Lời mở đầu
Xã hội đang hướng tới nền kinh tế tri thức. Tri thức ngày càng trở nên quan trọng trong sự thành công của mỗi doanh nghiệp, mỗi nền kinh tế. Không có tri thức, doanh nghiệp khó có thể đạt đến sự thành công trên con đường phát triển của thời đại. Tri thức - tài sản của công ty nếu không được nhìn nhận và quản lý tốt sẽ vô tình thất thoát, tạo những khoảng trống phát triển thiếu bền vững không dễ gì lấp đầy. Quản trị tri thức đã trở thành vấn đề sống còn của mỗi doanh nghiệp. Quản trị tri thức đang dần chiếm được tầm quan trọng to lớn đối với kinh doanh hiện đại.
Chính vì vậy mà chúng tôi đã chọn đề tài: “Vai trò của quản trị tri thức trong kinh doanh hiện đại. Minh họa bằng ví dụ thực tế tại một cơ sở”. Và doanh nghiệp nhóm chúng tôi đã thống nhất tìm hiểu đó là Công ty Google_ công ty điển hình về việc áp dụng thành công mô hình quản trị tri thức trong kinh doanh hiện đại. Bài thảo luận được chia thành 2 phần:
- Phần I: Cơ sở lý thuyết
1. Khái niệm tri thức và quản trị tri thức
2. Sự ra đời và phát triển của quản trị tri thức
3. Vai trò của quản trị tri thức.
- Phần II: Vận dụng: Vai trò của quản trị tri thức trong công ty Google
18 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4604 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vai trò của quản trị tri thức trong kinh doanh hiện đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Xã hội đang hướng tới nền kinh tế tri thức. Tri thức ngày càng trở nên quan trọng trong sự thành công của mỗi doanh nghiệp, mỗi nền kinh tế. Không có tri thức, doanh nghiệp khó có thể đạt đến sự thành công trên con đường phát triển của thời đại. Tri thức - tài sản của công ty nếu không được nhìn nhận và quản lý tốt sẽ vô tình thất thoát, tạo những khoảng trống phát triển thiếu bền vững không dễ gì lấp đầy. Quản trị tri thức đã trở thành vấn đề sống còn của mỗi doanh nghiệp. Quản trị tri thức đang dần chiếm được tầm quan trọng to lớn đối với kinh doanh hiện đại.
Chính vì vậy mà chúng tôi đã chọn đề tài: “Vai trò của quản trị tri thức trong kinh doanh hiện đại. Minh họa bằng ví dụ thực tế tại một cơ sở”. Và doanh nghiệp nhóm chúng tôi đã thống nhất tìm hiểu đó là Công ty Google_ công ty điển hình về việc áp dụng thành công mô hình quản trị tri thức trong kinh doanh hiện đại. Bài thảo luận được chia thành 2 phần:
- Phần I: Cơ sở lý thuyết
- Phần II: Vận dụng: Vai trò của quản trị tri thức trong công ty Google
I. Lý thuyết
1. Khái niệm tri thức và quản trị tri thức
a) Tri thức là gì?
Để hiểu rõ khái niệm tri thức ta phân biệt tri thức với các khái niệm tương đồng khác là dữ liệu, thông tin, trí tuệ.
Dữ liệu là những con số hoặc dữ kiện thuần túy, rời rạc mà quan sát hoặc đo đếm được không có ngữ cảnh hay diễn giải. Dữ liệu được thể hiện ra ngoài bằng cách mã hóa và dễ dàng truyền tải. Dữ liệu được chuyển thành thông tin bằng cách thêm giá trị thông qua ngữ cảnh, phân loại, tính toán, hiệu chỉnh và đánh giá.
Thông tin là những mô hình hay tập hợp dữ liệu đã được tổ chức lại và diễn giải đặt trong bối cảnh và nhằm một mục đích cụ thể. Thông tin là những thông điệp thường được thể hiện theo dạng văn bản hoặc giao tiếp có thể thấy được hoặc không thấy được… nhằm mục đích thay đổi cách nhận thức của người nhận thông tin về vấn đề cụ thể, và gây ảnh hưởng đến sự đánh giá và hành vi của người nhận. Vì thông tin là những dữ liệu được tổ chức lại vì một mục đích nào đó, vì vậy mà nó sẽ giảm bớt sự không chắc chắn. Đó cũng chính là sự khác biệt của thông tin với dữ liệu. Tương tự như dữ liệu, thông tin được mã hóa và tương đối dễ dàng truyền tải.
Tri thức là việc sử dụng tối đa thông tin và dữ liệu kết hợp với tiềm năng con người về kỹ thuật, trình độ, ý tượng, mức độ cam kết và động cơ làm việc. Tri thức thường thể hiện trong những hoàn cảnh cụ thể kết hợp với kinh nghiệm và việc phán quyết hay ra quyết định. Để truyền tải thì đòi hỏi sự học tập của người tiếp nhận tri thức. Như vậy nếu một thông tin giúp chúng ta nhận thức và đưa ra quyết định thì là tri thức. Thông tin trở thành “đầu vào” được nạp vào trong não, qua quá trình xử lý sẽ tạo ra tri thức. Nhưng quá trình xử lý này với mỗi một cá nhân khác nhau sẽ cho ra những “đầu ra” khác nhau. Có nghĩa là cùng một thông tin như vậy nhưng với mỗi cá nhân thì tri thức mà anh ta nhận thức được sẽ khác với tri thức mà người khác nhận thức. Thông tin là những dữ liệu được cấu trúc hóa được thể hiện ra ngoài và ai cũng có thể tiếp cận. Nhưng tri thức thiên về những thông tin được cấu trúc hóa và cá nhân hóa nằm trong mỗi con người cụ thể, do đó khả năng tiếp cận khó hơn và sự thể hiện ra ngoài không phải lúc nào cũng chính xác.
Tri thức là những dữ liệu, thông tin được cấu trúc hóa, kiểm nghiệm và sử dụng được vào một mục đích cụ thể tạo ra giá trị.
