Đề tài Vai trò của đầu tư tư nhân đối với phát triển kinh tế Việt Nam

Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế mà theo đó, nếu không có kinh tế nhà nước sẽ không có định hướng XHCN, nhưng nếu không có kinh tế tư nhân cũng sẽ không có kinh tế thị trường. Khi nói đến kinh tế tư nhân là chúng ta nghĩ ngay đến hoạt động ĐT của tư nhân. Vai trò quan trọng của ĐTTN đối với phát triển kinh tế đã được khẳng định tại tất cả các nước, từ những nước CN phát triển đến những nước đang và kém phát triển như Việt Nam. Thực sự phải thừa nhận rằng, những thành tựu đạt được trong hơn 20 năm qua của nền kinh tế Việt Nam có sự đóng góp rất lớn của ĐTTN. ĐTTN không những đã chia sẻ gánh nặng về vốn ĐT phát triển cho ngân sách nhà nước mà còn giúp nền kinh tế hoạt động hiệu quả hơn, từng bước đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo đói, chậm phát triển.

pdf98 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2851 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vai trò của đầu tư tư nhân đối với phát triển kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m Thống kê 2006 Theo như số liệu bảng đưa ra, chúng ta có thể thấy rằng, giai đoạn 2000 – 2005, bình quân các DN ngoài nhà nước (không bao gồm các DN có vốn ĐTNN) giải quyết 387.644 việc làm trong tổng số 540.719 việc làm tăng thêm mỗi năm, chiếm khoảng 72%. Cũng trong giai đoạn này, các DN có vốn ĐTNN giải quyết 162.610 việc làm mỗi năm, chiếm 30%. Các con số còn cho thấy, các DN nhà nước không những không thu hút thêm lao động mà số lao động trong khu vực này còn giảm đi. Năm 2000, số lao động trong các DN nhà nước là 2.088.531 người nhưng đến năm 2005 chỉ còn 2.040.859 người, giảm 47.672 người. 64 Lực lượng lao động tham gia vào các DN ngoài nhà nước, đặc biệt là các công ty tư nhân, công ty TNHH, công ty CP không có vốn nhà nước ngày càng đông đảo. Năm 2000, số lao động tại các công ty tư nhân là 236.253, chiếm 6,7% cả nước, đến cuối năm 2005, con số này đã tăng lên 481.392 người, chiếm 7,7% cả nước. Tương tự tại các công ty TNHH, các con số tương ứng là 516.796, chiếm 14,6% và 1.594.785, chiếm 25,6%; các công ty CP không có vốn của nhà nước là 43.588, chiếm 1,2% và 461.613, chiếm 7,4%. Trong tổng số lao động làm việc trong khu vực DN (6.240.595 lao động) năm 2005, thì DN thuộc khu vực ngoài nhà nước chiếm tới 47,7%, cao hơn hẳn so với tỷ trọng 32,7% của khu vực DN nhà nước. Số lượng lao động trong các DN có vốn ĐTNN cũng tương đối lớn và liên tục tăng qua các năm. Cuối năm 2000 là 407.565 người, chiếm 11,5%, đến cuối năm 2005 đã tăng lên 1.220.616 người, chiếm 19,6%. Nhìn một cách tổng thể khu vực DN có vốn ĐTTN (cả trong và ngoài nước), tỷ trọng trong cơ cấu lao động chiếm tới 67,3% (năm 2005), gấp hơn hai lần so với khu vực DN nhà nước. Không chỉ khối các DN có vốn ĐTTN, khối các hộ KDCT cũng giải quyết được một khối lượng công ăn việc làm đáng kể cho xã hội. Khối này đang tạo ra khoảng 5,58 triệu chỗ làm cho người lao động.[23] Qua đây, chúng ta có thể nhận thấy rằng khu vực kinh tế có vốn ĐTTN đóng vai trò chủ yếu trong việc giải quyết công ăn việc làm cho xã hội. Trong tương lai, với đường lối chính sách tiếp tục được hoàn chỉnh, vai trò này của KVKTTN sẽ còn tiếp tục được khẳng định. Theo báo cáo của Ngân hàng Phát triển Châu Á: Phần lớn trong tống số 1,6 triệu việc làm mới mỗi năm mà Việt Nam cần có trong giai đoạn 2006 – 2010 hy vọng sẽ do KVKTTN nhân tạo ra. 65 2.3.7. ĐTTN giúp tăng thu ngân sách nhà nƣớc Thu ngân sách nhà nước bao gồm: các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước; các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các khoản viện trợ; các khoản thu khác theo quy định của pháp luật; các khoản do Nhà nước vay để bù đắp bôi chi được đưa vào cân đối ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương (ngân sách địa phương). KVKTTN hoạt động hiệu quả hơn so với khu vực kinh tế nhà nước đặc biệt là trong các ngành có tính cạnh tranh cao nên chính phủ cũng thu thu được một khoản ngân sách lớn hơn từ khu vực này. Theo Bộ KH & ĐT, tỷ trọng đóng góp vào ngân sách nhà nước của KVKTTN (chỉ tính đến các DN có đăng ký kinh doanh theo Luật DN, không xét đến kinh tế cá thể) trong nước ngày càng lớn, từ hơn 6% đầu những năm 2000 lên 7,5% năm 2005. Con số này sẽ lớn hơn rất nhiều nếu tính đến cả thành phần kinh tế cá thể. Hà Nội là một trong những địa phương sớm nhận thức sâu sắc về chủ trương phát triển kinh tế tư nhân của Đảng và Nhà nước. Hiện nay, KVKTTN đã đóng góp 22% ngân sách thành phố.[43] Cùng với sự phát triển các DN có vốn ĐTNN tại Việt Nam, mức đóng góp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN vào ngân sách ngày càng tăng. Thời kỳ 1996-2000, không kể thu từ dầu thô, các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã nộp ngân sách đạt 1,49 tỷ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trước. Trong 5 năm 2001- 2005, thu ngân sách trong khối doanh nghiệp có vốn ĐTNN đạt hơn 3,6 tỷ USD, tăng bình quân 24%/năm. Riêng 2 năm 2006 và 2007 khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã nộp ngân sách đạt trên 3 tỷ USD, gấp đôi thời kỳ 1996-2000 và bằng 83% thời kỳ 2001-2005.[6] Hoạt động của khu vực có vốn ĐTNN còn có những tác động tích cực đến các cân đối của nền kinh tế. Do sự phát triển tương đối nhanh, mức đóng góp của khu vực này vào nguồn thu ngân sách ngày càng tăng, nên khả năng 66 chủ động trong việc cân đối ngoại tệ, cân đối ngân sách của nước ta ngày càng tốt hơn. Cùng với nguồn thu ngoại tệ gián tiếp thông qua các lượt khách tham quan, tìm hiểu cơ hội ĐT, tiền cho thuê đất, tiền lương cho người lao động, tiền mua nguyên liệu tại địa phương,… dòng ngoại tệ của vốn ĐT trực tiếp nước ngoài đổ vào Việt Nam, đã góp phần đáng kể cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán của nước ta trong những năm vừa qua.