Đề tài Xác định bệnh do trùng bào tử sợi (Myxosporea) gây ra ở cá chẽm Lates calcarifer (Bloch, 1790) giai đoạn giống và thử nghiệm phƣơng pháp chữa trị

Kết quả khi kiểm tra 179 con cá chẽm giống ở khu vực Khánh Hòa từ tháng 6/ năm 2011 đến tháng 2 năm 2012 đã xác định đƣợc hai loài trùng bào tử sợi gây ra là Ceratomyxa macrospora ký sinh trong mật cá và Henneguya cerebralis ký sinh trên mang cá ở dạng bào nang. Ceratomyxa macrospora ký sinh trong mật, với tỷ lệ nhiễm 6,81%, cƣờng độ nhiễm >100 trùng/thị trƣờng kính 40X. KST này gây ảnh hƣởng đến tốc độ sinh trƣởng của cá, cá chậm lớn, gầy yếu. Henneguya cerebralis ký sinh dạng bào nang với mức độ nhiễm cao làm mang tiết nhiều dịch nhầy, cản trở hoạt động hô hấp của cá, gây chết với tỷ lệ cao. Thử nghiệm chữa trị bệnh Ceratomyxosis trên cá chẽm giống bằng sản phẩm Baycox (BAYER) với thành phần chính là Toltrazuril 5% đã đem lại hiệu quả. Liều dùng đƣợc khuyến nghị là Toltrazuril 1ppt.

pdf42 trang | Chia sẻ: tienthan23 | Lượt xem: 2235 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xác định bệnh do trùng bào tử sợi (Myxosporea) gây ra ở cá chẽm Lates calcarifer (Bloch, 1790) giai đoạn giống và thử nghiệm phƣơng pháp chữa trị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
............. 25 Hình 3.5. Tỷ lệ (%) các cƣờng độ cảm nhiễm bào tử sợi khác nhau ở đàn cá chẽm bị bệnh Ceratomyosis trƣớc khi đƣợc chữa trị trị bằng Baycox (BAYER). ......... 27 Hình 3.6. Tỷ lệ chết ở các nghiệm thức sau 12 ngày chữa trị bằng Baycox (BAYER). ............................................................................................................... 27 Hình 3.7. Tỷ lệ (%) cƣờng độ cảm nhiễm ở nghiệm thức dùng thuốc (NT1) và đối chứng (ĐC) sau 6 ngày chữa trị bằng Baycox (BAYER). ..................................... 28 Trang 1 MỞ ĐẦU Cá chẽm Lates calcarifer là loài có giá trị kinh tế, tốc độ sinh trƣởng khá nhanh, dễ nuôi, năng suất nuôi cao và là đối tƣợng nuôi quan trọng ở nhiều nƣớc trên thế giới, nhất là các nƣớc trong khu vực Đông Nam Á. Nghề nuôi cá chẽm ở Việt Nam đƣợc phát triển rộng rãi sau khi nghề nuôi tôm đi vào giai đoạn suy thoái do dịch bệnh. Lates calcarifer đã trở thành đối tƣợng nuôi chính đem lại hiệu quả kinh tế cao cho nhiều hộ nông dân. Tuy nhiên, sự phát triển nghề nuôi cá chẽm gia tăng nhanh chóng cả về quy mô và diện tích, đồng thời thiếu sự quản lý, quy hoạch trong quá trình phát triển trong thời gian qua đã dẫn đến một số vấn đề về môi trƣờng và dịch bệnh, kết quả là các báo cáo dịch bệnh trên đối tƣợng nuôi này xuất hiện với tần số ngày càng tăng. Trong những bệnh trên cá chẽm hiện nay thì bệnh do ký sinh trùng mà cụ thể là trùng bào tử sợi Myxosporea gây ra cũng là một điều đáng quan tâm. Myxosporea là tác nhân gây bệnh phổ biến và gây tác hại lớn, gây cá chết nhanh chóng với tỷ lệ cao có thể lên đến 100% hoặc gây ảnh hƣởng đến sinh trƣởng. Bệnh này gây tác hại trong hầu hết các giai đoạn phát triển của cá nhƣng gây hại nghiêm trọng nhất ở giai đoạn cá con. Hiện nay bệnh vẫn chƣa có biện pháp chữa trị, chủ yếu vẫn là áp dụng các biện pháp phòng bệnh tổng hợp. Chính vì lý do trên mà vấn đề cần giải quyết hiện nay là cần có một đề tài để xác định rõ bệnh do Myxosporea gây ra ở cá chẽm. Đƣợc sự cho phép của giám hiệu nhà trƣờng, phòng khoa học công nghệ, khoa nuôi trồng thủy sản trƣờng Đại học Nha Trang và sự định hƣớng, giúp đỡ của thầy Phan Văn Út, tôi đã thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học với tiêu đề “Xác định bệnh do trùng bào tử sợi (Myxosporea) gây ra ở cá chẽm Lates calcarifer (Bloch, 1790) giai đoạn giống và thử nghiệm phƣơng pháp chữa trị” Nội dung thực hiện: 1. Xác định tác nhân và đặc điểm dịch tễ của bệnh do Myxosporea gây ra trên cá chẽm. 2. Thử nghiệm phƣơng pháp chữa trị. Trang 2 Mục tiêu của đề tài: Xác định tác nhân và đặc điểm dịch tễ của bệnh do Myxosporea gây ra ở cá chẽm Lates calcarifer và đề xuất biện pháp phòng trị bệnh thích hợp. Trang 3 PHẦN I: TỔNG QUAN 1.1.Một số đặc điểm sinh học của cá chẽm. Cá chẽm có hệ thống phân loại nhƣ sau: Ngành: Chordata Lớp: Actinopterygii Bộ: Perciformes Họ: Latidae Giống: Lates Hình 1.1. Cá chẽm Lates calcarifer Loài: Lates calcarifer (Bloch, 1790) Tên tiếng Việt: Cá chẽm, cá vƣợc. Tên tiếng Anh: Sea bass, Barramundi, Giant seaperch. Cá chẽm có thân hình thon dài và dẹp bên, cuống đuôi khuyết sâu. Chiều dài thân bằng 2.7 - 3.6 lần chiều cao. Đầu nhọn, nhìn bên cho thấy phía trên hơi lõm xuống ở giữa và hơi lồi ở lƣng. Miệng rộng và hơi so le, hàm trên kéo dài đến phía dƣới sau hốc mắt. Răng dạng nhung, không có răng nanh, trên nắp mang có gai cứng, vây lƣng gồm có 2 vi: vi trƣớc có 7-9 gai cứng và vi sau có 10-11 tia mềm. Vi hậu môn có 3 gai cứng, vi đuôi tròn và có hình quạt. Vẩy dạng lƣợc và có kích cỡ vừa phải, có 61 vẩy đƣờng bên. Khi cá khoẻ, trên mặt lƣng có màu nâu, mặt bên và bụng có màu bạc khi sống trong môi trƣờng nƣớc biển, màu nâu vàng khi sống trong môi trƣờng nƣớc ngọt. Khi cá ở giai đoạn trƣởng thành sẽ có màu xanh lục hay vàng nhạt trên lƣng và màu vàng bạc ở mặt bụng. Cá chẽm . Tại Việt Nam, cá chẽm có thể đƣợc tìm thấy ở vịnh Bắc bộ, vùng biển Trung và Nam Bộ. Trang 4 Về khả năng thích ứng với các yếu tố sinh thái, cá chẽm là loài có khả năng thích ứng rộng với sự thay đổi độ mặn, cá giai đoạn giống và trƣởng thành sống đƣợc ở độ mặn từ 0 – 35 ppt và có thể chịu đựng tốt với sự thay đổi độ mặn đột ngột. Thực tế cho thấy cá giống cỡ 2 – 3 cm có thể thuần hóa từ độ mặn 30 – 32 ppt xuống 5 – 10 ppt trong 2 – 3 giờ (Kungvankij và ctv, 1984; Tucker, 2000) . Vì vậy, đây là loài rất thích hợp cho phát triển nuôi cả trong nƣớc ngọt, nƣớc lợ cũng nhƣ nuôi biển (Kungvankij và ctv, 1984). Cá chẽm có thể thích ứng với nhiệt độ từ 21 – 39oC, thích hợp nhất 27 – 30oC. Nhiệt độ thay đổi đột ngột 2 – 3oC có thể gây sốc cho cá giống (Tucker, 2000). Độ pH thích hợp cho cá từ 7.0 – 8.5; DO 4 -9 ppm; NH3-N < 0.025 ppm, H2S < 0.3 ppm (Kungvankij và ctv, 1984). Cá chẽm là loài cá dữ, ăn mồi sống và có khả năng ăn thịt đồng loại, đặc biệt tỷ lệ chết do ăn nhau cao nhất ở giai đoạn từ 1 – 10 cm. Ngoài tự nhiên, thức ăn của cá chẽm gồm cá nhỏ, tôm, cua, mực. Cá có kích thƣớc >20 cm ăn 100% mồi động vật (Kungvankij và ctv, 1994). Cá chẽm