Chúng ta có thể chia ra làm 2 loại tri thức: Một là tri thức hiện (explicit knowledge); hai là tri thức ẩn (tacit knowledge)
- Tri thức hiện (Explicit knowledge): Đây là những tri thức có tính khách quan, được thể hiện ra dưới dạng dữ liệu, văn bản, ngôn ngữ: dễ dàng được thể hiện, bắt giữ, lưu trữ và tái sử dụng thông qua các cơ sở dữ liệu, sách, văn bản tài liệu hướng dẫn và các giấy tờ chuyển tải trong những ngôn ngữ. Ví dụ như các tri thức về chuyên môn được trình bày trong giáo trình, sách, báo, tạp chí,...
- Tri thức ẩn (Tacit knowledge): có tính chủ quan, duy ý chí, dựa trên nhận thức, kinh nghiệm mà không thể hiện thông qua từ ngữ, lời nói, công thức và gắn liền với những bối cảnh nhất định, vận hành trong bộ não con người. Tri thức ẩn có thể bao gồm các kỹ năng nhận thức như niềm tin, hình ảnh, cảm nhận và tư duy cũng như các kỹ năng kỹ thuật như sự thuần thục và bí quyết.
b) Quản trị tri thức là gì?
Quản trị tri thức là một khái niệm mới đang có nhiều tranh luận. Tuy nhiên dù tranh luận thế nào thì bản chất Quản trị tri thức vẫn là một. Sự khác biệt chỉ là cách chúng ta tiếp cận nghiên cứu và ứng dụng. Sau đây chúng tôi trình bày tổng quan về các khái niệm về quản trị tri thức đang được các học giả trong và ngoài nước sử dụng, từ đó đưa ra khái niệm chung nhất mang tính ứng dụng.
Có rất nhiều cách tiếp cận và định nghĩa khác nhau tuỳ theo cách nhìn và phương thức của mỗi cá nhân hay tổ chức. Chúng bao gồm có quản lý, việc học hỏi của cá nhân và tổ chức, giao tiếp, công nghệ và các hệ thống thông tin, trí tuệ nhân tạo, tài sản tri thức,…Không có một định nghĩa hay một cách tiếp cận thống nhất về quản trị tri thức nào cả, nhưng lại có những nội dung có thể bao quát toàn bộ. Quản trị tri thức bao gồm con người, các cách thức và quá trình, các hoạt động, công nghệ và một môi trường rộng hơn thúc đẩy việc định dạng, sáng tạo , giao tiếp hay chia sẻ, và sử dụng các tri thức cá nhân cũng như tri thức của tổ chức. Nó là về những qui trình quản lý việc tạo ra, phát tán và sử dụng tri thức để đạt được mục tiêu tổ chức. Nó đòi hỏi sự kết hợp giữa nhận thức kinh doanh, thái độ và thực tiễn sáng tạo, những hệ thống, chính sách và những thủ tục được tạo ra để giải phóng sức mạnh của thông tin và ý tưởng.
Trong cuốn sách “People-Focused Knowledge Management”, Karl M. Wiig định nghĩa: Quản trị tri thức là quá trình sáng tạo, phát triển và ứng dụng tri thức một cách có hệ thống và minh bạch nhằm tối đa hóa hiệu quả hoạt động liên quan đến tri thức và giá trị doanh nghiệp từ tri thức và tài sản trí tuệ sẵn có.
Quản trị tri thức nhằm đến các quá trình sáng tạo, nắm bắt, chuyển giao và sử dụng tri thức để nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức. (Public Service Commission of Canada, 1998)
Quản trị tri thức đưa tri thức ngầm lên bề mặt, tổng hợp chúng thành những dạng dễ dàng lưu trữ và truy cập hơn, đồng thời thúc đẩy tính sáng tạo của nó. (Birket)
Quản trị tri thức là quá trình tạo mới, phân phối và sử dụng tri thức một cách hiệu quả. (Davenport)
“Quản trị tri thức là quá trình có hệ thống của việc nhận dạng, thu nhận, và chuyển tải những thông tin và tri thức mà con người có thể sử dụng để sáng tạo, cạnh tranh, và hoàn thiện” (Trung tâm Năng suất và Chất lượng Hoa Kỳ – Trích dẫn bởi Serban và Luan).
Quản trị tri thức là một quá trình, một công cụ quản lý hiệu quả nhằm chia sẻ, thu nhận, lưu giữ, lựa chọn, sáng tạo tri thức và cung cấp đúng người, đúng nơi, đúng lúc nhằm nâng cao hiệu quả quyết định, hiệu quả thực thi và khả năng thích ứng của tổ chức.
2. Sự ra đời và phát triển của quản trị tri thức
Năm 1978, Honda muốn tạo một mẫu thiết kế xe hơi mới do các xe Civic và Accord đã quá quen thuộc. Công việc được giao trách nhiệm cho một nhóm kỹ sư trẻ (trung bình 27 tuổi). Lãnh đạo chỉ ra hai lệnh: (1) Một sản phẩm với thiết kế cơ bản khác trước (2) Xe không đắt cũng không rẻ. Khẩu hiệu mới thách thức “Cách mạng ô tô - Automobile revolution” và câu hỏi cho cả nhóm thảo luận: “Nếu xe hơi là một thực thể sống, nó sẽ phải tiến hóa thế nào?”. Ý tưởng của nhóm: Xu hướng “cách mạng” là xe hơi phải vượt qua những quan hệ người – xe truyền thống, xe phải ngắn và cao hơn, hình cầu sẽ cho nhiều chỗ bên trong hơn và tiết kiệm năng lượng hơn. Cuối cùng sản phẩm là “tall boy” car. Theo quan điểm quản trị tri thức thì từ một ý tưởng về một mẫu thiết kế xe hơi(tri thức ẩn) thông qua việc chia sẻ, thu nhận, chọn lọc, đánh giá và đổi mới tri thức, những kỹ sư của Honda đã cho ra đời một mẫu xe mới (tri thức hiện).
Tại Tâm Việt Group năm 2007, một phó tổng giám đốc bỏ ra ngoài lập công ty riêng cạnh tranh trực tiếp với chính công ty cũ. Nhờ áp dụng quản trị tri thức với các thói quen chia sẻ, thu nhận, lưu giữ, đánh giá và đổi mới tri thức, Tâm Việt đã không bị ảnh hưởng khi một người ở vị trí rất cao ra đi. Tất các các tri thức đều được mọi thành viên chia sẻ và lưu trữ như: các bài giảng, mối quan hệ khách hàng, các dự án dở dang...
