Nội dung có 24 trang với những nội dung chính như sau:
I. Lời mở đầu
II.NỘI DUNG
1.Một vài nét về tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
Về lịch sử hình thành
Mục đích của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
Các quy định của pháp luật bảo hiểm tiền gửi
2. Thực trạng áp dụng pháp luật bảo hiểm tiền gửi của các ngân hàngthương mại Việt Nam
Một số khuyến nghị nhằm khắc phục
3. Một vài nhận xét, đánh giá về thực tiễn chấp hành pháp luật BHTG của ngân hàng thương mại, về các quy định của pháp luật BHTG
III. Kết luận
24 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2548 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Về một vài thực trạng áp dụng pháp luật bảo hiểm tiền gửi của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I. Lời mở đầu
Bảo hiểm Việt nam ra đời và đi vào hoạt động từ 7/7/2000. Như vậy sau hơn hai thập kỉ kể từ khi đất nước bước vào đổi mới , một tổ chức tài chính được ra đời nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và sự phát triển an toàn , lành mạnh hoạt động ngân hàng . Đây là một sự kiện có ý nghĩa rất lớn trong quản lý , điều hành nền kinh tế của đất nước theo cơ chế thị trường, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy quá trình hội nhập với kinh tế thế giới.
Đứng trước cuộc khủng khoảng tài chính như hiện nay, các ngân hàng nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng có nhiều biến động lớn về chính sách tài chính tiền tệ, đòi hỏi các ngân hàng phải có cơ chế điều chỉnh cho phù hợp với bối cảnh hiện nay. Trong bối cảnh này việc bảo vệ lợi ích của người gửi tiền và tạo niềm tin đối với khách hàng là hoạt động thiết thực . Để thực hiện tốt hơn vai trò của mình trong tình trạng khủng khoảng tài chính hiện nay, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã có nhiều chính sách thiết thực nhằm ổn định tình . Đặc biệt các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng đã thực hiện đầy đủ và ngày càng tốt hơn các quy định của pháp luật đặc biệt các quy định của pháp luật bảo hiểm tiền gửi nhằm tạo niềm tin cho khách hàng đồng thời tăng uy tín của ngân hàng đối với khách hàng. Mặt khác trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO, và trước tình trạng khủng hoảng tài chính tiền tệ thế giới thì sự cạnh tranh của các ngân hàng thương mại ngày càng quyết liệt . Đây là bài toán khó đặt ra đối với các ngân hàng nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng. Do vậy việc áp dụng các chính sách của pháp luật vào hoạt động ngân hàng được chú trọng , nhất là việc áp dụng pháp luật bảo hiểm tiền gửi của các ngân hàng thương mại.Trong phạm vi bài viết này em xin trình bày về một vài thực trạng áp dụng pháp luật bảo hiểm tiền gửi của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
II.NỘI DUNG
1.Một vài nét về tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
Về lịch sử hình thành
Bảo hiểm tiền gửi là một loại hình bảo hiểm đối với hoạt động ngân hàng , được thực hiện từ rất sớm ở nhiều nước. Chẳng hạn như ở Mỹ , bảo hiểm tiền gửi xuất hiện từ năm 1934. Bảo hiểm tiền gửi hiện nay có một vị trí ,vai trò qua trọng đối với các tổ chức tín dụng, đây là một trong những biện pháp bảo đảm an toàn cho hoạt động ngân hàng và hệ thống ngân hàng. Thực tế ở các nước cho thấy ,khi có bảo hiểm tiền gửi ra đời hoạt động có hiệu quả, thì số lượng các ngân hàng tuyên bố phá sản giảm đi rõ rệt. Bởi vì nhờ có bảo hiểm tiền gửi đã ngăn chặn sự đổ vỡ mang tính dây chuyền trong ngân hàng thương mại , góp phần duy trì sự phát triển ổn định ,an toàn cho các tổ chức tín dụng. Nhờ có bảo hiểm tiền gửi mà quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền được đảm bảo, các ngân hàng đã tạo ra được niềm tin cho người gửi tiền, góp phần phát triển kinh tế của đất nước, nhất là
Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam ra đời từ cuối năm 1999 và chính thức đi vào hoạt động từ 7/10/2000 . Kể từ khi ra đời và đi vào hoạt động cho đến nay, thời gian tuy chưa nhiều đối với một tổ chức,nhưng bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã có nhiều cố gắng để đạt được những kết quả khả quan . Cho đến nay tổ chức Bảo hiểm tiền gửi đã mở rộng mạng lưới hoạt động tới các khu vực trong phạm vi cả nước, đó là đã thành lập được sáu chi nhánh bảo hiểm tiền gửi khu vực gồm: Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh khu vực Hà Nội; khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long (tại Cần Thơ); chi nhánh khu vực Nam Trung Bộ và Tây Nguyên (tại Nha Trang); chi nhánh khu vực Đông Bắc Bộ (tại Cần Thơ);và chi nhánh khu vực Bắc Trung Bộ ( tại Nghệ An). Đây là những địa bàn kinh tế trọng điểm của đất nước , đồng thời là nơi tập trung nhiều tổ chức tín dụng và tổ chức phi tín dụng.
Trong những năm qua Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã có nhiều hoạt động và lớn mạnh không ngừng . Trong năm 2007, Bảo hiểm tiền gửi đã có nhiều hoạt động khá hiệu quả như: cấp và thu hồi chứng nhận bảo hiểm tiền gửi , chi trả tiền gửi được bảo hiểm, giám sát rủi ro (giám sát từ xa, kiểm tra tại chỗ, thanh lý tại chỗ , thanh lý tài sản và thu hồi nợ )…với hơn 1078 tổ chức tham gia bảo hiểm , trong đó có 76 ngân hàng,1002 tổ chức tài chính phi ngân hàng với số vốn huy động là 1.420.627 tỉ đồng là một lượng tiền khá lớn.
Vậy Bảo hiểm tiền gửi được hiểu như thế nào?
Theo các quy định hiện hành thì Bảo hiểm tiền gửi là một loaị hình bảo hiểm phi thương mại, theo đó tổ chức tín dụng và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng có nhận tiền gửi bằng Đồng Việt Nam của khách hàng là cá nhân , hộ gia đình , tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh thì bắt buộc phải tham gia đóng phí bảo hiểm tiền gửi cho tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam theo quy định. Khi xaỷ ra sự kiện bảo hiểm thì tổ chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam sẽ có trách nhiệm thay tổ chức nhận tiền gửi đó trả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của các khách hàng gửi tiền ở các tổ chức tham gia bảo hiểm đó.
