Thay vì đem tới một cách giải quyết êm thấm cho những khó khăn hiện nay như suy
nghĩ của nhiều chuyên gia, việc một quốc gia châu Âu vỡ nợ và phải tái cơ cấu các khoản nợ
có thể tạo ra những ảnh hưởng mang tính tàn phá và không thể đoán định trong khắp khu
vực. Trước đây, chưa ai từng “lên lịch” cho sự tan rã của khối Eurozone. Thậm chí, việc gia
nhập liên minh tiền t ệ này vẫn được xem là xu hướng không thể đảo ngược, và không có
điều khoản nào về sự rút lui. Nhưng như vậy không có nghĩa là Eurozone không có nguy cơ
giải thể. Theo ông Ansgar Belke, giáo sư kinh tế học thuộc Đại học Duisburg-Essen của
Đức, rút lui có trật tự có thể là giải pháp hợp lý cho những nước thành viên Eurozone có sự
khác biệt căn bản so với các thành viên khác. Bồ Đào Nha hầu như không có gì để xuất
khẩu. Họ đang cạnh tranh với các thị trường mới nổi nhằm vực dậy nền kinh tế, nên sẽ phải
cắt giảm mạnh chi phí lao động tới mức sẽ tạo ra suy thoái sâu. Tương tự, điều này chắc
chắn sẽ xảy ra ở Hy Lạp. Giáo sư này cho rằng, một khả năng là châu Âu sẽ thành lập một
hệ thống có chức năng tổ chức “vỡ nợ có trật tự” cho các quốc gia thành viên trong trường
hợp cần thiết, trong đó bao gồm cả giải quyết các trường hợp muốn hoặc bị buộc phải rút lui
khỏi Eurozone. Chính Thủ tướng Đức Angela Merkel cũng đã cho rằng, trong tương lai,
những thành viên không tuân thủ đầy đủ quy định của Eurozone sẽ được yêu cầu rút khỏi
khối.
36 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 2935 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tương lai của đồng Euro, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạn này, để chuẩn bị cho sự ra đời của Ngân hàng
Tương lai của đồng EURO.
13
trung ương châu Âu ở giai đoạn cuối cùng, một Viện t iền tệ châu Âu đã được thành
lập và chính sách tiền tệ vẫn chủ yếu thuộc thẩm quyền của các quốc gia.
Giai đoạn 3 : Từ 1-1-1999 bắt đầu đưa đồng EURO vào lưu hành. Giai đoạn đầu từ
1-1-1999 đến 1-1-2002 đồng EURO chỉ lưu hành không bằng tiền mặt. Từ 1-1-2002
đến tháng 7-2002 bắt đầu lưu hành đồng EURO (1) bằng tiền giấy và tiền kim loại
song song với các đồng tiền bản địa, và từ tháng 7-2002 các đồng tiền bản địa không
còn tồn tại.
Đồng EURO đã ra đời trong hoàn cảnh rất nhiều thuận lợi. Do cuộc khủng
hoảng tiền tệ (1997) diễn ra ở đâu cũng dính đến đồng dollar nên các nước vừa sợ, vừa ghét
đồng dollar. Khối Đông Nam Á đã bàn đến việc dùng các đồng tiền trong khối để thanh toán
XNK và vay trả giữa các nước trong khối từ năm 1997 để tránh bớt dính dáng đến đồng
dollar. Xu hướng đa dạng hoá các loại ngoại tệ đã đẩy các nước phát triển tới chỗ chọn các
loại ngoại tệ mạnh khác như Mác Đức, Franc Pháp... để thay thế cho đồng dollar.
Đồng EURO là tổng hợp sức mạnh của các ngoại tệ mạnh Châu Âu, vì thế đồng
EURO sẽ chiếm phần lớn trong dự trữ ngoại hối của các nước trên thế giới. Bên
cạnh đó, thị trường tài chính nhiều nước chao đảo, đồng EURO ra đời sẽ làm cho thị trường
tài chính Châu Âu hấp dẫn hơn. Vì thế, chỉ mới ra đời đồng EURO đã làm thị trường chứng
khoán Châu Âu lên giá. Hơn nữa, EURO là đồng tiền của một khu vực 300 triệu dân, chiếm
14,9% mức sản xuất và 18,6% thương mại toàn cầu.
II. VAI TRÒ CỦA ĐỒNG EURO
1. Đối với các quốc gia thành viên
Đồng EURO ra đời sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các nước EU, thúc đẩy quá
trình liên kết kinh tế giữa các nước này, tạo điều kiện thực hiện liên minh kinh tế t iền tệ châu
Âu, tiến t ới thống nhất châu Âu về kinh tế và chính trị. Đồng tiền chung ra đời sẽ góp phần
hoàn thiện thị trường chung châu Âu, góp phần gỡ bỏ những hàng rào phi quan thuế còn lại,
tác động tích cực đến hoạt động kinh tế, tài chính, đầu tư, tiết kiệm chi phí hành chính. Theo
bản báo cáo năm 1988 và Uỷ ban châu Âu, việc thực hiện liên minh tiền tệ có thể đem lại lợi
Tương lai của đồng EURO.
14
cho các nước EU khoảng 200 tỷ ECU và giúp làm tăng thêm 1% GDP của các nước thành
viên.
Sự ra đời của đồng EURO sẽ giúp cho các nước thành viên tránh được sức ép của việc
phá giá đột ngột các đồng tiền quốc gia (sau này sẽ không còn tồn tại) cũng như việc các nhà
đầu cơ t iền t ệ tranh thủ sự không ổn định của đồng tiền để đầu cơ làm ảnh hưởng đến sự
phát triển chung của toàn khối.
Cuộc khủng hoảng hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS) năm 1992 là một ví dụ. Để thu hút
ngoại t ệ trang trải cho những tốn kém trong việc khôi phục lại nền kinh tế bị phá sản của
Đông Đức, nước Đức đã áp dụng chính sách giữ lãi suất rất cao làm cho các nhà tư bản quốc
tế bị lợi nhuận quyến rũ đã đổ tiền vào Đức; trong khi đó, với mục tiêu chống lạm phát, Pháp
muốn duy trì lãi suất thấp vừa phải. Nhưng do tất cả các đồng tiền trong EMS vốn liên quan
mật thiết với nhau nên Pháp không thể đơn phương hạ lãi suất mà không làm cho đồng
phrăng Pháp (FF) hạ giá so với đồng mác Đức (DM ). Giới đầu cơ tính toán rằng đã đến lúc
đồng FF sẽ phải phá giá và họ đã tập trung vào tấn công đồng FF. Hậu quả là đồng FF bị phá
giá và làm cho cả EMS bị lung lay. Cuộc khủng hoảng hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS) vào
năm 1992-1993 đã làm cho hệ thống t iền tệ châu Âu cũng như nền kinh tế các nước thành
viên bị chao đảo và chịu nhiều thiệt hại. Sự bất ổn định của tiền tệ châu Âu đã làm cho các
nước thành viên EU bị mất 1,5 triệu việc làm trong năm 1995.
Việc ra đời của đồng EURO với ngân hàng trung ương độc lập - Ngân hàng Trung
ương châu Âu (ECB) - thay thế các ngân hàng trung ương các nước thành viên, với mục tiêu
thực hiện một chính sách tiền tệ theo hướng giữ ổn định sẽ tạo cơ sở cho kinh tế phát triển
không còn lạm phát, đem lại những điều kiện thuận lợi cho việc hoạch định một chính sách
tài chính vĩ mô cho liên minh, là một bảo đảm giữ cho nền kinh tế ở khu vực này ổn định và
phát triển hơn trước. Trước mắt, người tiêu dùng và các doanh nghiệp ở mỗi nước thành viên
sẽ bớt được một khoản chi phí chuyển đổi ngoại tệ trong giao dịch quốc tế mà các nhà kinh
tế cho rằng việc này sẽ t iết kiệm được một khoản t iền 100 tỷ mác hoặc không dưới 1% GDP
của các nước thành viên. Hơn nữa, khi đồng EURO được lưu hành trên thị trường, mọi hàng
Tương lai của đồng EURO.
15
hoá bày bán trong các nước thành viên đều được niêm yết giá bằng đồng EURO nên sẽ làm
giảm sự chênh lệch giá hay phiền phức về tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền quốc gia.
Do buôn bán trong các nước EU chiếm đến 60% ngoại thương của cả khối, nên việc sử
dụng một đồng tiền chung sẽ tạo điều kiện đẩy mạnh trao đổi ngoại thương giữa các nước
EU và ít bị ảnh hưởng xấu do sự giao động tỷ giá của đồng USD vì sẽ không còn tình trạng
đồng tiền này mất giá so với USD trong khi đồng tiền khác lại lên giá.