Tại Công ty Tuấn Thành, một trưởng phòng bán hàng đã rời bỏ công ty và mang theo tất cả các mối quan hệ khách hàng cũng như các bí quyết xây dựng quan hệ với khách hàng. Sự ra đi này đã gây cho công ty thiệt hại hàng chục tỷ đồng vì mất đi những dự án tiềm năng và các dự án đang trong quá trình đàm phán.
Qua 3 ví dụ thực tế trên, chúng ta có thể thấy được một xu hướng mới của quản trị tri thức và tầm quan trọng của nó. Thế giới đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển kinh tế xã hội.
Những năm 50 của thế kỷ 19, nền kinh tế phát triển chủ yếu dựa trên sản xuất nông nghiệp. Hoạt động sản xuất phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên. Thế kỷ 20, nền kinh tế chuyển sang sản xuất công nghiệp lấy việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, sản xuất, chế biến, phân phối, sử dụng sản phẩm vật chất làm nền tảng. Các lý thuyết quản trị dựa trên cơ sở lý thuyết quản trị con người. Từ những năm 90 của thế kỷ 20, các nền kinh tế phát triển bắt đầu có sự dịch chuyển sang nền kinh tế tri thức. Trong nền kinh tế tri thức, việc sáng tạo, truyền tải, lưu trữ, phát triển và sử dụng tri thức chi phối toàn bộ các hoạt động kinh tế, khoa học và công nghệ là lực lượng sản xuất trực tiếp. Lý thuyết về quản trị con người dần dần được thay thế bằng lý thuyết quản trị tri thức. Việc thực hành quản trị tri thức được thực hiện sẽ giúp cho các doanh nghiệp (DN) và nền kinh tế phát triển mạnh mẽ.
Những giá trị, những lợi thế và sức mạnh cạnh tranh của mỗi tổ chức, mỗi doanh nghiệp đang dần thay đổi. Thế giới đang ngày càng trở nên phẳng hơn bao giờ hết trong môi trường hội nhập quốc tế. Những rào cản xưa kia tưởng chừng không thể khoả lấp giờ đây chỉ còn là những vết mờ. Thời đại của công nghệ thông tin, thời đại của nền kinh tế tri thức đã thực sự định hình.Những nhân tố tạo ra sức mạnh cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp không còn là vốn đất đai, vốn tư bản, vốn tài chính hay vốn công nghệ mà nhường chỗ cho nhân tố vốntri thức, là khả năng doanh nghiệp “nắm giữ bao nhiêu tri thức và sử dụng nó nhưthế nào để hiệu quả nhất”. Vốn tri thức và rộng lớn hơn nữa là Quản trị tri thức đang thực sự trở thành nhân tố chủ đạo tạo nên những bước tiến thần kỳ của mỗiquốc gia, mỗi tổ chức, mỗi doanh nghiệp
Tuy mới ra đời chỉ hơn 10 năm nhưng Quản trị tri thức đang trở thành xu hướng toàn cầu. Vị trí của ngành quản trị non trẻ này đã và đang được khẳng định bởi sự thành công của nhiều Tập đoàn hàng đầu thế giới trong việc ứng dụng. Dựa trên nền tảng triết lý quản trị tri thức, những giá trị vật chất và tinh thần, chỉ số lợi nhuận và giá trị thị trường của những công ty áp dụng đã khiến thế giới doanh nghiệp ngưỡng mộ. Tiêu biểu cho những bước tiến, sự phục sinh thần kỳ đó là các tổ chức hàng đầu như: IBM, Coca – Cola, Microsoft,Google hay Yahoo. Ở Châu Á, chúng ta cũng được chứng kiến những bước nhạy vọt đầy mạnh mẽ với một phương thức quản trị tương tự trên phạm vi quốc gia như Singapor,Hàn Quốc, Nhật Bản hay Malaisia. Trên phương diện tổ chức cả thế giới cũng bao lần kinh ngạc bởi một cái gọi là “Phương thức Toyota” dựa trên nền tảng quản trị tri thức Kaizen.
3. Vai trò của quản trị tri thức.
- Cạnh tranh: bằng việc hướng sự chú ý hơn tới giá trị gia tăng mà tri thức của tổ chức có thể mang lại. Các chuyên gia quản trị thương hiệu, tri thức là nguồn lực duy nhất mà đối thủ không thể dễ dàng bắt chước. Quản trị tri thức chú trọng sáng tạo và ứng dụng duy trì ưu thế.
- Sáng tạo: luôn đổi mới, tạo ra các ý tưởng và khai thác tiềm năng tư duy của tổ chức từ đó thúc đẩy quá trình sáng tạo ra những sản phẩm và dịch vụ mới:
Cuộc sống thay đổi từng phút giây, mỗi ngày ở khắp nơi trên trái đất, hàng trăm ý tưởng được sản sinh. Thế giới ngày càng trở nên phẳng hơn, sức mạnh không phải đo qua những thứ sẵn có từ nguồn tài nguyên thiên nhiên, lợi thế đất đai mà đo bằng những thứ vô hình là trí tuệ, ý tưởng sáng tạo. Những thứ vô hình không thể cân đếm chính xác nhưng lại là tài sản có giá trị vô cùng to lớn.
Để bắt kịp với nhịp độ công nghệ số, các doanh nghiệp luôn phải thường trực khát vọng cải thiện, đổi mới, tạo môi trường làm việc chuyên nghiệp năng động, để mỗi thành viên có thể bộc lộ tiềm năng của mình. Sức sống sôi nổi của doanh nghiệp là mảnh đất màu mỡ phát triển những ý tưởng sáng tạo. Có rất nhiều cách để tạo ra môi trường như thế:
+ Có chế độ đãi ngộ xứng đáng với người có đóng góp cho doanh nghiệp.
+ Tạo không khí làm việc thoải mái những vẫn chấp hành các quy định cơ bản.
