Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày
càng mạnh mẽ như hiện nay, để thành công trong kinh doanh quốc tế đòi hỏi
các nhà quản lý phải thay đổi lối tư duy về văn hóa. Nếu như trước kia, văn
hóa có vẻ như một vật trang sức xa xỉ đối với hầu hết các giám đốc, mộ t món
ăn không cần thiết thì hiện tại họ phải có cái nhìn thật sâu sắc về văn hóa cũng
như nhận ra tầm quan trọng to lớn của chúng trong phát triển kinh doanh.
Văn hóa lan tỏa và phân tán ý nghĩa của nó tới tất cả các khía cạnh của
doanh nghiệp. Văn hóa xác lập kiểu mẫu cho toàn bộ các mối quan hệ kinh
doanh. Và trong mỗi vùng miền, mỗi khu vực hay mỗi quốc gia mà các tổ
chức kinh doanh hoạt động thì nền văn hóa lại có những nét độc đáo hay
những bản sắc riêng. Do vậy, vấn đề đặt ra cho các công ty kinh do anh trong
một môi trường đa văn hóa chính là họ phải dung hòa được những khác biệt
văn hóa ở các khu vực khác nhau nếu không xung đột văn hóa sẽ xảy ra và
cản trở bước đường tiến tới thành công của họ.
104 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3781 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng mô hình quản trị đa văn hóa tại các tập đoàn kinh tế trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho các tập đoàn kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng bố. Sự xuất hiện của họ làm chúng tôi
hoang mang. Có cảm giác tức giận rằng những người này đã gây ra những tổn
hại như vậy…nhưng sau đó chúng tôi nhận thấy rằng chúng tôi có thể ngồi lại
và nói chuyện với họ. Chỉ trong vài giây, chúng tôi nhận ra có những vấn đề
chung”
Từ khi mới bắt đầu, Kinh doanh vì sự hòa bình đã hợp nhất vào năm
2006 như một công ty không vì mục đích lợi nhuận bởi 25 phòng thương mại
73
khu vực. Những nhóm tương đồng đã được thiết lập ở các khu vực khác như
mạng lưới phát triển kinh doanh Caucasus tại phía nam Caucasus.
Cuối cùng, International Alert cũng cho biết thêm về vai trò thiết yếu
trong việc xây dựng hòa bình bằng việc tạo ra các “vùng trung lập” đòi hỏi
những cách cư xử đáng tin cậy và dễ tiên đoán từ các thành viên tham gia. Ví
dụ, trên thị trường tại Nigeria và những thương nhân Caucasus và những
thương nhân khác đã hành động như “các chuyên gia kết nối” xây dựng xã
hội và mạng lưới giữa các nhóm dân tộc, đôi khi qua các thế hệ. Trong một
vài trường hợp, các thương nhân thậm chí bảo vệ các thành viên của mình
trước những nhóm cạnh tranh trên thị trường trong suốt những đợt bùng nổ
bạo lực, sợi dây cho phép điều này có thể diễn ra trái ngược với những xung
đột bên ngoài thị trường
2.3.3 Quản trị trong cộng đồng
Ngoài những mối quan hệ kinh doanh với những nhân viên, đối tác và
khách hàng, các tập đoàn phải quản trị các mối quan hệ với những cộng đồng
và chính phủ và coi những vấn đề về môi trường, kinh tế và xã hội như một
mối quan tâm chung.
Như đã nói ở trên, khả năng tạo dựng mối quan hệ với các chính quyền
và cộng đồng địa phương cần thiết để đảm bảo rằng tập đoàn có một “giấy
phép vận hành” tại các thị trường đa dạng trên khắp thế giới.
Có một vài cách mà tập đoàn có thể phát triển sự hiểu biết xuyên văn
hóa trong cộng đồng rộng lớn hơn: thông qua những đàu tư xã hội hay ủng hộ
từ thiện cho những chương trình xã hội với mục tiêu phát triển sự hiểu biết
xuyên văn hóa, qua việc điều chỉnh những ảnh hưởng của kinh doanh thuần
túy theo cách thương thức với văn hóa địa phương và qua việc ủng hộ các
chính sách khuyến khích quan hệ xuyên văn hóa.