Tuy nhiên, việc ra đời Liên minh kinh tế tiền tệ châu Âu (EMU) và duy trì đồng tiền
chung ổn định và mạnh không chỉ có những mặt thuận mà sẽ còn gây không ít khó khăn cho
những nước tham gia EMU;
Trong việc phối hợp chính sách kinh tế t iền tệ; Việc ngân hàng Trung ương châu Âu
đảm nhiệm chức năng điều hành chính sách tiền tệ của cả khối sẽ làm cho các nước
tham gia EMU mất đi công cụ để điều tiết nền kinh tế và sẽ rất khó khăn cho các
nước này mỗi khi kinh tế gặp khủng hoảng.
Việc duy trì được một đồng EURO mạnh là một vấn đề khó khăn cho các nước tham
gia vì các nước này có các nền kinh tế phát triển ở những mức độ khác nhau, mỗi
nước đều có những khó khăn riêng. Việc dung hoà lợi ích của các nước là một cuộc
đấu tranh gay go đòi hỏi phải có sự thoả hiệp lớn của mỗi nước. Mặt khác, để đảm
bảo cho EMU vận hành tốt, các nước tham gia phải tiếp tục phấn đấu đảm bảo các chỉ
tiêu EMU áp đặt, buộc chính phủ các nước này phải có những chính sách ngặt nghèo
trong ngân sách chi tiêu, chính sách thuế... phải thắt lưng buộc bụng, cắt giảm chi tiêu
cho phúc lợi xã hội. Điều này có thể gây ra những phản ứng mạnh mẽ trong dân
chúng, nhất là trong tầng lớp dân nghèo, trong ngành giáo dục, như đã từng diễn ra ở
nhiều nước Tây Âu trong mấy năm gần đây, và sẽ gây khó khăn cho các chính phủ
đương quyền mỗi khi các cuộc bầu cử đến gần.
2. Đối với nền kinh tế thế giới
Tạo sự thay đổi lớn trong hệ thống tiền tệ thế giới.
Tương lai của đồng EURO.
16
Hệ thống tiền tệ quốc tế với đồng USD giữ vai trò khống chế trong suốt nửa thế kỷ qua
bị thay thế bởi hệ thống t iền tệ với hai đồng tiền quan trọng nhất là đồng USD và đồng
EURO chi phối. Vào thời điểm hình thành năm 1999, với một nền kinh tế phát triển của 11
nước châu Âu có 290 triệu dân, tổng sản phẩm quốc dân chiếm tới 19,6% của thế giới và
18,6% thương mại toàn cầu, đồng EURO sẽ trở thành một đồng tiền ngoại tệ lớn và là đối
thủ đáng gờm đối với đồng USD. Các nước EU có 370 triệu dân với GDP 7.900 tỷ USD,
chiếm 20% hàng hoá xuất khẩu trên thế giới. Trong khi đó Mỹ có 268 triệu dân với GDP là
8.000 tỷ USD lại chỉ chiếm 15% hàng hoá xuất khẩu trên thế giới. Nếu đồng EURO giữ
được ổn định thì sẽ có sức cạnh tranh mạnh và vị trí truyền thống của đồng USD sẽ ngày
càng bị suy giảm mạnh.
Sự thách thức của đồng EURO đối với đồng USD thể hiện trên các lĩnh vực dự
trữ ngoại tệ, trao đổi ngoại thương và giá trị cổ phiếu trên các thị trường chứng
khoán.
Về dự trữ ngoại tệ : Khi EURO ra đời, ngoại thương của các nước tham gia sẽ trở
thành nội thương, nợ giữa các nước thành viên sẽ trở thành nợ bên trong, vì vậy nhu cầu về
dự trữ ngoại tệ của N gân hàng Trung ương châu Âu sẽ giảm mạnh. Do đó, nhiều khả năng
Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ bán đi một số lượng lớn USD. Mặt khác khi đồng EURO
trở thành đồng tiền chung của một khối kinh tế mạnh thì nhiều nước trên thế giới (nhất là
Nhật do hầu hết dự trữ ngoại tệ là USD) sẽ giảm bớt một phần dự trữ bằng đồng USD để
mua thêm đồng EURO (mức độ ít nhiều còn tuỳ thuộc vào khả năng ổn định của đồng
EURO). Đây có thể là một nhân tố gây tác động làm giảm giá đồng đô la Mỹ. Thêm vào đó
nhu cầu dự trữ về vàng cũng sẽ giảm vì trước đây các nước chủ yếu dự trữ bằng vàng và
USD, nay lại có thêm một đồng tiền mạnh và ổn định có thể được sử dụng để dự trữ, do vậy
trong tương lai vàng sẽ bị bán ra nhiều nên giá vàng cũng sẽ bị giảm. Đây là điều mà chúng
ta phải tính đến trong cơ cấu dự trữ của ta sau này.
Về ngoại thương, trao đổi trong nội bộ khối trước đây (chiếm khoảng 60% xuất khẩu)
dùng nhiều USD (ngay cả những nước như Pháp và Hà Lan vốn rất gắn chặt với đồng mác
Đức cũng có xu hướng thanh toán với nhau bằng USD hơn là bằng mác Đức) nay chuyển
Tương lai của đồng EURO.
17
sang thanh toán bằng đồng EURO sẽ làm cho kim ngạch thanh toán bằng đồng đô la Mỹ bị
giảm sút đáng kể. Hiện nay trong tổng kim ngạch xuất khẩu của EU thì phần tính bằng USD
chiếm 48%, bằng tiền của các nước EU chiếm 33%. Xét tổng thể, nền kinh tế các nước EU
gần tương đương Mỹ, nhưng tổng giá trị ngoại thương lại vượt hẳn Mỹ. Theo các nhà phân
tích kinh tế, sau khi ra đời, đồng EURO có thể chiếm khoảng 35-40% các khoản giao dịch
và buôn bán quốc tế. T rong buôn bán với M ỹ, các nước EU cũng sẽ buộc Mỹ phải sử dụng
đồng EURO, nên M ỹ cũng sẽ phải dự trữ cả EURO. Đối với thương mại thế giới khi đồng
EURO ra đời và được thừa nhận là đồng tiền mạnh và ổn định thì sẽ có xu hướng các nước
cũng sẽ sử dụng EURO thay thế USD trong thanh toán một số giao dịch ngoại thương với
nhau và trong buôn bán giữa EU với các nước khác, do đó sẽ làm giảm nhu cầu sử dụng
USD trong thương mại thế giới.
Dung lượng và khả năng thị trường tài chính của EU và Mỹ là gần tương đương nhau...
Trong tổng vốn đầu tư của tư nhân trên thị trường quốc tế, phần đầu tư bằng đô la Mỹ chiếm
40%, bằng tiền của EU chiếm 37%, bằng Yên Nhật chiếm 12%. Theo dự đoán của một số
chuyên gia tài chính, có khả năng sau năm 2002 có khoảng 3000 tỷ đô la vốn đầu tư quốc tế
sẽ chuyển sang đồng EURO, trong đó có từ 700 đến 1000 tỷ là từ đồng đô la Mỹ. Do đó, khi
EURO xuất hiện trên thị trường tài chính thế giới thì trong các giao dịch tại thị trường chứng
khoán và trong việc phát hành công trái, các nước trước hết là các nước EU sẽ dùng EURO,
do vậy nhu cầu về USD trên thị trường tài chính sẽ giảm một cách đáng kể.
Tóm lại, sau khi đồng EURO ra đời hệ thống tài chính thế giới sẽ bị thay đổi cơ bản.
Những thay đổi này sẽ bắt đầu từ việc thanh toán các loại dịch vụ và buôn bán quốc tế, kể cả
các giao dịch thị trường chứng khoán, sau đó đến việc giải toả dự trữ ngoại t ệ ở các quốc
gia. Hơn nữa, bên cạnh việc sử dụng USD như trước đây, trên thị trường sẽ xuất hiện t hêm
EURO, do đó trong tương lai không xa, nhu cầu sử dụng USD giảm bắt buộc sẽ dẫn đến việc
giảm giá của USD, và như vậy việc ra đời của EURO không chỉ tác động đến lĩnh vực tiền tệ
mà sẽ tác động cả đến lĩnh vực kinh tế và chính sách kinh tế của các quốc gia.
Tương lai của đồng EURO.
18
Sự cạnh tranh về tiền tệ giữa đồng USD và đồng EURO có thể sẽ gây ra một số
rạn nứt trong quan hệ giữa Mỹ và EU và thúc đẩy xu thế đa cực, đa trung tâm
trong quan hệ quốc tế phát triển.