[6] 2.3.8. ĐTTN giúp nền kinh tế Việt Nam hoạt động hiệu quả hơn ĐTTN đã giúp Việt Nam khai thác tối đa mọi nguồn lực dưới tác động của “bàn tay vô hình” của thị trường. Trước đây, dưới hệ thống kế hoạch hóa tập trung, các nguồn lực của đất nước được phân bổ thiếu hợp lý, tập trung quá mức vào một số mục tiêu phát triển gây mất cân đối cho nền kinh tế và gây lãng phí do sử dụng kém hiệu quả các nguồn lực. Từ khi Việt Nam chính thức kêu gọi ĐTTN, nền kinh tế quốc dân đã trở nên năng động hơn rất nhiều. Thứ nhất, ĐTTN giúp chúng ta có thể khai thác tối đa những nguồn lực hiện có của đất nước cho sự phát triển kinh tế và nâng cao đời sống của nhân dân. Đó là những nguồn lực về vốn, về lao động. Theo số liệu bảng 5 đã đưa ở trên, tổng vốn ĐT huy động được từ khu vực ngoài quốc doanh và khu vực có vốn ĐTNN năm 2006 là 213.800 tỷ đồng, chiếm 53,6% tổng vốn ĐT của cả nước. Bình quân giai đoạn 1997 – 2006, mỗi năm nhà nước huy động được 15.900 tỷ đồng từ hai khu vực này. Về lao động, cũng theo như số liệu đã đưa ở bảng 11, tính đến 31/12/ 2005, khu vực DN ngoài nhà nước và khu vực DN có vốn ĐTNN đã thu hút được 4.199.736 lao động, chiếm 67,3% tổng số lao động tại các DN trên phạm vi cả nước. Thứ hai, ĐTTN tạo ra một đội ngũ những nhà DN theo đúng nghĩa của từ này: năng động, nhạy bén, dám nghĩ, dám làm, sẵn sàng chịu mọi thử thách của thị trường, tự chịu trách nhiệm, đủ khả năng đương đầu với sức ép cạnh tranh ngày một gia tăng khi mở cửa hội nhập sâu, rộng hơn. Đây là những yếu tố hiếm thấy trong các DN nhà nước. Những cơ sở kinh doanh của tư nhân 67 không những là cơ sở thu hút lao động, giải quyết việc làm mà còn là những lò luyện cán bộ sau khi tốt nghiệp các trường. Chưa bao giờ trên đất nước ta lại xuất hiện nhiều gương mặt các nhà DN trẻ, nhạy bén và năng động như những năm qua. Đây là nguồn cung cấp cán bộ có trình độ cho mọi ngành, mọi cấp. Thứ ba, ĐTTN tạo ra đòi hỏi cấp bách phải có sự thay đổi pháp luật, đặc biệt là pháp luật về kinh tế, cho phù hợp. Với sự phát triển của KVKTTN theo cơ chế thị trường, các quy định pháp luật dễ dàng bộc lộ sự không hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ - một đặc điểm của nền kinh tế chuyển đồi. Các cơ quan quản lý vĩ mô của nước ta có thể thông qua đó để điều chỉnh hệ thống pháp luật hợp lý hơn nhằm cải thiện môi trường kinh doanh giúp nền kinh tế phát triển hiệu quả hơn. Thứ tư, ĐTTN với sự năng động, nhạy bén của mình cũng đặt bộ máy quản lý cũng như các công ty nhà nước phải chuyển đổi và thích nghi. Bộ máy quản lý nhà nước phải đổi mới toàn diện, đủ sức đáp ứng yêu cầu quản lý nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Các DN nhà nước để có thể cạnh tranh được với các DN tư nhân cũng phải đổi mới tư duy cũng như tác phong làm việc, xóa bỏ dần tâm lý trì trệ bảo thủ, ỷ lại, trông chờ vào nhà nước. 2.4. NHỮNG TỒN TẠI LÀM HẠN CHẾ VAI TRÒ CỦA ĐTTN ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 2.4.1. Những bất cập về mặt pháp lý 2.4.1.1. Các thủ tục hành chính khi gia nhập thị trường Mặc dù Luật DN thông thoáng và được thực hiện một cách tích cực ở nhiều địa phương, nhưng ở một số nơi việc thực thi luật vẫn bị cản trở với những thủ tục phiền hà. Một số địa phương đã có những yêu cầu vượt luật như: đối với ngành nghề không đòi hỏi quy định nhưng vẫn bắt phải chứng minh 68 vốn khi đăng ký kinh doanh; hay phải chứng minh quyền sử dụng hợp pháp đối với trụ sở của DN. Các loại chi phí „phụ‟ phát sinh khi đăng ký kinh doanh. Khắc dấu là một trong những khâu DN mất khá nhiều thời gian và có nhiều DN đã phải thêm chi phí cho cơ sở khắc dấu để được lấy dấu sớm hơn quy định. Đăng ký mã số thuế là thủ tục tiếp theo mà DN phải làm, nhưng nhiều khi thời gian tiến hành đăng ký mã số thuế của DN bị kéo dài đến cả tháng mới nhận được, trong khi quy định là 8 ngày làm việc, chỉ vì những lý do như : người có thẩm quyền ký đi công tác vắng, đường truyền mạng thông tin bị lỗi, người giữ hồ sơ đi vắng, v.v. Để hoàn thành các thủ tục từ đăng ký kinh doanh, bố cáo thành lập DN, xin cấp mã số thuế, hóa đơn thuế, xin cấp mã số hải quan, xin con dấu,...đến khi mở xong tài khoản ngân hàng, trung bình 1 DN ở Hà Nội mất 63 ngày và chi hết 170 USD cho các loại phí.[42] Kết quả một cuộc khảo sát được Ban Nghiên cứu của Thủ tướng và Vision&Associates thực hiện với 175 DN và nhiều đối tượng khác nhau tại 7 tỉnh gồm An Giang, Đắc Lắc, Hà Nam, Hà Tây, Hưng Yên, Lào Cai và Quảng Nam cho thấy, khoảng 75% DN cho rằng họ phải đi lại nhiều lần và thủ tục phiền hà. Chỉ có 4% cho rằng họ không gặp phải khó khăn nào trong đăng ký kinh doanh. Về chi phí đăng ký kinh doanh, 45% DN được khảo sát cho rằng họ phải có thêm chi phí ngoài lệ phí chính thức cho việc cấp đăng ký kinh doanh.[30] Tất cả những thực tế nêu trên không chỉ làm việc đăng ký kinh doanh trở nên khó khăn hơn, thời gian đăng ký kéo dài, nhà ĐT bỏ ra nhiều chi phí hơn, mà quan trọng hơn cả, nó đã làm nản lòng không ít nhà ĐT và làm giảm chất lượng môi trường kinh doanh ở Việt Nam. 2.4.1.2. Chính sách thuế Chính sách thuế, phí còn chứa đựng nhiều bất cập. Chẳng hạn, theo quy định hiện hành, chỉ có 14 loại chi phí được chấp nhận để khấu trừ vào thu nhập chịu thuế. Tuy nhiên, định nghĩa các loại chi phí này không thật rõ ràng nên thường xuyên gây cách hiểu khác nhau tại cơ quan thuế. Trên thực tế, 69 việc quy định cụ thể các khoản chi phí được khấu trừ để tính thu nhập chịu thuế đã hạn chế tính linh hoạt trong hoạt động kinh doanh của DN, vì rất không dễ xác định đầy đủ các khoản chi phí hợp lý có thể phát sinh. Ví dụ: đối với thuế thu nhập DN của KVKTTN vẫn còn có những khó khăn vướng mắc trong việc xác định chi phí hợp lý để tính thu nhập chịu thuế đối với một số chi phí như chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí tiền lương, chi phí hoa hồng, môi giới... Một số quy định khác lại mang tính áp đặt, thể hiện sự can thiệp quá sâu của Nhà nước, ví dụ: quy định về xác định chi phí tiền lương trong DN ngoài nhà nước phải tuân theo nguyên tắc tiền lương thực tế không vượt quá định mức tiền lương của công ty nhà nước hoạt động trong cùng lĩnh vực. Chi phí quảng cáo, tiếp thị là chi phí thông thường phát sinh trong nền kinh tế thị trường nhưng theo Luật thuế thu nhập DN, chi phí quảng cáo, tiếp thị giới hạn ở mức 10% tổng chi phí được phép. Việc cơ quan thuế quản lý tập trung hoá đơn, kê khai nộp thuế làm nẩy sinh tác động ngược và tạo kẽ hở cho một số ít DN làm ăn không chính đáng, trốn lậu thuế làm ảnh hưởng đến hoạt động của đại đa số những DN làm ăn chân chính. Gần đây, đã có thí điểm cơ chế cơ sở kinh doanh tự kê khai, tự nộp thuế nhưng chưa được triển khai áp dụng rộng trên phạm vi cả nước. Trong những năm gần đây, một số địa phương „nôn nóng‟ muốn thu hút nhiều dự án ĐT vào địa phương mình đã ban hành những quy định ưu đãi thuế „vượt luật‟. Một số tỉnh đã dùng ngân sách của địa phương để kéo dài thời gian miễn giảm thuế thu nhập DN cho DN sau khi hết thời gian miễn giảm theo luật. Các văn bản của những địa phương này thường có quy định “cấp lại”, “hoàn”, “hỗ trợ lại thuế thu nhập DN” (SEDEM, 2003). Ngược lại, những địa phương không chú trọng đến vấn đề này thì thường không quan tâm lắm và thậm chí gây khó khăn cho DN. Có trường hợp Cục thuế không công nhận Giấy chứng nhận ưu đãi ĐT do Chủ tịch UBND Tỉnh cấp cho DN và không thực hiện miễn giảm thuế thu nhập DN theo Luật Khuyến khích ĐTTN. 70 Không chỉ chứa đựng nhiều bất cập, những thay đổi về thuế một cách bất ngờ đang làm nản lòng các nhà ĐT, đặc biệt là các nhà ĐTNN. Nghị định số 158 hướng dẫn thuế giá trị gia tăng (GTGT) và Nghị định 164 về thuế thu nhập DN (ban hành cuối năm 2003) áp dụng từ 1/1/2004 đã gây sốc cho nhà ĐTNN tại KCX, KCN do việc giảm ưu đãi một cách quá đột ngột ''chỉ qua một đêm''. 