Mục đích của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam
Bảo hiểm tiền gửi trước hết là vì mục tiêu bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền . Khi ngân hàng nào đó bị phá sản, nếu ngân hàng đó tham gia vào cơ chế bảo hiểm tiền gửi hoặc được Chính Phủ tuyên bố chi trả bảo hiểm tiền gửi thì những người gửi tiền tại ngân hàng phá sản đó có cơ hội nhận được một phần hay toàn bộ số tiền gửi của mình . Tuy nhiên điều quan trọng hơn là bảo đảm cho tâm lý của người gửi tiền không bị hoang mang, mất niềm tin và người ta sẽ nghĩ đến việc phải vội vã rút tiền gửi từ các ngân hàng khác, điều đó tránh được sự đổ vỡ mang tính dây chuyền có thể xảy ra đối với hệ thống ngân hàng , tổ chức tín dụng. Do đó, bảo hiểm tiền gửi không chỉ dừng lại ở mục tiêu bảo vệ quyền lợi trực tiếp của người gửi tiền ở ngân hàng bị phá sản mà còn là một trong các công cụ để đảm bảo an toàn tín dụng, hạn chế rủi ro và tránh được sự đổ vỡ có tính dây chuyền của hệ thống tín dụng. Mục tiêu tổng quát của bảo hiểm tiền gửi chính là sự ổn định của cả hệ thống tài chính.
Tổ chức bảo hiểm tiền gửi thay mặt chính phủ trực tiếp bảo vệ người gửi tiền thông qua các hoạt động nghiệp vụ như kiểm tra, giám sát từ xa, xử lý đổ vỡ.Các cơ quan chức năng có trách nhiệm cung cấp thông tin rõ ràng , minh bạch về hoạt động tài chính ngân hàng đến người gửi tiền trong đó bao gồm những thông tin về sản phẩm dịch vụ , thông tin về việc công khai bảo vệ người gửi tiền của Chính Phủ thông qua tổ chức Bảo hiểm tiền gửi ,thông tin về quản trị , điều hành của tổ chức tín dụng…Việc cung cấp thông tin này không chỉ là trách nhiệm của một cơ quan riêng lẻ mà tất cả những cơ quan liên quan như tổ chức tín dụng, tổ chức bảo hiểm tiền gửi , cơ quan giám sát…
Ở Việt Nam vấn đề bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền được Chính Phủ quan tâm đặc biệt. Chính Phủ đã công khai bảo vệ người gửi tiền thông qua chủ trương phát triển hệ thống bảo hiểm tiền gửi. Bảo vệ người gửi tiền cũng chính là bảo vệ người tiêu dùng – vấn đề đang được dư luận quan tâm. Người gửi tiền được bảo vệ dưới những góc độ khác nhau như thông qua việc Chính Phủ bảo đảm sự phát triển an toàn lành mạnh của hệ thống tài chính ngân hàng bằng các cơ quan giám sát, thực hiện chi trả bảo hiểm tiền gửi cho người gửi tiền,cung cấp thông tin tín dụng đến người tiêu dùng. Tóm lại vai trò của bảo hiểm tiền gửi Việt nam rất quan trọng nhất là trong giai đoạn khủng hoảng như hiện nay.
Các quy định của pháp luật bảo hiểm tiền gửi
Theo quy định của Nghị định số 89/1999/NĐ- CP ngày 1/9/1999 và Nghị định số 109/2005/NĐ – CP ngày 14/08/2005 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 89 thì đối tượng được bảo hiểm tiền gửi là tiền gửi bằng Đồng Việt Nam của người gửi tiền là cá nhân, hộ gia đình,tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh gửi tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Khi tổ chức này bị phá sản thì Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có trách nhiệm chi trả bảo hiểm tiền gửi cho người gửi tiền.Như vậy đối tượng của bảo hiểm tiền gửi chỉ có thể là đồng Việt Nam, các loại tiền gửi không phải đồng Việt Nam và các loại tiền được gửi ở các ngân hàng, các tổ chức tín dụng nhưng không được coi là tiền gửi thì không thuộc đối tượng được bảo hiểm.Cũng theo quy định này thì các trường hợp sau đây không phải là đối tượng của bảo hiểm tiền gửi: Thứ nhất, tiền gửi của người gửi tiền là cổ đông sở hữu trên 10% vốn điều lệ hoặc nắm giữ trên 10% vốn cổ phần có quyền bỏ phiếu của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đó;Thứ hai tiền gửi của người gửi tiền là thành viên hội đồng quản trị , Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc),Phó tổng giám đốc( phó giám đốc) của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đó; Thứ ba là tiền gửi dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người gửi tiền;Thứ tư là tiền mua các giấy tờ có giá , trừ một số giấy tờ có giá theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Về phí bảo hiểm tiền gửi được quy định cụ thể trong luật bảo hiểm tiền gửi.
Trước hết phí bảo hiểm tiền gửi là khoàn tiền mà tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có nghĩa vụ nộp cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi để được bảo hiểm cho tiền gửi của khách hàng. Phí bảo hiểm tiền gửi được hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải nộp phí bảo hiểm tiền gửi theo mức 0,15% tính trên số dư tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi được bảo hiểm tại các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.Phí bảo hiểm tiền gửi được tính và nộp bốn lần trong năm tài chính theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Nếu các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi vi phạm thời hạn nộp phí bảo hiểm theo quy định thì ngoaì việc nộp đủ số phí còn thiếu , phải chịu phạt mỗi ngày nộp chậm bằng 0,1% (một phần nghìn) số tiền chậm nộp.