Chính phủ M ỹ tuy bên ngoài đã có những tuyên bố hoan nghênh sự ra đời của đồng
EURO và EMU, nhưng thực tế bên trong cũng hết sức lo ngại. Trước hết như đã phân tích,
đồng EURO ra đời sẽ là một đối thủ cạnh tranh đáng gờm đối với đồng USD và từng bước
làm giảm vị trí truyền thống của đồng USD. Để đảm bảo cho đồng EURO ổn định và vững
mạnh, các chính phủ các nước tham gia EMU cũng như Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ
cần phải có những chính sách bảo vệ và khuyến khích sử dụng đồng EURO, điều này chắc
chắn sẽ gây ảnh hưởng bất lợi cho vị trí của đồng USD ở châu Âu và do đó sẽ gây một số
thiệt hại về lợi ích cho Mỹ ở châu lục này. Cuộc đấu tranh vì lợi ích và ảnh hưởng kinh tế ở
châu Âu giữa Mỹ và Liên minh Châu Âu sẽ trở nên quyết liệt hơn.
- Sau khi EURO ra đời, do những thuận lợi của thị trường thống nhất có trình độ phát
triển cao và ổn định, khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài của các nước EU
sẽ mạnh hơn trên các mặt hàng công nghệ cao và đòi hỏi vốn lớn. Do đó có thể thấy trước
được là một phần vốn đầu tư của thế giới sẽ dồn vào các nước EU sau khi đồng EURO ra
đời. Trong mấy năm qua, các công ty lớn của Mỹ và Nhật đã có những biện pháp và chuẩn
bị cho sự kiện này và họ đã ít nhiều thiết lập được chỗ đứng của mình thông qua các đối tác
nội địa để tận dụng được lợi thế của việc sản xuất tại chỗ đáp ứng nhu cầu của khách hàng
và tránh được thuế nhập khẩu khi liên minh hình thành.
- Một trong những vấn đề đặt ra cho các nước bạn hàng và con nợ của các nước thành
viên EMU là tỷ lệ chuyển đổi giữa đồng tiền quốc gia nước chủ nợ với đồng EURO. Tuy
đồng ECU đã tồn t ại trong thanh toán quốc tế được một thời gian và quy định chuyển đổi
ngang bằng với đồng EURO làm dễ dàng phần nào những giao dịch thương mại mới, nhưng
những khoản nợ từ viện trợ, đầu tư... bằng đồng t iền quốc gia cần có hướng giải quyết thoả
đáng. Vì tuy rằng tỷ giá chuyển đổi đồng t iền quốc gia sang đồng EURO là cố định, nhưng
lãi suất sẽ có sự khác nhau giữa các nước tham gia EMU. Cho nên điều quan trọng là các
Tương lai của đồng EURO.
19
nước nợ phải có những trao đổi và thương lượng để đi đến thống nhất một tỷ lệ lãi suất thích
hợp sao cho số nợ không bị gia tăng do việc ra đời của đồng EURO.
III. PHÂN TÍCH CÁC ÁP LỰC ĐỐI VỚI ĐỒNG EURO
1. Vấn đề mở rộng EU
Tính đến nay, Liên minh châu Âu (the European Union, gọi tắt là EU) hiện bao gồm 28
nước thành viên: Pháp, Đức, Italia, Bỉ, Hà Lan, Lúc-xăm-bua, Anh, Ai Len, Đan Mạch, Hy
Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Áo, Thuỵ Điển, Phần Lan, Séc, Hung-ga-ri, Ba Lan, Slô-
va-kia, Slô-ve-nia, Lít-va, Lát-vi-a, Exờ-tô-nia, Man-ta, Síp, Bun-ga-ri, Ru-ma-ni và Croatia.
Từ khi được hình thành và phát triển cho đến nay, EU không ngừng mở rộng, kết nạp các
thành viên mới. Việc mở rộng gây ra một số áp lực đối với đồng Euro:
- Để kết nạp các nước thành viên mới thì EU cần phải có một khoản tài chính không
phải là nhỏ để giúp các nước này về mặt kỹ thuật và cơ cấu. Chính việc này đã góp
phần dẫn đến tình trạng nợ công khó kiểm soát và ảnh hưởng không nhỏ đến đồng
Euro.
- Sự chênh lệch về mức sống giữa mặt bằng chung của EU với mức sống của các nước
ứng cử viên được kết nạp mới. Mức sống của công dân trong Liên minh nhìn chung
khá cao, trong khi nền kinh tế của các nước ứng cử viên vẫn còn thấp. Đơn cử như
năm 2000, GDP theo đầu người của Slovenia chỉ bằng 59% bình quân GDP của EU,
tại Ba Lan con số này chỉ tương đương với 31%, ở Hungari là 37% và với Cộng hoà
Séc là 55%.Trình độ phát triển của các nước này vẫn còn chưa tương xứng với mặt
bằng chung của EU, chính vì vậy rất có thể các nước này sẽ là "lực ỳ" cản trở sự phát
triển của châu Âu. Như vậy EU sẽ gặp phải khó khăn khi kết nạp thêm các nước này,
vì nếu xét theo logic thì Liên minh châu Âu sẽ bị giảm sức mạnh của mình. Theo
phân tích của các nhà nghiên cứu, nếu kết nạp thêm 5 nước đầu tiên xin gia nhập thì
GDP bình quân theo đầu người của EU sẽ giảm từ 17.260 Euro xuống còn 15.740
Euro. Do đó, kéo theo việc giảm sức mạnh của đồng Euro.
- Kết nạp quá nhiều các quốc gia có nền văn hoá và chế độ chính trị khác nhau sẽ có
ảnh hưởng nhất định đến việc thực hiện các chính sách chung của châu Âu. Do đó,
việc thực hiện các chính sách để giúp đồng Euro ứng phó với những biến động bất
thường của nền kinh tế sẽ gặp nhiều trở ngại và khó kịp thời. Bên cạnh đó, chính sách
điều hành đồng tiền chung cũng sẽ gặp khó khăn hơn trong quá trình triển khai thực
hiện.
- Một sự biến động về kinh tế, chính trị của bất kỳ một nước nào trong liên minh Châu
Âu cũng sẽ có ảnh hưởng nhất định đến đồng Euro, do đó, càng mở rộng thì áp lực
Tương lai của đồng EURO.
20
đối với đồng Euro càng gia tăng, và đồng Euro càng dễ biến động trước sự biến động
của thị trường.
2. Nợ công ở các nước thành viên EU
Có thể nói, hầu hết các quốc gia đều có nợ công, dù ít hay nhiều, tạm thời hay mạn
tính. Nợ công đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển nhưng sẽ trở thành quốc nạn
khi bắt đầu gây tổn hại đến nền kinh tế. Nó có thể dẫn đến lạm phát, làm cho quốc gia mất
khả năng thanh toán và các nhà đầu tư mất hết niềm tin…
Nhưng yếu tố thực sự gây ra cuộc khủng hoảng ở châu Âu không phải là nợ công mà là
những khoản nợ nước ngoài khổng lồ ngày càng gia tăng, cộng thêm chiến dịch tấn công
làm suy yếu đồng euro trên các thị trường quốc tế.
Vậy thực chất nợ công là gì? Theo Jimmy Group, nợ công là tổng giá trị các khoản tiền
mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay nhằm tài trợ cho các
khoản thâm hụt ngân sách. Do đó, nợ công, nói cách khác, là thâm hụt ngân sách luỹ kế tính
đến một thời điểm nào đó.
Để tính toán quy mô của nợ công, các chuyên gia kinh tế thường tính khoản nợ dựa
trên phần trăm so với GDP. Nợ công thường được phân thành nợ trong nước và nợ nước
ngoài. Việc đi vay của chính phủ có thể được thực hiện thông qua phát hành trái phiếu chính
phủ để vay từ các tổ chức, cá nhân.
Trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ được coi là không có rủi ro tín dụng vì
chính phủ có thể tăng thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn.
So với trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ, trái phiếu chính phủ phát hành bằng
ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh có cầu lớn) có rủi ro tín dụng cao hơn vì chính phủ có
thể không có đủ ngoại tệ để thanh toán, thêm vào đó còn có thể xảy ra rủi ro về tỷ giá hối
đoái.
Ngoài ra, chính phủ cũng có thể vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể
chế tài chính quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) hay Ngân hàng thế giới (WB). Nhưng
hình thức vay này thường được chính phủ của các nước có độ tin cậy tín dụng thấp áp dụng
vì khi đó khả năng vay nợ bằng hình thức phát hành trái phiếu chính phủ của họ không cao.