9 loại dịch vụ cung cấp cho DN khu chế xuất như bảo hiểm, ngân hàng, viễn thông, tư vấn... trước 1/1/2004 không thuộc diện chịu thuế GTGT nay phải chịu thuế với mức 10%. Còn theo Nghị định 164, dự án ĐTNN vào KCX đang hưởng thuế thu nhập DN 10% suốt đời dự án thì nay tăng lên mức 20% và giới hạn trong 10 năm. Ngoài ra, dự án tăng vốn không còn được hưởng ưu đãi của giấy phép ĐT mà chỉ được miễn giảm thuế thu nhập DN... 2.4.1.3. Chính sách tín dụng Mặc dù chính sách tín dụng đã có sự cải cách đáng kể nhưng dường như một số vấn đề vẫn chưa được giải quyết triệt để. Đó là: Trước hết, vẫn còn thành kiến, tâm lý e ngại, thiếu tin tưởng đối với KVKTTN. Các DN thuộc KVKTTN thường bị các ngân hàng coi là những khách hàng nhỏ với kiểu hoạt động tạm bợ, dự án thường không có tính khả thi, khó giám sát việc ĐT. Hai là, mặc dù Nghị định 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng đã quy định rằng ngân hàng có quyền lựa chọn, quyết định việc cho vay bằng một trong hai hình thức hoặc là cho vay có bảo đảm bằng tài sản và cho vay không có bảo đảm bằng tài sản nhưng trên thực tế hầu như chưa có ngân hàng nào áp dụng việc cho vay không có bảo đảm bằng tài sản. Vả lại, nếu trong thời gian tới các ngân hàng này có bắt đầu áp dụng đi chăng nữa thì cũng khó có DN thuộc KVKTTN nào được xếp vào danh sách được cung cấp tín dụng theo phương thức này. Trước hết, các DN thuộc KVKTTN bị xem là có quy mô hoạt động hẹp, vốn ít và nhất là chưa đủ uy tín để vay mà không cần thế chấp. Đây là những cản trở dễ thấy đã ngăn cản 71 các DN/công ty tư nhân vay vốn ngân hàng theo phương thức này. Ngoài ra, điều kiện cho vay không có bảo đảm bằng TS còn ngặt nghèo, các DN thuộc KVKTTN, nhất là các DN mới thành lập, khó lòng đáp ứng được. Vì thế, để có vốn, họ thường xuyên phải vay ngoài với lãi suất cao. Ba là, như chúng ta đã biết phần lớn các TS thế chấp vay vốn là quyền sử dụng đất thế nhưng các văn bản pháp quy liên quan đến đất và quyền sử dụng đất, cũng như việc thế chấp các quyền này còn rất phức tạp và không rõ ràng. Ngoài ra, vẫn chưa có một hệ thống đăng ký công khai thống nhất cho các quyền sử dụng đất, cho thuê và thế chấp. Cho dù đã xin được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp thì giá trị quyền sử dụng đất các DN còn phải chịu sự định giá của các ngân hàng cung cấp tín dụng cho các DN. 2.4.1.4. Chính sách đất đai Trong việc thực hiện chính sách đất đai làm mặt bằng sản xuất - kinh doanh của DN một số vấn đề nổi lên như sau: - Một số địa phương do chưa có quy hoạch ổn định nên nhiều DN không tìm được địa điểm ĐT, hoặc nếu ĐT thì sẽ phải chịu chi phí đền bù, giải phóng mặt bằng rất lớn. - Các biện pháp hỗ trợ ĐT xây dựng các KCN, cụm CN, chuẩn bị cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào KCN chưa được một số địa phương quan tâm thực hiện triệt để. Giá thuê đất tại nhiều KCN, KCX có cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh chưa phù hợp với các DN thuộc KVKTTN (vốn nhỏ, sức cạnh tranh kém). Ngoài ra, việc miễn giảm tiền thuê đất tại nhiều KCN cho các dự án thuộc diện ưu đãi ĐT chưa được thực hiện. - DN ngoài quốc doanh vẫn phải thuê lại đất làm mặt bằng phục vụ sản xuất và thời gian thuê không được lâu, giá thuê thường cao,... ảnh hưởng đến ĐT quy mô dài hạn. Trường hợp sử dụng đất tự có, đất mua lại thường gặp khó khăn, thiệt thòi trong việc chuyển mục đích sử dụng đất. 72 - Việc công khai quy hoạch đất đã có tiến bộ, nhưng chưa trở thành biện pháp rộng khắp, thường xuyên. 2.4.2. Cơ sở hạ tầng vật chất – kỹ thuật yếu kém Tình hình kinh doanh của nhiều DN trở nên khó khăn hơn, tốn kém chi phí hơn, thậm chí năng lực cạnh tranh của DN bị ảnh hưởng vì những yếu kém từ cơ sở hạ tầng. Hiện nay nhiều dự án ĐT, đặc biệt là các dự án ĐTNN bị chậm trễ vì có đường thì chưa có cầu, thiếu bến cảng, kho bãi. Ngoài ra, việc quá ít cảng biển có khả năng tiếp nhận tàu container cỡ lớn, thiếu cơ sở kho bãi hiện đại và dịch vụ hậu cần đạt chuẩn mực quốc tế… sẽ đe dọa trực tiếp tới sản xuất và xuất khẩu của các DN. 2.4.3. Những cản trở về tâm lý Sự tồn đọng của nếp tư duy cũ kỹ của thời kỳ kinh tế tập trung và bao cấp đối với DN tư nhân được Thời báo Kinh tế Sài Gòn nhận xét: “Ở Việt Nam, thời kỳ bao cấp đã làm hằn sâu trong tâm trí con người quan niệm về một nền kinh tế được coi như một phần của hệ thống hành chính công… Cung cách chủ quản hành chính theo kiểu thượng cấp - thuộc quyền đối với DN được duy trì đến nay, thậm chí, còn bao trùm cả KVKTTN… Cho đến nay, những cụm từ “tư thương”, “thương lái”, vẫn được dùng để chỉ những cá nhân, tổ chức hoạt động thương mại không do Nhà nước lập ra và được hiểu là một loại người xấu, cơ hội trong kinh doanh, chuyên lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của người khác, nhất là của bà con nông dân, để đầu cơ, trục lợi. Cách gọi mang tính phân biệt đối xử đó thậm chí có thể được ghi nhận trong các hoạt động giao tiếp có tầm ảnh hưởng sâu rộng, như các bản tin, bài báo phổ biến trên các phương tiện truyền thông của nhà nước, các phát biểu mang tính công vụ của những người giữ trọng trách trên các diễn đàn chính thức”. Thứ đến là tâm lý è dè của doanh nhân trong kế hoạch khuếch trương DN phản ảnh cách đối xử phân biệt của Nhà nước đối với các DN tư nhân đã có giảm đi nhiều về mặt chính sách, song vẫn còn nặng nề trong thực tế. Qua 73 cuộc phỏng của Đài BBC thực hiện tháng 10/2007, tiến sĩ kinh tế Vũ Thành Tự Anh, Phó Giám đốc phụ trách nghiên cứu thuộc Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright ở TP. HCM, đã bày