2. Thực trạng áp dụng pháp luật bảo hiểm tiền gửi của các ngân hàngthương mại Việt Nam
a) Tình hình hoạt động của các ngân hàng thương mại trong bối cảnh hiện nay
Trong những tháng đầu năm 2008, hoạt động tiền tệ tín dụng ở các ngân hàng thương mại diễn ra hết sức sôi động. Các ngân hàng thương mại đã mở rộng mạng lưới hoạt động của mình và các điểm giao dịch cuả một số chi nhánh ngân hàng trong trong cả nước , lãi suất trên thị trường cũng có nhiều biến động lớn. Đặc biệt từ sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, môi trương kinh doanh của các ngân hàng Việt Nam có nhiều thay đổi lớn. Sự thay đổi đó tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức mới cho các ngân hàng thương mại Vit Nam. Đây là một dịp tốt để các ngân hàng cạnh tranh với những ngân hàng mạnh về tài chính, hiện đaị về công nghệ , phát triển theo hướng chuẩn hóa và quốc tế hóa các sản phẩm dịch vụ . Hơn nữa các ngân hàng thương mại Việt Nam có cơ hội không chỉ mở rộng thị trường trong nước mà cả thị trường nước ngoài . Tuy nhiên thách thức đặt ra đối với các ngân hàng cũng không nhỏ về năng lực tài chính, năng lực pháp lý,nguồn nhân lực , công nghệ, dịch vụ…
Đứng trước tình hình đó , giữa các ngân hàng thương mại Việt Nam diễn ra tình trạng “ chạy đua lãi suất”. Chưa bao giờ lãi suất huy động của các ngân hàng thương mại lại cao như bây giờ. Hiện nay mức lãi suất phổ biến cho kì hạn 3 tháng là 8,52%/ năm, 6 tháng là 8,78%/năm, 12 tháng là 9,18%/ năm. Lãi suất huy động cao đồng nghĩa với lãi suất cho vay cũng cao. Điều này ảnh hưởng lớn đến các doanh nghiệp vay vốn , làm tăng chi phí sản xuât, tác động vào làm giá cả tăng cao. Bên cạnh đó các ngân hàng cũng buộc phải đa dạng hóa sản phẩm, cung ứng công nghệ hiện đại.
b) Thực trạng áp dụng pháp luật bảo hiểm tiền gửi của Ngân hàng thương mại
üTình hình kinh tế trong nước và chính sách của pháp luật BHTG
Đứng trước tình trạng nền kinh tế có nhiều biến động lớn như hiện nay , các ngân hàng thương mại Việt Nam đã cố gắng để thực hiện tốt hơn các quy định của pháp luật trong hoạt động ngân hàng. Số lượng các ngân tham gia tăng hơn nhiều so với các năm. Quy mô và mạng lưới hoạt động của các ngân hàng thương mại được mở rộng hơn so với trước đây.
Trong bối cảnh các ngân hàng đang tìm mọi cách để thu hút khách hàng về phía mình bằng việc cố gắng mang lại lợi ích cao nhất cho người gửi tiền thì việc tạo tâm lý an tâm về sự an toàn tiền gửi là một vấn đề quan trọng và góp phần thúc đẩy quá trình huy động vốn . Vì lẽ đó mà việc tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi được các ngân hàng thương đề cao nhằm mục đích bảo vệ tốt nhất quyền lợi của người gửi tiền với phương châm “lấy khách hàng làm tâm điểm”, các ngân hàng thương maị đã có sự liên kết chặt chẽ với các tổ chức bảo hiểm tiền gửi để thực hiện tốt hơn các quy định của pháp luật bảo hiểm tiền gửi.
Trong những tháng gần đây , người ta liên tục chứng kiến những vụ đổ vỡ ngân hàng diễn ra ở Mỹ và một số nước Châu Âu. Đây được đánh giá là cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trong 80 năm qua đối với một nền kinh tế lớn nhất thế giới này. Như một hiệu ứng toàn cầu , nó đã vượt qua biên giới nước Mỹ và lây lan sang nhiều nước Châu Á, Châu Âu. Tình hình sẽ càng trở nên tồi tệ nếu như người gửi tiền ở các ngân hàng ồ ạt đến rút tiền do tâm lý hoảng loạn . Và hơn lúc nào hết , người ta thấy vai trò của tổ chức bảo hiểm tiền gửi trong việc chung tay góp sức với Chính phủ , Ngân hàng trung ương trong việc xử lý khủng hoảng tài chính . Các công ty bảo hiểm tiền gửi trên thế giới đã thực hiện nhiều biện pháp tích cực như : tiếp nhận xử lý các tổ chức tài chính có vấn đề, nâng cao hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi, tuyên truyền về chính sách bảo hiểm tiền gửi hoặc công bố chính thức về tình hình tài chính ổn định của quốc gia để trấn an công chúng.
Đối với Việt Nam mặc dù bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu song Chính phủ cũng đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước và các Bộ, ngành liên quan tăng cường giám sát sự an toàn của các ngân hàng trong nước , đồng thời rà soát sự an toàn của ngân hàng nước ngoài mà các ngân hàng Việt Nam có quan hệ để đảm bảo an toàn tiền gửi từ đó công bố đến người dân được biết để họ yên tâm vào sự an toàn của thị trường tài chính Việt Nam.
Về phần mình qua 9 năm hoạt động, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã có những đóng góp tích cực đối với hệ thống tài chính ngân hàng .9 năm qua việc triển khai thực hiện có kết quả các hoạt động nghiệp vụ như cấp chứng nhận bảo hiểm tiền, giám sát hoạt động của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi , chi trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền , hỗ trợ tài chính cho một số tổ chức tín dụng…,Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã không ngừng đẩy mạnh công tác tuyên truyền các chính sách của Nhà nước về bảo hiểm tiền gửi để từng bước đưa chính sách bảo hiểm tiền gửi vào cuộc sống, góp phần củng cố niềm tin công chúng vào hệ thống tài chính ngân hàng, thúc đẩy tăng trưởng nguồn vốn huy động trong dân, khai thác nội lực cho sự phát triển của đất nước.
Tuy nhiên khó khăn lớn nhất đối với hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở nước ta hiện nay chính là thiếu khuôn khổ pháp lý , chưa có luật bảo hiểm tiền gửi. Các văn bản dưới luật hiện chưa đồng bộ , chưa đầy đủ đã giảm năng lực hoạt động của bảo hiểm và khả năng đóng góp của tổ chức này trong việc giám sát và ổn định hệ thống tài chính quốc gia.
Tính đến cuối năm 2004 Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã cấp giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi cho 1068 tổ chức tín dụng và tổ chức không phải tổ chúc không phải tổ chức tín dụng được phép thực hiện một hoạt động ngân hàng theo quy định của luật các tổ chức tín dụng, hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, có huy động tiền gửi của các cá nhân bằng đồng Việt Nam. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam không bảo hiển cho các loại tiền gửi bằng ngoại tệ để góp phần thực hiện cơ chế quản lý ngoại hối của Nhà nước.
Tuy nhiên trong quá trình hoạt động một số tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi mất khả năng thanh toán và bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra văn bản chấm dứt hoạt động, bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã chấm dứt bảo hiểm và thu hồi giấy chứng nhận bảo hiểm của 97 tổ chức tín dụng.
