Mặc dù tưtưởng mang tính duy tâm chủquan, thần bí, không tưởng
nhưng triết lý Phật giáo vẫn mang tính nhân bản, nhân đạo sâu sắc, vẫn muốn
xây dựng một xã hội tốt đẹp cho con người mà đại diện tiêu biểu là tưtưởng
“niết bàn”. Đến nay qua hơn 2000 năm lịch sử, Phật giáo đã tồn tại và phát
triển đồng hành cùng nền văn hóa Việt Nam. Các tưtưởng bình đẳng, từbi hỉ
xả đặc biệt là thuyết nhân quả đã ăn sâu bám rễvào tâm hồn dân Việt, qua
bao năm tháng các triết lý này đã được chọn lọc và thấm nhuần vào truyền
thống đạo đức của dân ta. Nó được phản ánh một cách sinh động sâu sắc
trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc từnhững hoạt động thường nhật
giản đơn đến đời sống tâm linh phong phú. Điều đó càng khẳng định các giá
trị đạo đức tốt đẹp mà Phật giáo đã và đang mang cho tâm hồn người dân Việt.
29 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2538 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tư tưởng triết học của phật giáo và sự ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa tinh thần của người việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ây, Phật Di Lặc –
vị Phật tương lai sẽ nối nghiệp Phật Thích Ca để giáo hóa cõi đời này (cõi
Tabà), Phật Đại Dược Sư –vị Phật hiện đang giáo hóa ở cõi cực lạc phương
Đông (cõi Tĩnh lưu li); không chỉ có những người tu hành mà cả những người
trần tục quy y Phật pháp cũng đều có thể được cứu vớt đưa đến niết bàn,
nghĩa là có thể thành Phật, đó là các vị Bồ tát như: Văn Thù, Phổ Hiền, Quan
Âm, Địa Tạng…, dù đã thành Phật nhưng họ tự nguyện ở lại cõi trần để cứu
độ chúng sinh. Phái đại thừa đề cao tầng lớp tăng ni –người trung gian giữa
tín đồ và Bồ tát, coi trọng nghi thức cúng bái và chủ trương thờ tượng Phật.
Ngày nay, sự chia rẽ giáo lý tiểu thừa và đại thừa đã được Phật giáo
thống nhất ra sức khắc phục.
III.2. Một số tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo nguyên thủy
Tư tưởng triết học của Phật giáo nguyên thủy –tức tư tưởng của Phật
Thích Ca –chủ yếu nói về thế giới quan và nhân sinh quan của Phật Thích Ca,
và được trình bày trong bộ Kinh.
A. Thế giới quan
Thế giới quan của Phật giáo nguyên thủy được phản ánh trong thuyết
“duyên khởi” và được làm sáng tỏ qua phạm trù “vô ngã” và “vô thường”
Duyên khởi: là nói tắt câu “Chư pháp do nhân duyên nhi khởi” có
nghĩa là các “pháp” đều do “nhân duyên” mà có. Pháp là tất cả mọi sự vật,
Tư tuởng triết học của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống VH-TT của người Việt
SV: N.A.Khoa Trang 6/29
GVHD: TS. B.V.Mưa
Hoàn thành: 02/2010
bao gồm cả vật chất và tinh thần, kể cả giáo lý. Còn “nhân duyên” là nguyên
nhân và điều kiện. “Duyên” giúp cho “nhân” biến thành “quả”. Phật giáo cho
rằng mọi sự vật, hiện tượng đều do “nhân duyên” hòa hợp mà thành. Duyên
khởi từ “tâm” mà ra. “Tâm” là cội nguồn của vạn vật. Từ đây, Phật giáo
nguyên thủy chủ trương “vô tạo giả” tức không có vị thần linh tối cao nào tạo
ra thế giới. “Vô tạo giả” gắn liền với quan niệm “vô ngã”, “vô thường”.
Vô ngã: là không có một thực thể tối thượng tồn tại vĩnh hằng nào cả.
Trong thế giới, vạn vật và con người được cấu tạo từ các yếu tố “sắc” , tức vật
chất như đất, nước, lửa, gió và “danh”, tức tinh thần như: thụ, tưởng, hành,
thức mà không có “đại ngã” hay “tiểu ngã” gì cả.
Vô thường: là không có cái gì trường tồn và vĩnh cửu cả. Trong thế
giới, sự xuất hiện của vạn vật, kể cả con người cũng chỉ là kết quả hội tụ tạm
thời giữa “sắc” và “danh”; khi sắc và danh tan ra, chúng sẽ mất đi. Điều này
có nghĩa là, vạn vật luôn nằm trong chu trình “sinh –trụ -dị -diệt”; chúng luôn
bị cuốn vào dòng biến hóa hư ảo vô cùng theo luật nhân quả. “Nhân” nhờ
“duyên” mới sỉnh ra “quả”, “quả” nhờ “duyên” mà thành “nhân” mới, “nhân”
mới lại nhờ “duyên” mà thành “quả” mới…; cứ như thế vạn vật biến đổi, hợp
–tan, tan –hợp mà không có nguyên nhân đầu tiên và kết quả cuối cùng nào cả.
Như vậy, thế giới quan của Phật giáo nguyên thủy mang tính vô thần,
nhị nguyên luận ngả về phía duy tâm chủ quan và có chứa những tư tưởng
biện chứng chất phác.
B. Nhân sinh quan:
Nhân sinh quan là nội dung chủ yếu của triết lý Phật giáo nguyên thủy. Nó
thể hiện cô đọng trong câu nói của Phật Thích Ca: “ Hỡi chúng sinh, ta chỉ dạy
cho các người chỉ có một điều, đó là điều khổ và diệt khổ; Nếu nước biển có một
vị là vị mặn thì học thuyết của ta cũng có một vị là vị giải thoát. Nhân sinh quan
của Phật giáo được trình bày trong thuyết “Tứ diệu đế” với bốn bộ phận: khổ đế,
tập đế, diệt đế và đạo đế.
Tư tuởng triết học của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống VH-TT của người Việt
SV: N.A.Khoa Trang 7/29
GVHD: TS. B.V.Mưa
Hoàn thành: 02/2010
a. Khổ đế ((Duhkka satya):
Là lý luận về những nỗi khỗ rõ ràng ở thế gian. Theo Phật có 8 nỗi
khổ trầm luân bất tận mà bất cứ ai cũng phải gánh chịu là: sinh khổ, lão khổ,
bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, sở cầu bất đắc khổ, oán tăng hội khổ), ngũ
uẩn khổ (sự hội tụ và xung đột của ngũ uẩn –sắc, thụ, tưởng, hành, thức).
1. Sắc uẩn: Tổng thể của vật chất, có tính cách chướng ngại, trước hết
là bốn nguyên tố Địa, Thủy, Hỏa, Phong, sau là do sự kết hợp của bốn nguyên
tố thành ngũ quan là Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân và đối cảnh của ngũ quan là
ngũ trần: Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc.
2. Thụ uẩn : Sự cảm thụ của ngũ căn đối với ngũ trần sinh ra mọi cảm
giác như khổ, sướng, vui, buồn...
3. Tưởng uẩn: Sự tưởng tượng và tư duy về hình dáng của sự vật, sau
tác dụng của căn đối với cảnh.
4. Hành uẩn: Sự quan hệ tác dụng của tâm và tâm bất tương ứng hành,
khởi ra mọi hành động thiện, ác.
5. Thức uẩn:Thức uẩn là tác dụng của tinh thần, để nhận thức và phân
biệt mọi trạng thái của tâm đối với cảnh, tức là ý thức, bản thể của tâm.
b. Nhân đế: (Samudaya satya)
Là lý luận về những nguyên nhân dẫn đến nỗi khổ nơi cuộc sống con
người. Phật giáo cho rằng con người còn chìm đắm trong bể khổ khi không
thoát ra khỏi dòng sông luân hồi. Mà luân hồi là do “nghiệp” tạo ra. Sở dĩ có
“ nghiệp” là do lòng ham muốn, tham lam (ham sống, ham lạc thú, ham giàu
sang…), do sự ngu dốt và si mê, nói ngắn gọn là do “Tam độc” (tham, sân, si)
gây ra. Ngoài ra, nhân đế được diễn giải một cách lôgích và cụ thể trong
thuyết “Thập nhị nhân duyên” (12 nguyên nhân dẫn đến bể khổ): vô minh,
hành, thức, danh –sắc, lục nhập, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão –tử. Trong 12
nguyên nhân ấy thì “vô minh” là nguyên nhân thâu tóm tất cả. Vì vậy, diệt trừ
vô minh là diệt trừ tận gốc sự đau khổ nhân sinh.