+ Xây dựng cơ sơ vật chất kỹ thuật hiện đại hỗi trợ nghiên cứu thực nghiệm ý tưởng sáng tạo.
+ Khuyến khích nhân viên bày tỏ, thể hiện tiềm năng tư duy.
- Tốc độ: bằng việc xác định cách làm thông minh hơn để tiết kiệm thời gian và rút ngắn chu trình và thời gian thực hiện chu trình:
+ Thu nhận các kinh nghiệm, biến chúng thành những tri thức hiện có thể sử dụng được cho người khác khi cần thiết. Mỗi cá nhân đều có những kinh nghiệm, kiến thức riêng tích lũy trong quá trình học tập và làm việc. Những dạng tri thức ẩn sẽ trở nên vô cùng lãng phí khi nó không được khai thác hết mọi lợi ích hoặc khi người sở hữu không biết sử dụng, sử dụng sai mục đích. Chỉ một người sở hữu sẽ hạn chế sức sống của nguồn sáng tạo đó thậm chí biến mất nếu người ấy chết. Nhưng khi biến nó thành tri thức hiện, mọi người cùng hưởng thụ thành quả và phát triển, nguồn tri thức đó sẽ sinh sôi nảy nở, bồi thêm tài sản sức mạnh vô hình của doanh nghiệp. Tuy nhiên không phải ai cũng dẽ dàng chia sẻ kinh nghiệm của mình cho người khác, đặc biệt với những công trình, ý tưởng sáng tạo nhiều tâm huyết, để có được chúng, họ đã phải đánh đổi mồ hôi công sức, chất xám, …. Bởi vậy muốn thu nhận được những tri thức ẩn cần có những chính sách ưu tiên và mức giá hợp lý.
+ Tạo điều kiện dễ dàng tìm kiếm và sử dụng lại những bí quyết chuyên sâu khi được lưu trữ trong những mẫu hiện hữu. Tri thức là những thông tin đã được sàng lọc, kết hợp kinh nghiệm bản thân. Và cuối cùng, tri thức là những điều đúng đắn đã được kiểm nghiệm thực tế. Quản trị tri thức giúp hệ thống phân loại một cách rõ ràng, dễ hiểu, có thể tra cứu dễ dàng, tiện lợi. Vừa thể hiện được sự khoa học chuyên nghiệp, hơn nữa tiết kiệm thời gian và chi phí tìm kiếm không cần thiết cho doanh nghiệp.
+ Thúc đẩy hợp tác, chia sẻ tri thức, học tập suốt đời và tiến bộ không ngừng. Tạo môi trường cởi mở, liên kết các thành viên cùng chia sẻ tri thức giúp đỡ nhau làm tốt công việc. Trong nội bộ doanh nghiệp, nếu không có sự đoàn kết, doanh nghiệp ấy không thể có nền móng vững chắc. Bởi mỗi cá nhân riêng lẻ tách rời sẽ làm phân tán lực lượng, chỉ khi tất cả hợp thành một khối, chia sẻ, bù đắp, cùng phát triển ý tưởng thì sức mạnh tập thể mới được phát huy hết tiềm năng.
Đối với bản thân mỗi người. Quản trị tri thức thúc đẩy định hướng học tập bằng rất nhiều cách thức. Nhà lãnh đạo cần đề cao tôn trọng mỗi cá nhân, để họ luôn hứng thú học hỏi, tìm tòi giúp ích cho doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp cử nhân viên đi học mà vẫn trả lương, tạo thêm cơ hội thăng tiến, sẽ là động lực để họ học tập và tiến bộ liên tục.
- Tăng chất lượng: nâng cao chất lượng ra quyết định và chất lượng các hoạt động trí tuệ từ đó áp dụng những bài học tốt để cải thiện chất lượng dịch vụ cung cấp:
Mỗi quyết định đưa ra đều sẽ có kết quả, tốt xấu thế nào phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng quyết định, thời gian đưa ra và sự quyết đoán của nó.
Quản trị tri thức kết hợp,hệ thống hóa nhiều nguồn thông tin ,dữ liệu đã được chọn lọc, để quyết định đưa ra kịp thời ,đúng đắn ,phản ứng nhanh chóng với mọi sự thay đổi. Quản trị tri thức cũng tổ chức rất đa dạng các hoạt động trí tuệ chất lượng cao, tài năng luôn được thi thố, kiểm nghiệm, để ngày càng hoàn thiện, trau dồi thêm nguồn tri thức cho doanh nghiệp.
- Giảm chi phí: Bằng việc làm giảm bớt các lỗi cũng như các tiến trình không cần thiết.
- Tăng doanh thu, lợi nhuận: Thấu hiểu giá trị và sự đóng góp của tài sản trí tuệ vào sự tăng trưởng, hiệu quả tổ chức của doanh nghiệp.
Ngoài những lợi thế hiện hữu, tri thức đánh giá khối sức mạnh cạnh tranh vô hình của mỗi doanh nghiệp. Đây là chiếc chìa khóa giúp doanh nghiệp sống sót, tồn tại và dẫn đầu trên thương trường khốc liệt.
II. Vận dụng: Vai trò của quản trị tri thức trong công ty Google
1. Giới thiệu khái quát về Google
- Google được thành lập ngày 4 tháng 9 năm 1998 bởi hai sinh viên tốt nghiệp trường Đại học Stanford là Larry Page và Sergey Brin. Ban đầu họ đã tạo ra một công cụ tìm kiếm có tên là “BackRub”. Công cụ này sử dụng các liên kết để xác định tầm quan trọng của từng trang web. Vào năm 1998, họ đã chính thức hóa sản phẩm của mình, sáng lập nên công ty mà ngày nay bạn biết đến với tên gọi Google.
- Các nhà sáng lập Larry Page và Sergey Brin đã đặt tên công cụ tìm kiếm mà họ tạo ra là “Google”, cách chơi chữ của từ “googol”, thuật ngữ toán học có nghĩa là số 1 được theo sau bởi 100 số 0. Tên này phản ánh khối lượng thông tin khổng lồ hiện có và phạm vi sứ mệnh của Google: sắp xếp thông tin của thế giới và làm cho thông tin này trở nên hữu dụng và có thể truy cập trên toàn cầu.