Như vậy trong năm 2005, số lượng các tổ là 191 đơn vị , trong đó có 5 Ngân hàng thương mại nhà nước, 34 Ngân hàng thương mại cổ phần , 25 Ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh, 4 công ty tài chính và 903 quỹ tín dụng nhân dân. Ngoài ra vấn đề thu bảo hiểm tiền gửi đối với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi cũng đã được thục hiện tốt. Bảo hiểm tiền gửi thườn xuyên theo dõi, hướng dẫn , đôn đốc các đơn vị tính và nộp phí , đảm bảo nguyên tắc thu đúng thu đủ kịp thời theo quy định cuả Nhà nước. Số phí bảo hiểm tiền gửi Việt Nam thu được từ các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi tăng 5 năm sau so với 5 năm trước ở mức 20 – 25%. Đây là nguồn tài chính quan trọng để bảo hiểm tiền gửi Việt Nam tăng cường năng lực xử lý các rủi ra có thể xảy ra từ phía các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi , hạn chế tới mức thấp nhất việc bao cấp từ ngân sách nhà nước.
Theo quy định của pháp luật bảo hiểm tiền gửi thì các đơn vị tham gia bảo hiểm tiền gửi đã chấp hành nghiêm chỉnh, nhất là vấn đề nộp phí bảo hiểm tiền gửi.Các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi nhất là các ngân hàng thương mại đã nộp đầy đủ và đúng thời gian mà pháp luật bảo hiểm tiền gửi quy định.
üCác ngân hàng thương mại Việt Nam thực hiện các quy định của pháp luật
@Về đóng phí bảo hiểm tiền gửi:
Hầu hết các Ngân hàng thương mại Việt Nam đều nộp đúng, đủ mức phí theo quy định của pháp luật bảo hiểm tiền gửi. Nhìn chung các ngân hàng thương mại trên địa bàn Hà Nội, khu vực Bắc trung bộ , khu vực Nam trung bộ và Tây nguyên đã nộp đủ và đúng thời hạn mức phí mà luật bảo hiểm tiền gửi quy định. Một số ngân hàng thương mại đã nộp thừa phí như ba ngân hàng thương mại ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có cơ sở tại các tỉnh Kiên Giang, Sóc Trăng , An Giang, Đồng Tháp nộp phí thừa với tổng số tiền là 78.290.000 đồng. Nguyên nhân nộp thừa là không loại trừ số dư tiền gửi không được bảo hiểm khi lấy số dư để tính phí…Những trường hợp này đã được baỏ hiểm tiền gửi Việt Nam nhắc nhở.
Tuy nhiên trong việc nộp phí theo quy định pháp luật bảo hiểm tiền gửi có nhiều điều cần phải quan tâm.
Trong thời gian gần đây, hệ thống ngân hàng thương mại phát triển nhanh, mạnh cả về quy mô hoạt động và tốc độ tăng trưởng . Hầu hết các đơn vị đầu tư hệ thống công nghệ thông tin hiện đại trong các hoạt động kinh doanh đã mang lại hiệu quả, nâng cao uy tín, hình ảnh đơn vị , đáp ứng yêu cầu phát triển hội nhập.
Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển ngoạn mục đó, còn những bất cập, xuất phát từ nguyên nhân chủ quan, khách quan mà nhiều ngân hàng thương mại chưa thực sự quan tâm khắc phục. Một trong những vấn đề đó là việc thực hiện quy định của Nhà nước về tính và nộp phí bảo hiểm tiền gửi (BHTG). Sai sót thường gặp trong cách tính phí
Theo quy định, các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi- trong đó có các ngân hàng thương mại- có nghĩa vụ nộp phí BHTG bốn kỳ trong năm, định kỳ hàng quý với mức phí 0,15%/năm tính trên toàn bộ số dư bình quân được bảo hiểm. Căn cứ đối tượng tiền gửi được bảo hiểm theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn tính, nộp phí BHTG của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (DIV),các Ngân hàng thương mại , các tổ chức hạch toán kế toán và ứng dụng phần mềm tùy thuộc điều kiện của mỗi đơn vị để tính phí một cách nhanh chóng, đơn giản. Thế nhưng, việc triển khai thực hiện tính và nộp phí BHTG tại một số Ngân hàng thương mại thời gian qua chưa được quan tâm đúng mức, thậm chí được xem như là công việc hoàn thiện sau, mặc dù đã qua 8 năm thực hiện. Trong đó, nhiều Ngân hàng thương mại từng được các đoàn kiểm tra của DIV kiến nghị khắc phục chỉnh sửa tại đợt kiểm tra trước đây, nhưng việc nộp thừa, thiếu phí vẫn tiếp tục xảy ra.
Qua đợt kiểm tra mới đây đối với các Ngân hàng thương mại có trụ sở chính tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long cho thấy, 2/3 số đơn vị tính và nộp thừa phí, có đơn vị số phí nộp thừa lên tới trên tỉ đồng. Nguyên nhân chủ yếu là do các đơn vị chưa xác định đúng đối tượng tiền gửi được bảo hiểm và không loại trừ đối tượng không được bảo hiểm.