74
a. Tổ chức các chương trình hiểu biết xuyên văn hóa như một ưu tiên
đầu tư xã hội của các tập đoàn
Để thể hiện trách nhiệm tập đoàn đối với xã hội, các tập đoàn đã tổ
chức và ủng hộ các chương trình nhằm cải thiện đời sống con người trong xã
hội nơi họ hoạt động kinh doanh. Ngày càng có nhiều tập đoàn thực hiện
những tiếp cận “chiến lược” với cộng đồng, “đầu tư xã hội” có mục tiêu để
tìm ra những nhu cầu quan trọng trong cộng đồng liên quan đến quá trình
kinh doanh của công ty và những ưu tiên cho sự phát triển bền vững, hợp tác
với chính phủ và nhóm cộng đồng dân cư địa phương. Một vài tập đoàn đã
coi sự hiểu biết văn hóa như một chủ đề chính trong sự phát triển bền vững
hay trong những chương trình và tầm nhìn nhân văn của họ.
Phát triển quá trình học hỏi xuyên văn hóa nhằm vào đối tượng các thế
hệ thanh niên và sinh viên
Học hỏi xuyên văn hóa đã trở thành một thành phần quan trọng trong
các hoạt động xã hội của các tập đoàn trong những năm gần đây. Nhiều tập
đoàn như BMW đã tổ chức những dự án về trao đổi và học hỏi ý tưởng giữa
các sinh viên để tìm ra những vấn đề vướng mắc và tạo ra những đóng góp cải
tiến cho sự hiểu biết quốc tế. Một dự án cũng khá hữu ích đó là tạo cho sinh
viên những cơ hội thú vị và thiết thực để phát triển những quan điểm của
mình qua quá trình học ở các quốc gia khác nhau hay kết hợp những trường
song ngữ đặc biệt giúp cải thiện mối quan hệ giữa những cộng đồng hiềm
khích qua nhiều thế hệ. Học hỏi xuyên văn hóa có thể thực hiện thông qua
giao lưu văn hóa nghệ thuật bằng cách tạo lập những không gian riêng cho
các sinh viên hay người dân tìm hiểu và phát triển những văn hóa nghệ thuất
của quốc gia mình cũng như của nước bạn, tổ chức những chương trình văn
hóa nghệ thuật xuyên quốc gia để tăng thêm sự hiểu biết về văn hóa giữa các
cộng đồng cũng như tình hữu nghĩ giữa các quốc gia.
Tổ chức các chương trình nhằm thể hiện sự tôn trọng văn hóa giữa các
cộng đồng và coi đó sự đa dạng văn hóa như một di sản thế giới cần bảo tồn
75
và phát huy như chương trình “quốc kì quốc gia”, hay các chương trình khác
mà ở đó làm nổi bật được bản sắc dân tộc độc đáo cũng như những nét riêng ở
từng dân tộc.
b. Xây dựng lòng tin với chính quyền địa phương
Để có được những quyền lợi cũng như sự đồng tình của chính quyền
địa phương trong quá trình hoạt động kinh doanh của tập đoàn, ngoài việc tổ
chức các chương trình xuyên văn hóa như một ưu tiên hàng đầu của tập đoàn
thị họ con phải tạo dựng lòng tin với chính quyền địa phương thông qua việc
xây dựng những mối quan hệ dài hạn như tạo công ăn việc làm cho cư dân địa
phương, phát triển những hợp đồng và mua bán lượng hàng hóa và dịch vụ
nhất định của các doanh nghiệp địa phương, đầu tư và giáo dục và các chương
trình huấn luyện, , gia tăng những mối tương tác với các lãnh đạo và nhóm
dân cư địa phương để tăng cường sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau và mời
các doanh nghiệp cũng như những ai có nhu cầu ở cộng đồng địa phương
tham gia và chiến lược kinh doanh của tập đoàn.