Biểu trưng doodle đầu tiên của Google cho lễ hội Burning Man, tháng 8 năm 1998.
- Kể từ đó, Google đã phát triển rất nhanh. Từ cung cấp dịch vụ tìm kiếm bằng một ngôn ngữ, Google giờ đây đã cung cấp hàng tá sản phẩm và dịch vụ bao gồm các dạng quảng cáo và ứng dụng web khác nhau dành cho mọi loại công việc bằng rất nhiều ngôn ngữ. Và khởi đầu từ hai sinh viên ngành khoa học máy tính trong một căn phòng ở ký túc xá của trường đại học, giờ đây Google đã có hàng nghìn nhân viên và văn phòng trên khắp thế giới.
Bức vẽ nguệch ngoặc biểu trưng của Google cho ngày sinh của Robert Louis Stephenson, tháng 11 năm 2010.
Sau đây là một số thông tin về các lĩnh vực hoạt động của Google
-Sản phẩm của Google Bottom of Form
Trợ giúp: Trợ giúp với tìm kiếm, dịch vụ và sản phẩm của Google, …
Tính năng tìm kiếm trên web của Google: Bản dịch, Xem trang đầu tiên tìm được, đã lưu trong bộ nhớ cache …
Công cụ & dịch vụ của Google
Thanh công cụ, Web API của Google, nút …
Google Labs: Ý tưởng, bản trình diễn, thử nghiệm …
- Dành cho chủ sở hữu trang web
Quảng cáo: AdWords, AdSense …
Giải pháp kinh doanh: Công cụ tìm kiếm Google, Google Mini, Tìm kiếm trên web …
Trung tâm quản trị trang web: Trung tâm một trạm cung cấp thông tin toàn diện về cách Google thu thập thông tin và lập chỉ mục các trang web …
Gửi nội dung của bạn đến Google: Thêm trang web, Google Base, Google Sitemaps …
Tuy vậy nhưng tại Việt Nam Google không có Công ty hay bất kỳ văn phòng đại diện nào cả. Có một Văn phòng đại diện của Google tại Châu Á nằm ở Đài Loan, vì lý do phát triển cho hệ điều hành mở (Open OS) Android, được phụ trách bởi các chuyên gia của Google.
2. Vai trò của quản trị tri thức trong Google
Không phải ngẫu nhiên mà cụm từ “Kinh tế tri thức”, nói đầy đủ là “Nền kinh tế tạo ra giá trị và phát triển chủ yếu dựa vào tri thức” (knowledge-based economy), trở thành câu nói cửa miệng của xã hội trong những năm gần đây. Những giá trị, những lợi thế và sức mạnh cạnh tranh của mỗi tổ chức, mỗi doanh nghiệp đang dần thay đổi. Thế giới đang ngày càng trở nên phẳng hơn bao giờ hết trong môi trường hội nhập quốc tế. Thời đại của công nghệ thông tin, thời đại của nền kinh tế tri thức đã thực sự định hình. Những nhân tố tạo ra sức mạnh cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp không còn là vốn đất đai, vốn tư bản, vốn tài chính hay vốn công nghệ mà nhường chỗ cho nhân tố vốn tri thức, là khả năng doanh nghiệp “nắm giữ bao nhiêu tri thức và sử dụng nó như thế nào để hiệu quả nhất”. Vốn tri thức và rộng lớn hơn nữa là Quản trị tri thức đang thực sự trở thành nhân tố chủ đạo tạo nên những bước tiến thần kỳ của mỗi quốc gia, mỗi tổ chức, mỗi doanh nghiệp. Vậy Google xây dựng áp dụng mô hình quản trị tri thức như thế nào để có đủ sức mạnh cạnh tranh với các đối thủ lớn trên thị trường.
Tom Davenport cùng với một người đồng nghiệp của mình ở trường Babson đã cùng nhau viết một bài báo về Google trong một số xuất bản gần đây của Tạp chí Harvard Business Review. Trong đó ông có nói: ‘Đối với tôi, Google thực sự khác biệt ở chỗ: họ là một tổ chức nguyên mẫu đầu tiên của Thế kỷ XXI, được xây dựng bởi ngân hàng dữ liệu và hoạt động nhờ những công việc tri thức. Tôi không đánh giá về giá trị cổ phiếu của Google (tôi thừa nhận là mức giá 85 USD/ một cổ phiếu IPO của Google có vẻ như quá cao, và điều đó đã được định liệu trước) hay việc công ty sẽ tiếp tục phát triển bằng một sản phẩm thành công khác để bổ sung cho lĩnh vực nghiên cứu và quảng cáo. Điều gây ấn tượng với tôi chính là phương pháp lãnh đạo của Google. Nếu bạn bắt đầu thiết kế ý tưởng về một tổ chức với các công việc về tri thức trong thiên niên kỷ mới, thì bạn có thể phải đưa ra các ý tưởng mới kiểu như Google đã làm”. Vậy Google đã làm gì?
Để hướng tới mục tiêu giá trị gia tăng mà tri thức có thể mang lại thì sự lựa chọn hàng đầu của Google là sáng tạo ra các sản phẩm công nghệ, các phần mềm tiện ích cạnh tranh với các công ty công nghệ hàng đầu thế giới như: Microsoft, Apple, IMB, Samsung, Intel… Sản phẩm công cụ tìm kiếm của Google được mọi người biết đến và sử dụng một cách rộng rãi nhờ cách sắp xếp, trình bày ngắn gọn, thông minh để đưa đến kết quả tìm kiếm nhanh và thích hợp nhất. Ngày 4 tháng 9 năm 2001, Google nhận được bằng sáng chế cho kỹ thuật sắp xếp trang web PageRank. Vào tháng 12 năm 2006, Google là công cụ tìm kiếm được sử dụng nhiều nhất trên mạng chiếm 50,8% thị phần, vượt xa so với Yahoo (23,6 %) và Window Live Search (8,4%). Google liên kết với hàng tỷ trang web, vì thế người sử dụng có thể tìm kiếm thông tin mà họ muốn thông qua các từ khóa và các toán tử. Google cũng tận dụng công nghệ tìm kiếm của mình vào nhiều dịch vụ tìm kiếm khác, bao gồm Image Search (tìm kiếm ảnh), Google News, trang web so sánh giá cả Froogle, cộng đồng tương tác Google Groups, Google Maps, Gmail và còn nhiều ứng dụng khác nữa.