là loài có kích thƣớc lớn, khối lƣợng tối đa có thể đạt 60 kg. Cá tăng trƣởng chậm ở giai đoạn đầu, khi đạt 20–30 g tốc độ tăng trƣởng nhanh hơn và chậm lại khi đạt khoảng 4 kg. Cá bột mới nở có chiều dài 1.49 mm, sau 40 ngày đạt cỡ 17.4 mm, 50 ngày đạt 28.9 mm, 90 ngày đạt chiều dài 93 mm, khối lƣợng là 9g. Trong điều kiện nuôi, cá giống cỡ 2 – 2.5 cm sau thời gian ƣơng từ 30 – 45 ngày đạt cỡ 5 – 11 cm, sau từ 6 đến 24 tháng nuôi thƣơng phẩm cá đạt 0.35 – 3 kg. 1.2. Đặc điểm ký sinh trùng Myxosporea và bệnh do chúng gây ra. Myxosporea là thuộc ngành Myxozoa, giới động vật đơn bào Protozoa. Myxosporea có hình dạng cơ thể đơn giản, đây là kết quả của quá trình phân đôi quy mô lớn để thích ứng với đời sống ký sinh (Lom và Dyková, 2006). Vòng đời của Myxosporea trải qua các vật chủ khác nhau, theo Wolf và Markiw (1984) vòng đời của Myxosporea xảy ra trên hai ký chủ chia làm 2 giai đoạn là Myxospore và Actinospore, giai đoạn Myxospore xảy ra ở ký chủ trung gian là động vật có xƣơng sống bậc thấp nhƣ cá, giai đoạn Actinospore ký sinh ở động vật không xƣơng sống thƣờng là giun nhiều tơ nhằm phục vụ cho sự sinh sản hữu tính. Giai đoạn ký sinh Trang 5 trong cá có thể tồn tại trong cơ thể vật chủ dƣới dạng hợp bào, có thể là giả hợp bào (thể dinh dƣỡng) hay bào nang, đặc trƣng của giai đoạn này là trạng thái tế bào trong tế bào, khi những tế bào con đƣợc sinh sản nội sinh vẫn còn tồn tại trong tế bào mẹ. Hợp bào là một tổ chức lớn với nhiều nhân sinh dƣỡng và có hình thức sinh sản nội sinh tạo ra những tế bào sinh sản (generative cell), tế bào sinh sản sẽ trở thành tế bào sporogonic và pericyte có vai trò là nơi phân chia và biệt hóa các bào tử. Trong hợp bào còn có lobocytes - là những tế bào lớn có chức vụ “quét dọn” bên trong hợp bào, một hợp bào có thể tạo ra hai hay nhiều bào tử, giả hợp bào có kích thƣớc nhỏ hơn, chứa nhân và tế bào sinh sản có thể tạo ra một đến hai bào tử. Giai đoạn bào nang cũng là dạng hợp bào do các tổ chức cơ thể ký chủ nơi bào tử ký sinh bị kích thích thoái hóa và sinh ra một lớp mang bao quanh các thể dinh dƣỡng (Đỗ Thị Hòa và ctv, 2004). Bào tử Myxosporea có cấu tạo chính gồm: các mảnh vỏ, các cực nang có chứa sợi thích ty, phần nguyên sinh chất có chứa các nhân và không bào, bào tử rất đa dạng về kích thƣớc và hình dạng. Tùy theo loài mà một bào tử có cấu tạo từ 2 đến 7 mảnh vỏ dính nhau ở đƣờng nối, 1 đến 7 cực nang và nhân gồm một nhân đôi hay hai nhân đơn trong nguyên sinh chất. Ngoài ra, một số loài trong nguyên sinh chất còn có không bào ƣa iod chứa β_glycogen (Lom và Dyková, 1992). Trùng bào tử sợi ký sinh trên cả động vật không xƣơng sống và có xƣơng sống bậc thấp nhƣ cá, bò sát, lƣỡng cƣ, cũng có thể gặp ở chim, thú và ngƣời (Lom và Dyková, 2006). Ở cá, chúng ký sinh trong xoang cơ thể hay ký sinh trong các mô. Những loài ký sinh trong xoang cơ thể thƣờng ở trạng thái bám vào biểu mô hay trôi nổi trong dịch của các xoang cơ thể nhƣ mật, ống dẫn mật...Những loài ký sinh trong mô có thể ký sinh trong hay ngoài tế bào ở nhiều mô khác nhau, thƣờng tạo ra các dạng bào nang ký sinh ở mang, da có kích thƣớc lớn dễ quan sát bằng mắt thƣờng. Myxosporea ký sinh trong cơ thể vật chủ, lấy dinh dƣỡng bằng thẩm thấu và vận chuyển chủ động các chất dinh dƣỡng, với dạng bào nang có hoạt động ẩm bào cao, là những sinh vật kỵ khí bắt buộc hoặc hiếu khí bắt buộc (Lom và Dyková, Trang 6 1992). Khi kí sinh vào cơ thể vật chủ, các thể dinh dƣỡng lấy chất dinh dƣỡng để phát triển, sau đó hoặc chúng phân phối các bào tử trƣởng thành vào trong các cơ quan vật chủ hoặc ra ngoài môi trƣờng trở thành bào nang và hủy hoại vật chủ. Khi một bào tử trong môi trƣờng nƣớc, chúng sẽ xâm nhập trở lại cá hay xâm nhập vào ký chủ cuối cùng, có thể xâm nhập trực tiếp qua da, mang, vây cá khỏe, hay cảm nhiễm thông qua ruột khi có trong thức ăn của cá. Khi tiếp xúc với cơ thể cá, bào tử bị kích thích bởi cơ thể cá, sẽ phóng sợi thích ty, cắm vào tổ chức cơ thể, hai mảnh vỏ tách ra, tế bào chất di chuyển, xâm nhập vào các tế bào tổ chức của ký chủ, hoặc theo máu đến ký sinh ở các tế bào tổ chức của các cơ quan và dừng lại ở đó lấy chất dinh dƣỡng để sinh trƣởng và phát triển. Myxosporea tồn tại lâu ngoài môi trƣờng, bào tử có thể tồn tại trong nƣớc lạnh với hình thái bình thƣờng hơn một năm (Lom và Dyková, 1992). Sự phát triển bệnh do Myxosporea có thể phụ thuộc vào sự tƣơng tác của nhiều yếu tố: vật chủ, môi trƣờng, dinh dƣỡng và quản lý dinh dƣỡng của ngƣời nuôi ( Lom và Dyková, 1992 ). Yếu tố chủ yếu là vật chủ thông qua khả năng đề kháng và tập tính dinh dƣỡng, yếu tố môi trƣờng nhƣ vùng địa lý, độ mặn, mùa vụlà yếu tố tác động không chủ yếu, một số loài bị ức chế bởi biến động mùa vụ nhƣ ở cá Perch (Perca fluviatilis) mức độ nhiễm Henneguya psoro bị giảm vào đầu mùa xuân, tuy nhiên một số loài Myxosporea khác vẫn phát triển mạnh trong cơ thể vật chủ bất kể mùa nào (Lom và Dyková, 1992). Bệnh do Myxosporea ở cá biển nuôi là sự đe dọa tiềm năng và hiện hữu cho nghề nuôi trồng thủy sản nƣớc mặn. Tác hại của chúng không rõ ràng: một số loài gây hại trực tiếp, thật sự nguy hiểm cho cá có thể gây chết cao; một số loài khác khi cảm nhiễm vào cá không gây dấu hiệu lâm sàng hay tỷ lệ chết nghiêm trọng nhƣng phá hủy trầm trọng cấu trúc mô cơ thể cá, tạo điều kiện cho các tác nhân cơ hội xâm nhập gây các bệnh khác khi cá bị stress hay đáp ứng miễn dịch cơ thể suy giảm (Alvarez-Pellitero, Sitja-Bobadilla, 1993). Trang 7 1.3. Tình hình nghiên cứu bệnh ký sinh trùng Myxosporea trên thế giới Nghiên cứu bệnh do Myxosporea trên thế giới đã có lịch sử dài, từ những khám phá đầu tiên về Myxosporea những năm 1980 bởi Jurine (1825), đến nay các nhà khoa học đã phát hiện ra 2180 loài và nhiều loài mới còn đang đƣợc nghiên cứu (Lom và Dyková, 2005). Những loài Myxosporea mới vẫn đang là mối nguy đe dọa sự phát triển của nghề nuôi trồng thủy sản thế giới (Lom và Dyková, 2006). Với sự phát triển mạnh mẽ của nghề nuôi cá biển trên thế giới, sự bùng nổ bệnh bởi Myxosporea đã đƣợc thông báo thƣờng xuyên và một số loài Myxosporea đã trở thành trở ngại lớn cho nghề nuôi cá biển (trích theo Pilar và Ariadna, 1993). Bệnh do trùng bào tử sợi đã đƣợc thông báo trên những hệ thống nuôi khác nhau nhƣ ao, lồng nuôi trên biển .. và