Ngoài ra, các tập đoàn cũng phải kinh doanh có trách nhiệm và dựa trên
sự tôn trọng văn hóa của cộng đồng sở tại vì chỉ có như vậy thì chính họ mới
có được sự tôn trọng của cộng đồng địa phương, đóng góp cho sự phát triển
bền vững dài hạn trong quá trình hoạt động kinh doanh cũng như các mục tiêu
kinh tế đề ra.
Và hơn nữa, các tập đoàn cũng phải tham gia vào các chính sách đối
thoại cũng như ủng hộ chính quyền địa phương tìm ra những vấn đề ảnh
hưởng đến lợi ích xã hội và môi trường kinh doanh. Họ phải kí những cam kết
với chính quyền địa phương về việc tạo dựng môi trường kinh doanh lành
mạnh, phù hợp với con người và văn hóa xã hội cũng như đem lại lợi ích cả
về vật chất lẫn tinh thần cho khu vực mà họ kinh doanh.
76
CHƯƠNG III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM QUẢN TRỊ ĐA VĂN HÓA
CHO CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ VIỆT NAM
3.1 THỰC TRẠNG VĂN HÓA KINH DOANH TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM
3.1.1 Vấn đề con ngƣời.
Việt Nam là một đất nước anh hùng, trải qua bốn nghìn năm dựng và
giữ nước, con người Việt Nam cần cù chịu thương chịu khó và có đầy đủ các
tố chất của những người dám đương đầu với mọi thử thách. Bằng những kết
quả trong học tập, lao động và chiến đấu toát lên một điều quí báu rằng, người
Việt Nam chúng ta tuy nhỏ bé song rất quả cảm, thông minh và sáng tạo, điều
này giúp cho chúng ta có đủ sự tự tin để nhìn nhận và giúp cho chúng ta xây
dựng một nền kinh tế ngày một vững chắc hơn.
Trong một môi trường như vậy, văn hoá doanh nghiệp Việt Nam cũng
có mang nhiều bản sắc dân tộc phong phú . Hơn thế nữa các doanh nhân
Việt Nam đã phải đương đầu với nhiều khó khăn do chiến tranh và lạc hậu
mang lại, nhưng trong “cái khó ló cái khôn” họ bộc lộ tính sáng tạo và sự
kiên cường. Bản lĩnh lãnh đạo được rèn luyện trong thử thách “thắng không
kiêu, bại không nản”. Chúng ta có rất nhiều anh hùng lao động trong thời
chiến cũng như trong thời bình. Có nhiều tấm gương tiêu biểu cho các doanh
nhân Việt Nam như Trần Ngọc Sương – giám đốc nông trường sông Hậu,
Trương Gia Bình – tổng giám đốc Công ty tin học Việt Nam FPT, Phạm
Băng Ngạn-tổng giám đốc Công ty cổ phần Thăng Long; Hoàng Đình Phi-
giám đốc Công tyTNHH San Nam và rất nhiều tấm gương tiêu biểu khác
nữa, họ là những người đã góp phần làm thay diện mạo nền kinh tế nước
nhà.
Để có được thành công như hiện nay, những người lãnh đạo còn có một
đội ngũ nông công nhân hùng hậu. Tầng lớp người lao động Việt Nam chăm
chỉ, chân thực và giàu lòng nhân ái. Trong lao động cũng như cuộc sống,
77
chúng ta có tinh thần đoàn kết lớn, nói như cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã viết:
“Mặt đất bao la, anh em một nhà”, luôn thể hiện sự tương thân tương ái, sống
có tình có nghĩa. Những người lao động Việt Nam không chỉ chung thuỷ với
quê hương chòm xóm, họ còn rất trung thành với lý tưởng và tổ chức của
mình. Một khảo sát cho thấy số lượng công nhân Việt Nam rời bỏ nhà máy là
rất ít, hầu hết họ kiên trì bám trụ cùng đồng kham chịu khổ với những người
lãnh đạo, hầu như không có biểu tình hay đình công trong các cơ quan nhà
máy ở Việt Nam.
Không chỉ với các đức tính trên, những người lao động Việt Nam rất
thông minh sáng tạo. Chính họ là những người đưa ra nhiều đổi mới trong
sản xuất, nhiều nơi sự thông minh sáng tạo của họ đã giúp cho doanh nghiệp
thoát khỏi khó khăn và chiếm được uy tín trên thị trường trong và ngoài nước.