Và khi nợ công tăng cao, vượt quá xa giới hạn được coi là an toàn, nền kinh tế rất dễ bị tổn
thương và chịu nhiều sức ép cả bên trong và bên ngoài.
Cụ thể, chính phủ các nước thường buộc phải tăng thuế để trả lãi nợ vay và nếu nợ
nước ngoài lớn thì lại phải tăng cường xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và giảm chi tiêu công
– điều kiện tiên quyết để nhận được các gói cứu trợ.
Tương lai của đồng EURO.
21
Vì vậy, khi xét đến nợ công, điều cốt lõi không chỉ cần quan tâm tới tổng nợ, nợ hằng
năm phải trả mà phải quan tâm đến rủi ro và cơ cấu nợ. N ghĩa là phải tính đến khả năng trả
nợ và rủi ro trong tương lai chứ không phải là con số tổng nợ trên GDP.
Trong trường hợp với các quốc gia ở châu Âu, cuộc khủng hoảng nợ công bắt nguồn từ
những sai lầm trong quản lý hệ thống tài chính của từng quốc gia và của cả EU.
Ví dụ như chính sách tiền tệ của EU không đi cùng với cách thu thuế và lao động và
khi sự cố xảy ra, chính phủ các nước lại chỉ tập trung vào giảm thâm hụt ngân sách nên lại
càng làm gia tăng rủi ro. Đó là chưa kể đến những phản ứng chậm của EU và Ngân hàng
trung ương châu Âu (ECB).
Một nguyên nhân cũng đáng chú ý là phần lớn các quốc gia châu Âu sau một thời gian
phát triển kinh tế ở mức độ trung bình, không có đột phá, lại quá nôn nóng với chính sách
kích cầu và chịu thêm áp lực từ các nhóm tài phiệt nên tạo một mớ bòng bong trong hệ
thống tài chính - ngân hàng.
Một số nhà phân tích kinh tế còn chỉ ra rằng, vấn đề hiện nay ở khu vực châu Âu được
biết đến trên toàn thế giới như là cuộc khủng hoảng nợ công. Nhưng cuộc khủng hoảng thực
sự đang xảy ra lại chính là khủng hoảng nợ nước ngoài.
Điển hình như ở Bồ Đào Nha, tuy nợ công và tỷ lệ thâm hụt ngân sách của nước này
chỉ bằng Pháp nhưng do các khoản nợ nước ngoài cao của khu vực tư nhân nên chính quyền
đã buộc phải xin cứu trợ từ EU và ECB. Điều này có nghĩa là trong khủng hoảng, các khoản
nợ tư có xu hướng chuyển thành nợ công.
Như vậy, việc đánh giá đúng nợ công và “thực chất” nợ công của một nền kinh tế, một
quốc gia là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong những thời điểm nhạy cảm. Bởi lẽ, nếu chỉ
chú trọng vào con số tỷ lệ nợ công cao một cách thuần túy sẽ gây nên hiệu ứng tâm lý hoang
mang, kích động, thiếu tin tưởng, làm gia tăng căng thẳng xã hội, bị giới đầu cơ lợi dụng tấn
công, dễ gây rối loạn nền kinh tế, thậm chí dẫn nền kinh tế đến bên bờ vực phá sản.
Ngược lại, nếu yên tâm với tỷ lệ nợ công còn trong giới hạn an toàn, mà không phân
tích cẩn trọng, chú ý đúng mức đến khoản nợ đó được hình thành như thế nào, bằng cách
nào, thực trạng nền kinh tế ra sao và khả năng trả nợ thế nào…, cũng sẽ dễ đẩy nền kinh tế
rơi vào vòng xoáy thâm hụt ngân sách – "thắt lưng buộc bụng" – tác động tiêu cực đến tăng
trưởng.
Bên cạnh những nguyên nhân được cho là xuất phát từ bên trong EU, các nhà phân tích
kinh tế cũng nhắc nhiều đến yếu tố t ác động từ bên ngoài dưới tên gọi “chiến dịch tấn công
làm suy yếu đồng euro”.
Tháng 2/2010, tức là chỉ một vài tháng sau khi Hy Lạp nổi lên là quốc gia đầu tiên ở
châu Âu có nguy cơ bị phá sản, Bộ trưởng Giao thông và Việc làm Tây Ban Nha Jose
Tương lai của đồng EURO.
22
Blanco Lopez đã cảnh báo rằng có một chiến dịch tấn công đồng euro trên các thị trường thế
giới mà mục tiêu nhằm vào Tây Ban Nha.
Khi đó, một số nhà kinh tế học cũng đồng t ình với quan điểm này và cho rằng Anh và
Mỹ đã tạo ra chiến dịch này để hạ bệ đồng euro đúng vào lúc đồng tiền này đang giữ thế
thượng phong so với đồng USD trên thị trường quốc tế.
Còn đối với đồng bảng Anh, euro đã “bóp chết” đồng tiền này ở các nước châu Âu. Dù
đây chỉ là một giả thuyết trong vô vàn giả thuyết khác nhau về cuộc khủng hoảng nợ công ở
châu Âu song nếu suy xét cặn kẽ, người ta cũng thấy nó không phải là không có lý.
Bởi lẽ, ngay sau khi Hy Lạp xin giải cứu, đồng euro đã trượt dài theo dốc đi xuống trên
thị trường và đồng USD nhanh chóng lấy lại vị trí độc tôn của mình. Còn đồng bảng Anh thì
trở thành hình mẫu, có nghĩa là nhiều quốc gia muốn được trở lại như Anh, có đồng tiền
riêng để khỏi phụ thuộc vào đồng euro và tránh nguy cơ bị kéo vào hiệu ứng domino của
cuộc khủng hoảng nợ công.
Từ đây, Anh cũng bắt đầu có những động thái tiếp theo, đe dọa tính bền vững của khu
vực Eurozone khi giới chức nước này liên tục tuyên bố xem xét việc rút xứ sở sương mù ra
khỏi EU.
Chưa hết, thời điểm khủng hoảng của Eurozone, nhất là khi các nền kinh tế bị hạ bậc
tín nhiệm theo báo cáo của các tổ chức chuyên đi đánh giá tín nhiệm các công ty và quốc gia
khác, niềm t in của người dân và giới đầu tư bị lung lay cũng chính là cơ hội cho các hoạt
động đầu cơ tài chính của giới tài phiệt.
Do đó, mớ bùng nhùng của tài chính châu Âu lại càng trở nên rối ren, khiến các quốc
gia liên tục rơi vào vòng xoáy của tình trạng thâm hụt ngân sách, buộc phải tăng thuế, thắt
chặt chi tiêu để rồi lại rơi sâu vào suy thoái…
Theo nhà báo người Đức David Froje, bài học lớn nhất mà thế giới rút ra từ cuộc
khủng hoảng nợ công tại châu Âu là bất kỳ nền kinh tế nào, nếu lơ là quản lý, đều có thể sụp
đổ vì nợ nần.
Qua đây, châu Âu, vốn luôn tự hào là những thể chế minh bạch, cho phép người dân có
thể giám sát mọi hoạt động của chính quyền, lại phải học thêm bài học về tăng cường minh
bạch bởi nhiều chính phủ đã không làm tròn trách nhiệm trong chi tiêu những đồng tiền thuế
của người dân một cách hợp lý và minh bạch.
Và thiếu sự minh bạch ấy, các cơ quan có vai trò giám sát như Quốc hội, các tổ chức
xã hội, công chúng... không có đủ thông tin và không thể phản biện, hành động kịp thời.
Tương lai của đồng EURO.
23
IV. BÀI HỌC RÚT RA TỪ KHU VỰC ĐỒNG TIỀN CHUNG CHÂU ÂU CHO
KHU VỰC CHÂU Á
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Liên minh châu Âu (EU) có những
đặc điểm xã hội và kinh tế rất khác nhau. Căn cứ vào GDP thì sức mạnh kinh tế của EU gấp
hơn 9 lần so với ASEAN. EU bắt đầu tiến trình hội nhập từ năm 1958, một khoảng thời gian
dài trước khi có Tuyên bố Băng Cốc về thành lập A SEAN vào năm 1967. Dù có sự khác biệt
như vậy, nhưng cuộc khủng hoảng nợ ở khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) hiện
nay có thể mang lại cho ASEAN bài học quý giá cho tương lai.