Tư tuởng triết học của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống VH-TT của người Việt
SV: N.A.Khoa Trang 8/29
GVHD: TS. B.V.Mưa
Hoàn thành: 02/2010
Thế giới vạn hữu hết thảy đều y vào sự quan hệ giữa nguyên nhân và
kết quả mà sinh hay diệt, ngay cả đến sự tượng nhỏ bé li ti chăng nữa cũng
không tránh khỏi luật nhân quả. Con người vì sinh trong thế giới vô thường,
nên tất cả mọi sinh hoạt của con người thường gặp những điều không như ý,
nhiều khổ não. Tất cả mọi hiện tượng khổ não không phải là ngẫu nhiên, mà
đều lệ thuộc vào Tập nhân rồi theo luật nhân quả chi phối. Tập nhân tức là
“vô minh”, vì y vào vô minh nên sinh ra chấp trước, vì chấp trước sinh ra dục
vọng, tạo thành các nghiệp ác về Thân, Khẩu, Ý và các nghiệp khác, nên trở
thành “nghiệp”. Nghiệp (Karma) tức là nghiệp lực, nó có cái sức tích tập, nên
trở thành nghiệp nhân, các nghiệp tương ứng với nghiệp nhân gọi là nghiệp
quả, đưa đến khổ báo, gây thành khổ quả. Tóm lại, cận nhân của quả khổ là
nghiệp, và viễn nhân của quả khổ là vô minh, hay là “hoặc”.
Mười hai nhân duyên là giáo lý nội quán của Đức Phật khi thành đạo.
Sau khi thành đạo, Ngài căn cứ vào lẽ sinh khởi của khổ giới là Khổ đế và
Nhân đế mà lần lượt nói ra sự nhân quả quan hệ của nó có mười hai thứ, được
gọi là mười hai duyên khởi. Đối với giáo lý của Phật giáo, mười hai nhân
duyên chiếm một vị trí rất quan trọng.
Khổ, Hoặc và Nghiệp cũng quan hệ lẫn nhau, nên tạo thành một vòng
tròn tuần hoàn không ngừng, mười hai nhân duyên cũng nương vào nhau để
tạo nhân kết quả, chắp thành mối dây liên lạc vô cùng vô tận.
c. Diệt đế (Nirodha satya):
Là lý luận về khả năng tiêu diệt được nỗi khổ nơi cuộc sống thế gian
để đạt tới niết bàn. Khi vô minh được khắc phục thì tam độc sẽ biến mất, luân
hôì sẽ chấm dứt…, tâm sẽ thanh thản, thần sẽ minh mẫn, niết bàn sẽ xuất
hiện… Diệt đế bộc lộ tinh thần lạc quan của Phật giáo ở chỗ nó vạch ra cho
moị người thấy cái hiện taị đen tối, xấu xa của mình, để cải đổi, kiến tạo laị
nó thành một cuộc sống xán lạn, tốt đẹp hơn. Phật giáo thể hiện khát vọng
nhân bản, muốn hướng con người đến cõi hạnh phúc “tuyệt đối”, muốn
hướng khát vọng chân chính của con người tới chân –thiện –mỹ.
Tư tuởng triết học của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống VH-TT của người Việt
SV: N.A.Khoa Trang 9/29
GVHD: TS. B.V.Mưa
Hoàn thành: 02/2010
Diệt đế là Giải thoát luận, và cũng là Lý tưởng luận của Phật giáo.
Khổ đế và Nhân đế là nguyên nhân và kết quả của khổ não. Diệt đế là phương
pháp diệt trừ khổ quả và khổ nhân, đưa chúng sinh tới chỗ Niết-bàn thường
trụ. Căn cứ vào giáo lý của Đức Phật, thì khổ quả của con người là do nghiệp
làm cận nhân, nghiệp nương vào hoặc mà sinh, hoặc lấy vô minh làm nguyên
nhân căn bản. Từ vô minh sinh ra ngã tưởng, y vào ngã tưởng sinh ra chấp
trước, nhận thế giới vô thường là thực tại, nên sinh ra vọng tưởng, vọng tưởng
là cơ bản để sinh ra mọi phiền não, gây ra mọi nghiệp nhân, tạo thành cái quả
khổ sinh tử. Vì vậy, nếu muốn diệt khổ quả, trước hết phải đừng tạo nghiệp
nhân, muốn không tạo nghiệp nhân, trước hết cần phải diệt ngã tưởng. Ngã
tưởng đã đoạn, thì nhận được chân tướng của thế giới là “Bản lai vô ngã”.
Biết được chân tướng của thế giới là Bản lai vô ngã, tức là ngã tưởng đoạn
diệt, cắt đứt được xiềng xích luân hồi, thoát mọi khổ não trong bể sinh tử,
không bị luân hồi trong lục thú, tới chốn giải thoát Niết-bàn, đó là Diệt đế.
d. Đạo đế (Màrga satya).:
Là lý luận về con đường diệt khỏ, giải thoát. Nội dung cơ bản của nó
thể hiện trong thuyết “ Bát chính đạo” (tám con đường đúng đắn) đưa chúng
sinh đến niết bàn, đó là: chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp,
chính mệnh, chính tinh tấn, chính niệm, chính định. Chung quy, bát chính đạo
là suy nghĩ, nói năng, hành động đúng đắn…; nhưng về thực chất, thực hành
bát chính đạo là khắc phục “tam độc” bằng các thực hiện “tam học (giới, định,
tuệ). Trong đó, “tham” được khắc phục bằng “giới” (chính ngữ, chính nghiệp,
chính mệnh); “sân” được khắc phục bằng “định” (chính tinh tấn, chính niệm,
chính mệnh); “si” được khắc phục bằng “tuệ” (chính kiến, chính tư duy).
1. Giới (Sila). - Ý nghĩa của giới là sự tích cực làm điều thiện, ngăn
điều ác, để tránh mọi lỗi lầm của ba nghiệp: Thân, Khẩu, Ý. Tại gia Phật tử
thì giữ các điều giới là Ngũ giới và Thập thiện.
Ngũ giới: Không được sát sinh; không được trộm cắp; không được tà
dâm; không được uống rượu; và không được vọng ngữ.
Tư tuởng triết học của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống VH-TT của người Việt
SV: N.A.Khoa Trang 10/29
GVHD: TS. B.V.Mưa
Hoàn thành: 02/2010
Thập thiện.:Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, là ba thiện
nghiệp thuộc về thân nghiệp; không nói dối, không nói lưỡi đôi chiều, không
ác khẩu, không nói thêu dệt, là bốn thiện nghiệp thuộc khẩu nghiệp; không
tham, không sân, không tà kiến, ba thiện nghiệp này thuộc về ý nghiệp.
2. Định (Samàdhi)Định còn gọi là Đẳng trì, hay là Thiền-na . Tâm tập
trung vào một cảnh, không để cho tán loạn, không thiên về lạc quan hay bi
quan, thân tâm khinh an, quán suốt mọi pháp, để phát sinh ra trí tuệ vô lậu.
3.Tuệ (Prajnà). - Nhờ ở kết quả của tu định, dần dần chân tâm được
sáng tỏ, trí tuệ đại vô lậu được hiển hiện, phân biệt được phần tự tướng tính
đặc hữu và cộng tướng (tính cộng thông) của mọi pháp, chứng ngộ được lý
Tứ đế, đoạn trừ được mọi hoặc
Sau hết là phép tu tổng quát cho tất cả các hàng Phật tử là Lục độ tức
là Bố thí,Trì giới, Nhẫn nhục,Tinh tiến, Thiền định, Trí tuệ
Ngoài ra, Phật giáo còn khuyên chúng sinh thực hành “Ngũ giới”
(không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không ẩm
tửu); rèn luyện “Tứ đẳng” (từ, bi, hỉ, xả)…Phật giáo phản đối chế độ đẳng
cấp, tố cáo xã hội bất công, đòi bình đẳng công bằng xã hội, khuyên chúng
sinh luôn suy nghĩ về điều thiện và làm điều thiện…
Ý nghĩa niết bàn: (Nirvàna) –có nghĩa là diệt độ. Tức là đã đoạn diệt
hết mọi khổ sinh tử tới cõi hoàn toàn yên vui giải thoát. Nguyên lai ý nghĩa
đó có hai phương diện là tiêu cực và tích cực. Cần phải đoạn hết phiền não là
nghĩa tiêu cực, cần phải đạt tới chỗ an lạc giải thoát là nghĩa tích cực. Vậy bậc
tu hành đã chứng tới Niết-bàn, thời không còn phải sinh tử, tới chốn đại an lạc.