Nói như ông Nguyễn Công Phú – tổng giám đốc Công ty Apave Việt Nam và
Đông Nam Á thì : “con người Việt Nam, trí tuệ hơn ai thì chưa biết nhưng
chắc chắn là không thua kém ai!”.
3.1.2 Khả năng thích ứng
Chúng ta có thể tự hào mà nhìn nhận rằng, đã có rất nhiều thay đổi và chuyển
mình của các doanh nghiệp trong việc thích ứng với những thay đổi trong
kinh tế và khoa học công nghệ kể từ khi chúng ta tiến hành mở cửa đến nay.
Đã có nhiều công ty chuyển dịch từ cơ chế bao cấp sang kinh doanh tự hạch
toán hoạt động rất hiệu quả và tạo ra công ăn việc làm cho nhiều người lao
động như Công ty sữa Vinamilk, Công ty bia Halida... Nhiều siêu thị, trung
tâm vui chơi giải trí nhanh chóng nắm bắt thị hiếu khách hàng và đưa ra mô
hình hoạt động với qui mô hiện đại. Có được sự thay đổi đáng mừng trên
trước hết phải nói đến việc kịp thời thay đổi văn hoá trong các doanh
nghiệp. Kết quả do có thay đổi văn hoá được thể hiện ở nhiều nơi, cụ thể khi
đến các siêu thị, nhà máy lớn ta bắt gặp không khí làm việc với tác phong
công nghiệp hiện đại với đội ngũ nhân viên lành nghề ăn mặc đồng phục nói
78
năng lịch sự. Nhiều sản phẩm tạo ra với chất lượng cao, kiểu dáng đẹp, hình
thức và chất lượng phong phú.
Do phải trải qua khó khăn và chiến tranh lâu dài, các doanh nghiệp Việt
Nam ít có cơ hội tiếp xúc với bên ngoài, nên có thể nói khả năng thích ứng
của các doanh nghiệp tuy có nhiều thành tựu đáng kể song vẫn còn rất chậm.
Việc đầu tư vào khoa học kỹ thuật còn thấp, nhiều nơi sản xuất với dây
chuyền và máy móc lạc hậu vì thiếu vốn và kinh phí đầu tư. Sự lo lắng cho
tồn tại và thoát ra khỏi cảnh đói nghèo vẫn luôn ám ảnh nên việc định hướng
cho tương lai ít được quan tâm, cụ thể như việc bắt buộc nghiên cứu luật
pháp các nước trước khi hợp tác tại nhiều công ty còn bị coi nhẹ, việc xây
dựng thương hiệu trước khi hàng hoá ra đời là khái niệm khá mới mẻ đối với
các doanh nhân Việt Nam, đã làm cho chúng ta phí tổn nhiều tiền bạc và công
sức trong các vụ kiện cá tra, Basa, thương hiệu cà phê Trung Nguyên, nước
mắm Phú Quốc hay thuốc lá Vinataba là những ví dụ điển hình.
3.1.3 Tác phong làm việc.
Nhân viên tại các doanh nghiệp Việt Nam đang cố gắng rất nhiều để
dần thích nghi với nhịp sống mới đang rất sôi động nhưng nhìn chung vẫn còn
rất chậm so với một số nước châu Á khác như Hàn Quốc, Nhật, Trung Quốc...
Tác phong làm việc vẫn còn chậm , đặc biệt ở các cơ quan còn bao cấp.
Không khí làm việc chưa thực sự khẩn trương, nhiều nơi nhân viên làm việc
chưa tuân thủ an toàn lao động một cách tuyệt đối .