trên các loài cá thuộc họ Seranidae, Sparidae, Mugilidae (Lubat và ctv, 1989; Paperna, 1991; Alvarez-Pellitero & Sitja-Bobadilla, 1993), ngoài ra còn trên những sinh vật ký sinh trên cá. Sau đây là những công trình nghiên cứu đó: Wales và Volf (1950) đã thông báo Ceratomyxa shasta đã gây ra những cản trở lớn cho sự phát triển nghề nuôi trồng cá hồi Bắc Mỹ từ năm 1948, ký sinh trùng này là tác nhân gây bệnh nguy hiểm, xâm nhiễm vào ống tiêu hóa của cá, gây viêm và hoại tử mô, sau đó gây chết (Bartholomew, 1998). Khan và ctv (1986) đã thông báo trong bóng hơi cá bơn Đại Tây Dƣơng từ vùng biển Tây Bắc Thái Bình Dƣơng có các ký sinh trùng thuộc Myxosporea nhƣ C.drepanopsettae, Leptotheca sp. và Myxidium sphaericum (trích theo Morisom, 1996). Năm 1996, Morisom và ctv khi nghiên cứu Ceratomyxa ký sinh trong túi mật cá bơn Đại Tây Dƣơng (Hippologlossus hippoglossus) từ vùng Bắc Đại Tây Dƣơng đã phát hiện đƣợc trong dịch mật và thành túi mật loài C. drepanopsettae . Wierzbicka và Orecka-grabda (1996) đã phát hiện Myxobolus portucalusis ký sinh trên vây và các cơ quan nội quan cá chình Anguilla anguilla ở Ba Lan với tỷ lệ cảm nhiễm lên đến 15.4% (trích theo Lom và Dyková, 2006) . Trang 8 Hallet và ctv, 1997 khi kiểm tra tổng số 444 con cá Sillago spp. bắt ở Vịnh Moreton, Australia đã đƣợc tìm thấy Kudoa ciliatae trên 141 con cá (32%) . Tỷ lệ cảm nhiễm trên loài S. maculata cao nhất vào mùa thu (100%) và thấp nhất vào mùa xuân (10%), sự khác biệt này có liên quan thuận với kích thƣớc cá, vào mùa thu cá có kích thƣớc lớn. Cƣờng độ nhiễm từ 1 đến 45 bào nang/cá, trung bình 7,6 bào nang/cá, bào nang ký sinh trên bề mặt ống tiêu hóa Maeno và ctv, 1995, đã tìm ra một loài Myxosporea mới trên cá Seriola quinqueradiata là Myxobolus spirosulcatus. Sau đó, Maita và ctv (1997) thông báo một loài Myxosporea nhiễm trong túi mật có thể là nguyên nhân làm gan trở nên màu xanh nhƣng không xác định rõ ra loài. Đến năm 2001, Hiroshi Yokoyama & Yutaka Fukuda khi tiếp tục nghiên cứu về loài cá này lại bắt gặp Myxobolus spirosulcatus với tỷ lệ cảm nhiễm 20-100%, ngoài ra còn phát hiện hai loài mới Ceratomyxa seriolae n. sp và C. buri n. sp ký sinh trong túi mật. Năm 2003, Freeman và ctv thông báo một loài ký sinh trùng ký sinh trong rận cá Lepeophtheirus salmonis, rận cá là một trong những ký sinh trùng ngoại ký sinh phổ biến trên các lồng nuôi cá hồi trên biển. Myxosporea đƣợc quan sát ở giai đoạn trƣởng thành hay tiền trƣởng, ký sinh trên cả rận cái hay đực với tỷ lệ nhiễm lên đến 5%, ký sinh ở dạng bào nang trong lớp biểu mô dƣới vỏ kitin, bƣớc đầu định danh loài Myxosporea này thuộc Nucleospora. Năm 2005, Ariadna và Pilar đã mô tả một loài mới Leptotheca sparidarum n. sp., ký sinh trong thận hai loài cá Sparus aurata và Dentex dentex, đƣợc nuôi tại vùng bờ biển Tây Mediterranean (trích theo Lom và Dyková, 2006). MacKenzie và ctv (2005) khi nghiên cứu 4 loài thuộc họ cá Tuyết Gadus ở các Bắc Đại Tây Dƣơng từ năm 1992 đến 2003 đã thu đƣợc 9 loài: Ceratomyxa arcuata, Leptotheca informis, Leptotheca longipes, Myxidium bergense, Myxidium gadi, Myxidium oviforme, Myxidium sphaericum, Sphaeromyxa hellandi, và Myxidium. Một số loài là tác nhân gây bệnh nguy hiểm, một số có thể dùng để chỉ thị sự thay đổi và ô nhiễm môi trƣờng biển. Trang 9 Sphaerospora sp. (Myxosporea) đã đƣợc xác định cảm nhiễm trên cá hồi Salmo truttae ở trại nuôi cá hồi Đông- Bắc Italy. Ký sinh trùng này đƣợc tìm thấy trên thân ở cá hồi nâu 2 năm tuổi. Phƣơng pháp chuẩn đoán là dùng nhuộm Giemsa mô thận đƣợc phết mỏng hay dùng phƣơng pháp mô học cắt mô mẫu thận nhuộm bằng Haematoxylin- eosin để phát hiện thể dinh dƣỡng của Myxosporea (trích theo Lom và Dyková, 2006). Ba loài Myxosporea là Henneguya spp., Henneguya ogawai sp.n. và Henneguya yokoyamai sp. n., đã đƣợc mô tả từ hai loài cá tráp đen Acanthopagrus schlegelii đƣợc bắt khu vực đảo Setonaikai, Nhật Bản. Hợp bào đƣợc tìm thấy trong thành thực quản hay thành ruột và một số tìm thấy trong thành mật, màng bụng (trích theo Lom và Dyková, 2006). Work và ctv (2008) khi nghiên cứu bệnh trên cá Selar crumenophthalmus, một loài cá có nhiều ở Hawaii từ năm 2001 đến 2006 đã thông báo một loài mới là Henneguya akule n. sp cảm nhiễm với tỷ lệ 12-27%. Loài mới này ký sinh trong củ động mạch tim, có dạng hình ellip với hai đuôi, cực nang hình quả lê có sợi thích ty xoắn 3-4 lần. Ký sinh trùng này hiện diện trong cá khỏe và không gây dấu hiệu bệnh lý rõ ràng, tác giả cũng cho rằng sự cảm nhiễm tác nhân này không có liên quan đến giai đoạn phát triển và tình trạng cơ thể cá. Năm 2008, Abdel-Ghaffar và ctv, khi nghiên cứu về giống Ceratomyxa thuộc Myxosporea trên một số loài cá ở biển Đỏ đã phát hiện ra 4 loài mới Ceratomyxa bassoni sp.n., Ceratomyxa entzerothi sp. n., Ceratomyxa swaisi sp. n., Ceratomyxa hurghadensis sp. n. Freeman và ctv (2008) mô tả hai loài Myxoporea mới ký sinh trên cá Lophius litulon, Nhật Bản gồm Ceratomyxa anko sp. n. và Zschokkella lophii sp.n.. C. anko sp. n. ký sinh ở bóng hơi với tỷ lệ cảm nhiễm đến 57%, bào tử trƣởng thành cong hình trăng lƣỡi liềm với những mảnh vỏ nối ở đỉnh tròn. Đƣờng nối chạy ở trung tâm giữa các cực nang, cực nang hình tròn có chứa sợi thích ty xoắn 2 đến 3 lần, kích thƣớc bào tử : dài 10.8 (9.7–11.9) µm, rộng 41.9 (36.9–47.2) µm, đƣờng kính cực nang 4.6 (4.1–5.3) µm. Zschokkella lophii sp.n. ký sinh trong túi nƣớc tiểu Trang 10 và có tỷ lệ cảm nhiễm lên đến 70%, bào tử trƣởng thành có hình ellip hay hình bán cầu, đƣờng nối cong. Hai cực nang hình cầu hở nằm ở cuối bào tử, chứa sợi thích ty xoắn 5 lần. Kích thƣớc bào nang với chiều dài 20.1 (16.8–24.0) µm, rộng 14.9 (12.7–16.8) µm, đƣờng kính cực nang 5.1 (3.6–5.8) µm. Tác hại do ký sinh trùng này gây ra đối với nghề nuôi trồng thủy sản thế giới là không nhỏ, tuy nhiên cho đến nay ngoài những nghiên cứu về thành phần loài Myxosporea gây hại và những tác hại do chúng gây ra thì phƣơng pháp chữa trị thành công tác nhân này dƣờng nhƣ vẫn đang bế tắc. 1.4. Tình hình nghiên cứu bệnh ký sinh trùng và bệnh ký sinh trùng do Myxosporea gây ra trên cá chẽm Lates calcarifer ( Bloch, 1790) trên thế giới. Nghề nuôi cá chẽm thê giới phát triển đầu tiên tại Thái Lan từ những năm 1970, sau đó nghề này phát triển mở rộng ra