Niết-bàn còn có nghĩa là hết mọi vọng động tới chỗ tịch tĩnh, lìa mọi pháp
hữu vi tới chỗ vô vi, lìa mọi hư vọng tới chỗ chân như, lìa mọi giả tướng tới
chỗ thực tướng, siêu việt mọi nghĩa đoạn thường của thế gian tới chỗ trung
đạo, vượt mọi ngã và phi ngã của thế gian thường kiến tới chỗ chân ngã.
Người đời thường ngộ nhận về nghĩa Niết-bàn là hư vô, là tiêu cực.
Nhưng thực ra chỉ vì người đời ngộ nhận, chấp trước vào mọi hiện tượng sinh
Tư tuởng triết học của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống VH-TT của người Việt
SV: N.A.Khoa Trang 11/29
GVHD: TS. B.V.Mưa
Hoàn thành: 02/2010
diệt biến hóa ở thế gian, nhận là thực hữu, vì mục đích phá ngộ nhận đó, nên
Đức Phật nói có Niết-bàn. Như vậy, Niết-bàn không phải là nghĩa tiêu cực, hư
vô, mà là nghĩa tích cực, chân thật. Tức là, đối với thường thì thường trụ, đối
với Khổ là Lạc, đối với Ngã là Chân ngã, đối với Bất tịnh là Thanh tịnh, đối
với Hư vọng là Chân thực, đối với Sai biệt là Bình đẳng, đối với Hiện tượng
là Bản thể thực tại. Tóm lại, Niết-bàn phải là cái đích tối cao, để con người
quy y, là nơi an lạc cho từng cá nhân, nơi hiệp đồng trụ xứ cho trăm ngàn vạn
người, cho toàn thể chúng sinh.
Như vậy, dù nhân sinh quan của Phật giáo nguyên thủy mang tính
nhân bản sâu sắc; nhưng, nó cũng chứa đầy tinh chất duy tâm chủ quan thể
hiện qua các quan niệm bi quan yếm thế, không tưởng về đời sống xã hội, và
thần bí về đời sống con người.
III.3. Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đến xã hội Ấn Độ cổ -trung đại
Xã hội Ấn Độ thời kỳ này chịu ảnh hưởng của chế độ phân chia đẳng
cấp và chủng tộc. Tầng lớp thống trị gồm Tăng lữ và quí tộc đã sử dụng công
cụ tinh thần của mình là đạo Bàlamôn và sức mạnh vật chất tiến hành thống
trị xã hội. Tầng lớp bị trị gồm người bình dân và đặc biệt là nô lệ chiếm một
tỷ lệ rất lớn trong xã hội. Họ không có sức mạnh vật chất để tiến hành cách
mạng giải phóng bản thân. Họ bi ru ngủ bởi các tư tưởng giáo lý của đạo
Bàlamôn và mất đi sức mạnh về tinh thần và thật sự lún sâu dưới đáy xã hội.
Nhằm đáp ứng đơn đặt hàng của lịch sử, Phật giáo xuất hiện và cố
gắng trở thành công cụ tinh thần nhằm giúp cho tầng lớp bình dân và nô lệ
thoát khỏi sự thống trị hiện tại. Triết lý Phật giáo xét cho cùng cũng là lý luận
về cái “khổ” tìm hiểu về cái khổ và đưa ra cách diệt khổ. Nhờ có Phật giáo
mà các giai cấp bị trị trong xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ đã có thể giải phóng ít
nhất về mặt tinh thần. Tuy nhiên Phật giáo chỉ đưa ra các lý luận về tinh thần
giúp con người thoát khỏi “bể khổ”, nhưng lại không đưa ra đường lối đấu
tranh bằng sức mạnh vật chất nên bản thân các tầng lớp bị trị vẫn chưa thoát
ra khỏi sự áp bức bóc lột của tăng lữ và vua chúa.
Tư tuởng triết học của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống VH-TT của người Việt
SV: N.A.Khoa Trang 12/29
GVHD: TS. B.V.Mưa
Hoàn thành: 02/2010
Với chủ trương bình đẳng, xóa bỏ giai cấp, triết học Phật giáo đã được
tầng lớp bình dân và nô lệ đón nhận nồng nhiệt và phát triển nó đặc biệt là ở
khu phía Đông Ấn Độ. Các tầng lớp này đã tìm thất được sức mạnh tinh thần
cùng với cơ sở vật chất tích lũy được nhằm cố gắng xóa bỏ sự bất bình đẳng
trong xã hội lúc bấy giờ. Tuy nhiên sau một thời gian tồn tại khá lâu, thì triết
học Phật giáo nguyên thủy đã không đáp ứng được yêu cầu mà thời đại tại Ấn
Độ đặt ra nên đã dần mai một và biến mất khỏi Ấn Độ. Tuy nhiên, nó vẫn
được truyền bá sang các nước Đông Á và Đông Nam Á và lưu truyền đến
ngày hôm nay, đặc biệt là tại Việt Nam.
IV. Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đến đời sống văn hóa
tinh thần của người Việt
IV.1. Khái quát lịch sử Phật giáo Việt Nam
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, ngay từ đầu Công
nguyên với truyện cổ tích Chử Đồng Tử (ở Hưng Yên ngày nay) học đạo của
một nhà sư Ấn Độ. Luy Lâu (thuộc tỉnh Bắc Ninh) là trị sở của quận Giao Chỉ
sớm trở thành trung tâm Phật giáo quan trọng. Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp
từ Ấn Độ nên từ Buddha (bậc giác ngộ) được phiên âm trực tiếp thành "Bụt",
từ "Bụt" được dùng nhiều trong các truyện dân gian. Phật giáo Việt Nam lúc
ấy mang màu sắc của Tiểu thừa, Bụt được coi như một vị thần chuyên cứu
giúp người tốt, trừng phạt kẻ xấu. Sau này, vào thế kỷ thứ 4-5, do ảnh hưởng
của Đại thừa đến từ Trung Quốc mà từ "Bụt" bị mất đi và được thay thế bởi
từ "Phật". Trong tiếng Hán, từ Buddha được phiên âm thành "Phật đà", "Phật
đồ" rồi được rút gọn thành "Phật".
Lịch sử Phật giáo Việt Nam có thể chia thành bốn giai đoạn:
- Từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành và
phát triển rộng khắp
- Thời Nhà Lý - Nhà Trần là giai đoạn cực thịnh
- Từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái
- Từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn phục hưng.
Tư tuởng triết học của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống VH-TT của người Việt
SV: N.A.Khoa Trang 13/29
GVHD: TS. B.V.Mưa
Hoàn thành: 02/2010
Khi Phật giáo được truyền vào Việt Nam đã được các vị thiền sư
người Việt bản địa hóa, khiến Phật giáo hòa mình vào lòng dân tộc tạo nên
một sắc thái đặc biệt của riêng Việt Nam. Dù được bản địa hóa để quyện
mình vào lòng dân tộc nhưng tam tạng kinh điển Phật giáo Việt Nam vẫn
được truyền thừa trong suốt hơn 2000 năm lịch sử Phật giáo Việt Nam.
IV.2. Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của
người Việt
1..Ảnh hưởng của Phật giáo đến tư tưởng triết học và đạo lý
a. Ảnh hưởng của Phật giáo đến tư tưởng triết học của dân tộc
Tư tưởng căn bản của Phật Giáo là đạo lý Duyên Khởi, Tứ Diệu Đế
và Bát chánh đạo. Ba đạo lý này là nền tảng cho tất cả các tông phái Phật giáo
nguyên thủy cũng như Đại Thừa đã ăn sâu vào lòng của người dân Việt.
Có thể nói mọi người dân Việt đều ảnh hưởng ít nhiều qua giáo lý này.