Điều này xuất phát từ việc, ngay từ đầu các đơn vị chưa thực sự quan tâm việc tổ chức hạch toán kế toán tiền gửi tiết kiệm của khách hàng là cá nhân, tiền gửi của tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế một cách thống nhất, đúng quy định của Ngân hàng Nhà nước tại Quyết định 479/2004QĐ-NHNN và Quy chế tiền gửi tiết kiệm tại Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN. Đồng thời, chưa chú trọng việc tổ chức hạch toán nhóm tiền gửi thuộc đối tượng tiền gửi được bảo hiểm. Từ đó dẫn đến việc tính phí cho cả số dư tiền gửi của tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế, tiền gửi bằng ngoại tệ là những đối tượng không được bảo hiểm, làm tăng chi phí không đáng có cho đơn vị, giảm đáng kể nguồn vốn trong thời gian dài mà không được phát hiện. Một thách thức khác mà các Ngân hàng thương mại đang phải tìm cách vượt qua, đó là trong điều kiện gia tăng một số lượng đáng kể các chi nhánh, điểm giao dịch mở ra, thì việc tìm kiếm, bố trí nguồn nhân lực lành nghề, phù hợp và ứng dụng kịp thời phần mềm cho hoạt động nói chung và cho công tác thống kê, báo cáo cũng như tính phí là việc làm khó khăn. Xung quanh việc tính và nộp phí BHTG, đã nhiều năm nay các tổ chức tham gia BHTG có ý kiến với cơ quan chức năng sớm hoàn thiện, đưa cơ chế chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực hoạt động này đi vào cuộc sống, phù hợp với thực tế. Hầu hết các đơn vị muốn sự minh bạch, công bằng trong chính sách BHTG, rằng họ phải nhận được lợi ích từ phía tổ chức bảo hiểm tiền gửi, tương xứng với nghĩa vụ đóng góp phí BHTG, như được cảnh báo sớm rủi ro, được hỗ trợ tài chính khi cần thiết... Những đơn vị hoạt động lành mạnh không thể đánh đồng cùng với đơn vị yếu kém, với mức phí BHTG đồng hạng là 0,15%/năm như hiện nay. Hầu như các tổ chức tham gia BHTG đều thống nhất thu phí BHTG theo mức độ rủi ro và có những tiêu chí đánh giá, xếp hạng phù hợp, chính xác. Những tồn tại, bất cập trong việc thực hiện chính sách pháp luật về BHTG, những yêu cầu tất yếu khách quan xuất phát từ thực tế hoạt động BHTG, đòi hỏi cấp thiết phải có cơ sở pháp lý cao nhất là Luật Bảo hiểm tiền gửi, đồng bộ, nhất quán với các luật khác liên quan. Trên cơ sở pháp lý của luật, mọi hành vi hoạt động của tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động BHTG được điều chỉnh kịp thời, nâng cao trách nhiệm, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mỗi chủ thể tham gia, đặc biệt bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người gửi tiền. Hiện nay, Luật về Bảo hiểm tiền gửi đã được đưa vào chương trình xây dựng của Quốc hội cuối năm 2008. Khi dự luật này được phê chuẩn và ban hành, quyền lợi của người gửi tiền được bảo vệ triệt để và đầy đủ hơn bởi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức BHTG được mở rộng, cụ thể và rõ ràng. Nhưng dù ở mức nghị định hoặc cao hơn là luật, thì pháp luật về BHTG cũng đều công bằng và mỗi chủ thể là tổ chức, cá nhân tham gia đều có nghĩa vụ thực hiện theo quy định.
Một số khuyến nghị nhằm khắc phục
1. Các tổ chức tham gia BHTG tổ chức hạch toán đúng, đối tượng tiền gửi tiết kiệm của cá nhân, tiền gửi của tổ chức theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, để có cơ sở tính phí BHTG chính xác.
2. Trên cơ sở hạch toán đúng các loại tiền gửi và tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm, nên ứng dụng phần mềm phù hợp để tính phí BHTG một cách chính xác. 3. Có biện pháp theo dõi và hạch toán tiền gửi của các đối tượng phải loại trừ khỏi số dư tính phí như: Thành viên hội đồng quản trị, ban điều hành, ban kiểm soát... 4. Tổ chức, phân quyền kiểm tra, kiểm soát hệ thống tài khoản mở mới của tổ chức, cá nhân - đặc biệt đối với hệ thống Ngân hàng thương mại giao dịch Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển ngoạn mục đó, còn những bất cập, xuất phát từ nguyên nhân chủ quan, khách quan mà nhiều Ngân hàng thương mại chưa thực sự quan tâm khắc phục. Một trong những vấn đề đó là việc thực hiện quy định của Nhà nước về tính và nộp phí bảo hiểm tiền gửi (BHTG).
@Về việc chấp hành chế độ kiểm tra, giám sát của các Ngân hàng thương mại đối với các tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
Như trên đã phân tích thì tổ chức bảo hiểm tiền gửi có vai trò quan trọng trong việc kiểm tra giám sát quá trình thực hiện các quy định pháp luật của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Thông qua công tác kiểm tra giám sát, bảo hiểm tiền gửi đã phát hiện ra các sai sót trong quá trình thực các quy định pháp luật mà tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi mắc phải và có biện pháp kịp thời để xử lý.Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam thường xuyên phối hợp chặt chẽ với thanh tra Ngân hàng nhà nước trong việc thực hiện các quy định của pháp luật của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi và quy chế an toàn trong hoạt động ngân hàng
Qua công tác kiểm tra , giám sát tại các ngân hàng thương mại của các chi nhánh ngân hàng khu vực như các ngân hàng thương mại ở trên địa bàn Hà Nội, ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long thì tình hình tuân thủ pháp luật khá nghiêm chỉnh, sai phạm không đáng kể. Nhìn chung các ngân hàng đều đã thực hiện theo quy định mà pháp luật đưa ra.
Nhìn chung các ngân hàng thương mại nghiêm chỉnh tuân thủ quy chế kiểm tra giám sát của tổ chức bảo hiểm tiền gửi, và công tác kiểm tra giám sát của tổ chức bảo hiểm tiền gửi được các ngân hàng thương mại nhìn nhận dưới “góc nhìn mới” chứ không đơn thuần là dưới góc độ có sai phạm mới bị kiểm tra, giám sát. Qua việc áp dụng quy định về kiểm tra , giám sát của bảo hiểm tiền gửi , ngân hàng thương mại đã rút ra những sai phạm, yếu kém mà mình mắc phải trong quá trình hoạt động, đồng thời đưa ra các giải pháp đảm bảo an toàn cho hoạt động, tạo tâm lý ổn định cho khách hàng và nâng cao phát triển và cạnh tranh của các ngân hàng thương mại, đồng thời góp phần đảm bảo an toàn cho hoạt động tài chính ngân hàng. Thể hiện, các ngân hàng thương mại và bảo hiểm tiền gửi đã có sự phối hợp khá tốt và chặt chẽ trong vấn đề này. Bản thân các ngân hàng thương mại thương mại cũng đã có sự nhìn nhận và đánh giá đúng về công tác kiểm tra, giám sát của bảo hiểm tiền gửi,để qua đó có sự phối hợp chặt chẽ và có hiệu quả hơn.
@Công tác báo cáo, chi trả bảo hiểm của Ngân hàng thương mại
Hiện nay các ngân hàng thương mại đã có nhiều chuyển biến tốt trong việc thực hiện thông tin báo cáo đối với bảo hiểm tiền gửi Việt Nam . Tuy nhiên còn có nhiều ngân hàng thương mại còn gửi báo cáo chậm, gửi báo cáo chưa đủ các chỉ tiêu báo cáo ngày , tuần, tháng như bảng cân đối kế toán nguyên tệ, phân loại nợ và trích lập dự phòng...Ví dụ như trường hợp ngân hàng thương mại Miền Tây hầu như không thực hiện báo cáo ngày do không còn phần mềm hỗ trợ , một số chỉ tiêu báo cáo đơn vị không có khả năng thực hiện và do thiếu nhân sự. Nhưng nhìn chung thì qua công tác kiểm tra tại chỗ của bảo hiểm tiền gửi cho thấy đa phần các ngân hàng thương mại chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi như phí bảo hiểm tiền gửi, đối tượng tiền gửi, chi trả đầy đủ cho người gửi tiền trong những trường hợp cần thiết...