Có một số người nước ngoài khi đến Việt Nam làm việc tỏ ra hết sức
ngạc nhiên vì thời gian làm việc ở nhiều doanh nghiệp bị co kéo, ví như mở
cửa muộn, nghỉ sớm hoặc các cuộc hẹn chậm hơn dự định. Tại nhiều cơ sở
phục vụ, mặc dù ta bắt gặp những nụ cười niềm nở, thái độ lịch sự song vẫn
chưa đủ nếu thiếu đi những lời khuyên hữu ích, thái độ chân thành và khả
năng cung cấp thông tin chính xác về hàng hoá. Phản xạ “3C” – cười, chào,
cám ơn đã khắc sâu vào đầu óc nhân viên nhưng ở vài nơi vẫn bị coi là những
hành động giả tạo.
79
3.1.4 Bộ máy quản lý.
Do qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhiều Công ty với đa chức
năng, đa hình thức ra đời góp phần tạo nên sự sống động của mọi lĩnh vực
kinh tế. Ở nước ta đa số là các công ty vừa và nhỏ, đang cố gắng nỗ lực khẳng
định vị trí và hướng tới phát triển qui mô hoạt động. Tuyệt đại đa số các công
ty nhỏ và công ty tư nhân có những ưu điểm như ít thủ tục hành chính, sự ra
quyết định nhanh chóng và khả năng nắm bắt thị trường nhanh.
Nói về cái lợi thì cũng phải bàn đến cái hại. Chính sự dễ dàng của việc
ra đời các công ty nhỏ và công ty TNHH cũng là cơ hội cho những người trí
thức kém , thiếu kinh nghiệm quản lý và đạo đức kinh doanh nắm quyền điều
hành lãnh đạo. Nhiều công ty mang dáng dấp của gia đình trị, văn hoá doanh
nghiệp hết sức yếu kém, quyền lợi người lao động không được đảm bảo. Đã
có nhiều công ty hoạt động trá hình, lừa đảo người lao động, trốn lậu thuế
hoặc chỉ tính đến lợi nhuận không mảy may một chút lương tâm trách nhiệm
với cộng đồng xã hội.Những công ty kiểu trước đây như EPCO Minh
Phụng, nước hoa “Thanh Hương” đến nay không phải là hiếm.
Không chỉ bộ máy lãnh đạo ở một số công ty ma là biến chất. Tại một
số doanh nghiệp Nhà nước, sự xuống cấp đạo đức cũng đang là nỗi lo chung
của toàn xã hội. Có những vị quản lý kém năng lực nhiều tuổi tác do sự nâng
đỡ nên được xếp vào vị trí lãnh đạo. Gần đây nhất có vụ án Năm Cam làm
chấn động dư luận vì số người có chức quyền cao tham gia vào nhận hối lộ và
lũng đoạn quyền lực, rồi vụ án buôn lậu cỡ lớn của công ty “Nokia Đông
Nam Associates” kéo theo sự tham gia của các cán bộ quản lý hải quan Thành
phố Hồ Chí Minh là những ví dụ điển hình cho sự suy đồi đạo đức do buông
lỏng quản lý.
Áp đặt trong quản lý không phải là khái niệm xa lạ đối với chúng
takhông chỉ trong thời kỳ bao cấp được nói đến mà hiện nay nhiều nơi vẫn
duytrì kiểu lãnh đạo “trên bảo dưới nghe”, nhiều số phận nghiệt ngã, nhiều
tànăng bị vùi dập do kiểu quản lý này gây ra. Tại nhiều doanh nghiệp không
80
cókhái niệm “cởi mở”, mọi bê bối về tài chính, về những quan hệ cấu kết mờ
ám mãi mãi nằm trong bóng tối vĩnh cửu.
3.1.5 Quản lý nhân sự
Khái niệm vê quản lý nhân sự là một phạm trù rất rộng. Tại nhiều trường đại
học đây được coi là bộ môn quan trọng.Còn ở nhiều công ty, hoạt động của
bộ phận nhân sự là một trong những nhân tố quan trọng quyết định đến sự
thắng bại của công ty. Ở đây, chúng ta xem xét quản lý nhân sự trên phương
diện và chức năng của văn hoá đã tạo nên môi trường nuôi dưỡng con người.
