chương trình phát triển, có chính sách ưu đãi về thuế và đất đai, đổi mới công nghệ cũng như được hỗ trợ về thông tin thị trường, dự báo giá cả và xúc tiến thương mại. Các giải pháp của chính phủ nói trên tuy rất hữu ích, nhưng chưa thể phát huy tác dụng trong một sớm một chiều, do đó đòi hỏi các doanh nghiệp cần có những giải pháp của riêng mình để có thể đứng vững trong bối cảnh tự do hóa như hiện nay. Giải pháp của các doanh nghiệp bán lẻ trong nước a. Mở rộng quy mô và hình thành các tập đoàn bán lẻ lớn. Mở rộng quy mô thông qua việc liên kết với các doanh nghiệp trong ngành Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp bán lẻ nuớc ta đều có quy mô nhỏ và có nguồn vốn rất hạn hẹp, do đó không có đủ vốn để mở rộng đầu tư. Việc liên kết các doanh nghiệp trong ngành một mặt sẽ nhanh chóng mở rộng quy mô của doanh nghiệp, không phải tốn các chi phí cho quá trình đầu tư mở rộng sản xuất; mặt khác sẽ tận dụng được những kinh nghiệm của nhau để phát triển, tận dụng được thị trường hiện có của doanh nghiệp, không phải mất nhiều thời gian cho việc mở rộng thị trường. Với hệ thống các cửa hàng đại lí, các cơ sở ở nhiều nơi cho phép doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc quảng bá và phát triển thương hiệu, thu hút khách hàng về với mình. Đồng thời việc liên kết này cũng tạo nên một rào cản rất lớn đối với các doanh nghiệp mới muốn gia nhập ngành, cũng như tạo nên một sức ép lớn cho đối thủ cạnh tranh. Tập trung vốn thông qua việc mở rộng hợp tác với các ngân hàng và các tổ chức tài chính, tín dụng Ngân hàng và các tổ chức tài chính, tín dụng là nguồn cung vốn rất lớn mà các doanh nghiệp bán lẻ cần phải tận dụng. Muốn được sự giúp đở hợp tác của họ các doanh nghiệp cần phải tạo dựng cho mình một hình ảnh đẹp, tạo dựng uy tín trong kinh doanh. Đối với dự án mà doanh nghiệp muốn vay vốn để đầu tư, cần chỉ cho họ thấy rõ được tính khả thi của dự án, những lợi ích mà dự án có thể mang lại và phải đảm bảo sẻ trả nợ và lãi đúng thời hạn. Trong đàm phán, các doanh nghiệp cần phải tỏ ra mềm dẻo hơn để có thể thuyết phục ngân hàng cho vay vốn, đôi khi cũng có thể nhượng bộ và chịu thiệt một chút để đưa ra những lợi ích hấp dẫn các ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng. Tập trung vốn thông qua việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu Ở nước ta thị trường cổ phiếu mới phát triển do vậy các doanh nghiệp cũng chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc khai thác nguồn vốn từ thị trường này. Để có thể tham gia vào thị trường này, các doanh nghiệp bán lẻ phải cổ phần hoá doanh nghiệp, và để thu hút được các nhà đầu tư doanh nghiệp phải cho họ thấy rõ những lợi ích mà nhà đầu tư có thể nhận được trong dự án. Phải tạo niềm tin cho các nhà đầu tư bằng những kết quả mà doanh nghiệp đã đạt được trong thời gian qua, cũng như triển vọng phát triển doanh nghiệp trong thời gian tới, nâng cao hình ảnh của doanh nghiệp trong mắt các nhà đầu tư. Thị trương trái phiếu hình thành ở nước ta trong mấy năm gần đây và cũng là nguồn cung cấp vốn hấp dẫn đang được sự quan tâm của các doanh nghiệp. Trái phiếu là giấy tờ ghi nợ, trên đó có ghi rõ người vay và người cho vay, ghi rõ ngày đáo hạn, lãi suất mà người mua trái phiếu được hưởng. Các doanh nghiệp muốn bán được trái phiếu phải đưa ra các mức lãi suất hấp dẫn và phải tạo niềm tin cho các