tỏ ý kiến: “Yếu tố thứ nhất chính là các DN phải có khát vọng trở thành công ty lớn. Khi anh hỏi nhiều DN Việt Nam có muốn lớn không, họ bảo thôi, thế này là được rồi. Không hẳn là họ không muốn, nhưng khi phát triển lên thì gặp rất nhiều trục trặc, thí dụ về cạnh tranh hay là bị sự chú ý từ cơ quan quản lý… Có công ty chia nhỏ DN của mình thành nhiều công ty khác nhau để tránh dòm ngó của cơ quan quản lý và đối thủ.” 2.4.4. Sự yếu kém trong công nghiệp phụ trợ Ngành CN phụ trợ là ngành cung cấp sản phẩm đầu vào cho các ngành CN khác, đặc biệt là các ngành chế tạo và lắp ráp thành phẩm cơ khí, điện tử. Tuy nhiên, hiện nay các ngành CN này ở Việt Nam còn kém phát triển cả về số lượng và chất lượng. Rất ít DN trong nước sản xuất linh kiện, phụ tùng đáp ứng yêu cầu của các nhà ĐT về thiết kế kiểu dáng, tiêu chuẩn chất lượng và thời hạn giao hàng. Do vậy, các dự án gia công, lắp ráp có vốn FDI thường phải nhập khẩu linh kiên, phụ tùng từ các nước láng giềng, dẫn đến giá thành cao, sức cạnh tranh giảm. Một ví dụ điển hình được báo cáo của WB nêu lên là công ty Fujisu, một doanh nghiệp FDI xuất khẩu lớn nhất năm 2004 với kim ngạch xuất trên 400 triệu USD, song đã chi 94% số này để nhập khẩu đầu vào. Tăng cường cung cấp phụ kiện từ các DN tư nhân trong nước không những sẽ giúp hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu và tỷ lệ nội địa trong sản phẩm mà còn là cơ hội để các DN này cải thiện sản xuất và phát triển kinh doanh. Trực tiếp tham gia các ngành sản xuất và hoạt động xuất khẩu sẽ tạo điều kiện cho các DN tư nhân trong nước tiếp cận, làm quen với thị trường và công nghệ tiên tiến trên thế giới, và cải thiện năng suất. Các cuộc điều tra cho thấy năng suất lao động của các DN xuất khẩu trung bình gần gấp đôi so với năng suất trung bình của các DN vừa và nhỏ. 74 Nhìn chung, ĐTTN đã ngày càng thể hiện vai trò quan trọng của mình trong chiến lược phát triển kinh tế ở Việt Nam, đã góp phần bổ sung lượng vốn thiếu hụt đồng thời tạo sự năng động cho nền kinh tế. Nhưng bên cạnh đó cũng xuất hiện những tồn tại và bất cập khiến cho ĐTTN chưa phát huy hết vai trò của mình. Do vậy, việc chấn chỉnh, củng cố và hoàn thiện các điều kiện nhằm hấp dẫn cũng như nâng cao vai trò của ĐTTN là vấn đề quan trọng đối với nước ta những năm tới. 75 CHƢƠNG 3 GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƢỜNG THU HÚT ĐTTN CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM 3.1. CHIẾN LƢỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI GIAI ĐOẠN ĐẾN NĂM 2010 VÀ NHU CẦU VỐN ĐT PHÁT TRIỂN 3.1.1. Chiến lƣợc phát triển Kinh tế - Xã hội giai đoạn đến năm 2010 Đại hội Đảng lần thứ X đã đưa ra mục tiêu tổng quát trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tới năm 2010 là: “Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển... Đẩy mạnh CNH - HĐH và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước CN theo hướng hiện đại vào năm 2020”. Để đạt được những mục tiêu trên, nước ta cần một lượng vốn lớn cho ĐT phát triển. Chính vì thế, ĐTTN là hết sức cần thiết. Nguồn vốn ĐT từ tư nhân không những bổ sung cho nguồn vốn ĐT phát triển đang rất thiếu thốn mà còn giúp đất nước ta khai thác những nguồn lực hiện có với hiệu quả tối đa. Chính vì vậy, tăng cường khuyến khích ĐTTN trong nước và thu hút ĐTNN (FDI) là một đòi hỏi bức xúc đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay. Tư tưởng này đã được thể hiện xuyên suốt trong các kỳ Đại hội Đảng gần đây ở nước ta. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI nhận định: “Trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế ở nước ta, yêu cầu về vốn ĐT luôn luôn được đặt ra một cách gay gắt. Những năm tới, một mặt, phải tranh thủ các nguồn vốn bên ngoài với mức cao nhất; mặt khác, ở trong nước, bằng những chủ trương và chính sách mới, chúng ta phát huy hơn nữa mọi khả năng về nguồn vốn của tất cả các ngành, các địa phương và cơ sở, của các thành phần kinh tế.” 76 Văn kiện Đại hội VII chính thức thừa nhận sự tồn tại của 6 thành phần kinh tế: Kinh tế quốc doanh, Kinh tế tập thể, Kinh tế cá thể, Kinh tế tư bản tư nhân, Kinh tế tư bản nhà nước, Kinh tế gia đình. Trong đó, Kinh tế cá thể, Kinh tế tư bản tư nhân, Kinh tế tư bản nhà nước, Kinh tế gia đình có sự tham gia của ĐTTN. Đến Đại hội VIII, Đại hội IX và Đại hội X của Đảng thành phần kinh tế tư nhân chính thức được khẳng định sự tồn tại lâu dài “cả đến khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng”. Tại Đại hội Đảng VIII đã khẳng định: “Trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước phát triển theo đường lối đổi mới, Đảng và Nhà nước ta chủ trương huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để ĐT phát triển, trong đó vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng, kết hợp tiềm năng sức mạnh bên trong với khả năng có thể tranh thủ ở bên ngoài”. Điều này phải chăng muốn nhấn mạnh: phải coi ĐT của KVTN trong nước là nguồn lực quốc gia cần được khơi dậy để trở thành động lực phát triển kinh tế mạnh mẽ hàng đầu, đồng thời không xem nhẹ nguồn vốn từ bên ngoài. Trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng IX, Đảng và Nhà nước tiếp tục đưa ra nhận định rằng muốn phát triển kinh tế theo hướng CNH - HĐH thì phải kết hợp cả nội lực và ngoại lực. Nội lực là yếu tố quyết định, ngoại lực là yếu tố quan trọng, gắn kết với nhau thành nguồn lực tổng hợp để phát triển. Đại hội Đảng X cũng lại một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của việc thu hút vốn của tư nhân trong nước cũng như nguồn vốn FDI, coi đó là nền tảng quan trọng để phát triển kinh tế theo hướng CNH - HĐH. Bởi vì, để phấn đấu đưa nước ta về cơ bản trở thành một nước CN vào năm 2020 thì đòi hỏi nhu cầu vốn ĐT là rất lớn, trong khi đó khả năng của nguồn vốn ngân sách quá ít ỏi, hoàn toàn không đủ đáp ứng. 77 3.1.2. Nhu cầu vốn ĐT phát triển Mục tiêu của kế hoạch phát triển Kinh tế - Xã hội giai đoạn 2006-2010 là đưa thu nhập bình quân đầu người đến năm 2010 đạt trên 1.000USD; tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trong 5 năm là 7,5-8%, phấn đấu đạt trên 8%.[24] Để thực hiện được mục tiêu tăng trưởng đó, theo Báo cáo của Bộ KH & ĐT, tổng ĐT toàn xã hội trong 5 năm ước khoảng 140 tỷ USD.[24] ĐTTN sẽ đóng góp đáng kể vào nguồn vốn khổng lồ này, cụ thể, theo ước tính: Vốn ĐT từ dân cư và KVTN trong nước sẽ tăng từ 27% lên khoảng 34%, đạt khoảng 40 – 50 tỷ USD.