Trong tình hình kinh tế khủng hoảng như hiện nay,các ngân hàng thương mại ít nhiều ảnh hưởng,việc đảm bảo thanh toán cho người gửi tiền gặp không ít khó khăn cần phải có biện pháp khắc phục. Để giải quyết khó khăn về thanh toán, đáp ứng nhu cầu vốn để hoạt động và đảm bảo lãi suất thực dương cho người gửi tiền trong tình hình lạm phát cao, trên cơ sở mức lãi suất cơ bản của Ngân hàng nhà nước quy định , các ngân hàng đồng loạt tăng lãi suất để thu hut khách hàng gửi tiền, do đó vốn huy động từ thị trường tiền gửi vẫn khá cao so với các năm. Mặc dầu có những khó khăn cho hoạt động của các ngân hàng thương mại nhưng nhìn chung các ngân hàng vẫn phát triển khá ổn định.
3. Một vài nhận xét, đánh giá về thực tiễn chấp hành pháp luật BHTG của ngân hàng thương mại, về các quy định của pháp luật BHTG
Trong thời gian qua hoạt động bảo hiểm tiền gửi được triển khai dựa trên cơ sở Nghị định 89/1999/NĐ-CP của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi và Nghị định 109/ 2005/NĐ- CP sửa đổi bổ sung một số điêù của Nghị định số 89. Theo đó nhiều cơ sở pháp lý chi tiết đã được cụ thể hóa bằng các văn bản hướng dẫn,điều chỉnh ba đối tượng chính có liên quan trực tiếp trong triển khai chính sách bảo hiểm tiền gửi, đó là người gửi tiền , tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Hiệu quả của hoạt động bảo hiểm tiền gửi được đánh giá thông qua việc đáp ứng một các hài hòa và hợp lý mong muốn và chính đáng của ba đối tác này, từ đó củng cố và duy trì niềm tin của người gửi tiền trên cơ sở đảm bảo hoạt động an toàn của tổ chức huy động tiền gửi. Với tiền trình phát triền của nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua, một số vấn đề về bảo hiểm tiền gửi tại Nghị định 89 đã bộc lộ những bất cập cần được điều chỉnh. Đáp ứng yêu cầu đó , ngày 24/8/2005 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 109 nhằm sửa đổi một số điều của nghị định 89.
Mong muốn của người gửi tiền được đáp ứng ở mức cao hơn. Trong triển khai chính sách bảo hiểm , người gửi tiền đối tượng mà hoạt động bảo hiểm tiền gửi nhằm mục đích bảo vệ cao nhất, có mong muốn được bảo hiểm đối với tiền gửi trong tiền lãi của mình.Với cách nghĩ đơn giàn , họ mong muốn tiền gửi của mình được bảo hiểm và được chi trả tối đa khi có đổ bể ngân hàng xảy ra. Như vậy để đáp ứng tốt hơn mong muốn của người gửi tiền , các ngân hàng cần quan tâm tới:một là mở rộng loại tiền gửi được bảo hiểm; hai là tăng hạn mức chi trả bảo hiểm tiền gửi.
Hạn mức chi trả tối đa đối với một người gửi tiền tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đã được tăng từ 30 triệu đồng lên 50 triệu đồng. Người gửi tiền có thể gửi tiền lớn hơn hạn mức chi trả này sẽ được sẽ được tiếp tục thanh toán từ tiền thu thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phù hợp với quy định của pháp luật về giải thể, phá sản.
Mong muốn của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi được xem xét, nghiên cứu và có định hướng thích hợp hơn.
Với chính sách tham gia bảo hiểm tiền gửi là bắt buộc, các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có mong muốn, một là đóng phí bảo hiểm tiền gửi phù hợp với chất lượng hoạt động của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, hai là nhận được sự hỗ trợ kịp thời và đa dạng từ tổ chức bảo hiểm tiền gửi,ba là chi trả tiền bảo hiểm kịp thời cho người gửi tiền.
üThứ nhất, về chi phí đóng BHTG , một mặt ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của tổ chức tham gia BHTG đồng thời khả năng hoạt động ngân hàng càng phát triển thì tỷ lệ phí áp dụng đối với các ngân hàng thương mại còn có tác dụng phản ánh chất lượng hoạt động của tổ chức huy động tiền gửi.Để có thể đáp ứng tốt hơn yêu cầu của khách hàng, cơ chế về phí BGTG theo đúng hình thức tỷ lệ phí BHTG không đồng hạng được xây dựng trên cơ sở đánh giá, xếp loại từng khách hàng. Đây là một công việc khó đòi hỏi có thời gian chuẩn bị cho việc đánh giá chính xác khách hàng. Trong Nghị định 109 đã đề cập đến việc điều chỉnh phí BHTG theo loại hình tổ chức tham gia BHTG hoặc trên cơ sở đánh giá xếp loại của cơ quan nhà nước có thẩm quyền do Thủ tướng Chính phủ quyết định theo đề nghị của tổ chức BHTG và ý kiến của Ngân hàng nhà nước, Bộ tài chính.Đây là định hướng thúc đẩy nghiên cứu để sớm áp dụng phí BHTG không đồng hạng trong tương lai, đáp ứng mong muốn của tổ chức tham gia BHTG.
üThứ hai, với chi phí đóng góp để tham gia BHTG, các tổ chức tham gia BHTG trong đó có ngân hàng thương mại có mong muốn nhận được hỗ trợ kịp thời và đa dạng từ tổ chức BHTG trong tình huống khó khăn. Nghị định 109 cho phép tổ chức BHTG có thể triển khai các hình thức hỗ trợ từ tài chính phù hợp với các quy định của pháp luật. Ngoài các hình thức cho vay, bảo lãnh và mua lại nợ như được quy định tại Nghị định 89 trước đây.Hơn nữa tình huống triển khai các hỗ trợ đó cũng nơi lỏng hơn trước,khi tổ chức tham gia BHTG được Ngân hàng nhà nước Việt Nam xác định việc giải thể, phá sản của tổ chức này có thể gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng, sâu rộng đến sự an toàn của hệ thống tài chính ngân hàng và sự ổn định chính trị, kinh tế- xã hội thì tổ chức BHTG được xem xét đêt triển khai các hỗ trợ tài chính.