nhà đầu tư có thể thu hồi được lãi và vốn đúng hạn. Tạo lập mối quan hệ chặt chẽ với các nhà cung ứng và các doanh nghiệp vận tải. Người cung ứng là những người cung cấp hàng hoá cho các doanh nghiệp bán lẻ, do vậy việc tạo lập mối quan hệ hợp tác chặt chẽ với các nhà cung ứng sẽ đảm bảo nguồn cung hàng cho doanh nghiệp luôn ổn định, doanh nghiệp cũng có thể mua được hàng với giá rẻ hoặc hưởng mức chiết khấu cao hơn. Tuy nhiên doanh nghiệp không nên mua hàng từ một nhà cung ứng mà phải mua từ nhiều nhà cung ứng, tránh tình trạng phải phụ thuộc quá nhiều vào nhà cung ứng này. Hơn nữa, khi đó doanh nghiệp cũng tránh được rủi ro thiếu hàng do nhà cung ứng gặp trục trặc trong kinh doanh và cũng không bị các nhà cung ứng ép giá. Các doanh nghiệp vận tải đóng vai trò rất quan trọng đối với các doanh nghiệp bán lẻ. Họ có nhiệm vụ vận chuyển hàng hoá từ nhà cung ứng đến các cửa hàng bán lẻ của doanh nghiệp và vận chuyển hàng hoá đến người tiêu dùng. Doanh nghiệp cần lựa chọn người vận tải có uy tín, có trách nhiệm để đảm bảo rằng hàng không bị hư hỏng khi đi trên dường vận chuyển và khi doanh nghiệp có nhu cầu phải đáp ứng một cách nhanh nhất. Các doanh nghiệp bán lẻ cũng phải thận trọng khi lựa chọn nhà vận tải để không phải phụ thuộc quá nhiều vào nhà vận tải ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đổi mới hệ thống quản lí trong doanh nghiệp và đào tạo đội ngũ nhân viên bán hàng chuyên nghiệp hơn. Hệ thống quản lí trong các doanh nghiệp bán lẻ nước ta rất phức tạp và chưa khoa học, việc sắp xếp các bộ phận chức năng vẫn chưa hợp lí. Nguyên nhân chủ yếu là do nhận thức của các nhà quản trị cấp cao còn hạn chế. Vì vậy muốn bộ máy doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, thì việc đầu tiên là phải có kế hoạch bồi dưỡng đào tạo các nhà quản trị trong doanh nghiệp, để họ có thể tiếp cận và học hỏi các phương pháp quản lí hiện đại áp dụng cho doanh nghiệp; ngoài ra, phải tạo điều kiện để mỗi người lao động trong doanh nghiệp phát huy được khả năng của mình; phải có những chế độ khen thưỡng kịp thời đối với những cá nhân, nhóm có thành tích cao trong công việc; phải đưa ra các hình thức kích thích người lao dộng nâng cao năng suất lao động bằng các chế độ lương thưởng hợp lí; thu hút những người lao động có trình độ về với doanh nghiệp. Với các doanh nghiệp bán lẻ, đội ngũ nhân viên bán hàng đóng vai trò rất quan trọng trong việc kinh doanh và lôi kéo khách hàng về với mình. Bởi vì nhân viên bán hàng là người tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, những thông tin về doanh nghiệp và sản phẩm sẽ được các nhân viên này trực tiếp giới thiệu cho khách hàng. Doanh nghiệp cần phải xây dựng cho mình một đội ngũ nhân viên bán hàng chuyên nghiệp, có đầy đủ các kỹ năng bán hàng cần thiết. Một nhân viên bán hàng chuyên nghiệp phải biết khách hàng cần gì, nghĩ gì, phải hiểu được tâm lí của tượng đối tượng khách hàng và có cách ứng xử phù hợp. Hơn nữa, nhân viên bán hàng cần phải nắm được những thông tin về sản phẩm. Doanh nghiệp cần phải thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo nâng cao và hoàn thiện dần các kỹ năng bán hàng cho nhân viên. Doanh nghiệp cũng phải đổi mới công nghệ áp dụng để nâng cao năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Xây dựng các chiến lược kinh doanh cho các thời kỳ. Các doanh nghiệp bán lẻ cần xây dưng