Vì thế, lý nghiệp báo luân hồi đã in dấu đậm nét trong văn chương bình dân,
trong văn học chữ nôm, chữ hán, từ xưa cho đến nay để dẫn dắt từng thế hệ
con người biết soi sáng tâm trí mình vào lý nhân quả nghiệp báo mà hành
động sao cho tốt đẹp đem lại hòa bình an vui cho con người. Mặt khác họ
hiểu rằng nghiệp nhân không phải là định nghiệp mà có thể làm thay đổi, do
đó họ tự biết sửa chữa, tu tập cải ác tùng thiện. Sống ở đời, đột nhiên những
tai họa, biến cố xảy ra cho họ, thì họ nghĩ rằng kiếp trước mình vụng đường
tu nên mới gặp khổ nạn này. Không than trời trách đất, cam chịu và tự cố
gắng tu tỉnh để chuyển hóa dần ác nghiệp kia. Như Nguyễn Du đã viết:
“Cho hay muôn sự tại trời. Trời kia đã bắt làm người có thân. Bắt
phong trần phải phong trần. Cho thanh cao mới được phần thanh cao”
“Có trời mà cũng có ta. Tu là cội phúc, tình là dây oan ”
Nếu ta nắm vững nguyên tắc nhân quả nghiệp báo như trên, thì chúng
ta có thể chuyển nghiệp ngay trong hiện kiếp. Khởi đầu của việc chuyển
nghiệp là bắt đầu thay đổi hành nghiệp thiện và ác từ ba nghiệp Thân, Khẩu
Tư tuởng triết học của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống VH-TT của người Việt
SV: N.A.Khoa Trang 14/29
GVHD: TS. B.V.Mưa
Hoàn thành: 02/2010
và Ý của chính mỗi cá nhân. Hành nghiệp thiện, giảm bớt điều ác, dần dần ta
sẽ chuyển hóa và tạo cho ta có một cuộc sống yên vui cho hiện tại và mai sau.
b. Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đến nền đạo lý dân tộc
Giáo lý từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của Phật giáo đã ảnh hưởng
và thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn của người Việt. Như Nguyễn Trãi:
« Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn. Đem chí nhân để thay cường bạo »
« Thần vũ chẳng giết hại. Thuận lòng trời ta mở đường hiều sinh »
Tinh thần thương người này đã biến thành ca dao tục ngữ rất phổ biến
trong quần chúng Việt Nam như "lá lành đùm lá rách", hay: “Nhiễu điều phủ
lấy giá gương Người trong một nước phải thương nhau cùng”
Đó là những câu ca dao, tục ngữ mà bất cứ người Việt Nam nào cũng
đều thấm nhuần và thuộc nằm lòng, nói lên lòng nhân ái vị tha của dân tộc.
Ngoài đạo lý Từ Bi, người Việt còn chịu ảnh hưởng sâu sắc một đạo
lý khác của Phật giáo là đạo lý Tứ Ân, gồm: ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc
gia và ân chúng sanh. Đạo lý này được xây dựng theo một trình tự phù hợp
với bước phát triển của tâm lý về tình cảm của dân tộc Việt. Tình thương ở
mọi người bắt đầu từ thân đến xa, từ tình thương cha mẹ, họ hàng lan dần đến
tình thương trong các mối quan hệ xã hội với thầy bạn, đồng bào quê hương
đất nước và mở rộng đến cuộc sống của nhân loại trên vũ trụ này. Đặc biệt
trong đạo lý tứ ân, ta thấy ân cha mẹ là nổi bật và ảnh hưởng rất sâu đậm
trong tình cảm và đạo lý của người Việt. Vì đạo Phật rất chú trọng đến hiếu
hạnh, và Đức Phật đã thuyết giảng đề tài này trong nhiều kinh khác nhau như
Kinh Báo Phụ Mẫu Ân, kinh Thai Cốt, kinh Hiếu Tử, kinh Nhẫn Nhục, kinh
Vu Lan.. nhắc đến công lao dưỡng dục của cha mẹ, Phật dạy: "muôn việc ở
thế gian, không gì hơn công ơn nuôi dưỡng lớn lao của cha mẹ" (Kinh Thai
Cốt), hay kinh Nhẫn Nhục dạy: "cùng tốt điều thiện không gì hơn hiếu, cùng
tốt điều ác không gì hơn bất hiếu". Bởi Phật Giáo đặc biệt chú trọng chữ hiếu
như thế nên thích hợp với nếp sống đạo lý truyền thống của dân tộc Việt.
Tư tuởng triết học của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống VH-TT của người Việt
SV: N.A.Khoa Trang 15/29
GVHD: TS. B.V.Mưa
Hoàn thành: 02/2010
Nhìn chung, đạo lý hiếu ân trong ý nghĩa mở rộng có cùng một đối
tượng thực hiện là nhắm vào người thân, cha mẹ, đất nước, nhân dân , vũ trụ,
đó là môi trường sống của chúng sanh gồm cả mặt tâm linh nữa. Đạo lý Tứ
Ân còn có chung động cơ thúc đẩy là Từ Bi, Hỷ Xã khiến cho ta sống hài hòa
với xã hội, với thiên nhiên để tiến đến hạnh phúc chân thực và niên trường.
Từ cơ sở tư tưởng triết học và đạo lý trên đã giúp cho Phật Giáo hình
thành được một bản sắc đặc thù rất riêng tại Việt Nam, góp phần làm phong
phú và đa dạng hóa nền văn hóa tinh thần của dân tộc Việt.
2. Ảnh hưởng của thuyết nhân quả:
Nói đến giáo lý nhân quả là nói đến một quy luật tất yếu của nhân
sanh và vũ trụ. Nó không chỉ dành riêng cho những người tu sĩ hay cho những
tín đồ Phật giáo mà còn dành chung cho toàn xã hội. Điều này đã khiến cho
Phật giáo có được những ảnh hưởng sâu sắc đối với gia giáo cổ truyền của
người Việt trong xã hội trước đây.
Không biết từ bao giờ, con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam đã biết
đến tính chất nhân quả như một nếp sống đạo đức được thiết lập từ bên trong
gia đình cho đến ngoài xã hội. Phải chăng cha ông ta đã tiếp nhận những điều
hay lẽ phải trong tinh thần cầu tiến để phục vụ cho cuộc sống của nhân dân.
Vả lại, giáo lý nhân quả lại rất phù hợp với bản chất con người Việt Nam, dân
tộc Việt Nam, một dân tộc vốn hiền hòa dễ mến.
Đất nước Việt Nam, một trong những đất nước nằm trong nền văn hóa
chung của khu vực Đông Nam Á, đó là nền văn hóa lúa nước. Do vậy, cuộc
sống sinh hoạt xã hội Việt Nam lúc bấy giờ dường như gắn liền với thiên
nhiên, gắn liền với những lễ hội sinh hoạt cộng đồng. Con người luôn đặt
niềm tin và hy vọng vào sự chở che và giúp đỡ của một đấng thần linh nào đó.
Trên quan niệm đó, trong xã hội đã bắt đầu có sự xuất hiện của
những khái niệm về các vị thần linh như: thần mưa, thần gió, thần sông, thần
biển, thiên lôi, hà bá…Nên một khi nói điều gì, làm một việc gì con người hết
sức dè dặt và cẩn trọng trước sự uy hiếp vô hình của các đấng thần linh. Nhờ
Tư tuởng triết học của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống VH-TT của người Việt
SV: N.A.Khoa Trang 16/29
GVHD: TS. B.V.Mưa
Hoàn thành: 02/2010
vậy, con người đã biết chọn lựa những cái hay cái đẹp xử sự lẫn nhau, lấy cái
thiện làm chất liệu cho cuộc sống. Bấy giờ, con người tin rằng một khi gây
nên điều gì làm Phật lòng đến các đấng thần linh thì con người sẽ bị trừng
phạt bằng những hình thức như: hạn hán, mất mùa, lũ lụt, bão tố, dịch bệnh…
Đặc biệt trong sinh hoạt xã hội xưa ông cha ta rất coi trọng và tôn kính
đối với những người đã khuất. Đây là nhân tố quan trọng, là tiền đề cho sự ra
đời của tục lệ thờ cúng ông bà sau này. Dựa trên những sinh hoạt, phong tục,
tập quán của người Việt xưa, ta dễ dàng nhận thấy sự gắn bó mật thiết giữa
triết lý nhân quả của Đạo Phật với đời sống xã hội thông qua những giá trị
đạo đức chuẩn mực. Bởi triết lý nhân quả của Đạo Phật rất phù hợp với nếp
sống, với quan niệm nhân sanh và vũ trụ xưa nay của dân tộc.