các nƣớc châu Á khác nhƣ Trung Quốc, Ấn Độ, Maylaysia, Việt NamVì vậy, những công trình nghiên cứu chuyên về Myxosporea trên đối tƣợng này còn hiếm, đa phần các công trình đều là nghiên cứu thành phần loài ký sinh trùng. Các công trình nghiên cứu cho thấy thành phần loài ký sinh trùng trên cá chẽm rất đa dạng và phong phú: Kết quả kiểm tra cá chẽm tại Malaysia cho thấy sự có mặt của 17 loài kí sinh trùng, bao gồm 2 loài động vật đơn bào, 2 loài sán lá đơn chủ, 6 loài sán lá song chủ, 1 loài sán dây, 2 loài giun tròn và 4 loài giáp xác kí sinh. Trong đó kí sinh trùng gây bệnh chủ yếu là Trichodina sp. với tỉ lệ cả nhiễm là 62.8% và Pseudohabdosynochus latesi là 14.8% (Leong và Wong, 1986). Kết quả một nghiên cứu khác xác định 86% cá chẽm tự nhiên bị nhiễm sán lá song chủ Lecithochirium sp. và 100% cá chẽm tự nhiên bị nhiễm Pseudometadena celebenensis với cƣờng độ cảm nhiễm trung bình lần lƣợt là 5.5 và 9.3 trùng trên cá (Ruangpan, 1988). Năm 1988, Leong và Wong kiểm tra ký sinh trùng trên 149 con cá chẽm trƣởng thành trong đó có 102 con từ Bangkok, 47 con từ Songkla (Thái Lan) và 23 Trang 11 con đến từ Penang (Malaysia), kết quả tìm thấy 17 loài ký sinh trùng: 2 loài thuộc Protozoa, 2 loài thuộc Monogenea, 6 loài thuộc Digenea, 2 loài thuộc Isopoda, 1 loài Copepoda và 1 loài Branchiura. Năm 1990, Leong và Wong khi điều tra cá chẽm con khỏe và bị bệnh ở Penang (Malaysia) đã thu đƣợc 13 loài ký sinh trùng, trong đó có Protozoa. Hai tác giả cho rằng chính sự cảm nhiễm nặng Protozoa và Monogenea là nguyên nhân đầu tiên cho sự bùng phát bệnh. Năm 2006, Leong và ctv đã cho biết một số bệnh ký sinh trùng khác nhau trên cá biển trong đó có cá chẽm (Lates calcarifer). Tác giả chia làm ba nhóm ký sinh trùng chính là Protozoa, Plathyhelminthes và Crustaceae, mỗi giai đoạn phát triển của cá sẽ chịu ảnh hƣởng của những nhóm ký sinh trùng khác nhau. Trong đó, Henneguya spp. thuộc Myxosporea là một trong những loài gây thiệt hại nặng cho giai đoạn cá giống. 1.5. Tình hình nghiên cứu bệnh ký sinh trùng và bệnh trùng Myxosporea gây ra trên cá chẽm nuôi tại Việt Nam Trƣớc đây ở Việt Nam nghiên cứu về ký sinh trùng chủ yếu trên cá nƣớc ngọt, chỉ gần 10 năm trở lại đây mới bắt đầu nghiên cứu trên cá biển. Cá chẽm là một trong những đối tƣợng nuôi mới đƣợc nuôi ở nƣớc ta một vài năm, những công trình nghiên cứu về bệnh ký sinh trùng trên loài cá này còn chƣa nhiều. Từ năm 2003 – 2006, tại Bộ môn Bệnh học thủy sản, trƣờng Đại học Nha Trang đã có một số công trình nghiên cứu về thành phần loài ký sinh trùng trên cá chẽm, kết quả đã phát hiện đƣợc Monogenea, Trematoda, Nematoda, Ciliata ký sinh. Đỗ Thị Hòa và ctv (2008) đã xác định trên cá chẽm nuôi tại Khánh Hòa có 8 loại bệnh, trong đó có 4 loại bệnh liên quan tới kí sinh trùng, 2 loại bệnh liên quan đến vi khuẩn và hai loại bệnh liên quan đến virus. Trang 12 Vũ Thị Ngọc, năm 2008 đã nghiên cứu bệnh do Protozoa ký sinh trên cá chẽm nuôi thƣơng phẩm tại Khánh Hòa phát hiện 3 bệnh đó là bệnh do trùng bánh xe, bệnh do bào tử sợi Henneguya và bệnh do trùng loa kèn. Nhƣ vậy, ở Việt Nam đã có những nghiên cứu liên quan về ký sinh trùng gây bệnh trên cá chẽm nhƣng chƣa có nghiên cứu nào về bệnh trùng bào tử sợi Myxosporea ký sinh gây hại trên cá chẽm. Yêu cầu cấp thiết đặt ra là cần một công trình nghiên cứu về bệnh do tác nhân này gây ra để từ đó đƣa ra biện pháp phòng và chữa trị hiệu quả. Trang 13 PHẦN 2: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Thời gian, địa điểm và đối tƣợng nghiên cứu.  Đối tƣợng nghiên cứu: Trùng Myxosporea ký sinh trên cá chẽm.  Thời gian nghiên cứu: từ ngày 20/6/2011 đến 6/2012  Địa điểm nghiên cứu:  Xác định tác nhân gây bệnh tại phòng thí nghiệm Bệnh học thủy sản, trƣờng Đại học Nha Trang.  Tiến hành chữa trị tại trung tâm nghiên cứu giống và dịch bệnh thủy sản, trƣờng Đại học Nha Trang 2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu. 2.2.1. Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu. Hình 2.1: Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu. Kiểm tra phát hiện bệnh do trùng bào tử sợi Myxosporea ký sinh trên cá chẽm. Cá chẽm (Lates calcarifer) giống Xác định tác nhân và một số đặc điểm dịch tể Tiến hành chữa trị: Xác định mức độ nhiễm Xác định mức độ cảm nhiễm, đặc điểm dịch tể. Xác định tác nhân gây bệnh, đặc điểm dịch tể của bệnh. Chữa trị bệnh Ceratomyxosis bằng Toltrazuril . Kết luận hiệu quả chữa trị Kết luận. Kiểm tra các đặc điểm mô học Cố định, nhuộm và làm tiêu bản. Trang 14 2.2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu trùng bào tử sợi ký sinh trong cá chẽm. Hình 2.2. Các bƣớc thực hiện của phƣơng pháp nghiên cứu ký sinh trùng ở cá chẽm giống. Áp dụng phƣơng pháp nghiên cứu ký sinh trùng toàn diện ở cá của Dogiel (1929) có sửa chữa, bổ sung của một số tác giả: Hà Ký (1993), Bùi Quang Tề (2002), Đỗ Thị Hòa (2005). Bƣớc 1: Thu mẫu cá Cá đƣợc thu định kỳ hàng tuần từ các ao nuôi cá chẽm ở Khánh Hòa trong khoảng thời gian tháng 6 năm 2011 đến tháng 2 năm 2012. Cá đƣợc cho vào túi có bơm khí oxy để vận chuyển cá sống tới phòng thí nghiệm để kiểm tra. Nghiên cứu trùng bào tử sợi trên cá chẽm Thu mẫu, đo kích thƣớc và khối lƣợng, quan sát các dấu hiệu bên ngoài cơ thể cá. Thu thập và cố định KST Bảo quản KST: nhuộm và làm tiêu bản Xác định mức độ cảm nhiễm Xác định cƣờng độ cảm nhiễm Xác định tỷ lệ cảm nhiễm Kết luận về tác nhân gây bệnh Làm tiêu bản mô bệnh học Trang 15 Bƣớc 2: Kiểm tra và phát hiện ký sinh trùng Cân đo kích thƣớc cá, quan sát các dấu hiệu bên ngoài trƣớc khi kiểm tra ký sinh trùng. Áp dụng phƣơng pháp kiểm tra từng phần, kiểm tra theo thứ tự, bên ngoài trƣớc bên trong sau:  Kiểm tra các cơ quan ngoài Da: Đặt cá lên khay, cạo nhớt da, chú ý những nơi tập trung nhiều ký sinh trùng nhƣ gốc vây, bụng cá... Lấy nhớt lên lam, nhỏ thêm một giọt nƣớc muối đậy lamen rồi quan sát dƣới kính hiển vi. Kiểm tra mang cá: Cắt bỏ nắp mang rồi quan sát bằng mắt thƣờng để xem xét tình trạng mang nhƣ: màu sắc, sự tiết nhớt, có bị rách hay sƣng không. Sau đó cắt rời từng cung mang, lấy nhớt mang cho lên lam để quan sát phát hiện ký sinh trùng, sau đó cho vào hộp lồng có nƣớc muối rồi đƣa lên kính soi nổi quan sát, dùng panh nhỏ và dùi tách ký sinh trùng ra khỏi mang.  