[32] Tổng vốn ĐT trực tiếp nước ngoài đăng kí cấp mới và tăng vốn trong 5 năm 2006 - 2010 đạt 30 - 34 tỷ USD, trong đó vốn đăng kí cấp mới đạt 22 - 24 tỷ USD, vốn tăng thêm đạt 8 - 10 tỷ USD. Vốn FDI thực hiện trong giai đoạn này dự kiến đạt khoảng 24 - 25 tỷ USD, trong đó FDI trong nghành CN chiếm 55%, DV 37% và nông-lâm-ngư nghiệp chiếm 8%.[33] 3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƢỜNG THU HÚT ĐTTN CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM Việc tăng cường huy động mọi nguồn vốn ĐT để thúc đẩy quá trình CNH - HĐH đang là một trong số những nhiệm vụ kinh tế quan trọng hàng đầu hiện nay. Như đã phân tích ở trên, nguồn vốn ĐT của tư nhân cả trong và ngoài nước có ý nghĩa lớn đối với nước ta. Do đó, để huy động được ngày càng nhiều nguồn vốn này nhằm bổ sung vào nhu cầu vốn khổng lồ cho ĐT phát triển như đã đề cập ở trên, khóa luận xin đưa ra một số giải pháp sau đây: 3.2.1. Thực hiện thống nhất giữa Luật chung, Luật chuyên ngành và các văn bản dƣới luật để hạn chế giấy phép con Như chúng ta đã biết, các thủ tục hành chính rườm rà, hàng trăm các giấy phép phải xuất trình khi gia nhập thị trường đã làm nản lòng các nhà ĐT. Các DN, nhà ĐT rất cần thời gian và tốc độ để chớp lấy thời cơ. Nhưng các 78 thủ tục hành chính rườm rà, kéo dài sẽ làm mất cơ hội, DN hay nhà ĐT không thể triển khai hoạt động theo nhịp độ thị trường sẽ gây ra những thiệt hại lớn. Việt Nam đã cố gắng cải thiện tình hình này bằng việc ban hành các văn bản luật như Luật ĐT, Luật DN, để đơn giản hóa cũng như giảm thiểu các giấy tờ, thủ tục hành chính trong quá trình đăng ký kinh doanh. Nhưng có một vấn đề phát sinh, đó là việc ban hành các văn bản luật luôn đi kèm với các Thông tư, Nghị định hướng dẫn thi hành (các văn bản dưới Luật) và các văn bản này nhiều khi còn có hiệu lực mạnh hơn các văn bản Luật. Các Thông tư, Nghị định này có khi lại dẫn chiếu đến các Luật chuyên ngành. Điều đáng nói là nội dung của các văn bản này có nhiều chỗ không thống nhất, thậm chí trái ngược và mâu thuẫn nhau. Đây chính là lỗ hổng để hàng loạt các giấy phép con ra đời gây cản trở hoạt động đăng ký kinh doanh. Một ví dụ điển hình về hậu quả của việc các văn bản luật mâu thuẫn về nội dung đó là quy định về vốn pháp định đối với các DN khi đăng ký thành lập DN kinh doanh bất động sản: Lâu nay, Luật DN và các văn bản hướng dẫn nói chung áp dụng theo pháp luật chuyên ngành khi DN muốn đăng ký thành lập DN kinh doanh bất động sản. Luật Kinh doanh bất động sản và các văn bản hướng dẫn luật này gọi là pháp luật chuyên ngành. Nghị định 153/2007/NĐ - CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Kinh doanh bất động sản hướng dẫn là vốn pháp định khi đăng ký kinh doanh bất động sản là 6 tỷ đồng còn trình tự, thủ tục, hồ sơ cơ quan có thẩm quyền xác định thì Nghị định 153 lại quy chiếu sang áp dụng theo Luật Hợp tác xã về đăng ký kinh doanh. Như vậy, hai bên không thống nhất với nhau, văn bản trái nhau, các DN kinh doanh bất động sản không đăng ký được.[45] Do đó, việc thống nhất về nội dung giữa các văn bản Luật là hết sức cần thiết để thu hút cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho tư nhân tham gia ĐT. 79 3.2.2. Đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng trên cơ sở “3 giảm, 3 tăng” Tham nhũng gây ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh doanh, làm tăng chi phí kinh doanh của các DN và có thể làm méo mó các chính sách phát triển kinh tế. Tham nhũng càng nhiều, càng gây khó khăn không chỉ cho DN trong nước mà cả DN nước ngoài, do đó làm hạn chế ĐTTN. Việc đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng là một giải pháp tốt để tạo niểm tin cho các nhà ĐTTN về một môi trường cạnh tranh lành mạnh. Giải quyết vấn nạn tham nhũng phải dựa trên cơ sở “3 giảm, 3 tăng”. Theo đó, giảm công hữu, (tức nhà nước chỉ nắm giữ ngành, lĩnh vực quan trọng, còn những lĩnh vực khác thực hiện theo chương trình xã hội hóa), giảm cơ chế xin-cho, giảm can thiệp trực tiếp của Nhà nước. Còn 3 tăng là tăng thị trường cạnh tranh, tăng kiểm tra giám sát và tăng minh bạch, công khai. Cơ chế xin-cho trong các hoạt động như vay vốn, đấu thầu, hạn ngạch xuất khẩu,… thời gian qua đã ảnh hưởng xấu đến môi trường cạnh tranh, gây cản trở lớn đối với các hoạt động ĐT chính đáng của tư nhân. Các DN, nhà ĐT muốn hoạt động ĐT sản xuất kinh doanh của mình diễn ra trôi chảy nhiều khi phải có mối quan hệ tốt với các nhà cầm quyền. Điều này tạo mảnh đất thuận lợi cho tham nhũng gia tăng, ảnh hưởng xấu đến môi trường cạnh tranh. Đây là một trong những vấn đề khá phổ biến gây tâm lý e ngại cho các nhà ĐTTN chân chính. Một ví dụ điển hình về cơ chế xin-cho là hiện tượng tham nhũng của một số quan chức Bộ Thương mại liên quan đến việc phân bổ quota dệt may vào thị trường Mỹ. Lợi dụng quyền phân bổ quota, các giới chức chuyên trách của Bộ Thương mại đã chuyển nó thành cơ hội kiếm tiền, gây lao đao cho biết bao DN dệt may vì phải chạy vạy khắp nơi để xin hạn ngạch, trong khi một số DN khác "biết" hối lộ thì "dễ dàng" kiếm được quota. Do đó việc giảm cơ chế xin cho sẽ là một biện pháp tích cực khuyến khích ĐTTN. 80 Sự can thiệp quá sâu của nhà nước vào các hoạt động kinh tế là sự khẳng định vai trò quan trọng của các nhà cầm quyền trong nền kinh tế. Chính điều đó sẽ dẫn đến tình trạng lạm dụng chức quyền để mưu lợi cá nhân, sự móc ngoặc giữa một số các nhà chính trị và các nhà kinh doanh, tình trạng tham nhũng trên quy mô quốc gia. Do đó để giảm tham nhũng, việc giảm sự can thiệp của nhà nước vào các hoạt động kinh tế là hết sức cần thiết. Việc giảm cơ chế xin-cho, giảm sự can thiệp của nhà nước sẽ cải thiện môi trường cạnh tranh theo hướng bình đẳng, hiệu quả. Các DN, nhà ĐT nào hoạt động tốt hơn sẽ tồn tại. Cách duy nhất để họ tồn tại trong môi trường cạnh tranh bình đẳng ấy là họ phải vươn lên bằng tài năng, nghị lực của chính mình chứ không thể dựa vào các mối quan hệ, do đó sẽ hạn chế được tham nhũng. Trên cơ sở đó, hoạt động sản xuất kinh doanh chắc chắn sẽ diễn ra sôi nổi hơn, thu hút được nhiều nhà ĐTTN hơn. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Chính phủ để đảm bảo các Luật mới về ĐT, đấu thầu thực thi một cách nghiêm túc, khắc phục tình trạng thực thi kém hiệu quả ở các cấp, các ngành, đảm bảo không có tham nhũng nhằm tạo niềm tin cho các nhà ĐT. Sự công khai, minh bạch của hệ thống thông tin trên mọi mặt của đời sống kinh tế cũng góp phần giảm tham nhũng, thúc đẩy ĐTTN. Khi mọi thông tin liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh như các luật, chính sách của nhà nước được quy định rõ ràng và công bố công khai thì các nhà ĐT sẽ dễ dàng tính toán được họ cần làm những gì khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời dựa trên sự công khai, minh bạch của chính sách, những người thực thi pháp luật khó có thể đưa ra những đòi hỏi vô lý đối với các nhà ĐT. Sự công khai, minh bạch chắc chắn sẽ khiến các DN yên tâm mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. 81 Tóm lại, theo như các phân tích ở trên, việc chống tham nhũng trên cơ sở “3 tăng, 3 giảm” nếu được thực hiện tốt chắc chắn sẽ là một nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ ĐTTN. 3.2.3. Cần thay đổi tƣ duy coi DN là đối tƣợng quản lý thành DN là đối tƣợng phục vụ Hoạt động ĐTTN luôn vì mục tiêu lợi nhuận. Để thu hút hiệu quả nguồn vốn này, Đảng và Nhà nước ta rất cần chú trọng đến lợi ích của KVKTTN. Do đó, trước khi ban hành chính sách mới, cần thăm dò dư luận rộng rãi xem các chính sách đó sẽ tác động đến DN như thế nào. Một chính sách không được sự đồng tình của cộng đồng DN chắc chắn sẽ không thể tồn tại lâu được. Vì vậy, để chính sách có thể đi vào thực tiễn, việc lấy ý kiến của các DN trong quá trình soạn thảo là rất cần thiết. Một chính sách về kinh tế được xuất phát từ lợi ích của chính các chủ thể trong nền kinh tế ấy chắc chắn sẽ hấp dẫn các nhà ĐT hơn. Không chỉ thể hiện ở việc soạn thảo chính sách, sự chú trọng đến ĐTTN của Nhà nước còn phải được thể hiện thông qua việc tạo điều kiện thuận lợi để DN tư nhân có cơ hội tiếp cận, ĐT vào các lĩnh vực (liên quan đến cơ sở hạ tầng) mà các DN nhà nước đang độc quyền và ĐT không hiệu quả. Trong giải pháp này, khóa luận xin được nhấn mạnh vào việc thu hút ĐTTN cho cơ cơ sở hạ tầng. Hiện nay, ĐTTN vào cơ sở hạ tầng ở nước ta chủ yếu tập trung trong các lĩnh vực như điện, cảng, viễn thông, và dầu khí, chủ yếu dưới hình thức BOT, BTO, BT và hợp đồng hợp tác kinh doanh - BCC.[27] Tuy nhiên cho đến nay chỉ có rất ít dự án thành công. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này nhưng trong khuôn khổ bài luận văn, chỉ xin đưa ra nguyên nhân dễ nhận thấy nhất đó là sự rườm rà trong cơ chế và tổ chức: có quá nhiều loại giấy phép, chứng chỉ, thủ tục và phải thông qua quá nhiều ban ngành liên quan. Ví dụ: Một dự án BOT thông thường về sản xuất điện năng từ khí đốt đòi hỏi nhà đầu tư phải tiến hành đàm phán riêng với các 82 cơ quan liệt kê dưới đây, tuỳ từng trường hợp, chưa kể một số ban ngành khác: Văn phòng Chính phủ, Bộ Công nghiệp, Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Khoa học Công nghệ, Ngân hàng Nhà nước, Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam, Tổng Công ty Điện lực Việt Nam, Uỷ ban Nhân dân Tỉnh/Thành phố, Cơ quan quản lý cơ sở hạ tầng ở địa phương như hạ tầng đất đai, mặt nước. Thêm vào đó, danh mục tóm tắt các loại giấy phép và chứng chỉ chủ yếu cần có đối với một dự án BOT trong lĩnh này dài tới hàng trang giấy. Yêu cầu đối với những dự án phức tạp hơn, nhất là những dự án về vấn đề đất đai thậm chí còn nhiều hơn. Việc có quá nhiều giấy tờ, thủ tục như trên đã ảnh hưởng xấu đến tiến độ dự án làm các nhà ĐT thực sự nản lòng. Có nhiều nhà ĐTTN phải bỏ cuộc trước khi dự án được triển khai. Đây là một thực tế đòi hỏi các nhà cầm quyền Việt Nam phải hết sức lưu ý. Một giải pháp luận văn muốn đưa ra đó là Chính phủ nên thành lập một Ban Đàm phán Trung ương nhằm bảo đảm duy trì quá trình đàm phán và cấp phép thông suốt và hợp thức đối với bất kỳ công ty tư nhân nào tham gia các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng, kể cả các dự án BOT, BT và BTO, khi đó, tất cả các hợp đồng lớn sẽ được đàm phán thông qua một nhóm đàm phán trung ương có đầy đủ thẩm quyền tham gia thương thảo và ra quyết định. Ban Đàm phán Trung ương này cũng cần được giao thẩm quyền cấp phép để bảo đảm cho tất cả các loại giấy phép chính, ở cả cấp trung ương và địa phương, được cấp thông qua một quy trình cấp phép ở tuyến trung ương mà không cần đăng ký, phê duyệt qua nhiều cấp như hiện nay. 3.2.4. Cần có cơ chế chính sách thu hút ĐT thật ổn định với mức độ khuyến khích cao trong các ngành, lĩnh vực, địa bàn kém lợi thế Chúng ta đều biết rằng, nhà ĐTTN chỉ quan tâm đến lợi nhuận. Xu hướng chung là các nhà ĐT sẽ ĐT vào các ngành, lĩnh vực có tỷ suất sinh lời cao, đồng thời khả năng thu hồi vốn nhanh. Để các ngành nghề, lĩnh vực, các địa bàn không có được những lợi thế này cũng thu hút được nhiều vốn thì cần 83 phải có các chính sách ưu đãi ĐT, như chính sách ưu đãi về thuế, ưu đãi về đất đai, tín dụng, v.v... Theo cuộc điều tra của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), đất đai là trở ngại lớn nhất đối các DN tư nhân. Cuộc điều tra trên mẫu 6.700 DN thực hiện năm 2007 cho thấy: “Hơn 65% DN (nhất là DN nhỏ và vừa) cho biết rằng sẽ mở rộng hoạt động kinh doanh của mình nếu dễ dàng tiếp cận đất đai hơn. Nhờ những thuận lợi về việc tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh, tiếp cận vốn vay, các nhà ĐT chắc chắn sẽ vẫn hào hứng ĐT vào ngay cả các ngành, địa bàn kém lợi thế về khả năng sinh lời bởi điều đó đã được bù đắp bởi việc giảm chi phí của các nhà ĐT khi ĐT vào đây. Đó là các chi phí về thuế, chi phí thuê đất, chi phí về lãi vay... Bên cạnh đó, các địa phương cần quảng bá rộng rãi các thông tin về các cơ chế chính ưu đãi của địa phương mình đến công chúng thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt thông qua mạng điện tử quốc gia nhằm thu hút sự quan tâm của các đối tác và nhà ĐT tiềm năng đang cân nhắc trong việc lựa chọn địa điểm và hướng ĐT. Các chính sách này phải có tính ổn định cao để tạo nên một phản ứng dây chuyền tốt cho các nhà ĐT trước lôi kéo các nhà ĐT sau. Nếu làm tốt các công tác trên, chắc chắn chúng ta sẽ thu hút được nhiều vốn ĐT của tư nhân hơn vì khi đó tất cả các ngành, lĩnh vực, địa bàn trên phạm vi cả nước đều được tư nhân chú ý đến. 3.2.5. Tăng cƣờng hiệu quả ĐT vào xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật Cơ sở hạ tầng kỹ thuật là một trong những yếu tố được các nhà ĐT tính đến khi quyết định vị trí ĐT của các dự án. Nhà nước ta đã và đang chú trọng tập trung vốn để ĐT phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, nhưng thực trạng cơ sở hạ tầng yếu