Trong quảng đại quần chúng thì dấu ấn của thuyết nhân quả được thể
hiện rõ nét qua những bài học giáo dục đạo đức làm người, đó là phải “ăn
hiền ở lành”. Bài học giá trị đạo đức ấy đã được phản ánh tích cực trong đời
sống sinh hoạt từ gia đình cho đến xã hội. Đúc kết từ những kinh nghiệm
sống thiết thực, cha ông ta đã nhắn gởi cho thế hệ con cháu những bài học
luân lý mang tính giáo dục rất lớn. Từ xa xưa, ông cha ta đã ý thức được giá
trị cao quý của con người không phải ở địa vị và danh vọng mà chỉ có nơi
những con người đức hạnh. Thời gian qua đi mọi sự vật đều đổi thay, địa vị,
tiền tài, danh vọng kia rồi cũng tan biến, duy chỉ có danh thơm tiếng tốt của
những con người đức hạnh sẽ còn lưu mãi với thời gian.
“Hương của các loài hoa. Không thể bay ngược gió
Hương người đức hạnh đó. Ngược gió bay muôn phương.”
Từ đây chúng ta đã thấy được mức độ ảnh hưởng to lớn và sâu sắc của
triết lý nhân quả đối với tư tưởng văn hóa tinh thần dân tộc.
3. Ảnh hưởng của tư tưởng Phật Giáo qua góc độ nhân văn và xã hội:
a. Qua ca dao, dân ca:
Ca dao dân ca phổ biến dưới dạng thơ lục bát bao gồm nhiều đề tài
khác nhau, tư tưởng đạo lý của Phật giáo cũng thường được ông cha ta đề cập
Tư tuởng triết học của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống VH-TT của người Việt
SV: N.A.Khoa Trang 17/29
GVHD: TS. B.V.Mưa
Hoàn thành: 02/2010
đến trong ca dao dân ca dưới đề tài này hay khía cạnh khác để nhắc nhở,
khuyên răng dạy bảo, với mục đích xây dựng một cuộc sống an vui phù hợp
với truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam.
Có thể nói trong tâm hồn của mỗi con người Việt Nam đều có chứa
đựng ít nhiều triết lý nhà Phật và những hình ảnh về ngôi chùa, về Phật, trải
qua hàng ngàn năm gắn bó mật thiết với làng xã Việt Nam:
“Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt”
Đất vua, chùa làng là một hình ảnh gần gũi với dân, với làng, vơí nước
như vậy, nếu ai xúc phạm đến chùa, đến Phật thì cũng có thể hiểu là xúc
phạm đến đạo lý, đến quốc gia. Trên tinh thần đó người dân Việt Nam quyết
một lòng bảo vệ ngôi chùa quê hương của mình:
“Bao giờ cạn nước Đồng Nai. Nát chùa Thiên Mụ mới sai lời nguyền”
Đôi khi đâu đó ta có thể thấy được hình ảnh chuông chùa trong cách
định thời gian của người Việt: “Gió đưa cành trúc la đà. Tiếng chuông Trấn
Vũ, canh gà thọ Xương”. “Trên chùa đã động tiếng chuông. Gà Thọ Xương
đã gáy, chim trên nguồn đã kêu”
Khi đã là người Việt Nam không thể không hiếu kính cha mẹ, niềm tri
ơn và báo ơn ấy đã trở thành bản tính tự nhiên, ăn sâu vào tâm khảm của
người dân Việt. Tinh hoa và tinh thần cao đẹp này không phải tự nhiên mà có,
mà chính là nhờ ảnh hưởng của cả một nền giáo dục, một tổ chức văn hóa từ
ngàn xưa để lại, tương xứng với tư tưởng và phong tục của dân tộc Việt.
Trong tất cả những ảnh hưởng, lớn nhất và sâu rộng nhất cũng vẫn là sự ảnh
hưởng của đạo Phật, một tôn giáo, một nền giáo dục đã có mặt với dân tộc từ
buổi đầu của công nguyên, mà đạo Phật là đạo hiếu, lời dạy của Phật về việc
nhớ ơn và báo ơn cha mẹ là những cảm giác suy tư in đậm trong lòng của
người Việt, và đã thể hiện linh động và triền miên ngang qua ca dao dân ca,
mà chúng ta thấy tràn ngập khắp dân gian Việt Nam:
“Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha. Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Tư tuởng triết học của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống VH-TT của người Việt
SV: N.A.Khoa Trang 18/29
GVHD: TS. B.V.Mưa
Hoàn thành: 02/2010
Hay:“Núi cao biển rộng mênh mông. Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi”
Mến cảnh chùa chiền, Phật tượng, nhưng hiếu hạnh của người con vẫn
đặt lên trên vì công ơn trời biển của cha mẹ trong suốt quá trình dưỡng dục
sinh thành, biết bao nhọ nhằn, gian khổ đối với con. Do đó:
“Vô chùa thấy Phật muốn tu. Về nhà thấy mẹ công phu chưa đành.”
Cũng vì thương kính cha mẹ, nên người con luôn luôn cầu nguyện
Phật trời gia hộ cho hai đấng từ thân:
“Đêm đêm khấn nguyện Phật trời. Cầu cho cha mẹ sống đời với con”
Người Việt Nam thường nhắn nhủ nhau chớ có vì danh lợi phù hoa,
làm ác hại người để rồi chuốc lấy đau khổ. Hãy ăn ở cho lương thiện rồi thế
nào cũng gặp điều tốt lành, may mắn và hạnh phúc:
“Ai ơi hãy ở cho lành. Kiếp này chẳng gặp đề dành kiếp sau”
Cha mẹ lại càng tu nhân tích đức cho con cháu về sau được nhờ:
“Cây xanh thì lá cũng xanh. Cha mẹ hiền lành để đức cho con”
Ngang qua các câu ca dao về hình ảnh của ngôi chùa, về quan niệm
hiếu hạnh, quan niệm nhân quả, ta thấy sự ảnh hưởng của Phật giáo đã ăn sâu
vào đời sống của dân tộc Việt Nam.
b. Qua tác phẩm văn học
Bên cạnh ca dao bình dân, trong các tác phẩm văn học của các nhà thơ,
nhà văn chúng ta cũng thấy ít nhiều chịu ảnh hưởng của Phật giáo. Ở đây
chúng ta không đề cập đến dòng văn học chính thống của Phật giáo, tức là tác
phẩm do các thiền sư sáng tác trong quá trình tu tập của mình, mà chỉ nói đến
các thơ văn Việt Nam chịu sự ảnh hưởng của triết lý Phật giáo mà thôi. Cái
ảnh hưởng đó có ngay từ khi Phật giáo du nhập vào nước Việt, nghĩa là khi
chữ Hán còn thịnh hành, nhưng để thấy rõ ràng hơn, ta chỉ đề cập đến sự ảnh
hưởng của Phật giáo trong thơ văn từ khi người Việt Nam đã viết chữ Nôm,
chữ Việt thành thạo nghĩa là bắt đầu thừ thế kỷ thứ 18 trở về sau.
Tác phẩm chữ nôm nổi tiếng trong thế kỷ thứ mười tám là Cung Oán
Ngâm Khúc của nhà thơ Việt Nam Nguyễn Gia thiều (1741-1798). Nội dung
Tư tuởng triết học của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống VH-TT của người Việt
SV: N.A.Khoa Trang 19/29
GVHD: TS. B.V.Mưa
Hoàn thành: 02/2010
tác phẩm chịu nhiều ảnh hưởng của Phật giáo, nhất là triết lý ba pháp ấn Vô
Thường, Khổ, Vô Ngã. Khi diễn tả thân phận con người vốn khổ đau và mang
tính vô thường, ông viết:
« Gót danh lợi bùn pha sắc xám. Mặt phong trần nắng rám mùi dâu
Nghĩ thân phù thế mà đau. Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê. »
Qua thế kỷ thứ mười chín, với thi hào Nguyễn Du ta có được một án
văn bất hủ là Truyện Kiều. Đây là một truyện thơ chịu nhiều ảnh hưởng của
Phật Giáo, trong đó ta thấy nổi bật nhất là thuyết về Khổ Đế, một phần quan
trọng của giáo lý Tứ Diệu Đế, kế đó là tinh thần về hiếu đạo và thuyết về
nhân quả và nghiệp báo. Điều đó có lý, vì lẽ chính Nguyễn Du đã tự nhận
mình là một Phật tử và từng đọc Kinh Kim Cang Bát Nhã đến cả ngàn lần.