Kiểm tra cơ quan bên trong Sau khi kiểm tra xong da và mang, tiến hành giải phẫu cá tách riêng từng cơ quan nội tạng cho vào hộp lồng chứa nƣớc muối sinh lí 0.85%. Gan: Quan sát màu sắc hình dạng của gan. Sau đó cắt một ít lá gan đem ép rồi quan sát trên kính. Mật: Tách lấy túi mật, lấy dịch mật đem quan sát trên kính hiển vi. Dạ dày: Cho vào hộp lồng có nƣớc muối sinh lí đƣa lên kính giải phẫu quan sát bên ngoài phát hiện những ký sinh trùng thì dùng panh và dùi tách ra, sau đó dùng kéo mổ gạt hết thức ăn, cạo nhớt cho vào lam nhỏ nƣớc muối sinh lí đƣa lên kính hiển vi quan sát. Nếu thấy bào nang qua kính giải phẫu thì tách ngay, làm sạch, đƣa lên kính hiển vi quan sát kĩ hơn chụp và vẽ hình. Ruột: Chia ruột làm ba phần: ruột trƣớc, ruột giữa, ruột sau. Dùng kéo hoặc dao rạch dọc theo ống ruột gạt bớt thức ăn, cạo để quan sát dƣới kính hiển vi nếu có bào nang hay trùng thì đƣa qua kính giải phẫu tách trùng. Trang 16 Khi phát hiện đƣợc ký sinh trùng cần vẽ và chụp hình, ghi đặc điểm phân loại, cố định và bảo quản phù hợp Bƣớc 3: Thu thập, cố định, bảo quản, làm tiêu bản. Mỗi loài ký sinh trùng có phƣơng pháp thu thập và bảo quản khác nhau. Trong quá trình thu mẫu cần ghi chép đầy đủ số lƣợng, mô tả và vẽ hình sơ bộ để thuận tiện cho phân loại sau này. Riêng đối với Myxosporea, sau khi thu thập đƣợc Myxosporea tiến hành một số thực hiện phƣơng pháp sau: Ép và dàn mỏng ký sinh trùng lên lam, để khô ở nhiệt độ phòng, cố định trong cồn ethylic 100% và nhuộm dung dịch Giemsa đƣợc pha từ dung dịch Giemsa gốc với tỷ lệ 1:10 trong 5-10 phút. Để quan sát sự hiện diện của không bào ƣa iod trong tế bào chất, KST sau khi đƣợc ép và dàn mỏng sẽ đƣợc cố định vào đệm Formalin 10%, nhuộm với dung dịch Lugol. Bƣớc 4: Định danh KST đƣợc tiến hành theo tài liệu của Lom và Dyková (1992). 2.2.3. Kiểm tra mô học Áp dụng phƣơng pháp mô bệnh học truyền thống đƣợc mô tả trong tài liệu “Một số phƣơng pháp nghiên cứu bệnh ở động vật thủy sản” của Đỗ Thị Hòa 2005 (Tài liệu lƣu hành nội bộ) với các bƣớc tiến hành nhƣ sau:  Cố định mẫu bằng dung dịch sđệm formalin 10% (hoặc cố định mẫu bằng Bouin)  Sau 12-36h chuyển sang bảo quản bằng cồn Etylic 70%.  Xử lý mẫu, làm mất nƣớc, làm trong và thấm mẫu trong paraphin nóng chảy.  Đúc mẫu thành khối trong parafin.  Cắt mẫu với độ mỏng 5-6 µm.  Sấy mẫu ở nhiệt độ 45-60oC trong 2-4 h. Trang 17  Nhuộm mẫu trong Hematoxylin và Eosin.  Dán tiêu bản bằng keo Bomcanada, đọc tiêu bản trên kính hiển vi quang học. 2.2.4. Thử nghiệm chữa trị Cá chẽm giống bệnh từ các vùng nuôi đƣợc dùng để thử nghiệm chữa trị. Tiến hành chữa trị bằng phƣơng pháp cho ăn sản phẩm Baycox (BAYER), sản phẩm có thành phần chính là Toltrazuril 5%. Thí nghiệm đƣợc thực hiện với 3 nghiệm thức và lặp lại 2 lần, mỗi nghiệm thức 30 cá thể, cá đƣợc xác định tỷ lệ và cƣờng độ nhiễm bào tử sợi trƣớc thí nghiệm: - Nghiệm thức 1: Cho ăn thức ăn đƣợc trộn với Toltrazuril nồng độ 0.5ppt (0.01mL Baycox/1g thức ăn). - Nghiệm thức 2: Cho ăn thức ăn đƣợc trộn với Toltrazuril nồng độ 1ppt (0.02mL Baycox/1g thức ăn). - Nghiệm thức 3: Đối chứng (thức ăn không có Baycox). Quy trình chữa trị đƣợc thực hiện trong 6 ngày gồm cho ăn thức ăn có chứa thuốc liên tục trong 3 ngày, 3 ngày tiếp theo cho ăn bình thƣờng. Sau 6 ngày tiến hành giải phẫu kiểm tra mẫu. Nếu cá còn nhiễm bệnh lặp lại quy trình và tiếp tục cho đến khi hết bệnh. Cá đƣợc nuôi trong bể 1m3 có chứa 0.5m3 nƣớc; cho ăn thức ăn công nghiệp chiếm 10% khối lƣợng cơ thể, các thông số môi trƣờng đƣợc quan sát và duy trì ổn định với nhiệt độ 26-28ºC, độ mặn 28-33 ppt. Thu thập cá chết hàng ngày, kiểm tra mật, sau mỗi đợt chữa trị tiến hành kiểm tra để xác định hiệu quả. Trang 18 2.2.5. Phƣơng pháp thu thập và xử lý số liệu. 2.2.5.1. Phƣơng pháp tính mức độ cảm nhiễm - Tỷ lệ cảm nhiễm: TLCN (%) = 100 Cƣờng độ cảm nhiễm: CĐCNTB= 15 thị trƣờng kính (trùng/TTK 40x10) 15 Trang 19 2.2.5.2. Phƣơng pháp đo kích thƣớc trùng Myxosporea. Kích thƣớc của bào tử đƣợc đo bằng kính hiển vi quang học với độ chính xác 1µm. Cách đo kích thƣớc của bào tử nhƣ hình 2.1: Hình 2.1.Cách đo kích thƣớc bào tử (Nguồn: Protozoan parasites of fishes) Trong đó: L- chiều dài của bào tử; W- chiều rộng của bào tử; T- độ dày của bào tử; AL- chiều dài phần phụ đuôi; TL-tổng chiều dài bào tử; 2.2.5.3. Xử lý số liệu Số liệu sau khi đƣợc thu thập đƣợc xử lý bằng phần mềm Microsoft Excel. Trang 20 PHẦN III: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Phân bố mẫu nghiên cứu và xác định tác nhân gây bệnh: Trong thời gian nghiên cứu, đã kiểm tra 179 mẫu cá chẽm ở giai đoạn giống thu từ các ao đìa và lồng nuôi cá chẽm trong tỉnh, số liệu trình bày ở bảng 3.1. Bảng 3.1. Số lƣợng và kích thƣớc mẫu nghiên cứu Số lƣợng cá (con) Kích thƣớc chiều dài (cm) Lớn nhất Nhỏ nhất Trung bình 179 14.5 2.4 8.58 ± 2.97 Trong tổng số các mẫu cá kiểm tra, chúng tôi đã xác định đƣợc tác nhân gây bệnh do Myxosporea trên cá chẽm nuôi tại Khánh Hòa bởi 2 giống ký sinh trùng là Ceratomyxa và Henneguya. Bệnh xảy ra chủ yếu trên cá nuôi tại các ao, đìa hay ƣơng trên các mƣơng nổi trong ao. Mặc dù tỷ lệ nhiễm rất thấp (dƣới 10%), tuy nhiên cƣờng độ nhiễm thì rất cao ở cả hai giống bảo tử sợi (Bảng 3.2). Bảng 3.2. Mức độ nhiễm bệnh do bào tử sợi gây ra trên cá chẽm nuôi tại Khánh Hòa. Giống KST Cơ quan ký sinh Tỷ lệ nhiễm (%) Cƣờng độ nhiễm Lớn nhất Nhỏ nhất Trung bình Henneguya Mang 9.09 62 6 25.6 ± 19.8 (Bào nang/cung mang) Ceratomyxa Mật 6.81 >100 ( trùng/TTK 40X) Trang 21 3.2. Mô tả bệnh do bào tử sợi gây ra trên cá chẽm. 3.2.1. Bệnh Ceratomyxosis. Giới : Protozoa Ngành: Myxozoa Lớp: Myxosporea Bộ: Bivalvulida Họ: Ceratomyxidae Giống: Ceratomyxa Loài: Ceratomyxa macrospora Ceratomyxa macrospora ký sinh trong mật của cá chẽm, cá không có dấu hiệu bất thƣờng nếu mức độ cảm nhiễm nhẹ, tuy nhiên nếu cá nhiễm cƣờng độ cao thƣờng biểu hiện các dấu hiệu nhƣ màu sắc cơ thể đen sạm, gầy, bơi lội yếu ớt . Đàn cá bị nhiễm bệnh do Ceratomyxa gây ra có sự phân đàn rõ rệt giữa những cá thể bệnh và không bệnh. Hình 3.1. Dấu hiệu cá chẽm bị bệnh do Ceratomyxa gây ra. A- cá bị đen thân; B- Nội tạng cá chẽm bị xuất huyết, mật bị đen; C- Gan teo, mật xanh đậm. B A C Trang 22 Cá bị cảm nhiễm Ceratomyxa ở mức độ cảm nhiễm nặng, mật thƣờng chuyển sang màu xanh đen, dịch mật cô