Năm 2007, Google giới thiệu Google Apps Premium Edition, một phần mềm phù hợp cho việc kinh doanh, cung cấp dịch vụ email, tin nhắn, lịch…như một chương trình bảng tính. Sản phẩm này chủ yếu nhắm tới người sử dụng là doanh nhân, dùng để cạnh tranh trực tiếp với bộ phần mềm Microsoft office, với giá chỉ 50USD một năm cho một người sử dụng, so với giá 500USD cho môt người sử dụng của Microsoft Office.
Khởi đầu chỉ là một công cụ tìm kiếm nhưng ngày nay với công nghệ của mình Google đã cho ra đời hàng loạt các sản phẩm tiện ích khác, và trở thành đối thủ cạnh tranh đáng nể của các tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới. Theo số liệu của Yahoo! Finance tính đến đầu tháng 1/2011, Google là công ty công nghệ đứng thứ 3 trên thế giới với số vốn 192,54 tỷ USD chỉ sau Apple và Microsoft. Gần đây Google cho ra mắt phiên bản trình duyệt chất lượng rất tốt đó là Google Chrome, trình duyệt này thu hút nhanh chóng số lượng lớn khách hàng, nhiều người tưởng như trung thành với Internet Explorer của Microsoft và Firefox của Mozilla nhưng sau khi Google chrome ra đời với tình năng vượt trội: tốc độ lướt web nhanh, giao diện đẹp, dễ quản lý lịch sử… nó đang là đối thủ nặng ký của Internet Explorer và Firefox. Như vậy dù sinh sau đẻ muộn nhưng Google chrome vẫn đang chiếm vị trí ưu thể và là trình duyệt đang được ưa thích hiện nay ở khắp nơi trên thế giới.
Không dừng lại ở đó, Google tiếp tục tấn công vào thị trường của Facebook Để cạnh tranh với Facebook- mạng xã hội hàng đầu trên thế giới, Google đã công bố dự án mới của mình đó là “Google+” có vẻ trông rất giống với Facebook nhưng có rất nhiều điểm strong những nhóm bạn trực tuyến tách biệt của họ. Thay vì đăng một nội dung cập nhật cho tất cả mọi người như trên Facebook. Để tạo sự khác biệt cho Website của mình, Google+ sẽ cung cấp cho người dùng mọi nội dung từ Internet với bất kỳ chủ đề nào họ đang quan tâm: thời trang, làm vườn, phục hồi xe cũ… Google+ sẽ đem nội dung vào trang của bạn để bạn có thể gắn chặt vào đó suốt ngày với các chủ đề yêu thích của mình. Hơn nữa với một tính năng gọi là "Hangouts", Google+ cho phép người dùng gặp gỡ trực tuyến bạn bè của họ, sử dụng chat video theo nhóm nhiều người. Với những tính năng trên Google đang đe dọa trực tiếp tới sự tồn tại và phát triển của Facebook trong suốt thời gian qua.
Như vậy nhờ vào trình độ quản lý của mình, cùng với việc áp dụng khéo léo quá trình, công cụ quản trị tri thức, các ông chủ của Google đã tạo nên một “gã khổng lồ” mới đầy uy lực trên lĩnh vực công nghệ thông tin.
Không chỉ đóng vai trò quan trọng tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp quản trị tri thức còn có vai trò thúc đẩy sáng tạo tạo ra các sản phẩm mới nhờ mô hình tạo môi trường làm việc lý tưởng, dễ chịu cho nhân viên của mình để họ thỏa sức đổi mới và gắn bó chặt chẽ với công ty. Môi trường làm việc là một yếu tố không nhỏ, quyết định sự gắn bó bền lâu hay sẽ ra đi tìm một sự thay đổi mới của mỗi nhân viên, chính vì thế mà các nhà quản trị luôn quan tâm tới việc tạo ra môi trường tốt cho nhân viên của mình để có thể thu hút những nhân tài hay giữ lại những nhân viên trong công ty. Peter Drucker từng nói thực chất của công việc quản lý là “ loại bỏ mọi chướng ngại vật tác động đến việc phát huy tài năng của nhân viên”.
Google cũng được coi là một môi trường làm việc linh hoạt trẻ trung, với cách làm việc, bài trí văn phòng độc đáo, hài hước. Tất cả mọi việc mà Google làm là nhằm xây dựng môi trường cho nhân viên có thể phát huy tối đa tính sáng tạo trong làm việc. Là một công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin, nên việc tạo ra môi trường làm việc sáng tạo cho nhân viên là rất quan trọng Theo thống kê của công ty Pascale, Google luôn được coi là nơi lý tưởng nhất trong số các môi trường IT trên thế giới. Và không ngạc nhiên khi google trở thành 1 trong 6 công ty có môi trường làm việc đáng mơ ước nhất theo hãng hãng tin CNBC cung cấp.
Văn phòng là nơi nhân viên dành nhiều thời gian, chính vì thế, Google đã tạo ra những không gian văn phòng thư giãn nhất có thể để nhân viên có thể tự do và thoải mái khi làm việc. Văn phòng của Google trên khắp thế giới đều mang phong cách Wilky Wonka, từ những máng trượt như ở Zurich đến các bức tường leo trèo ở Boulder và xe đạp trong nhà như ở Hà Lan.
Công ty thỏa mãn nhu cầu thiết yếu cho nhân viên: nhà ăn, phòng thư dãn, xe đưa đón…do vây bữa ăn trưa của các nhân viên rất hấp dẫn, họ có thể tự chọn các món ăn tự phục vụ với đủ khẩu vị từ Á đến Âu, hay các bữa ăn ngoài trời, với những chiếc ô đầy màu sắc. Đặc biệt là việc google cung cấp bữa ăn trưa miễn phí cho các nhân viên của mình. Việc ngủ trưa tại công ty cũng rất thú vị, với chiếc giường ngủ thiết kế độc đáo. Việc tạo ra không gian hòa đồng giữa các nhân viên sẽ giúp các nhân viên có cơ hội chia sẻ các ý tưởng, quan điểm, chính nhờ không gian mở thế này mà rất nhiều dự án lớn của Google đã được ra đời. .