« Đã mang lấy nghiệp vào thân. Thì đừng trách lẫn trời gần trời xa »
Nhưng theo Phật Giáo thì nghiệp không phải là định nghiệp, là bất khả
chuyển, cho nên ông mới tự tin:
« Sư rằng phúc họa đạo trời.Cội nguồn cũng bởi lòng người mà ra
Có trời mà cũng có ta. Tu là cội phúc, tình là dây oan »
Điểm qua một số thơ văn Việt nam có những ảnh hưởng của Phật
Giáo như trên ta thấy tư tưởng, triết học Phật Giáo đã để lại dấu ấn của mình
sâu đậm trên diễn đàn tư tưởng của Việt Nam.
c. Qua phong tục, tập quán :
Phong tục tập quán thể hiện đặc sắc và tính đặc thù về văn hóa của
mỗi dân tộc. Thông qua việc tìm hiểu phong tục tập quán, người ta tìm lại
được những giá trị văn hóa mang bản chất truyền thống của các dân tộc. Đối
với người Việt Nam, những phong tục tập quán chịu ảnh hưởng Phật giáo khá
nhiều. Song ở đây người viết chỉ đề cập đến những tập tục phổ biến trong đời
sống hằng ngày của người Việt.
Tư tuởng triết học của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống VH-TT của người Việt
SV: N.A.Khoa Trang 20/29
GVHD: TS. B.V.Mưa
Hoàn thành: 02/2010
c.1. Ảnh hưởng Phật giáo qua tập tục ăn chay, thờ Phật, phóng sanh
và bố thí:
Về ăn chay, hầu như tất cả người Việt Nam đều chịu ảnh hưởng nếp
sống văn hóa này. Ăn chay hay ăn lạt xuất phát từ quan niệm từ bi của Phật
giáo. Vì khi đã trở về với Phật pháp, mỗi người Phật tử phải thọ giới và trì
giới, trong đó giới căn bản là không sát sanh hại vật, mà trái lại phải thương
yêu mọi loài. Trong hành động lời nói và ý nghĩa, người Phật tử phải thể hiện
lòng từ bi. Điều không thể có được khi con người còn ăn thịt, còn uống máu
chúng sanh. Để đạt được mục đích đó, người Phật tử phải dùng đến phương
pháp ăn chay. Cố nhiên người xuất gia ăn chay trường, còn Phật tử tại gia còn
nhiều trở ngại nên chỉ ăn chay kỳ.
Ăn chay và thờ Phật là việc đi đôi với nhau của người Việt Nam. Việc
thờ Phật trong dân gian cũng có nhiều điều thú vị. Người Phật tử, người mộ
đạo thờ Phật đã đành, nhiều người không phải là Phật tử cũng dùng tượng
Phật hay tranh ảnh có yếu tố Phật giáo để chiêm ngưỡng và trang trí cho cảnh
nhà thêm đẹp và trang nghiêm. Theo quan niệm của nhóm người này, Phật
giáo là một thành tựu về tư tưởng văn hóa của dân tộc và nhân loại.
Cũng xuất phát từ tinh thần từ bi của đạo Phật tục lệ bố thí và phóng
sanh đã ăn sâu vào đời sống sinh hoạt của quần chúng. Đến ngày rằm và
mùng một, người Việt thường hay mua chim, cá, rùa….để đem về chùa chú
nguyện rồi đi phóng sanh. Người Việt cũng thích làm phước bố thí và sẵn
sàng giúp đỡ kẻ nghèo khó, hoạn nạn, vào các ngày lễ hội lớn họ tập trung về
chùa. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại những biểu hiện mang tính chất hình
thức trên này càng bị thu hẹp. Thay vào đó mọi người tham gia vào những đợt
cứu trợ, tương tế cho các đồng bào gặp thiên tai, hoạn nạn, hoàn cảnh sống
gặp khó khăn đúng với truyền thống đạo lý của dân tộc: lá lành đùm lá rách.
c.2 Ảnh hưởng Phật giáo qua tập tục cúng rằm, mùng một và lễ chùa.
Theo đúng truyền thống tập tục cúng rằm, mùng một là tập tục cúng
sóc vọng, tức là ngày mặt trời mặt trăng thông suốt nhau, cho nên thần thánh,
Tư tuởng triết học của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống VH-TT của người Việt
SV: N.A.Khoa Trang 21/29
GVHD: TS. B.V.Mưa
Hoàn thành: 02/2010
tổ tiên có thể liên lạc, thông thương với con người, sự cầu nguyện sẽ đạt tới
sự cảm ứng với các cõi giới khác, là ngày trong sạch để các vị tăng kiểm điểm
hành vi của mình, gọi là ngày Bố tát và ngày sám hối, người tín đồ về chùa để
tham dự lễ sám hối, cầu nguyện bỏ ác làm lành và sửa đổi thân tâm. Quan
niệm ngày sóc vọng là những ngày trưởng tịnh, sám hối, ăn chay là xuất phát
từ ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa. Ngoài việc đi chùa sám hối, ở nhà vào
ngày rằm và mùng một, họ sắm đèn, nhang, hương hoa để dâng cúng Tam
Bảo và tổ tiên Ông Bà, thể hiện lòng tôn kính, thương nhớ những người quá
cố và cụ thể hóa hành vi tu tâm dưỡng tánh của họ.
Bên cạnh việc đi chùa sám hối vào ngày rằm, mùng một , người Việt
còn có tập tục khác là đi viếng chùa, lễ Phật vào những ngày hội lớn như rằm
tháng giêng, rằm tháng tư (Phật Đản) và rằm tháng bảy (lễ Vu Lan). Đây là
một tập tục, một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống người Việt.
Tuy nhiên, đi viếng chùa cũng tùy thuộc vào mục đích và quan niệm của mỗi
người. Cánh cửa chùa bao giờ cũng rộng mở đối với thập phương bá tánh,
nhất là các ngày hội lớn của Phật giáo, của dân gian (tết Nguyên Đán) hoặc
những ngày kỷ niệm lớn của lịch sử dân tộc, (giổ tổ Hùng Vương). Vào
những ngày này, đông đảo các tầng lớp nhân dân, các giới trong xã hội đều
qui tụ về đây. Trước cánh cửa thiền môn, những khuôn mặt trang nghiêm, vẻ
đẹp thanh thoát của hoa huệ, hoa cúc chen lẫn với hương trầm quyện tỏa tạo
nên bầu không khí ấm cúng, linh thiêng, thể hiện tấm lòng thành kính của họ
đối với Đức Phật và các bậc Thánh Hiền. Những hình ảnh đó đã góp phần tạo
nên bản sắc và nét đẹp văn hóa của dân tộc Việt.
c.3 Ảnh hưởng Phật giáo qua nghi thức ma chay, cưới hỏi :
Đây cũng là sinh hoạt thường xảy ra trong đời sống người Việt.
Về ma chay, theo phong tục của người Việt Nam và Trung Hoa trước
đây rất là phiền phức và hao tốn. Tuy nhiên nhờ có sự dẫn dắt của chư tăng
thì tang lễ diễn ra đơn giản và trang nghiêm hơn. Khi trong gia đình (theo
Đạo Phật) có người qua đời, thân quyến đến chùa thỉnh chư tăng về nhà để
Tư tuởng triết học của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống VH-TT của người Việt
SV: N.A.Khoa Trang 22/29
GVHD: TS. B.V.Mưa
Hoàn thành: 02/2010
giúp đỡ phần tang lễ (thường gọi là làm ma chay). Ở những gia đình không
theo Đạo Phật nhưng do người quá cố hoặc gia chủ mến chuộng Đạo Phật nên
họ thỉnh chư tăng, ni đến tụng kinh cầu siêu cho hương linh và tổ chức tang lễ
giống như những tín đồ theo Đạo Phật. Nhìn chung, tập tục ma chay tại Việt
Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm từ những nghi thức của Phật giáo.