1. Đồng tiền chung Châu Âu và xu hướng của nó trong thời gian tới
Châu Âu được biết đến là nơi có điều kiện sống hàng đầu thế giới với cuộc sống vật chất
và tinh thần rất cao, chế độ chính trị và xã hội khá ổn định, đồng tiền chung của 16 quốc gia
ngày càng khẳng định được vị thế, tạo sự tin cậy, từng bước thay thế vị trí độc tôn của USD
trong gần chục năm qua về thanh toán và dự trữ quốc tế....Tỷ trọng của Euro trong quỹ dự
trữ của các Ngân hàng Trung Ương trên thế giới vào cuối năm 2009 đã lên tới gần 30%, so
với mức 17,9% từ khi ra đời. Nhưng khi một số nước Châu Âu rơi vào cuộc khủng hoảng
nợ, các món nợ khổng lồ và chồng chéo nhau được lộ rõ, thì sức mua của Euro suy giảm sút
mạnh. Tính đến tháng 7/2010, Euro đã giảm giá khoảng 15,7% so với USD, 8,5% so với
GBP và 20% so với JPY… Những gì đang diễn ra bên trong Eurozone, khiến nhiều người
phải đặt câu hỏi về sự gắn kết ở khu vực này.Tương lai của Euro sẽ ra sao? Tiếp tục tồn tại
và phát triển hay đồng tiền chung Châu Âu bị tan vỡ…?
Tỷ giá USD/EUR từ tháng 7/2009 đến tháng 7/2010
Tương lai của đồng EURO.
24
Nguồn: RatesFX
Nhận định về xu hướng này cho rằng các nước trong khu vực không dễ dàng để Euro
chết yểu, Euro vẫn tồn t ại, nhưng sẽ bị giảm giá trong trung hạn. Nhận định này được xuất
phát từ ba lý do sau:
Một là, cuộc khủng hoảng nợ công ở các nước Eurozone cùng với các kế hoạch cắt
giảm chi tiêu, cứu trợ kinh tế tiếp tục là mối đe dọa nghiêm trọng đến tăng trưởng kinh tế
của eurozone. Việc cứu trợ Hy Lạp có thể sẽ phải kéo dài, thậm chí có thể phải cơ cấu lại nợ.
Kế hoạch cứu trợ kinh tế của các nước tiếp theo như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha,… sẽ tác
động xấu đến tăng trưởng kinh tế của khu vực Euro.
Tương lai của đồng EURO.
25
Vì thế, Châu Âu khó tránh khỏi cuộc suy thoái kinh tế vào năm 2011 và tình trạng trì
trệ vào những năm tiếp theo. Như vậy, tăng trưởng kinh tế của khu vực này sẽ chậm hơn các
nền kinh tế lớn như Hoa Kỳ, Trung Quốc và các nền kinh tế phát triển khác, trong khi lượng
tiền không nhỏ đưa ra để cứu trợ, sẽ đẩy nhanh đà mất giá của Euro.
Hai là, Sự suy giảm niềm tin của giới đầu tư và người tiêu dùng sẽ tiếp tục đặt áp lực
giảm giá Euro. Niềm tin đối với triển vọng kinh tế của 16 quốc gia khu vực sử dụng Euro đã
sụt giảm trong quí 2 và 3 năm 2010. Theo số liệu của IMF, chỉ số niềm t in của giới chủ
doanh nghiệp và người tiêu dùng tại Eurozone đã giảm từ mức 100,6 điểm trong tháng 4
xuống 94,5 điểm trong tháng 6, trong đó, tại Hy Lạp giảm từ mức 69,1 điểm xuống còn 51,9
điểm, tại Bồ Đào Nha giảm từ 93,8 điểm xuống còn 87,1 điểm. Xu hướng giảm giá Euro
càng thể hiện rõ khi Liên minh Châu Âu và IMF phải đưa ra quyết định về việc thành lập
Quỹ cứu trợ khẩn cấp trị giá 1.000 tỷ USD, nhằm ngăn ngừa sự sụt giảm liên tục của Euro
hiện tại và trong tương lai.
Ba là, Khi các gói cứu trợ nhằm giúp các nước trong Eurozone thoát khởi cuộc khủng
hoảng nợ, phục hồi tăng trưởng kinh tế, thì việc Euro suy yếu cũng tạo cơ hội để khu vực
này phát triển. Bởi khi Euro mất giá, hàng hóa nhập khẩu vào Châu Âu trở nên đắt hơn, sẽ
giúp giảm thâm hụt thương mại, đồng thời t ăng cường xuất khẩu, cải thiện sức cạnh tranh
vốn đang rất yếu của các nước trong Eurozone, từ đó thúc đẩy tiến trình phục hồi kinh tế của
khu vực.
2. Bài học rút từ Khu vực đồng tiền chung Châu Âu cho khu vực Châu Á
Nghiên cứu quá trình phát triển của Euro, có thể rút ra một số bài học cho khu vực
Châu Á:
Thứ nhất, liên minh kinh tế và tiền tệ ra đời là một phát triển tất yếu của quá trình nhất
thể hoá khu vực. Kinh nghiệm khu vực Châu Âu cho thấy, sự cạnh tranh quyết liệt giữa các
nền kinh tế đã đẩy nhanh quá trình liên kết và hoà nhập kinh tế của các nước EU. Kết quả
của những nỗ lực thống nhất Châu Âu là đã ký được Hiệp ước Maastricht tháng 2/1992,
trong đó đề ra mục tiêu quan trọng nhất là thành lập Liên minh tiền tệ châu Âu, nhằm xoá bỏ
hàng rào cuối cùng ngăn cản quá trình nhất thể hoá kinh tế. Vì thế, sự ra đời của Euro là một
Tương lai của đồng EURO.
26
tất yếu trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế thế giới và nhất thể hoá kinh tế khu vực. Mặt khác,
sự ra đời Euro là kết quả của một quá trình phát triển và hòa nhập về kinh tế lẫn chính trị, có
tác động sâu sắc không chỉ với các nước thành viên mà với cả Châu Âu và các nước có quan
hệ thương mại với Eurozone.
Hiệp ước Maastricht năm 1992 nêu rõ, các thành viên đồng tiền chung châu Âu chỉ có
thể có tối đa 3% GDP trong giới hạn được vay hàng năm và tỷ lệ nợ trên GDP là 60% để
đảm bảo sự ổn định của khu vực đồng tiền chung châu Âu và ngăn chặn hành vi tài chính
thiếu thận trọng. Nhiều năm sau đó, mọi người dường như quên rằng họ từng có những giới
hạn như vậy.Không cần thiết phải nói rằng Hy Lạp đã bỏ qua qui định hạn chế này, dẫn đến
mức thâm hụt ngân sách chiếm 12% GDP và tỷ lệ nợ so với GDP lên đến 160%. Một số
phương t iện truyền thông cáo buộc Hy Lạp mánh khóe lợi dụng qui định của Hiệp ước
Maastricht bằng cách sử dụng các kỹ thuật tài chính phức tạp. Điều làm chúng ta quan ngại
là Đức và Pháp – hai quốc gia lớn nhất trong khu vực đồng tiền chung châu Âu – cũng vượt
quá các quy tắc tối thiểu bằng cách làm cho ngân sách thâm hụt lần lượt 4% và 7% GDP,
cũng như tỷ lệ nợ so với GDP là 83% và 82%. Điều đó khiến chúng ta nhận thức được rằng
các nhà lãnh đạo EU không thể duy trì các quy tắc riêng của họ.
Liên minh kinh tế tiền tệ ASEAN: đầu tiên và trước mắt, quá trình hợp nhất tài chính
khu vực ASEAN phải lệ thuộc vào mức độ ảnh hưởng của các thể chế tài chính khu vực.
Quá trình xuất hiện các định chế tài chính đa dạng tỏ ra quá chậm chạp so với nhu cầu đang
không ngừng gia tăng của các tầng lớp trung lưu đang già cỗi dần. Khu vực ASEAN vốn
luôn tự hào về sự tăng trưởng mà không chịu sức ép về tài chính, theo nghĩa là dù lạm phát
gia tăng liên tục trong nhiều năm qua nhưng người gửi tiền chỉ phải chịu một mức lãi suất
thực âm không đáng kể trong khi khu vực xuất khẩu và sản xuất nhận được rất nhiều lợi ích.
Có thể giai đoạn hợp nhất tài chính khu vực ASEAN tiếp theo mang định hướng thị
trường do những rào cản cho quá trình hội nhập của các thể chế tài chính ASEAN được dỡ
bỏ. Việc có ngày càng nhiều thể chế tài chính xuất hiện nhiều ở thị trường các quốc gia
thành viên là một bước đi vững chắc hướng đến sự hợp nhất mang tầm khu vực, thay vì
những phát ngôn.
Tương lai của đồng EURO.