đặc lại, tùy theo cƣờng độ nhiễm KST này mà màu sắc và độ đặc của dịch mật khác nhau, cá nhiễm càng nặng màu sắc của mật sẽ càng chuyển sang màu xanh đen và dịch mật càng cô đặc. Ngoài ra ở một số trƣờng hợp cá nhiễm với cƣờng độ nhiễm cao, mật có kích thƣớc lớn hơn bình thƣờng, gan teo nhỏ lại, ruột cá tích dịch và không chứa hoặc chứa ít thức ăn. Hình 3.2. Ceratomyxa ký sinh trong mật cá chẽm ở độ phóng đại 400X: A, B- Mẫu soi tƣơi; C, D- Mẫu nhuộm với Giemsa; E- Hình vẽ bào tử Ceratomyxa. Khi kiểm tra dịch mật ở độ phóng đại 400X, có thể thấy những ký sinh trùng kích thƣớc hiển vi với nhiều hình dạng khác nhau, dày đặc trong dịch mật. Bào tử Ceratomyxa macrospora có kích thƣớc dài 10-12.5µm, rộng 2.5-5µm gồm hai B A D C E Trang 23 mảnh vỏ nối nhau ở đƣờng nối, có cực nang và tế bào chất không chứa không bào ƣa iod. Hình dạng bào tử kéo dài nhƣ hình lƣỡi liềm, hai mảnh vỏ kéo dài theo trục dài của bào tử, cực nang hình cầu nằm gần ở đƣờng nối. Thể dinh dƣỡng có hình dạng và kích thƣớc khác nhau, có dạng hình tam giác hay tựa hình cầu chứa có một hay nhiều bào tử thƣờng là hai bào tử tạo ra những hình dạng khác nhau khi quan sát dịch mật. Khi quan sát mẫu mô mật đƣợc cắt, nhuộm với Hematoxylin và Eosin có thể thấy bào tử hay thể dinh dƣỡng bám trên thành túi mật hay nằm lơ lửng trong dịch mật, tế bào biểu mô túi mật bị biến dạng. Hình 3.3. Mô mật cá chẽm bị nhiễm bệnh Ceratomyosis: A- Ceratomyxa ký sinh trong dịch mật; B- cấu trúc thành ống mật bị phá hủy, Ceratomyxa bám trên biểu mô mật. Hình ảnh ở độ phóng đại 400X. Trên thế giới, Ceratomyxa gồm nhiều loài khác nhau C. arcuata, C. drepanopsettae, C. macrospora, C. agregata, C. auerbachi, C. schulmani, C. maxima, C. anguillae, C. hongzensis, C. shasta ký sinh chủ yếu trong dịch mật các loài cá biển ở khắp nơi. C. macrospora (Kalenscher, 1926) đã đƣợc thông báo là loài ký sinh trên cá Sebastes marinus, S. viviparus ở vùng biển Bắc và Bắc Đại Tây B A Trang 24 Dƣơng (trích theo Lom và Dyková, 1992). Tuy nhiên, những nghiên cứu sâu về loài này rất ít, những thông báo về các loài Ceratomyxa ký sinh gây bệnh trên cá biển cho thấy có những loài ký sinh nhƣng không gây tác hại lớn, có loài lại trở thành tác nhân gây bệnh nguy hiểm gây thiệt hại kinh tế nghiêm trọng cho nghề nuôi trồng thủy sản thế giới. Yamamoto và Sanders (1979) khi nghiên cứu bệnh do C. shasta ký sinh gây chết ở cá hồi cho thấy ngoài túi mật, KST này còn đƣợc tìm thấy trên toàn bộ thành ống tiêu hóa, mao mạch mang, mô liên kết, lách ,gan, thận, cơ và trứng (Trích theo Lom và Dyková, 1992). Tuy nhiên, trong đề tài này và theo kết quả của Kalenscher (1926) C. macrospora chỉ tìm thấy KST ở dịch mật, thành túi mật và ống mật, các cơ quan khác không phát hiện thấy. Có thể chính sự xâm nhiễm hệ thống của C. shasta trên hầu hết các cơ quan quan trọng của cá là nguyên nhân gây chết khi cá bị nhiễm KST, còn C. macrospora chỉ ký sinh cục bộ tại mật nên tác động của KST với cơ thể cá chủ yếu là lấy chất dinh dƣỡng làm cá còi cọc, chậm lớn mà không gây tỷ lệ chết lớn. Tuy không phải là nguyên nhân trực tiếp làm chết cá, nhƣng tác hại của C. macrospora thể hiện gián tiếp, gây ảnh hƣởng đến sinh trƣởng cá, cá chậm lớn, gầy yếu dễ bị nhiễm các tác nhân gây bệnh khác và khả năng chống lại bệnh thấp làm cá bị nhiễm KST này dễ chết hơn, mặc khác cá chậm lớn gây thiệt hại kinh tế cho ngƣời nuôi. 3.2.2 Bệnh Henneguyosis Ngành: Myxozoa Lớp: Myxosporea Bộ: Bivalvulida Họ: Myxobolidae Giống: Henneguya Loài: Henneguya cerebralis Trang 25 Hình 3.4. Hình ảnh bào nang và bào tử Henneguya trên cá chẽm: A, B- Bào nang Henneguya cerebralis trên mang; C, D- Bào tử Henneguya cerebralis ở độ phóng đại 400X; E- Hình vẽ bào tử Henneguya cerebralis . Henneguya cerebralis ký sinh trong mang của cá ở dạng bào nang, cƣờng độ cảm nhiễm nhẹ cá không có dấu hiệu bất thƣờng, tuy nhiên cƣờng độ cảm nhiễm nặng gây ảnh hƣởng đến hô hấp của cá, màu sắc của cá bị bệnh đen sạm, khi quan sát mang cá dƣới kính giải phẫu thấy xuất hiện các bào nang màu nâu bám dày đặc bên trong các tơ mang của cá. Khi bị phá vỡ, bào nang sẽ giải phóng các bào tử. Bào tử có dạng hình ellip, có 2 cực nang hình hình quả lê ở phía trƣớc cơ thể, cực nang dài ½ kích thƣớc bào A D C B E Trang 26 tử, sợi thích ty xoắn 7 lần. Vỏ kitin gồm hai mảnh khép lại nhƣng bắt đầu từ phần nối phía sau vỏ kéo dài thành đuôi, đuôi chia hai nhánh không đều nhau cong vút về phía sau; tế bào chất có chứa không bào ƣa iod chứa β-glycogen. Bệnh Henneguyosis thƣờng xảy ra vào mùa nhiệt độ cao, với xuất hiện tháng 6-8 hàng năm, là thời điểm nắng nóng ở khu vực Khánh Hòa và không thấy sự xuất hiện bệnh vào các tháng nhiệt độ thấp. Bệnh Henneguyosis thƣờng gây chết cá với tỷ lệ lớn do cản trở hoạt động hô hấp, cấu tạo và chức năng của mang cá bị phá hủy. Bệnh do Heneguyosis trên cá chẽm cũng đã đƣợc thông báo trong nghiên cứu của Vũ Thị Ngọc (2008). Theo Vũ Thị Ngọc (2008), khi cá nhiễm bệnh Henneguyosis ở mức độ cảm nhiễm nhẹ thƣờng ít biểu hiện các dấu hiệu bệnh lý bên ngoài; khi cá nhiễm bệnh nặng, bào nang Henneguya chèn ép các tơ mang, có thể làm kênh xƣơng nắp mang, cá gặp khó khăn trong hô hấp và chết. Nhƣ vậy, những dấu hiệu bệnh lý khi cá bị nhiễm bệnh Heneguyosis đƣợc mô tả trong nghiên cứu của chúng tôi và của Vũ Thị Ngọc khá tƣơng đồng nhau, tuy nhiên loài nghiên cứu đƣợc xác định trong nghiên cứu trƣớc là Henneguya zschokkei Gurley, 1894. 3.3. Kết quả thí nghiệm chữa trị bệnh Ceratomyosis: Đàn cá đƣa vào chữa trị có chiều dài trung bình 8.56 cm ± 0.63, có tỷ lệ cảm nhiễm 100% và cƣờng độ nhiễm cao từ 7 đến trên 100 trùng/thị trƣờng kính 40X (Bảng 3.3). Tỷ lệ cá có cƣờng độ nhiễm trên 100 trùng/thị trƣờng kính 40X chiếm 50%; cƣờng độ nhiễm từ 30-70 trùng/thị trƣờng kính 40X chiếm 37% (Hình 3.4). Nhƣ vậy, đàn cá đƣa vào chữa trị là đàn cá nhiễm bệnh nặng, điển hình phù hợp cho thử nghiệm chữa trị. Bảng 3.3. Kích thƣớc và mức độ cảm nhiễm đàn cá chẽm bị bệnh Ceratomyosis trƣớc khi đƣa vào chữa trị bằng Baycox (BAYER). Kích thƣớc cá (cm) Tỷ lệ nhiễm (%) Cƣờng độ nhiễm (trùng/ TTK 40X) 8.56 ± 0.63 100 7 - >100 Các giá trị trong bảng là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn (SD). Trang 27 37% 13% 50% <30 30-100 >100 Hình 3.5. Tỷ lệ (%) các cƣờng độ cảm nhiễm bào tử sợi ở đàn cá chẽm bị bệnh Ceratomyosis trƣớc khi đƣợc chữa trị bằng Baycox (BAYER). 