üThứ ba, khi tổ chức BHTG lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán và phải chấm dứt hoạt động, việc giải quyết các khoản nợ đặc biệt là nợ tiền gửi của người gửi tiền tại tổ chức này là khó khăn lớn nhất, cần được giải quyết kịp thời. Việc chi trả cho người gửi tiền vừa là yêu cầu cấp bách cần được giải quyết không chỉ đối với tổ chức tham gia BHTG đó mà còn là yêu cầu cần được giải quyết ngay để tránh ảnh hưởng gây rút tiền đồng loạt có thể lây truyền sang các ngân hàng.
Ngoài ra các tổ chức BHTG được tạo điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ được giao với hiệu quả cao hơn.
Để có thể thực hiện được mục tiêu của chính sách bảo hiểm tiền gửi là bảo vệ người gửi tiền, duy trì niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng quốc gia , góp phần đảm bảo an toàn và ổn định hoạt động ngân hàng , tổ chức BHTG cần có điều kiện triển khai hiệu quả và đồng bộ các hoạt động nghiệp vụ. Cơ sở pháp lý cho phép triển khai đồng bộ các hoạt động nghiệp vụ và đảm bảo về vốn là hai điều kiện cơ bản quyết định thành công của chính sách BHTG đã được Nghị định số 109 quy định.
Hiện nay việc triển khai thực hiện các quy định của pháp luật bảo hiểm tiền gửi tại các ngân hàng, đặc biệt là trong các ngân hàng thương mại Việt Nam khá đồng bộ và ngày càng được chú trọng.Việc tuân thủ chính sách pháp luật đầy đủ đã giúp cho các ngân hàng thương mại hoạt động tốt và có hiệu quả,củng cố niềm tin của khách hang, giúp các ngân hàng này đủ sức để cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác, với các ngân hàng mạnh nước ngoài trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO.Hơn nữa tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật BHTG còn giúp các Ngân hàng thương maị vượt qua được cơn khủng hoảng tài chính hiện nay, đảm bảo hoạt động ngân hàng ổn định và ngày càng phát triển.
Tuy nhiên bên cạnh đó còn tồn tại nhiều bất cập. Một số ngân hàng còn cố tình thực hiện sai hay thực hiện không đầy đủ quy định của pháp luật bảo hiểm tiền gửi,nhất là trong công tác kiểm tại chổ của tổ chức BHTG, lý do chủ yếu là do các ngân hàng còn ngần ngại, không muốn tiết lộ hoạt động của mình.Một sai phạm thường gặp nữa là trong việc nộp phí bảo hiểm tiền gửi.Đó là tình trạng nộp phí thừa hay cố tình trốn tránh không nộp phí BHTG,nộp phí không đầy đủ, không đồng bộ. Ngoài ra trong việc thực hiện các quy định về đối tượng bảo hiểm,chi trả bảo hiểm cho người gửi tiền, trong việc bảo vệ tối đa lợi ích của người gửi tiền cũng tồn tại nhiều vấn đề cần được khắc phục và cần phải có quy định cụ thể hơn nữa.
Nguyên nhân còn tồn tại nhiều bất cập nói trên một phần do ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận ngân hàng thương mại Việt Nam, phần quan trọng nữa là hiện nay ở nước ta còn thiếu khuôn khổ pháp lý, chưa có Luật BHTG . Các văn bản pháp luật chưa đồng bộ, chưa đầy đủ đã làm giảm năng lực hoạt động của BHTG và đóng góp của tổ chức này trong việc giám sát và ổn định hệ thống tài chính quốc gia,ảnh hưởng đến quá trình áp dụng pháp luật của các tổ chức tham gia BHTG trong đó có các ngân hàng thương mại.Tới đây, trong việc xây dựng Luật BHTG, thể chế, mô hình của tổ chức BHTG ở Việt Nam như thế nào là vấn đề cần bàn nhưng cùng với quá trình phát triển của nền kinh hội nhập đặt ra yêu cầu về vai trò, chức năng giám sát của tổ chức BHTG trở nên quan trọng nhằm phòng ngừa rủi ro thay vì chỉ xử lý đổ vỡ một cách thụ động.
Một vài kiến nghị hướng xử lý trong việc áp dụng pháp luật BHTG.
Thứ nhất, kiến nghị xử lý các vấn đề cụ thể của thực tiễn trên mặt bằng hiện hành.
F Cần phải xác định tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi của cá nhân và tiền gửi phải được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm:tiền gửi tiết kiệm dưới mọi hình thức, theo đó tiền gửi của chủ tài khoản là cá nhân, các khoản tiền ký quỹ,kí cược hoặc bất kì khoản tiền nào khoản tiền nào khác của cá nhân được gửi ở các ngân hàng thương mại đều thuộc đối tượng BHTG. Khẳng định này xuất phát từ các định nghĩa và các quy định tại các tổ chức tín dụng, NĐ 89,thông tư 03. Những loại tiền gửi của cá nhân chưa được làm rõ tại thông tư 03 thì về nguyên tắc BHTG Việt Nam không nên từ chối bảo hiểm.
FViệc xác định đâu là tiền gửi của cá nhân ở các ngân hàng thương mại được bảo hiểm không nên căn cứ vào tiêu chí sở hữu,rằng khoản tiền đó là sở hữu của cá thể, tiểu chủ,hay của nhà tư bản đều là sở hữu tư nhân( hay sở hữu cá nhâ) mà nên căn cứ vào tiêu chí chủ thể của quan hệ pháp luật tiền gửi.Cá nhân ở đây được hiểu là một thực thể có năng lực pháp luật dân sự tham gia quan hệ pháp luật về tiền gửi,theo đó:
+ Tiền gửi của doanh nghiệp tư nhân,công ty hợp danh,tổ hợp tác,không thuộc phạm trù tiền gửi của cá nhân được bảo hiểm;
+ Tiền gửi của hộ gia đình thuộc đối tượng bảo hiểm tiền gửi.
F Kiến nghị về việc sửa đổi,hoàn thiện các văn bản pháp luật về bảo hiểm tiền gửi,để qua đó các tổ chức tham gia bảo hiểm chấp hành tốt hơn quy định mà pháp luật đặt ra,tránh xảy ra các tình trạng hiểu sai quy định luật từ đó dẫn đến vi phạm. Mặt phải có chế tài và các biện pháp xử phạt nghiêm minh.