27
Lấy Malaysia là một ví dụ, quốc gia này đã cho phép các thể chế tài chính từ khu vực
Trung Quốc, Ấn Độ, Indonexia và thậm chí là cả ở Trung Đông xuất hiện ở thị trường nội
địa. Nếu quá trình này tăng tốc và lan rộng,một sự hợp nhất tài chính ở khu vực này sẽ xuất
hiện nhờ sự liên kết mật thiết giữa các thể chế tài chính ấy.
Sai lầm về mặt cấu trúc của đồng tiền chung Euro thể hiện ở chỗ dù có một ngân hàng
Trung Ương châu Âu và hệ thống giám sát tài chính châu Âu nhưng cả khu vực này vẫn
không có một hệ thống tài chính thống nhất. Vì thế, khi một quốc gia trong hệ thống thành
viên có khoản thâm hụt tài chính lớn, không một tổ chức nào có thể đứng ra điều phối chính
sách tài chính một cách hiệu quả. Do đó, một liên minh kinh tế tiền tệ ASEAN ra đời cần lưu
ý đến việc xây dựng một sự thống nhất về mặt chính trị, chính sách tài chính hay tiền tệ,
cũng như chính sách giám sát tài chính. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra tính bất hợp lý trên bình
diện cấu trúc của khu vực Euro khi cố gắng kết hợp nhiều nền kinh tế chênh lệch về lượng,
và khác nhau về chất thành một khối. Do vậy, một liên minh kinh tế tiền tệ ASEAN muốn
thành công phải giải quyết được sự chênh lệch trong kinh tế của các thành viên.
Thứ hai, tính minh bạch trong hệ thống tài chính, đặc biệt là minh bạch trong chi tiêu
ngân sách là một yếu tố quan trọng quyết định sự bền vững của liên minh khu vực cũng như
triển vọng của đồng tiền khu vực.Với những tiêu chí và tiêu chuẩn chặt chẽ của eurozone,
Euro đã tạo được sự tin cậy khá cao. Nhưng nguyên nhân gây bất ổn, thậm chí gây nguy cơ
khủng hoảng Eurozone cũng lại chính ở khía cạnh này.
Do việc nhất thể hóa chính trị không theo kịp nhất thể hóa tiền tệ, mà quan trọng hơn là
sự chậm trễ trong nhất thể hóa kinh tế, nhất là nguyên tắc phối hợp giữa chính sách t iền tệ
với chính sách tài khóa, trong khi giao quyền về chính sách tiền tệ cho ECB, nhưng mỗi
thành viên vẫn hoạch định chính sách t ài khóa riêng. Vì thế, khi thâm hụt ngân sách, chính
phủ các nước thành viên không thể phát hành thêm tiền để bù đắp thiếu hụt, mà buộc phải
tăng vay nợ và tìm mọi cách che dấu.
Tương lai của đồng EURO.
28
Nguồn: website của Ngân hàng trung ương châu Âu - ECB
Hy Lạp rơi vào cuộc khủng hoảng nợ, thì nhiều nghi vấn được đặt ra, bởi các số liệu
công bố khác xa với thực tế. Do đó một bài học rất có giá trị đối với khu vực Châu Á chính
là việc minh bạch tài chính nói chung, minh bạch về chi tiêu công nói riêng nếu muốn hướng
đến hội nhập khu vực. Trong khi các vấn đề về minh bạch tài chính, minh bạch nợ công và
hiệu quả của chi tiêu công và kỷ luật tài khóa ở Châu Á còn hạn chế hơn nhiều so với Châu
Âu. Vì vậy, vấn đề tạo sự cân bằng giữa tích lũy và tiêu dùng, giữa lợi ích ngắn hạn với phát
triển bền vững trong dài hạn cùng các cơ chế điều hành chính sách tài khóa – tiền tệ hợp lý
là rất cấp thiết cho Châu Á cũng như các khu vực khác trên thế giới.
Thứ ba, vấn đề quản lý các dòng vốn vào ra của khu vực Euro được coi một đồng t iền
mạnh, nhưng sự luân chuyển toàn cầu của Euro lại bị chi phối bởi các trung t âm tài chính
lớn trên thế giới. Vì vậy, khi gặp khó khăn về t ài chính, một số thành viên phải trông chờ
vào sự giúp đỡ từ bên ngoài. Mặt khác cũng do chưa nhất thể hóa trong việc quản lý dòng
vốn vào – ra (vốn FDI, FII và ODA), đặc biệt là hoạt động vay mượn của Chính phủ và
doanh nghiệp, nên khi có bất ổn nảy sinh, thì mối đe dọa về khủng hoảng tài chính, khủng
hoảng kinh tế là khó tránh khỏi. Đây cũng là bài học cho khu vực Châu Á, khi thực hiện tự
do hóa tài khoản vốn, nhưng vẫn thiếu các chế t ài để giám sát chặt chẽ dòng vốn vào – ra
trên thị trường.
Thứ tư, sự khác biệt về trình độ phát triển trong Eurozone có chiều hướng gia t ăng,
khiến các nước khu vực Châu Á cần xem xét nghiêm túc về chênh lệch mức độ phát triển,
nếu muốn hướng đến hội nhập khu vực.
Tương lai của đồng EURO.
29
Về mức độ phát triển của các nước ở Eurozone là khá đồng đều, đây là một thuận lợi
cho quá trình hội nhập khu vực. Tuy nhiên, sau một số năm gia nhập, khoảng cách và sự
chênh lệch về phát triển kinh tế - xã hội của khu vực này không những không thu hẹp mà
còn nới rộng hơn, trong khi các nước Nam Âu t ăng trưởng rất chậm, thì Đức nhanh chóng
trở thành “đầu tàu kinh t ế” của Châu Âu. Thực tế này đòi hỏi ECB phải đưa ra được chính
sách tiền tệ phù hợp cho các nền kinh tế trong khu vực. Đối với Châu Á, tính đa dạng và
không đồng nhất về thể chế chính trị, văn hóa, xã hội & kinh tế giữa các nền kinh tế (thu
nhập bình quân đầu người, mức độ phát triển của thị trường tài chính, quy mô và phạm vi
kiểm soát về vốn, thể chế chính trị và các điều kiện xã hội khác) sẽ là một trở ngại lớn trong
phối hợp chính sách khu vực. Do đó để hướng đến khu vực đồng tiền chung, trước hết Châu
Á (cụ thể là các nước Đông Á) cần khắc phục được những bất cập này.
3. Triển vọng về một đồng tiền chung Châu Á
Đồng tiền chung Châu Á là vấn đề đã được đề cập khá nhiều trong các Hội nghị quốc
tế và khu vực, kể từ sau cuộc khủng hoảng tiền tệ 1997-1998. Theo Kế hoạch Hành động Hà
Nội (tháng 12/1998) và Hội nghị thượng đỉnh ASEAN+3 ở Manila (tháng 11/1999), và
ASEAN+3 ở Chiềng Mai (Thái Lan - tháng 5/2000). Ý tưởng về việc hình thành đồng tiền
chung châu Á (AS) là rất t ích cực trong xu thế liên kết khu vực, một mặt thúc đẩy phát triển
kinh tế xã hội, tăng khả năng cạnh tranh, mặt khác sẽ giúp các quốc gia Châu Á hạn chế sự
lệ thuộc quá nhiều vào USD và tránh được những biến động trên thị trường tiền tệ quốc tế.
Nhưng khó khăn lớn nhất cho việc ra đời AS là sự khác biệt lớn giữa các thành viên và cốt
lõi của quá trình chuẩn bị cho ASZONE là đạt được sự thống nhất trong sự khác biệt quá lớn
này. Do tính đa dạng về kinh tế, văn hóa, chính trị giữa các quốc gia Châu Á cũng hình
thành nhiều cấp độ phát triển kinh tế khác nhau trong khu vực, tạo nên khoảng cách chênh
lệch về trình độ phát triển của quốc gia. Chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế dẫn đến
việc xác định khác nhau giữa các lợi ích và vấn đề ưu tiên trong hợp tác. Khoảng cách chênh
lệch trên cũng tạo bất lợi đối với các nước kém phát triển trong phân công lao động quốc tế,
do các nước lớn có lợi thế hơn về vốn, công nghệ và khả năng cạnh. Đến nay, việc công bố
sử dụng ACU (2006) khá tương tự như ECU, thành lập Quĩ châu Á, cho ra đời thị trường
Tương lai của đồng EURO.