0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% ĐC NT1 NT2 53,33% 11,67% 3,33% T y l e c h e t (% ) Nghiem thuc Tỷ lệ chết Hình 3.6. Tỷ lệ chết ở các nghiệm thức sau 12 ngày chữa trị bằng Baycox (BAYER). Theo dõi tỷ lệ chết trong quá trình trị bệnh, nghiệm thức đối chứng không đƣợc dùng thuốc có tỷ lệ chết cao nhất 53.33%. Nghiệm thức dùng thuốc ở liều lƣợng 0.5ppt và 1ppt tỷ lệ chết lần lƣợt là 11.67%, 3.33%. Theo kết quả trên, tỷ lệ chết cao nhất đƣợc quan sát ở nghiệm thức đối chứng và ở hai nghiệm thức dùng thuốc, liều dùng thuốc thấp hơn cho tỷ lệ chết cao hơn. Mặt khác, giải phẫu cá sau khi chết ở các nghiệm thức cho thấy cƣờng độ nhiễm Ceratomyxa dày đặc trong mật, gan teo, ruột tích nƣớc và không chứa thức ăn. Nhƣ vậy, cá chết trong quá trình thí nghiệm có thể là do bệnh nặng, sức khỏe yếu, không phải là tác dụng của Trang 28 thuốc, nguyên nhân chết chủ yếu là do ký sinh trùng tác động đến hệ thống tiêu hóa, dẫn đến cá không ăn đƣợc thức ăn. Kết quả chữa trị cho thấy, sau 6 ngày chữa trị đầu tiên, mức độ nhiễm ở hai nghiệm thức dùng thuốc đã giảm rõ rệt. Nghiệm thức dùng thuốc Toltrazuril ở nồng độ 0.5ppt, tỷ lệ nhiễm giảm xuống chỉ 70%, mức độ nhiễm cũng giảm. Nghiệm thức dùng thuốc Toltrazuril nồng độ 1ppt, tỷ lệ nhiễm giảm rõ rệt chỉ còn 15% (Bảng 3.4). Bảng 3.4. Mức độ cảm nhiễm của cá chẽm bị bệnh Ceratomyosis ở các nghiệm thức sau khi đƣợc chữa trị bằng Baycox (BAYER). 6 ngày sau khi chữa trị bằng Baycox (BAYER) 12 ngày sau khi chữa trị bằng Baycox (BAYER) Tỷ lệ nhiễm (%) Cƣờng độ nhiễm (trùng/TTK 40X) Tỷ lệ nhiễm (%) Cƣờng độ nhiễm (trùng/TTK 40X) Toltrazuril 0.5ppt 70 8- >100 0 0 Toltrazuril 1ppt 15 7- >100 0 0 ĐC 100 >100 100 25- >100 Tiếp tục chữa trị trong 6 ngày tiếp theo, cá ở cả hai nghiệm thức dùng thuốc đều không còn bị nhiễm bào tử sợi ở mật, trong khi nghiệm thức đối chứng tỷ lệ nhiễm là 100% (Bảng 3.5) 100% 50% 0 50% 0% 20% 40% 60% 80% 100% ĐC1 NT1 T y le ( % ) Nghiem thuc <30 30-100 > 100 Hình 3.7. Tỷ lệ (%) cƣờng độ cảm nhiễm ở nghiệm thức dùng thuốc (NT1) và đối chứng (ĐC) sau 6 ngày chữa trị bằng BAYCOX (BAYER). Trang 29 Toltrazuril là thuốc đã đƣợc ứng dụng chữa trị một số bệnh ký sinh trùng nội và ngoại ký sinh. Sản phẩm có chứa Toltrazuril đã đƣợc sử dụng để điều trị các bệnh ký sinh trùng nội ký sinh đƣờng ruột trên thú y bằng biện pháp cho ăn đã đem hiệu quả cao và không gây các phản ứng phụ khác. Trong nuôi trồng thủy sản, Toltrazuril đã đƣợc sử dụng trong một số thí nghiệm chữa trị bệnh ký sinh trùng ngoại ký sinh do Monogenea hay Protozoa gây ra (Schmahl và Mehlhom, 1998; Schmahl và ctv, 2011). Biện pháp đƣợc đƣa ra để chữa trị các bệnh ngoại ký sinh trên cá là ngâm những nồng độ, thời gian khác nhau. Liều lƣợng đƣợc Schmahl và Mehlhom (1988) khuyến khích để chữa trị bệnh do Gyrodactylus spp., Dactylogyrus vastator, D. Extensus và Pseudodactylogyrus bini là 10ppm ngâm trong 4h. Schmahl và ctv (2011) đề nghị chữa trị bệnh do Apiosoma spp. and Trichodina spp. trên cá bằng phƣớng pháp ngâm 50ppm trong 20 phút. Đối với Ichthyophthirius multifiliis ở giai đoạn dinh dƣỡng, do một số thể dinh dƣỡng của I. multifiliis không chết mà chuyển sang dạng bào nang sau khi ngâm 10ppm trong 2h, vì thế Schmahl và ctv (2011) đƣa ra phƣơng pháp chữa trị phức tạp hơn đòi hỏi cả quy trình gồm ngâm 10ppm trong 2h ở ngày đầu tiên, 20ppm trong 1h ở ngày thứ hai và ngày thứ ba. Liều lƣợng dùng trong thí nghiệm này tuy cao hơn hẳn với những liều khuyến khích khi chữa trị các ký sinh trùng ngoại ký sinh nhƣng quan sát không có hiện tƣợng cá chết do quá liều và cho hiệu quả chữa trị. Điều này có thể do một phần thuốc bị mất đi trong quá trình cho ăn, một lƣợng khác sẽ bị phân hủy bởi hệ tiêu hóa hay bị thải ra ngoài trƣớc khi đƣợc hấp thụ, vì thế nồng độ thuốc tác động lên ký sinh trùng sẽ rất nhỏ. Cơ chế tác dụng của thuốc lên Myxosporea chƣa đƣợc hiểu rõ. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Schmahl và ctv, 2011 cho rằng tác dụng của Toltrazuril lên các Protozoa ngoại ký sinh là làm phá hủy cấu trúc màng ngoài, cấu trúc ty thể cũng nhƣ tiêu hủy hoàn toàn các Ribosome. Điều này cũng có thể là cơ chế tác dụng của thuốc lên Ceratomyxa khi KST này mang những đặc điểm chung của Protozoa. Cá chẽm giống bị nhiễm bệnh Ceratomyxosis đã đƣợc chữa trị có hiệu quả trong điều kiện thí nghiệm, với tỷ lệ nhiễm còn 0% sau hai đợt chữa trị. Sau đợt Trang 30 chữa trị đầu tiên, tỷ lệ nhiễm giảm từ 100% còn 70% với nồng độ 0.5ppt Toltrazuril và giảm còn 15% với nồng độ 1ppt. Bên cạnh đó, tỷ lệ chết trong quá trình chữa trị xảy ra thấp nhất ở nồng độ 1ppt Toltrazuril. Nhƣ vậy, nồng độ 1ppt cho hiệu quả chữa trị tốt hơn và đây là liều dùng đƣợc đề nghị cho hiệu quả chữa trị bệnh này nhằm giảm tỷ lệ chết do bệnh và cá nhanh hết bệnh. Trang 31 PHẦN 4: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN. 4.1. Kết luận. Kết quả khi kiểm tra 179 con cá chẽm giống ở khu vực Khánh Hòa từ tháng 6/ năm 2011 đến tháng 2 năm 2012 đã xác định đƣợc hai loài trùng bào tử sợi gây ra là Ceratomyxa macrospora ký sinh trong mật cá và Henneguya cerebralis ký sinh trên mang cá ở dạng bào nang. Ceratomyxa macrospora ký sinh trong mật, với tỷ lệ nhiễm 6,81%, cƣờng độ nhiễm >100 trùng/thị trƣờng kính 40X. KST này gây ảnh hƣởng đến tốc độ sinh trƣởng của cá, cá chậm lớn, gầy yếu. Henneguya cerebralis ký sinh dạng bào nang với mức độ nhiễm cao làm mang tiết nhiều dịch nhầy, cản trở hoạt động hô hấp của cá, gây chết với tỷ lệ cao. Thử nghiệm chữa trị bệnh Ceratomyxosis trên cá chẽm giống bằng sản phẩm Baycox (BAYER) với thành phần chính là Toltrazuril 5% đã đem lại hiệu quả. Liều dùng đƣợc khuyến nghị là Toltrazuril 1ppt. 4.2. Đề xuất ý kiến. Tiếp tục nghiên cứu các đặc điểm về sự cảm nhiễm của Myxosporea lên cá chẽm giống nuôi tại các ao đìa, mối liên hệ giữa cảm nhiễm với các yếu tố môi trƣờng, điều kiện nuôi, mùa vụ nuôi và vật chủ. Tiếp tục sử dụng Toltrazuril để thử nghiệm chữa trị bệnh Ceratomyosis trên cá chẽm nhiễm bệnh nuôi tại các ao, đìa với nhiều liều lƣợng khác để có thể chọn đƣợc nộng độ tối ƣu; từ đó hoàn thiện quy trình chữa trị để ứng dụng vào thực tế sản xuất. Trang 32 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt. 1. Đỗ Thị Hòa, Bùi Quang Tề, Nguyễn Hữu Dũng, Nguyễn Thị Muội (2004). Giáo trình Bệnh học thủy sản. NXB nông nghiệp TP. Hồ Chí Minh. 2. Kungvankij, P., Pudadera, B. J., Tiro, L. B., Potestas, I. O., Tookwinas, S., Ruangpan, L., 1994. Sinh học và kỹ thuật nuôi cá chẽm (Lates calcarifer Bloch). Nguyễn Thanh Phƣơng dịch. Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội, 77 trang. 3. Vũ Thị Ngọc, 2008. Nghiên cứu bệnh do động vật đơn bào (Protozoa) ký sinh trên cá chẽm (Lates calcarifer (Bloch, 1790)) nuôi tại Khánh Hòa và thử nghiệm phƣơng pháp chữa trị. Báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên, trƣờng Đại học Nha Trang. 4. Viện Thủy sản Đại học Cần Thơ. Sinh học và kĩ thuật nuôi cá chẽm. Tài liệu tiếng anh. 5. Alvarez-Pellitero, P., Sitja-Bobadilla, A., 1993. Pathology of Myxosporea in marine fish culture. Disease of Aquatic Organism 17: 229-238. 6. Burger, M. A. A., Barnes, A. C., Adlard, R. D., 2008 .Wildlife as reservoirs for parasites infecting commercial species: host specificity and a redescription of Kudoa amamiensis from teleost fish in Australia. Journal of Fish Diseases 31: 835–844. 7. Freeman, M. A., Bell, A. S., Sommerville,C., 2003. A hyperparasitic microsporidian infecting the salmon louse, Lepeophtheirus salmonis: an rDNA-based molecular phylogenetic study. Journal of Fish Diseases, 26, 667– 676 8. Freeman, M. A., Yokoyama, H., Ogawa, K., 2008. Description and phylogeny of Ceratomyxa anko sp. n. and Zschokkella lophii sp. n. from the Japanese anglerfish,Lophius litulon (Jordan). Journal of Fish Diseases, 31, 921–930. Trang 33 9. Hallett, S. L., OIDonoghue, P. J., Lester, R. J. G., 1997. Infections by Kudoa ciliatae (Myxozoa: Myxosporea) in Indo-Pacific whiting Sillago spp. Diseases of Aquatic Organisms 30:11-16 10. Lom, J., Dyková, I., 1992. Protozoa parasites of fishes. Developments in Aquaculture and fisheries science 26: 159-227 11. Lom, J., Dyková, I., 2006. Myxozoa genera: definition and notes on taxonomy, life-cycle terminology and pathogenic species. Flolia Parasitologica 53: 1-36. 12. MacKenzie, K., Kalavati, C., Gaard, M., Hemmingsen, W., 2005. Myxosporean gall bladder parasites of gadid fishes in the North Atlantic: Their geographical distributions and an assessment of their economic importance in fisheries and mariculture. Fisheries Research 76, 454–465. 13. Morrison, C. M., Martell, J., Cynthia, L., O’Nell, D., 1996. Ceratomyxa drepanopsettae in the gallbladder of Atlantic haliut, Hippoglossus,from the northwest Atlantic Ocean. Folia Parasitologica 43:20-36. 14. Palenzuela, O., Trobridge, G., Jerri L.artholomew, 1999. Development of a polymerase chain reaction diagnostic assay for Ceratomyxa shasta, a Myxosporean parasite of salmonid fish. Diseases of Aquatic Organisms 36: 45-51. 15. Yokoyama, H., Fukuda, Y., 2001. Ceratomyxa seriolae n. sp. and C. buri n. sp. (Myxozoa: Myxosporea) from the gall-bladder of cultured yellowtail Seriola quinqueradiata. Systematic Parasitology 48: 125–130. 16. Schmahl, G., Mehlhom, H. 1998. Treatment of fish parasites. 4. Effects of sym. triazinone (toltrazuril) on Monogenea. Parasitol Res 75(2):132-43. 17. Schamahl, G., Mehlhom, H., Taraschewski, H. 2011. Treatment of fish parasites : 5. The effects of sym. triazinone (Toltrazuril) on fish parasitic ciliophora (Ichthyophthirius multifiliisFOUQUET, 1876, Apiosoma amoebea Grenfell, Trang 34 1884,Trichodina sp. Ehrenberg, 1831). European Journal of Protistology 24 (2): 152-161 18. Leong, T. L. và Wong, S. Y., 1986. Parasite fauna off seabass, Lates calcarifer Bloch, from Thailand and from floating cages in Penang, Malaysisa. The First Asian Fisheries Forum. Asian Fisheries Society, Manila, Philippines 19. Leong, T. L. và Wong, S. Y., 1990. Parasite of healthy and diseased juvenile Grouper Epinephelus marlabaricus (Bloch and Schneider) and seabass Lates calcarifer (Bloch) in floating cages in Penang, Malaysia. Asian Fisheries Science 3: 319-327. 20. Leong, T. L. Tan, Z., Enright, W. T., 2006. Important parasite diseases in culture marine fish in Asia – Pacific region. AQUA culture AsiaPacific Magazine 21. Work, T. M., Takata, G., Whipps, C. M., Kentb, M. L., 2008. A New Species of. Henneguya (Myxozoa) in the Big-Eyed Scad (Selar crumenophthalmus) from Hawaii. Journal of Parasitology, 94(2):524-529. 22. Zhao, Y., Song, W., 2001. Myxoproteus cheni sp. n. and Sinuolinea mai sp. n. (Myxosporea: Sinuolineidae). Parasitic in the Urinary Bladder of Marine Fish (Thamnaconus septentrionalis Gunther, 1877) from the Yellow Sea, off the Qingdao Coast of China. Acta Protozool. 40: 125 – 130. Trang 1 PHỤ LỤC PHỤ LỤC 1: Kích thƣớc, cơ quan nhiễm và mức độ nhiễm Ceratomyxa của đàn cá chẽm giống đƣợc đƣa vào chữa trị. STT SL (cm) Cơ quan nhiễm CĐN (bào tử/TTK40X) STT SL (cm) Cơ quan nhiễm CĐN (bào tử/TTK40X) 1 7,5 Mật xanh đen >100 16 7,9 Mật hơi vàng 7 2 8 Mật xanh 20 17 9,3 Mật xanh đen >100 3 7,7 Mật xanh đen >100 18 9,4 Mật xanh đen >100 4 8,4 Mật xanh đen >100 19 8,4 Mật xanh 24 5 9 Mật xanh 25 20 10 Mật xanh đen >100 6 7,7 Mật hơi vàng 22 21 9,2 Mật xanh đen >100 7 8,3 Mật xanh đen >100 22 9,4 Mật xanh 32 8 8,6 Mật hơi vàng 14 23 8,2 Mật xanh 17 9 8,5 Mật xanh đen >100 24 7,9 Mật xanh đen >100 10 8,5 Mật xanh 30 25 8,3 Mật hơi vàng 15 11 9,2 Mật xanh đen >100 26 8,3 Mật xanh đen >100 12 9,3 Mật xanh đen >100 27 7,8 Mật xanh đen >100 13 8,5 Mật xanh 27 28 7,5 Mật xanh đen >100 14 8,4 Mật xanh đen >100 29 9,2 Mật xanh 33 15 7,8 Mật xanh 34 30 9,3 Mật xanh đen >100 Trang 2 PHỤ LỤC 2: Phƣơng pháp chữa trị Ceratomyosis bằng sản phẩm Baycox (BAYER) Đối chứng 0.5ppt1 0.5ppt2 1ppt1 1ppt2 Số cá TN (con) 30 30 30 30 30 Thức ăn 10% P thân (gram) 30 30 30 30 30 Baycox (Toltrazuril 5%) (ml) 0 0.3 0.3 0,6 0,6 Dầu ăn trộn vào thức ăn có có có có có PHỤ LỤC 3: Kết quả theo dõi mức độ nhiễm sau 6 ngày chữa trị STT cá kiểm tra sau 6 ngày TN Đối chứng 5ppm1 5ppm2 10ppm1 1ppm2 1 >100 12 8 0 0 2 >100 >100 >100 >100 0 3 >100 0 0 0 0 4 >100 >100 >100 0 0 5 >100 0 7 >100 0 6 >100 >100 0 0 0 7 >100 0 15 0 >100 8 >100 5 >100 0 0 9 >100 >100 0 0 0 10 >100 8 12 0 0

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdtsv11_dungvtm_5279.pdf
Luận văn liên quan