các chiến lược kinh doanh ngắn hạn và dài hạn, từ đó làm cơ sở cho việc xác định các kế hoạch dự trữ và mua hàng từ các nhà cung ứng, có những dự trù về tài chính cho phù hợp và đưa ra các chiến lược marketing nhằm xúc tiến bán hàng và phát triển thương hiệu. KẾT LUẬN Qua bài viết trên chúng ta có thể thấy rằng Việt Nam hiện nay đang thực hiện tự do hóa thị trường dịch vụ bán lẻ theo lộ trình tự do hóa thương mại như đã cam kết với WTO. Hòa với xu hướng tự do hóa toàn cầu, mở cửa thị trường để chào đón các doanh nghiệp nước ngoài, thị trường bán lẻ Việt Nam ngày càng trở nên sôi động, thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có sự góp mặt của rất nhiều đại gia bán lẻ trên thế giới. Thực hiện tự do hóa thị trường bán lẻ, Việt Nam đang từng bước thực hiện các cam kết gia nhập WTO, xóa bỏ dần các rào cản thương mại,. Điều nay đem lại nhiều lợi ích cho các doanh nghiệp bán lẻ và người tiêu dùng Việt Nam. Các doanh nghiệp trong nước có nhiều cơ hội học hỏi kinh nghiệm quản lý cũng như cách thức phân phối dịch vụ của các tập đoàn lớn trên thế giới, tạo ra môi trường cạnh tranh cho các doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh đó các dịch vụ, sản phẩm đa dạng, đem đến nhiều cơ hội lựa chọn cho người tiêu dùng. Tuy nhiên chúng ta không thể không kể đến những khó khăn mà các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam phải đối mặt. Các đại gia bán lẻ nước ngoài không chỉ mạnh về vốn, trình độ quản lý mà còn rất chuyên nghiệp, chu đáo trong cung cách phục vụ và dịch vụ hậu mãi. Các doanh nghiệp Việt Nam muốn tồn tại và phát triển phải nhanh chóng thay đổi phương thức kinh doanh để thích ứng với tình hình mới. Mặc dù thị trường bán lẻ Việt Nam đang ngày một phát triển nhưng số lượng nhà đầu tư nước ngoài vẫn chưa nhiều và hoạt động chưa thực sự hiệu quả, chưa phát huy hết những lợi thế sẵn có. Vì vậy chính phủ cần có các biện pháp nâng cao hiệu quả thị trường bán lẻ như cải cách hành chính hay chính sách khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài. Chúng tôi hi vọng với bài viết trên sẽ giúp các bạn có thêm những thông tin bổ ích về quá trình tự do hóa thị trường bán lẻ Việt Nam cũng như các giải pháp của doanh nghiệp và chính phủ nhằm thúc đẩy thị trường ngày càng lớn mạnh. Tài liệu tham khảo Nguyễn Đông Phong, “Các giải pháp phát triển cho các doanh nghiệp bán lẻ trong nước”, Tạp chí Phát triển kinh tế (số 211). Lê Xuân Cường, 6/10/2009, “Doanh nghiệp bán lẻ trong nước: Cạnh tranh và Phát triển”, -nghiep-ban-le-trong-nuoc-canh-tranh-va-phat-trien Đinh Nhật Mai Đào - Nguyễn Gia Huy Chương, 16/1/2010, “Mở cửa thị trường bán lẻ: nên minh bạch hơn”, Như Thanh Thảo, 23/12/2008, “Mở cửa thị trường bán lẻ từ 1/1/2009: Làm thế nào để trụ vững?”, Đào Minh Anh, 7/11/2008, “Trước “giờ G” mở cửa thị trường bán lẻ”, Đoàn Minh Khôi, 13/05/2009, “5 xu hướng phát triển của bán lẻ”, Trần Hưng, 16/10/2007, "Phải hạn chế lập chuỗi phân phối tại Việt Nam", Phan Anh, 29/5/2006, "Ngành bán lẻ cần Nhà nước "nuôi lớn" ", Phan Long, 07/3/2010, "Doanh nghiệp phân phối trong nước: Cần các đầu tàu đủ mạnh", Hà Trang, 20/6/2006, “Ngành bán lẻ Việt Nam: Cuộc chạy nước rút, Hằng Nga, 9/11/2009, “Bán lẻ nước ngoài nóng từ 2010?,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTự do hoá dịch vụ bán lẻ Việt Nam- Thực trạng và giải pháp.doc
Luận văn liên quan