30
trái phiếu châu Á, qui định các điều kiện chuẩn bị gia nhập khu vực… dường như mô phỏng
lại quá trình hình thành eurozone. Vì vậy, rút kinh nghiệm từ Eurozone, vấn đề nhất thể hoá
tiền tệ, phối hợp chính sách tài khoá với một lộ trình phù hợp với xu thế quốc tế luôn thay
đổi, phải được xử lý ngay trong quá trình chuẩn bị ra đời Azone. Đây là một trong những nội
dung trọng tâm của đồng tiền chung Châu Á.
V. KỊCH BẢN CHO TƯƠNG LAI CỦA ĐỒNG EURO
Khủng hoảng nợ công đang đẩy các nước trong liên minh tiền tệ đối diện với những
thử thách tồi tệ nhất kể từ khi ra đời. Chính phủ các nước, đặc biệt là Hy Lạp, Bồ Đào Nha,
và Tây Ban Nha, đang phải đối mặt với áp lực cắt giảm thâm hụt ngân sách và cải thiện
chính sách kinh tế. Các chính trị gia đang tìm cách điều chỉnh những quy tắc đối với địa vị
thành viên trong khối Eurozone để ngăn chặn những cuộc khủng hoảng khác có thể xảy đến
trong tương lai. Về phần mình, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) đã buộc phải can
thiệp vào thị trường trái phiếu chính phủ, một việc mà định chế này trước đây chưa từng
nghĩ tới. Đồng Euro lao dốc mạnh so với các đồng tiền chủ chốt khác. Tương lai của đồng
Euro vẫn đang là dấu hỏi lớn hiện tại chưa có một câu trả lời chính xác. Do đó, có thể đưa ra
một kịch bản cho tương lai của đồng Euro như sau:
Kịch bản 1:
Trong kịch bản này, cuộc khủng hoảng nợ của châu Âu buộc các chính phủ ở khu vực
đưa tài chính công của họ trở về vòng kiểm soát và cải thiện năng lực cạnh tranh cho nền
kinh tế quốc gia. Khối Eurozone trở thành một đầu tàu tăng trưởng của kinh tế toàn cầu.
Ở thời điểm hiện nay, Hy Lạp đang “cầm hơi” nhờ khoản cứu trợ của Liên minh châu
Âu (EU) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Tuy nhiên, chương trình giải cứu từ EU và IMF có
thể đưa tình hình công quỹ của Hy Lạp trở lại trạng thái ổn định bền vững. Những năm
tháng phải thắt chặt chi tiêu công t ới đây có thể tạo ra những điều kiện giúp thúc đẩy tinh
thần vượt khó của người dân và doanh nghiệp Hy Lạp, theo đó giúp bù đắp cho một thời kỳ
dài nước này đã để mất sức cạnh tranh kinh tế.
Ở các quốc gia khác trong Eurozone, bi kịch của Hy Lạp có thể thúc đẩy những biện
pháp mang tính phòng vệ, giúp đẩy mạnh tăng trưởng tại các quốc gia, như Bồ Đào Nha và
Tương lai của đồng EURO.
31
Tây Ban Nha. Nước Đức có thể hỗ trợ cho quá trình này bằng cách tăng cường nhu cầu tiêu
dùng nội địa, thay vì chỉ tập trung vào xuất khẩu như hiện nay. Kết quả sẽ là sự xuất hiện
của một Eurozone mới hùng mạnh và năng động hơn.
Trước đây, đã từng có nhiều trường hợp vượt khó tương tự như kịch bản này. Thụy
Điển đã vươn lên sau một cuộc khủng hoảng ngân hàng và kinh tế tồi tệ vào thập niên 1990,
và mang lại bài học cho các quốc gia khác, dù nước này không nằm trong khối Eurozone.
Các chính trị gia của châu Âu cũng đồng t ình với những biện pháp nhằm ngăn chặn
những cuộc khủng hoảng tương lai. Trước đây, Hy Lạp đã che giấu thực trạng tài chính công
của họ trong một thời gian quá dài. Tuy nhiên, cơ chế giám sát thống kê giờ đã được tăng
cường. Trong tương lai, các cơ quan giám sát của châu Âu có thể thực hiện sớm những biện
pháp nhằm ngăn chặn tình trạng mất cân bằng kinh tế, chẳng hạn như các quốc gia mất năng
lực cạnh tranh vì mức lương quá cao. Các định chế có thể được thiết lập để giải quyết khủng
hoảng theo một trình tự hợp lý trong trường hợp khủng hoảng xảy tới, theo đó hạn chế thiệt
hại. Nhờ vậy, ECB có thể rảnh rang hơn và tập trung chủ yếu vào nhiệm vụ hàng đầu là
chống lạm phát.
Khả năng xảy ra của kịch bản này: Không hẳn là bất khả thi, nhưng cũng không nên
quá kỳ vọng.
Ảnh hưởng đối với đồng Euro: Nếu kịch bản trên trở thành hiện thực, đồng tiền chung
châu Âu sẽ là một đối thủ thực sự của USD ở địa vị đồng tiền dự trữ mạnh và ổn định.
Kịch bản 2:
Trong kịch bản này, khối Eurozone sẽ bình ổn trở lại, nhưng không thể giải quyết được
những sai lầm trong cấu trúc cốt lõi.
Các động thái chống khủng hoảng của EU và ECB, bao gồm gói giải cứu 750 tỷ Euro,
ngăn chặn được cơn bão nợ công hiện nay. Niềm tin của Hy Lạp đối với các nhà đầu tư có
thể được khôi phục, khi Hy Lạp thực hiện các biện pháp thắt lưng buộc bụng. Các chương
trình cắt giảm chi tiêu và tăng thuế do Tây Ban Nha và Bồ Đ ào Nha có khả năng cân bằng
giữa việc giảm thâm hụt ngân sách, mà không đẩy nền kinh tế vào một vòng xoáy suy giảm.
Tương lai của đồng EURO.
32
Nhưng những thay đổi như vậy lại chưa chắc đã đủ để kích thích tăng trưởng kinh tế
của khu vực Eurozone t ới mức cần thiết, và sức cạnh tranh yếu ớt vẫn cứ là một điểm yếu
của nền kinh t ế Hy Lạp. Đáng ngại hơn, những sai lầm căn bản trong liên minh t iền tệ của
châu Âu - những vấn đề mà cuộc khủng hoảng nợ đã phơi bày - có thể sẽ không được sửa
chữa, và tiếp tục gây ra những rắc rối trong tương lai.
Theo ông Daniel Gros, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu chính sách châu Âu, trong
phần lớn thời gian của thập kỷ đầu tiên, khối Eurozone đã đáp ứng được kỳ vọng của nhiều
người. Nước Đức gia nhập khu vực đồng Euro ở thời điểm tỷ giá quá cao, khiến nền kinh tế
của nước này chịu nhiều tổn thất, nhưng đã nhanh chóng phục hồi trở lại và gia tăng sức
cạnh tranh nhờ sự linh hoạt của thị trường lao động.
Ông Gros cho rằng, vấn đề là ở chỗ, hình ảnh khối Eurozone đã bị “đánh bóng” quá
mức. Không chỉ trường hợp nước Đức đã biện minh cho việc đồng Euro bị định giá cao đối
với các quốc gia khi mới bắt đầu gia nhập khối, mà các biện pháp kiểm soát chi phí chặt chẽ
ở những nền kinh tế lớn như Đức cũng đem tới một lợi thế cạnh tranh lớn, cho dù lợi thế này
ngang bằng với mức độ sa sút cạnh tranh ở những quốc gia như Hy Lạp. Hiện nay, các nước
như Hy Lạp cũng muốn thực hiện cắt giảm chi phí, nhưng để làm được như nước Đức lại
không phải là chuyện dễ dàng. Thị trường lao động và các tổ chức xã hội ở nhiều nền kinh tế
châu Âu có sức ỳ quá lớn.
Khả năng xảy ra kịch bản này: Rất cao.
Ảnh hưởng đối với đồng Euro: Triển vọng tăng trưởng kinh tế suy yếu và những lo
ngại bị thổi phồng về tình hình chính trị dài hạn, sẽ gia tăng áp lực mất giá đối với đồng
Euro.
Kịch bản 3:
Theo kịch bản này, khối Eurozone sẽ suy yếu vĩnh viễn, và tương lai dài hạn của đồng
Euro bị đặt vào thế nghi ngờ.
Những đòi hỏi đặt ra đối với các nền kinh tế ở khu vực Nam Âu có thể là quá cao. Hy
Lạp có khả năng sẽ còn “nằm viện” lâu hơn dự kiến và phải đối mặt với tình huống xin hoãn
Tương lai của đồng EURO.