Ngoài ra chúng ta cũng nên đặt ra vấn đề là đã đến lúc có thể mở rộng đối tượng được bảo hiểm hay không?Trong tình hình hiện nay chúng ta nên mở rộng đối tượng được bảo hiểm đối với các đối tượng gửi tiền như doanh nghiệp tư nhân,tổ hợp tác, nhóm kinh doanh, các cá nhân kinh doanh khác…Điều này giúp các ngân hàng thương mại hoạt động hiệu quả hơn,mở rộng được phạm vi kinh doanh của Ngân hàng,qua đó khả năng tuân thủ pháp luật của ngân hàng được đảm bảo hơn .
Tóm lại, để các ngân hàng thương mại tuân thủ tốt hơn quy định pháp luật bảo hiểm tiền gửi thì pháp luật phải có quy định cụ thể,rõ ràng hơn nữa, và tổ chức BHTG cũng phải nâng cao vai trò hoạt động của mình, nhất là hoạt động kiểm tra, giám sát tại các ngân hàng thương mai, nhất là các ngân hàng thương mại tư nhân, vì đây thường là các ngân hàng có quy mô hoạt động không lớn, ý thức chấp hành pháp luật có nhiều mặt còn hạn chế.
A Hướng hoàn thiện
Qua thực tiễn áp dụng pháp luật bảo hiểm tiền gửi của các ngân hàng thương mại đòi hỏi BHTG phải làm tốt hơn nữa vai trò của mình nhằm mục đích bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích của người gửi tiền,đồng thời tăng cường hoạt động đảm bảo các tổ chức tham gia bảo hiểm,trong đó có ngân hàng thương mại hoạt động tốt hơn,khắc phục những điểm mà các ngân hàng còn vi phạm. BHTG cần có những biện pháp để ngày càng thực hiện tốt hơn vai trò của mình.
Thứ nhất,cần thiết phải cấp bách nâng cấp và hoàn thiện khuôn khổ pháp lỳ cho hoạt động BHTG tại Việt Nam. Chỉ có như vậy mới giải quyết được vấn đề có liên quan đến BHTG ở tầm ngang với giải quyết các vấn đề khác. Trước hết cần thiết phải xây dựng và ban hành luật BHTG để chính sách BHTG phát huy tác dụng và tổ chức BHTG thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong quá trình hội nhập;đáp ứng tốt nhất các yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội. Theo dự kiến thì Luật BHTG sẽ được trình Quốc hội vào cuối năm 2008 và sẽ được thông qua năm 2009.
Thứ hai, đảm bảo cho tổ chức BHTG Việt Nam có đủ năng lực để thực hiện chính sách BHTG, chính sách bảo vệ người gửi tiền, đảm bảo môi trường phát triển bền vững cho các tổ chức tín dụng nói chung và các Ngân hàng thương mại nói riêng.
Thứ ba, nâng cấp các hoạt động chức năng của BHTG Việt Nam mà đặc biệt là hoạt động giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ đối với các tổ chức nhận tiền gửi nhất là hệ thống các Ngân hàng thương mai.Các hoạt động, sản phẩm dịch vụ của BHTG Việt Nam phải hướng tới mục tiêu hoạt động tổng quát của tổ chức , phục vụ tốt nhất cho việc bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, đảm bảo an toàn của các tổ chức tham gia BHTG,phát triển thị trường tiền tệ,ổn định tổng thể hệ thống tài chính Quốc gia. Có làm được như vậy thì các Ngân hàng mới hoạt động ổn định và ý thức chấp hành pháp luật của các ngân hàng, tổ chức tín dụng cao hơn,sai phạm sẽ it xảy ra.
Thứ ba, các tổ chức BHTG bên cạnh đề cao tính độc lập trong việc thực hiện chức năng của mình cần phải có sự phối hợp chặt chẽ với các đơn vị chức năng có liên quan để thực hiện tốt hơn vai trò của mình. Bên cạnh đó thì các ngân hàng thương mại cũng cần có sự phối hợp với các tổ chức BHTG trong quá trình thực hiện các quy định pháp luật,nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của mình.
Qua thực trạng áp dụng pháp luật BHTG của các Ngân hàng thương mại Việt Nam,đặt ra vấn đề cấp bách cần thiết là phải có nhiều chính sách thiết thực nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật về BHTG và nâng cao vai trò hoạt động của các tổ chức BHTG, nhằm mục đích giúp các ngân hàng hoạt động ngày càng hiệu quả và tốt hơn, khắc phục được các sai sót mà ngân hàng thường gặp phải,phát huy hơn nữa mặt tích cực đã đạt được.
III. Kết luận
Trong bối cảnh quốc tế có nhiểu biến động lớn như hiện,khủng hoảng kinh tế đã lan rộng ra nhiều khu vực trong đó có Châu Á.Việt Nam tuy chưa lâm vào tình trạng khủng hoảng nhưng cũng có ít nhiều ảnh hưởng. Thị trường tài chính- tiền tệ biến động mạnh, thể hiện rõ nhất trong hoạt động của các ngân hàng, tổ chức tín dụng.
Các ngân hàng,nhất là các ngân hàng thương mại cần có nhiều đổi mới trong hoạt động nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình đồng bảo vệ tốt nhất lợi ích của người gửi tiền,tăng uy tín của ngân hàng đối với khách hàng. Vấn đề đặt ra đối với các Ngân hàng thương mại Việt Nam là phải tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh, nhất là pháp luật BHTG,phối hợp chặt chẽ với các tổ chức BHTG trong hoạt động, đồng thời pháp luật BHTG cũng phải có những hoàn thiện và có những quy định cụ thể hơn nữa giúp các Ngân hàng thương mại kinh doanh ngày càng hiệu quả hơn, tuân thủ pháp luật một cách nghiêm ngặt.Tất cả các vấn đề như thực trạng áp dụng pháp luật bảo hiểm tiền gửi,các quy định của luật BHTG đã được chứng minh cụ thế ở trên.
Danh mục tài liệu tham khảo
Giáo trình Luật Ngân hàng- 2007
Nghị định số 89/1999/ NĐ- CP ngày 1/9/1999 của Chính Phủ về BHTG
Nghị định số 109/2005/NĐ- CP ngày 24/8/2005sửa đổi bổ sung một số điều của NĐ 89
Tạp chí ngân hàng 2005
Tạp chí ngân hàng 2008
Tạp chí luật học 2002
Một số website
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Về một vài thực trạng áp dụng pháp luật bảo hiểm tiền gửi của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.doc