Việc cưới hỏi, tầm ảnh hưởng của Phật giáo tỏ ra ít phức tạp hơn so
với Thiên Chúa giáo, Khổng giáo hay Hồi giáo. Trước khi tiến tới hôn nhân,
nhiều đôi bạn trẻ theo tín ngưỡng Phật giáo, thường đến chùa khấn nguyện
với chư Phật phù hộ cho mối lương duyên của họ được thuận buồm xuôi gió.
Đến ngày cưới hỏi, họ được hướng dẫn về chùa để chư tăng làm lễ "hằng
thuận quy y" trước khi rước dâu. Đó là một lễ chúc lành ngắn gọn và được
chư tăng khuyên dạy một số nguyên tắc đạo đức Phật giáo, để làm kim chỉ
nam cho cuộc sống mới.
Ngoài những phong tục của người Việt Nam chịu ảnh hưởng Phật giáo
đã được kể trên, chúng ta còn thấy một số tập tục khác cũng tương đối phổ
biến và có ít nhiều liên quan đến Phật giáo mà chúng ta phải ghi nhận.
c.4 Các phong tục tập quán khác.
* Tập tục đốt vàng mã:
Đây là tập tục rất phổ biến ở Việt Nam mà người Việt đã tiếp nhận từ
Phật giáo Trung Quốc. Nhiều người ngộ nhận rằng tập tục này xuất phát từ
quan điểm nhân quả luân hồi của Phật giáo, do đó nó đã tồn tại trong Phật
giáo từ xưa cho tới ngày nay. Nếu đời này ai ăn ở hiền lành, tu tâm dưỡng
tánh thì đời sau sẽ tái sinh trở lại làm người hạnh phúc, sung sướng giàu sang
hoặc vãng sanh về thế giới cực lạc. Còn nếu kiếp này ăn ở tệ bạc, làm nhiều
điều ác, sau khi chết sẽ bị đọa xuống địa ngục cõi âm ti chịu nhiều đau khổ.
Người nhiều tội lỗi hay không có ai thờ cúng, cầu siêu thì ở nơi địa ngục bị
oan ức, đói lạnh, không thể siêu thoát được hoặc đầu thai được. Cho nên
những người thân ở nơi dương thế phải thờ cúng, tụng kinh cầu siêu để người
thân của mình dưới cõi âm ti bớt đi phần tội lỗi hoặc được ấm no mà thoát
Tư tuởng triết học của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống VH-TT của người Việt
SV: N.A.Khoa Trang 23/29
GVHD: TS. B.V.Mưa
Hoàn thành: 02/2010
kiếp. Sau khi cúng giỗ, ngày vọng người chết sẽ nhận được những vật dụng,
tiền bạc đã cúng và đốt đó. Trong các đồ mã và giấy tiền vàng bạc để cúng
thường có hình ảnh (Phật Di Lặc hay Bồ Tát Quan Âm) hoặc chữ nghĩa (chú
vãng sanh, chữ triện) có yếu tố của Phật giáo với ý đồ mong sự cứu độ của
Chư Phật đối với người đã khuất.
* Tập tục coi ngày giờ :
Đây là một tập tục ăn sâu vào tập quán của người Việt nói riêng và cả
Châu Á nói chung. Mỗi khi sắp làm một việc gì quan trọng như xây dựng nhà
cửa, đám chết, đám cưới, xuất hành đầu năm... người ta thường về chùa để
nhờ các thầy coi giúp giùm ngày nào tốt thì làm ngày nào xấu thì tránh.
Thông thường người ta hay tránh ba ngày: mùng 05, 14, 23, họ cho ba ngày
này là xuôi xẻo, là bất hạnh, cần phải tránh.
Theo cái nhìn của Phật giáo thì đây là một loại hình mê tín, người Phật
tử không nên chạy theo. Đức Phật dạy rằng với người làm điều lành, ngày nào
cũng là ngày tốt với người làm việc tốt, ngày nào cũng là ngày lành. Năm
tháng đối với người làm thiện đều là ngày tốt cả, gieo nhân thiện thì sẽ gặt
quả lành. Giáo lý nhân quả của Đạo Phật là cán cân công bằng với khổ đau và
hạnh phúc của con người chứ không phải là sự phân định của hên xuôi.
* Tập tục xin xăm, bỏi quẻ :
Xin xăm bói quẻ là một việc cầu may. Cũng bắt nguồn từ Trung Quốc,
một loại hình sinh hoạt khá rầm rộ tại các chùa, đình, miếu vào dịp đầu năm
mới hoặc các ngày lễ lớn. Các chùa làng có thờ Quan Thánh Đế Quân thường
có đi đôi với việc xin xăm. Đây là một tập tục không lành mạnh do tin tưởng
vào sự may rủi của số phận đã được sắp đặt, an bài từ trước. Như sách xưa co
câu "phước chí tâm linh, hoa lai thần ám". Nghĩa là người gặp lúc phước đến
thì giở quẻ ra đều tốt, khi họa lại thi rút lá xăm nào cũng xấu. Thế là tốt xấu
tại mình, không phải tại xăm quẻ. Người Phật tử chân chính cần phải loại bỏ
những loại hình mê tín này.
Tư tuởng triết học của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống VH-TT của người Việt
SV: N.A.Khoa Trang 24/29
GVHD: TS. B.V.Mưa
Hoàn thành: 02/2010
Phong tục tập quán tại Việt Nam trong quá trình tồn tại và phát triển
đã chịu nhiều tác động của trào lưu văn hóa khác nhau. Nhất là từ Trung
Quốc. Trong đó Phật giáo đã dự phần quan trọng trong việc định hình và duy
trì không ít các tập tục dân gian mà chúng ta thấy vẫn còn tồn tại cho tới ngày
nay. Tuy nhiên, không phải các tập tục có sự ảnh hưởng của Phật giáo là tốt
tất cả, mà trong đó có tập tục cần phải chắc lọc lại để phù hợp với chánh pháp.
Đó là nhiệm vụ nặng nề của các nhà truyền giáo trong thời hiện đại. Bên cạnh
sự ảnh hưởng trong các phong tục tập quán của dân tộc. Phật giáo còn ảnh
hưởng qua các loại hình nghệ thuật như nghệ thuật sân khấu.
d. Phật giáo thể hiện qua nghệ thuật sân khấu
Nghệ thuật sân khấu cũng là một loại hình văn hóa dân tộc song song
với những phần đã nêu ra ở trên. Tính triết lý "nhân quả báo ứng" của Phật
giáo đóng vai trò quan trọng trong các bài ca tuồng, vở diễn phù hợp với đạo
lý phương đông và nếp sống truyền thống của dân tộc.
Trước hết, loại hát chèo xuất hiện ban đầu chủ yếu ở các tỉnh đồng
bằng Bắc Bộ, thu hút nhiều tinh hoa nghệ thuật dân gian như múa, hát và diễn
các vở truyện Nôm truyền thống. Đáng kể nhất là vở "Quan Âm Thị Kính" đã
đi vào dạng tuồng tiêu biểu chính thống khi nhắc đến môn nghệ thuật này.
Còn có các vở "Trương Viên", "Lưu Bình Dương Lễ", "Kim Nhan", "Chu
Mãi Thần"... đều mang tính thưởng thiện phạt ác và các vở này gọi là tiêu
biểu nên có tên gọi là "chèo cổ".
Thứ hai, “hát bội” ban đầu đi vào nếp sống cung đình, khác với chèo
cổ, nghệ thuật này trở nên một loại hình giải trí cao cấp dành cho vua chúa và
giới thượng lưu. Ngoài ra, nó dành cho những ai có trình độ thưởng thức nghệ
thuật tương đối thì mới có thể xem và cảm nhận được chủng loại độc đáo này.
Có thể nói xuyên suốt thế kỷ thứ 19 là thời đại hoàng kim của nghệ thuật hát
bội. Các vở "San Hậu"; "Tam Nữ Đồ Vương"; "Diễn Võ Đình", "Nghiêu Sò
Ốc Hến"... là những vở mang tính chất dân tộc chính thống và chứa đựng toàn
vẹn triết lý "nhân quả báo ứng" và hướng thiện một cách cao đẹp.