33
nợ. Bồ Đào Nha và thậm chí là Tây Ban Nha có nguy cơ sa chân vào khủng hoảng. Bất ổn
xã hội gia tăng tới mức không kiểm soát được, một khi các biện pháp thắt lưng buộc bụng
mà IMF và EU đề ra không đem lại kết quả. Những đồn đoán về khả năng tan rã của đồng
Euro gia tăng.
Ảnh hưởng đối với các ngân hàng của Đức và Pháp, cộng với sự suy sụp niềm tin vào nền
kinh tế, sẽ đe dọa dẫn tới suy thoái sâu ở Eurozone, trong khi đồng Euro mất giá sẽ châm
ngòi cho lạm phát.
Không giống như ở Thụy Điển những năm 1990, các nền kinh tế đang gặp khó ở
Eurozone hiện nay sẽ không có được lựa chọn phá giá đồng tiền, mặc dù sự suy yếu lúc này
của đồng Euro có thể sẽ giúp tăng cường xuất khẩu từ khu vực này. Kịch bản thứ ba này đặc
biệt nguy hiểm đối với ECB. Hiện ECB đã nhận được nhiều lời chỉ trích, đặc biệt từ nước
Đức, về động thái can thiệp vào thị trường trái phiếu. Rủi ro là ở chỗ, ECB có thể sẽ buộc
phải mở rộng chương trình can thiệp này thành một kế hoạch “nới lỏng định lượng” trên quy
mô lớn, qua đó tạo ra những ảnh hưởng lớn về mặt lạm phát, mà không một biện pháp hút
bớt thanh khoản nào có thể ngăn chặn được.
Trước đây, những biện pháp tương tự đã từng được thực hiện bởi Cục Dự trữ Liên
bang Mỹ (FED) và Ngân hàng Trung ương Anh (BoE) sau sự sụp đổ của ngân hàng Lehman
Brothers vào tháng 9/2008. Nhưng đối với người Đức, việc ECB nới lỏng định lượng sẽ vi
phạm hai quy tắc mà họ cho là nền t ảng của khối Eurozone khi liên minh này ra đời năm
2009: sự độc lập của ngân hàng trung ương khỏi các vấn đề chính trị, và trách nhiệm của
chính phủ trong việc giữ trật tự tài chính công của nước mình. Thái độ giận dữ về lạm phát
leo thang sẽ gia tăng, làm căng thẳng thêm nỗi bất mãn của người dân với liên minh tiền tệ.
Khả năng xảy ra kịch bản này: Có thể xảy ra.
Ảnh hưởng đối với đồng Euro: Đồng Euro sẽ suy yếu trong dài hạn.
Kịch bản 4:
Theo kịch bản này, khối Eurozone sẽ tan rã. Căng thẳng trở nên quá lớn để kiểm soát,
một hoặc vài quốc gia nhận thấy là tốt hơn hết nên rút khỏi đồng Euro, hoặc các thành viên
của Eurozone quyết định trục xuất một số “người anh em”.
Tương lai của đồng EURO.
34
Sự suy sụp của nền kinh tế Hy Lạp, suy thoái và lạm phát tăng vọt trong khối
Eurozone, sự bất mãn ngày càng tăng của người dân châu Âu đối với đồng Euro… sẽ trở
thành sự thật nếu những diễn biến xấu tiếp tục xảy ra. Khi đó, kịch bản tồi tệ nhất đối với
đồng tiền chung này sẽ cận kề hơn bao giờ hết.
Thay vì đem t ới một cách giải quyết êm thấm cho những khó khăn hiện nay như suy
nghĩ của nhiều chuyên gia, việc một quốc gia châu Âu vỡ nợ và phải tái cơ cấu các khoản nợ
có thể tạo ra những ảnh hưởng mang tính tàn phá và không thể đoán định trong khắp khu
vực. Trước đây, chưa ai từng “lên lịch” cho sự tan rã của khối Eurozone. Thậm chí, việc gia
nhập liên minh tiền t ệ này vẫn được xem là xu hướng không thể đảo ngược, và không có
điều khoản nào về sự rút lui. Nhưng như vậy không có nghĩa là Eurozone không có nguy cơ
giải thể. Theo ông Ansgar Belke, giáo sư kinh tế học thuộc Đại học Duisburg-Essen của
Đức, rút lui có trật tự có thể là giải pháp hợp lý cho những nước thành viên Eurozone có sự
khác biệt căn bản so với các thành viên khác. Bồ Đào Nha hầu như không có gì để xuất
khẩu. Họ đang cạnh tranh với các thị trường mới nổi nhằm vực dậy nền kinh tế, nên sẽ phải
cắt giảm mạnh chi phí lao động tới mức sẽ tạo ra suy thoái sâu. Tương tự, điều này chắc
chắn sẽ xảy ra ở Hy Lạp. Giáo sư này cho rằng, một khả năng là châu Âu sẽ thành lập một
hệ thống có chức năng tổ chức “vỡ nợ có trật tự” cho các quốc gia thành viên trong trường
hợp cần thiết, trong đó bao gồm cả giải quyết các trường hợp muốn hoặc bị buộc phải rút lui
khỏi Eurozone. Chính Thủ tướng Đức Angela Merkel cũng đã cho rằng, trong tương lai,
những thành viên không tuân thủ đầy đủ quy định của Eurozone sẽ được yêu cầu rút khỏi
khối.
Tuy nhiên, rút lui có trật tự khỏi Eurozone là việc khó, nếu không muốn nói là không
thể, thực hiện được. Phần lớn các nhà kinh tế học cho rằng, chi phí cho việc rút lui sẽ là rất
lớn, cho dù quốc gia thành viên đó bị buộc phải ra đi, chẳng hạn như Hy Lạp, hay tự nguyện
ra đi, chẳng hạn như Đức. Nếu rút khỏi đồng Euro, Hy Lạp vẫn sẽ phải trả những gánh nợ
nước ngoài khổng lồ bằng đồng Euro, nhưng lại bằng đồng nội tệ Drachma yếu hơn; các
công ty của Đức sẽ phải đối mặt với đồng Mark tăng giá vùn vụt. Chi phí kinh doanh xuyên
biên giới sẽ leo thang và những biến động khó lường về tỷ giá sẽ là một trở ngại lớn cho
tăng trưởng kinh tế.
Tương lai của đồng EURO.
35
Trong trường hợp việc rút lui khỏi khối Eurozone có thể thực hiện, thì biết đâu, nhiều
nước trong liên minh này sẽ ồ ạt xin ra. Khi đó, giấc mơ đồng t iền chung mà các nhà hoạch
định chính sách châu Âu từ thời Chiến tranh Thế giới 2, sẽ tan tành mây khói. Tương lai của
sự nhất thể hóa kinh tế ở châu Âu sẽ không còn. Bà Merkel mới đây từng phát biểu rằng, nếu
đồng Euro tan rã, thì đó không chỉ là sự sụp đổ đồng tiền này, mà còn là sự thất bại của châu
Âu, cũng như của ý tưởng về một châu Âu thống nhất.
Khả năng xảy ra của kịch bản này: Khó xảy ra, nhưng không khó tới mức như người ta
nghĩ trước đây.
Ảnh hưởng đối với đồng Euro: Đồng tiền này sẽ mất giá nhanh chóng, ngay trước khi
khả năng tan rã của khối Eurozone hiện ra.
Tương lai của đồng EURO.
36
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Website của Ngân hàng Trung ương Châu Âu, WB, ADB, Bộ Ngoại giao Việt Nam.
2. Báo cáo:“Đánh giá khủng hoảng nợ công của Châu Âu”; Nguồn: Báo cáo của Bộ
KH&ĐT; Bộ Tài chính; Báo cáo của Bộ Công thương; NHNN.
3. The world & Vietina m report, Bộ Ngoại giao số trong tháng 4,5,6 với các bài, thông
tin có liên quan.
4. Thời báo kinh tế Sài gòn các số tháng 4,5,6 năm 2010, các thông tin và bài có liên
quan.
5. Bài “Đồng tiền chung Châu âu và đồng tiền chung Châu Á: NCS. Lê Thị Thùy Vân-
Viện KHTC
6. Bài “Đồng tiền chung: Hiện tại & tương lai” TS. Vũ Đình Ánh- Viện KHTTGC.
7. Bài “Đồng tiền chung Châu Âu: Thách thức, triển vọng và bài học cho Châu Á” TS
Phạm Huy Hùng.
8. Bài “Tương lai của đồng euro là một câu hỏi lớn” tại trang vietnamplus.
9. Bài “Đâu là Tương lai của đồng euro” tại trang thuongmai.vn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tuong_lai_cua_dong_euro_nhom5_chnhk22_2756.pdf