Bên cạnh tạo ra những điều kiện vật chất đáp ứng các nhu cầu của nhân viên, Google còn tạo ra môi trường làm việc văn hóa trong công ty. Những ý kiến của cấp dưới được đưa ra trước công ty luôn được tôn trọng, nhờ thế mà các nhân viên sẵn sàng đưa ra các ý tưởng táo bạo và đột phá. Cụ thể là gần đây, Google đang âm thầm “cải tổ” lại giao diện người dùng (UI) cho trình duyệt Chrome của mình trong đó có cả phương án loại bỏ hoàn toàn thanh địa chỉ (URL bar) và nếu điều này thành hiện thực thì đó sẽ là sự đột phá lớn nhất trong lịch sử tồn tại của các trình duyệt web. Bên cạnh đó, theo mong muốn của người dùng, có thể Google cũng sẽ bổ sung tính năng hỗ trợ đăng nhập nhiều tài khoản Google cùng một lúc trên một phiên làm việc (ví dụ: đăng nhập nhiều hộp thư Gmail cùng một lúc)…
Các kỹ sư của Google được khuyến khích tinh thần sáng tạo bằng việc có thể dành 20% thời gian làm việc để nghĩ ra các dự án, các ý tưởng sáng tạo sau đó được tập hợp vào một hòm thư và được công khai bình chọn trực tiếp, bình đẳng và công bằng.
Như vậy nhờ mô hình quản trị nhân viên đầy sáng tạo trên, thứ mà công ty nhân được là vô giá. Đó là đội ngũ nhân viên có thể làm việc hết mình, cống hiến hết mình vì công ty như một hành động mà họ nên làm chứ không phải vì phải làm. Các nhà quản trị Google đã thành công trong việc quản trị đội ngũ tri thức trong công ty.
Quản trị tri thức còn có vai trò quan trọng trong việc tạo ra chất lượng sản phẩm dịch vụ ngày càng hoàn thiện và đa dạng. Công ty Google đa dạng hóa loại hình kinh doanh để đáp ứng nhu cầu của đối tượng khách hàng khác nhau. Để phân khúc được thị trường mục tiêu các nhà quản trị Google đã khéo léo phân tích đối tượng khách hàng tiềm năng kết hợp với việc nâng cao chất lượng dịch vụ tạo sự tin tưởng , an toàn cho khách hàng của mình.
Đầu tiên, để đáp ứng nhu cầu cao cấp của khách hàng Google đã cho ra mắt dịch vụ Điện thoại dõi theo chủ nhân:
Google đặc biệt hứng thú với các hoạt động trên điện thoại bởi smartphone trong tương lai sẽ giúp tạo ra các cuộc cách mạng trong những lĩnh vực như tìm kiếm sử dụng giọng nói (chẳng hạn, bạn chỉ cần nói: “Kỳ nghỉ ở Tây Ba Nha” thì lập tức thiết bị cầm tay sẽ tìm kiếm cho bạn một ngôi biệt thự ở Costa del Sol). Nếu công nghệ này trở nên phổ biến thì nó sẽ làm gia tăng hoạt động tìm kiếm. Hơn nữa, vì có thể định vị một người thông qua điện thoại di động của người ấy nên Google có thể gửi thông tin quảng cáo về các cửa hàng hoặc nhà hàng quanh khu vực người đó đứng. Những quảng cáo như thế chắc chắn sẽ đem lại kết quả kinh doanh đầy hứa hẹn. Điều này giải thích lý do tại sao Google lại kiên trì với những công ty như Groupon – công ty đi đầu trong việc cung cấp phiếu giảm giá cho các dịch vụ thường ngày ở các địa phương – như thế. Nếu sở hữu được Groupon, gã khổng lồ Google sẽ khắc phục được điểm yếu hiện tại của mình đó là tìm kiếm thông tin cục bộ.
Ba cách tiếp cận của google với khách hàng :
Tiên phong hiểu nhu cầu của khách hàng và các chuẩn mực văn hóa đặc thù của mỗi quốc gia.
Sử dụng những hiểu biết sâu sắc đó để thực hiện những thí nghiệm chiến lược, độ chính xác thấp.
Sử dụng những giả định rút ra được để cải tiến mô hình kinh doanh địa phương, bao gồm cả phát triển sản phẩm, tiếp thị và xây dựng thương hiệu, bán hàng và phân phối, và sản xuất.
Google đối mặt với những thách thức này hàng ngày trên phạm vi toàn thế giới. Hình dung việc tìm kiếm thông tin trên Google ở Trung Quốc, nơi mà đặc điểm dân tộc là rất phong phú. Google áp dụng phương pháp nghiên cứu dân tộc học để hiểu được nhu cầu của người sử dụng, gồm cả việc quay video quá trình tìm kiếm của người dùng.
Google biết rằng người Trung Quốc chưa thoả mãn lắm với các kết quả tìm kiếm, nên họ bắt đầu thí nghiệm với những giải pháp tiềm năng. Họ xây dựng “Google Suggest” (Gợi ý của Google) tự động hiện ra những gợi ý tìm kiếm giúp người sử dụng không cần phải đánh toàn bộ cụm từ cần tìm, hoặc bằng cách hỏi người dùng “Có phải ý bạn là?” (Did you mean?). Họ phát hiện ra rằng những người sử dụng đánh giá rất cao những công cụ này và đưa thêm vào những đề nghị của họ. Những cải tiến này là kết quả trực tiếp của việc quan sát người sử dụng, hiểu, và thấu hiểu phương pháp kết hợp, cũng như khả năng thực hiện các thí nghiệm.