Tư tuởng triết học của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống VH-TT của người Việt
SV: N.A.Khoa Trang 25/29
GVHD: TS. B.V.Mưa
Hoàn thành: 02/2010
Từ nhạc cổ, nhạc tài tử trở thành hình thái "ca ra bộ", để từ đó trở
thành nghệ thuật sân khấu cải lương từ đầu những năm hai mươi (1922) của
thế kỷ này ở Nam Bộ. Có thể nói chưa có nghệ thuật dân tộc nào phát triển
nhanh chóng, có sức cuốn mạnh mẽ và dung nạp nhiều mãng dân ca như bộ
môn cải lương. Chính vì yếu tố phóng khoáng đó, cải lương dễ dàng tiến sâu
vào chân lý của Phật giáo, mở ra cánh cửa được sự tích Phật Thích Ca và
nhiều điển tích khác của Phật giáo vào gia sản nghệ thuật của mình. Đây là
một loại hình nghệ thuật được đông đảo bà con lao động Việt Nam nhất là các
vùng ngoại ô mến chuộng và ưa thích. Giáo lý "nhân quả báo ứng, thưởng
thiện phạt ác"... được các soạn giả thể hiện các vở cải lương và đã được khán
giả say mê thưởng thức và đã đứng vững trên diễn đàn sân khấu trong suốt
mấy chục năm qua. Tiêu biểu như các vở "Thích Ca Đắc Đạo", "Quan Âm
Thị Kính", "Quan Âm Diệu Thiện", "Mục Liên Thanh Đề", đặc biệt gần đây
(đầu thập niên 90) có hai vở đáng chú ý là "Thoát Vòng Tục Lụy" và 'Thái Tử
A Xà Thế" của soạn giả Giác Đạo Dương Kinh Thành. Ngoài ra còn có các
vở chịu ảnh hưởng ít nhiều tư tưởng Phật giáo như các vở "Phạm Công Cúc
Hoa", "Tấm Cám", "Kim Vân Kiều"... do sự ảnh hưởng tinh thần từ bi hỷ xả
của Phật giáo nên luôn luôn các tuồng cải lương ở phần kết thúc đều có hậu.
Đến đây, chúng ta có thể kết luận rằng những tư tưởng và hình ảnh
của Phật giáo đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong đời sống tư tưởng văn
hóa tinh thần của người Việt Nam và nó sẽ tiếp tục tỏa sáng cái tinh hoa độc
đáo của dân tộc Việt nói riêng và cả nhân loại nói chung trong tương lai.
V. Kết luận
Các tư tưởng Phật giáo đi tìm hiểu về cái “khổ”, và hướng chúng sanh
phương pháp diệt “khổ” nhằm giúp con người đạt đến cõi “niết bàn”. Tuy
nhiên, phương pháp diệt “khổ” chỉ là tiếng kinh, lời kệ chứ không vạch ra con
đường đấu tranh giai cấp, đấu tranh vũ lực nhằm xây dựng xã hội bình đẳng
mà ở đó con người sống kiếp người theo đúng nghĩa “con người”.
Tư tuởng triết học của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống VH-TT của người Việt
SV: N.A.Khoa Trang 26/29
GVHD: TS. B.V.Mưa
Hoàn thành: 02/2010
Mặc dù tư tưởng mang tính duy tâm chủ quan, thần bí, không tưởng
nhưng triết lý Phật giáo vẫn mang tính nhân bản, nhân đạo sâu sắc, vẫn muốn
xây dựng một xã hội tốt đẹp cho con người mà đại diện tiêu biểu là tư tưởng
“niết bàn”. Đến nay qua hơn 2000 năm lịch sử, Phật giáo đã tồn tại và phát
triển đồng hành cùng nền văn hóa Việt Nam. Các tư tưởng bình đẳng, từ bi hỉ
xả đặc biệt là thuyết nhân quả đã ăn sâu bám rễ vào tâm hồn dân Việt, qua
bao năm tháng các triết lý này đã được chọn lọc và thấm nhuần vào truyền
thống đạo đức của dân ta. Nó được phản ánh một cách sinh động sâu sắc
trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc từ những hoạt động thường nhật
giản đơn đến đời sống tâm linh phong phú. Điều đó càng khẳng định các giá
trị đạo đức tốt đẹp mà Phật giáo đã và đang mang cho tâm hồn người dân Việt.
Cuộc sống hiện nay, trong hoàn cảnh hội nhập quốc tế với nhiều nền
văn hóa khác nhau đang dần tuôn chảy vào nước ta, thì việc chọn lọc, gìn giữ
và phát huy các giá trị cao đẹp của đạo Phật là điều hết sức cần thiết. Song
song đó, việc loại bỏ các hạn chế trong tư tưởng Phật giáo cũng là điều hết
sức quan trọng nhằm loại bỏ các tệ nạn mê tín dị đoan, xây dựng đời sống
tinh thần lành mạnh. Giữ gìn và phát huy, kết hợp và hòa nhập với những tinh
hoa của các nền triết học khác như Khổng giáo, Đạo giáo… nhằm làm phong
phú thêm đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc, đồng thời cũng tô điểm
thêm cho nền văn minh nhân loại.
VI. Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Ngọc Thu, Bùi Văn Mưa (chủ biên), giáo trình Đại cương
lịch sử Triết học, Nhà xuất bản tổng hợp TP.HCM, 2003
2. Bùi Văn Mưa, bài giảng triết học lớp cao học, 2009.
3.
4.
5.
6. www.quangduc.com
Tư tuởng triết học của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống VH-TT của người Việt
SV: N.A.Khoa Trang 27/29
GVHD: TS. B.V.Mưa
Hoàn thành: 02/2010
PHỤ LỤC: MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ ĐỨC PHẬT
Hình 1: Tượng Phật được làm từ ngọc thạch
Tư tuởng triết học của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống VH-TT của người Việt
SV: N.A.Khoa Trang 28/29
GVHD: TS. B.V.Mưa
Hoàn thành: 02/2010
Hình 2: Phật Quan Thế Âm
Tư tuởng triết học của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến đời sống VH-TT của người Việt
SV: N.A.Khoa Trang 29/29
GVHD: TS. B.V.Mưa
Hoàn thành: 02/2010
MỤC LỤC
I. Giới thiệu ....................................................................................................................... 1
II. Tiền đề cho sự xuất hiện của Phật giáo ........................................................................ 2
II.1. Tiền đề về điều kiện tự nhiên, kinh tế -xã hội của Ấn Độ ..................................... 2
II.2. Tiền đề lý luận (các trường phái triết học Ấn Độ cổ và trung đại) ........................ 3
III. Phật giáo ..................................................................................................................... 4
III.1. Sơ lược sự hình thành và phát triển Phật giáo ...................................................... 4
III.2. Một số tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo nguyên thủy ............................... 5
III.3. Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đến xã hội Ấn Độ cổ -trung đại .................. 11
IV. Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người Việt 12
IV.1. Khái quát lịch sử Phật giáo Việt Nam ................................................................ 12
IV.2. Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần của người
Việt .............................................................................................................................. 13
1..Ảnh hưởng của Phật giáo đến tư tưởng triết học và đạo lý ............................. 13
a. Ảnh hưởng của Phật giáo đến tư tưởng triết học của dân tộc .............................. 13
b. Ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo đến nền đạo lý dân tộc ................................. 14
2. Ảnh hưởng của thuyết nhân quả: ...................................................................... 15
3. Ảnh hưởng của tư tưởng Phật Giáo qua góc độ nhân văn và xã hội: .............. 16
a. Qua ca dao, dân ca: ............................................................................................... 16
b. Qua tác phẩm văn học .......................................................................................... 18
c. Qua phong tục, tập quán : ..................................................................................... 19
c.1. Ảnh hưởng Phật giáo qua tập tục ăn chay, thờ Phật, phóng sanh và bố thí: .. 20
c.2 Ảnh hưởng Phật giáo qua tập tục cúng rằm, mùng một và lễ chùa. ............... 20
c.3 Ảnh hưởng Phật giáo qua nghi thức ma chay, cưới hỏi : ................................ 21
c.4 Các phong tục tập quán khác. ......................................................................... 22
d. Phật giáo thể hiện qua nghệ thuật sân khấu ......................................................... 24
V. Kết luận ...................................................................................................................... 25
VI. Tài liệu tham khảo .................................................................................................... 26
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- detai1_nguyenanhkhoa_d1k19_1875.pdf