kém vẫn là vấn đề khó khăn của chúng ta trong việc thu hút nguồn vốn ĐT của tư nhân. Để cơ sở hạ tầng thật sự đáp ứng yêu cầu của các nhà ĐT, chúng ta không chỉ phải huy động một lượng vốn lớn vào đó mà điều quan trọng hơn là phải chú trọng đến hiệu quả ĐT của lượng vốn này. Ở đây, 84 khóa luận muốn nhấn mạnh khả năng ứng dụng thực tiễn của các công trình hạ tầng kỹ thuật. Đó chính là sự tương thích giữa các công trình với nhu cầu của thị trường. Hiện nay, ở Việt Nam, còn nhiều công trình xây dựng dở dang, nhiều công trình chưa khai thác, sử dụng hết, thậm chí còn bỏ hoang trong khi đó các cơ sở điện, đường, trường, chạm vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh của các DN. Một giải pháp cấp bách đặt ra đó là phải nâng cao chất lượng công tác lập kế hoạch ĐT để tập trung bố trí vốn vào các dự án có tính thực tiễn cao, các dự án quan trọng và cấp thiết, loại bỏ các dự án không phù hợp với quy hoạch, các dự án có hiệu quả ĐT không cao, các dự án chưa thực sự cấp bách. Có như thế chúng ta mới phát huy tối đa được hiệu quả ĐT của nguồn vốn hạn chế hiện nay trong việc tạo dựng được cơ sở hạ tầng đáp ứng phần nào yêu cầu của nhà ĐT. Một vấn đề khác nữa không thể không đề cập khi nói đến khả năng ứng dụng thực tiễn của các công trình hạ tầng kỹ thuật đó là chất lượng các công trình. Một ví dụ điển hình đó là chất lượng của các công trình giao thông: kém và không đồng đều. Chất lượng các công trình kém sẽ dẫn đến việc chúng ta phải nhanh chóng ĐT xây mới gây lãng phí nguồn lực, khó lòng đạt được mục tiêu về một cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại, tiên tiến. Để nâng cao chất lượng công trình, đồng thời hạn chế tổn thất cho xã hội, chúng ta nên có các công ty, tổ chức giám định độc lập, thuê họ giám định chất lượng công trình để nghiệm thu các công trình và chịu trách nhiệm về kết quả giám định đó. Những công ty giám định độc lập như vậy sẽ giám định khách quan, trung thực. Do đó, chất lượng công trình sẽ được đảm bảo hơn. 3.2.6. Tăng cƣờng hiệu quả công tác xúc tiến thƣơng mại Công tác xúc tiến thương mại (XTTM) góp phần đáng kể trong việc thu hút ĐTTN. Việc XTTM đã và đang trở thành cầu nối rất quan trọng giữa sản xuất và lưu thông hàng hoá. Hoạt động này bao gồm: thông tin thương mại, tư 85 vấn xuất khẩu, đào tạo nâng cao năng lực và kỹ năng kinh doanh xuất nhập khẩu, quảng bá thương hiệu sản phẩm, tổ chức hội chợ triển lãm, xây dựng cơ sở hạ tầng... Nếu như trước năm 1990, các DN chưa nhận thấy tầm quan trọng của hoạt động XTTM thì nay, các DN đã bắt đầu quan tâm tới vấn đề này.[20] Do đó nếu công tác XTTM được làm tốt sẽ mở ra cho các nhà ĐT nhiều sự lựa chọn, đồng thời giúp cho hoạt động ĐT của họ tiến hành thuận lợi hơn từ đó thúc đẩy tư nhân bỏ vốn ĐT mở rộng sản xuất kinh doanh. Trong việc thu hút vốn ĐTNN, có thể coi hoạt động XTTM như một hình thức “quảng cáo” về Việt Nam. Tuy nhiên các DN đã từng sử dụng dịch vụ XTTM đều cho rằng, chất lượng dịch vụ còn ở mức trung bình và tính chuyên nghiệp chưa cao. Theo điều tra của các cơ quan XTTM địa phương do Cục XTTM tiến hành trong năm 2006 và đầu năm 2007, hệ thống XTTM của nước ta tuy phát triển mạnh về số lượng, nhưng về chất lượng và hiệu quả hoạt động thì còn ẩn chứa nhiều bất cập nên vẫn chưa đóng góp được nhiều trong việc khuyến khích ĐTTN. Do đó, Nâng cao năng lực và tăng cường hiệu quả của hoạt động XTTM là một nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết trong giai đoạn phát triển hiện nay. Luận văn cũng xin đưa ra một số giải pháp trong vấn đề này, đó là: tăng cường công tác đào tạo nâng cao chất lượng cán bộ làm công tác XTTM; tăng cường liên kết lẫn phối hợp giữa các cơ quan XTTM, hiệp hội, DN…; chú trọng công tác hoạch định, xây dựng chiến lược dài hạn về công tác XTTM; phát triển ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động XTTM. Tóm lại, chương 3 của khoá luận đề cập tới quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc coi trọng vai trò của nguồn vốn tư nhân trong nước và nước ngoài trong chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam. Trên cơ sở tầm quan trọng của nguồn vốn tư nhân đó, chương 3 của khoá luận đã đề ra một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút ĐTTN để bổ sung vào lượng vốn khổng lồ cần cho ĐT phát triển đất nước trong thời kỳ CNH – HĐH đất nước. 86 KẾT LUẬN Sau khi nghiên cứu đề tài, có thể rút ra nhận định rằng: Việt Nam đã hoàn toàn đúng đắn khi quyết định chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, sang kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực hiện mở cửa, hội nhập quốc tế, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại. Nhìn chung, những cải cách kinh tế mạnh mẽ trong gần hai thập kỷ đổi mới vừa qua đã mang lại cho Việt Nam những thành quả bước đầu rất đáng phấn khởi. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế mà theo đó, nếu không có kinh tế nhà nước sẽ không có định hướng XHCN, nhưng nếu không có kinh tế tư nhân cũng sẽ không có kinh tế thị trường. Khi nói đến kinh tế tư nhân là chúng ta nghĩ ngay đến hoạt động ĐT của tư nhân. Vai trò quan trọng của ĐTTN đối với phát triển kinh tế đã được khẳng định tại tất cả các nước, từ những nước CN phát triển đến những nước đang và kém phát triển như Việt Nam. Thực sự phải thừa nhận rằng, những thành tựu đạt được trong hơn 20 năm qua của nền kinh tế Việt Nam có sự đóng góp rất lớn của ĐTTN. ĐTTN không những đã chia sẻ gánh nặng về vốn ĐT phát triển cho ngân sách nhà nước mà còn giúp nền kinh tế hoạt động hiệu quả hơn, từng bước đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo đói, chậm phát triển. Trong những năm trước mắt, để đạt được những mục tiêu kinh tế đã đặt ra, nhu cầu vốn ĐT phát triển của chúng ta là rất lớn. Do đó, vai trò của ĐTTN sẽ càng trở nên quan trọng bởi nguồn vốn ngân sách hạn hẹp của nước ta khó lòng đáp ứng nhu cầu này. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều trở ngại khiến cho hoạt động ĐTTN của nước ta chưa phát huy được hết tiềm năng. Những trở ngại mà khóa luận đề cập đến chủ yếu liên quan đến yếu tố cơ sở hạ tầng, trong đó cơ sở hạ tầng 87 mềm đóng vai trò ngày càng quan trọng. Khi nói đến cơ sở hạ tầng, người ta thường chỉ liên tưởng đến cơ sở hạ tầng cứng, tuy nhiên xét một cách toàn diện, cơ sở hạ tầng được phân ra thành cơ sở hạ tầng cứng và cơ sở hạ tầng mềm. Trong đó, cơ sở hạ tầng cứng là những yếu tố có thể đo lường theo các giá trị và ít nhiều mang tính khách quan như vị trí địa lý, trình độ dân trí, các cơ sở vật chất như cảng biển, hệ thống đường giao thông…Còn cơ sở hạ tầng mềm là những yếu tố khó lượng hóa và mang tính chủ quan, liên quan mật thiết đến cơ chế chính sách, quan điểm của nhà cầm quyền, các quy tắc điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế… còn được gọi là thể chế kinh tế. Thể chế kinh tế tác động mạnh mẽ đến hoạt động ĐTTN. Một thể chế kinh tế càng tương thích với cơ chế thị trường bao nhiêu lại càng thuận lợi cho sự vận hành của hoạt động ĐTTN bấy nhiêu. Thể chế kinh tế của Việt Nam hiện nay còn chứa đựng nhiều bất cập đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc thu hút cũng như hiệu quả hoạt động của ĐTTN. Trên cơ sở đó, khoá luận đã đề ra những giải pháp nhằm hoàn thiện thể chế, nâng cao tính hấp dẫn của môi trường ĐT, từ đó thu hút ĐTTN cho sự nghiệp phát triển kinh tế ở Việt Nam. Những giải pháp này được tổng hợp từ nhiều vấn đề nổi cộm được nêu trên các phương tiện thông tin đại chúng, đồng thời dựa trên những nhận định của các nhà kinh tế trong và ngoài nước đối với nền kinh tế Việt Nam. Trong tương lai, chắc chắn ĐTTN sẽ còn đóng góp nhiều hơn nữa cho phát triển kinh tế Việt nam. Do đó, Đảng và Nhà nước ta cần tiếp tục có những chính sách thông thoáng để khuyến khích tư nhân tham gia ĐT. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Anh 1. Asian Development Bank (ADB), Vie: Private Sector Assessment, p. 18 2. Blanchard(1986); Caballero(1999) ; Dixit và Pindyck(1994), Invesment under uncertaince, Princeton University Press 3. David Dapice, Fear of Flýing: Why is Sustaining Reform So Hard in Vietnam, Harvard, p. 10 4. Miad_A.Moosa, Foreign direct investment theory, evidence and practice, 2002 Tài liệu tiếng Việt 5. Bài phát biểu của Bộ trưởng Bộ KH & ĐT Võ Hồng Phúc tại Hội nghị Kinh tế đối ngoại “Việt Nam – ngôi sao đang lên ở châu Á” 6. Báo cáo “20 năm ĐTNN tại Việt Nam” của Cục ĐTNN – Bộ KH & ĐT 7. Báo cáo ước tính 2007 của Tổng cục Thống kê 8. Luật Cạnh tranh, các cơ quan điều tiết cạnh tranh của các nước. Bộ phận chống độc quyền thuộc hiệp hội Luật sư Mỹ, 2001. WB 2002 9. Luật DN 2005 10. Luật ĐT 2005 11. Niên giám Thống kê 2006 12. Nguyễn Huy Oánh (2001), “Vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế Việt Nam”, Nghiên cứu Kinh tế, (283), tr. 46-55 13. Minh Đức (2008), “Công nghiệp tăng trưởng ngoạn mục”, Thời báo Kinh tế Việt Nam, tr. 13-15 14. Phạm Huy Hoàng (2005), “ ĐT trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam – tổng quan và triển vọng”, Nghiên cứu Kinh tế, (322), tr. 36-45 15. Hoàng Thị Bích Loan (2005), “Mô hình nền kinh tế thị trường Nhật Bản cộng đồng”, Nghiên cứu Kinh tế, (330), tr. 70-75 16. Nguyễn Văn Minh, Hoàng Xuân Nghĩa (2005), “Phân tích kinh tế chính trị học nền kinh tế thị trường TBCN hiện đại: các đặc trưng và xu hướng vận động chủ yếu”, Nghiên cứu Kinh tế, (322), tr. 19-28 17. Trịnh Trọng Nghĩa (2006), “Vai trò của công ty trong nền kinh tế Mỹ”, Châu Mỹ ngày nay (Americas Today), (5), tr. 11-16 18. Trịnh Trọng Nghĩa (2005), “50 quốc gia có khả năng cạnh tranh hàng đầu thế giới năm 2004”, Nghiên cứu Kinh tế, (322), tr. 76-78 19. Ngô Tuấn Nghĩa (2006), “Ảnh hưởng của thể chế kinh tế tới môi trường ĐT”, Nghiên cứu Kinh tế, (335), tr. 17-30) 20. Lê Phong (2006), “Kết quả điều tra DN năm 2006”, Thời báo Kinh tế Việt Nam, tr. 37-40 21. Nguyễn Quang Thái (2007), “Kinh tế Việt Nam trong tương quan với thế giới và khu vực”, Kinh tế và Dự báo 22. Đỗ Tiến Sâm (1994), Xí nghiệp hương trấn ở nông thôn TQ, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội Mạng Internet 23. Báo Bình Dương, www.baobinhduong.org.vn (16/11/2007): “Cần có cái nhìn mới về hộ kinh doanh cá thể” 24. Cải cách hành chính Nhà nước – Bộ Nội vụ nước CHXHCN Việt Nam www.caicachhanhchinh.gov.vn (12/06/2006): “Coi trọng hiệu quả đồng vốn” 25. Diễn đàn DN www.dddn.com.vn (20/10/2003): “Kinh tế tư nhân vẫn chưa cất cánh” 26. Trích báo điện tử EVN trên www.ialýhpc.vn: “Cơ hội ĐT vào ngành điện” 27. Bài viết “Hướng dẫn thi hành Luật DN và Luật ĐT” của Trung tâm thông tin Kinh tế - Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trên www.kinhdoanh.com.vn (10/2006) 28. Bộ Tài chính www.mof.gov.vn (02/01/2008): “Bội thu vốn FDI vào lĩnh vực công nghệ cao” 29. Bộ Tài chính www.mof.gov.vn (07/9/2007): “Dịch chuyển dòng chảy ĐT vào lĩnh vực DV” 30. Bộ Tài chính www.mof.gov.vn (14/11/2005): “Đăng ký kinh doanh – rào cản đối với nhà ĐT” 31. Bộ Tài chính www.mof.gov.vn (14/6/2006): “Kinh tế tư nhân: Vị thế quan trọng song vẫn thiếu lực đẩy” 32. Bộ Ngoại Giao Việt Nam www.mofa.gov.vn (06/12/2005): Diễn văn khai mạc Hội nghị “Nhóm tư vấn các nhà tài trợ 2005” 33. Bộ Ngoại Giao Việt Nam www.mofa.gov.vn: Điểm báo ngày 28/8/2006 34. Bộ Ngoại giao Việt Nam www.mofa.gov.vn (15/3/2005): “Ngành DV Việt Nam và định hướng phát triển trong thời gian tới” 35. Bộ Công thương www.moi.gov.vn (10/04/2007): “Phát triển lĩnh vực kinh tế đối ngoại Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế” 36. Bộ KH & ĐT www.mpi.gov.vn: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 37. Bộ KH & ĐT www.mpi.gov.vn: “Hoạt động xuất nhập khẩu đã có những bước phát triển mạnh” 38. Tạp chí Cộng sản www.tapchicongsan.org.vn (06/02/2007): “Phát triển kinh tế tư nhân trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc” 39. Hiệp hội DN ĐTNN – Bộ KH & ĐT www.vafie.org.vn (1/3/2007): “Xuất khẩu - những kỷ lục mới * Doanh nghiệp FDI chiếm 57,7% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước” 40. Thời báo Kinh tế Việt Nam www.vneconomy.com.vn (17/10/2007): “Gọi trên 61 tỷ USD trong 5 năm” 41. Cổng thông tin Kinh tế Việt Nam (Vietnam Economic Portal): www.vnep.org.vn: “KVKTTN – nguồn huyết mạch chưa khai thông” 42. Cổng thông tin Kinh tế Việt Nam (Vietnam Economic Portal): www.vnep.org.vn: “Khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân VN nhìn từ góc độ hiệu quả chính sách” 43. www.vnexpress.net: “50 năm kinh tế tư nhân Hà Nội” 44. Trang web của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam VCCI (29/12/2007) vibonline.com.vn: “Đầu tư nước ngoài: Đạt kỷ lục vẫn lo” 45. Báo Đầu Tư www.vir.com.vn (18-1-2008): “Gỡ vướng trong đăng ký kinh doanh bất động sản”

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf4166_056.pdf
Luận văn liên quan