Google cung cấp dịch vụ bảo mật thông tin cá nhân an toàn thông qua việc cải thiện và nâng cấp một số công cụ như: Google Dashboard, Mã hóa tìm kiếm, Chế độ ẩn danh trong Google Chrome. Làm mờ và Takedowns Street View… Do đó, khách hàng có thể tin tưởng khi đăng nhập, tạo tài khoản trên các tiện ích của google như Blogger, Calendar, Docs, Gmail, Picasa, và Profiles…
Hiện nay Google còn cho ra đời dịch vụ hướng tới đối tượng khách hàng là doanh nghiệp, cho phép họ tạo và chạy quảng cáo của doanh nghiệp mình. và “chỉ phải trả phí khi có người click vào quảng cáo của mình” đó là dịch vụ Google AdWords. Có thể nói khách hàng sẽ tiết kiệm được tối đa chi phí cho quảng cáo thông qua việc tự kiểm soát được nó trong tài khoản của họ tại Google AdWords.
Chất lượng dịch vụ của Google ngày càng được nâng cao song song với nó là sự gia tăng chi phí đầu vào. Vậy các nhà quản trị Google đã làm gì để sử dụng nguồn vốn, tiết kiệm và cắt giảm các khoản chi phí một cách hợ lý nhất.
Như chúng ta đã biết, Google là công ty công nghệ có tốc độ phát triển nhanh hàng đầu trên thế giới. Trong việc sử dụng vốn, chỉ riêng năm 2010, Google đã mạnh tay góp vốn cho dự án năng lượng gió ở bờ biển phía đông nước Mỹ và test xe hơi tự lái với độ bao phủ trên 225.000 km đường dọc nước Mỹ. Chính điều này đã thể hiện rõ tiềm lực về vốn của Google so với các doanh nghiệp khác cùng kinh doanh trong lĩnh vực. Không dừng lại ở đó “người khổng lồ Web-Search” này còn đẩy mạnh đầu tư vốn vào việc thôn tính các công ty khác ở quy mô vừa phải. Vào năm 2006, Google đã trả 1,7 tỷ USD mua lại YouTube, một website để mọi người có thể chia sẻ các video. Một năm sau, nó cũng nắm gọn mạng lưới quảng cáo online DoubleClick với 3.1 tỷ USD. Nhiều thương vụ nữa đang được tiến hành và doanh nghiệp thương mại điện tử kiểu mới Groupon đang được Google đặt thầu với giá 33 tỷ USD. Việc bỏ ra những khoản tiền lớn như vậy đang là bài toán quản trị đặt ra cho các ông chủ của Google làm thế nào để hoạt động các lĩnh vực có hiệu quả. Sau khi thâu tóm Youtube dường như nó vẫn chưa phải là "con gà đẻ trứng vàng" của Google như gã khổng lồ này vẫn mong đợi. Tuy nhiên Google hiện đang triển khai các chiến lược nhằm nâng cao chất lượng của Youtube. Cụ thể là Google đã bắt tay với công nghệ từ Green Parrot giúp cho Youtube khắc phục những vấn đề trên nhằm cải thiện chất lượng video khi chúng được tải lên trang web Công nghệ này cải thiện video bằng mài hình ảnh, giảm tiếng ồn trực quan và ổn định hình ảnh, đồng thời cũng sử dụng băng thông ít hơn và cải thiện được tốc độ xem. Không dừng lại ở đó Google tiếp tục mua lại Next New Networks để thúc đẩy Youtube, quả đúng là một chiến lược kinh doanh hợp lý một kết quả đáng mong đợi là Next New Networks vừa sản xuất ra các video cho các tác giả như Gregory Brothers, người đã dựng nội dung cho “Bed Intruder Song” có tỷ lệ người xem nhiều nhất trên YouTube vào năm ngoái.Công ty cũng đã thu hút hơn 2 tỷ lượt người xem và 6 triệu thuê bao trên toàn mạng lưới các kênh và hiển thị của đối tác. Đó là một sự thành công lớn của nhà điều hành sáng suốt khi sử dụng một cách hợp lý và hiệu quả nguồn vốn và các khoản chi phí mà công ty đã đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau.
Như vậy quá trình quản trị tri thức hiệu quả của google có vai trò quan trọng trong việc tạo ra giá trị gia tăng và lợi thế cạnh tranh lớn với các đối thử lớn mạnh hàng đàu trên thế giới. Hơn nữa từ môi trướng lý tưởng mà các nhà quản tri dành cho nhân viên của mình các sản phẩm sáng tạo ứng dụng công nghệ cao đã được ra đời cùng với việc sử dụng hợp lý các nguồn vốn Google đang trở thành công ty có tốc độ phát triển mạnh nhất thế giới trên lĩnh vực công nghệ và một số lĩnh vực khác. Minh chứng là năm 2011 lợi nhuận ròng quý II tăng 36% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 2,5 tỷ USD trong khi doanh thu tăng 32%, đạt 9tỷ USD.
Công ty Google là minh chứng thực tế cho vai trò và tầm quan trọng của quản trị tri thức trong kinh doanh hiện đại. Trong thời đại công nghệ, khoa học kỹ thuật đang phát triển như vũ bão các nhà quản trị cần phải có một chiến lược quản trị khéo léo, hợp lý để sáng tạo ra giá trị công nghệ ngày càng cao đáp ứng nhu cầu đa dạng về mẫu mã hoàn hảo về chất lượng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ cho các đối tượng khách hàng khác nhau.
Kết luận
Ngày nay, xã hội đang hướng đến nền kinh tế tri thức. Nhiều quốc gia trên thế giới đều có những chiến lược phát triển và đề ra mục tiêu về một một nền kinh tế tri thức riêng. Do do, việc quản lý tri thức được đánh giá rất cao và được đầu tư tương đối lớn.
Tuy nhiên, để hiểu đúng và thực hiện việc tốt nhiệm vụ quản lý tri thức là việc không hề dễ dàng. Quản lý tri thức có lẽ là khái niệm mới và tương đối trừu tượng ở Việt Nam nhưng đây lại xu hướng quản lý mà nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế đang nghiên cứu, giảng dạy và phát triển. Chúng ta cần quản lý tri thức để đóng góp cho công cuộc hình thành tri thức cho mọi người và xây dựng nền kinh tế tri thức góp phần đưa nước ta giàu mạnh hơn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vai trò của quản trị tri thức trong kinh doanh hiện đại Liên hệ thực tế công ty Google.doc