Tính cho đến nay, số các chuyên viên, nghiên cứu sinh và sinh viên ở
nước ta được đào tạo bài bản trong và ngoài nước rất nhiều. Nhưng thực
tếtình trạng thiếu cán bộ tài đức, các chuyên viên giỏi tay nghề vẫn phổ biến
tạinhiều nơi. Lý do thứ nhất cho sự thiếu hụt này là nhiều cán bộ kỹ sư sau
khi được đào tạo ở nước ngoài không trở lại nơi cũ làm việc nữa, họ ở lại
nước ngoài hoặc làm việc cho các công ty khác có chính sách đãi ngộ hơn.
Thứ hailà do chủ trương tăng giảm biên chế của nhiều cơ quan Nhà nước, số
người đãcó biên chế thì ung dung ở lại ít chịu vận động học hỏi và có chí tiến
thủ, những người khác cho dù có tài năng hơn trẻ trung hơn cũng khó mà
chenchân vào được những vị trí thích hợp để phát huy khả năng của mình.
Cũng có thể nói, nhiều cơ quan thiếu tri thức thực sự là do nhiều người
trẻ tuổi không chịu phấn đấu, đôi khi họ dựa vào thế ỷ lại do có biên chế,
nhưng nhiều nơi việc sắp xếp vị trí công việc còn dựa vào sự thiên vị, nể nang
hoặc quen biết theo kiểu “ông mất chân gà bà thò chai rượu”. Trong số những
người được tuyển còn có một số tri thức giả mạo do học giả, bằng cấp giả.
Một doanh nghiệp sẽ không thể có một môi trường văn hoá bền vững nếu chỉ
được xây dựng bằng tri thức non yếu và một sức ỳ khó thay đổi . Sẽ nguy
hại biết bao nếu quản lý nhân sự chỉ có danh mà không có thực nếu chúng ta
không ý thức cải tạo ngay từ hôm nay.
Việc đánh giá năng lực nhân viên nhiều nơi làm chưa tốt hoặc có nhiều
81
lúng túng. Việc đánh giá không có tiêu chí hoặc đôi khi cảm tình thiên vị
cũng làm cho cấp dưới chán nản, quan hệ đồng nghiệp vì thế mà xấu đi,
không khí làm việc nặng nề kém, uy tín với lãnh đạo bị giảm sút.
Chính sách khen thưởng tại nhiều doanh nghiệp kinh doanh làm khá
tốt, không khí thi đua phát triển mạnh mẽ song cũng có một số nơi do việc
đánh giá không chính xác dẫn đến chính sách khen thưởng không được thoả
đáng, người có công không được hưởng, còn người chẳng có công lao gì thì
lại được đề cao.
Việc khen thưởng nếu chỉ là hình thức mà thiếu đi nội dung thì không
những có lợi mà còn có hại. Nhiều người được biết đã phàn nàn rằng, tại cơ
quan họ làm việc, việc xét khen thưởng mang bệnh hình thức và báo cáo
thành tích, còn ở một số nơi cũng đưa ra chủ trương thi đua phát động phong
trào xong rồi để đấy, có khen mà không có thưởng hoặc chỉ là bệnh “đánh
trống bỏ dùi”.
3.2 CÁC GIẢI PHÁP CHO VIỆC XÂY DỰNG VĂN HÓA DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM
3.2.1 Đƣa nhân tố kinh doanh vào hoạt động sản xuất của các doanh
nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Xu thế tiến bộ của thế giới chỉ trở thành nguồn lực nội sinh khi nhận
biết và dám hành động theo quy luật phát triển. Chỉ dừng lại ở nhận thức tư
tưởng cũng chẳng có ích gì cho nhân dân, nếu không chuyển từ nhận thức
sang hoạt động tổ chức thực tiễn.
Các giải pháp dưới đây thuộc lĩnh vực tổ chức thực tiễn.
a. Đưa nhân tố văn hoá vào quá trình khôi phục và phát triển lực lượng
sản xuất xã hội.
Muốn đưa nhân tố văn hoá vào bồi dưỡng và khai thác
các lực lượng sản xuất của đất nước cần có một số giải pháp
thiết thực như:
- Lựa chọn và đổi mới công nghệ sản xuất phù hợp với điều kiện nước
82
ta chuẩn bị tiến vào giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
- Đổi mới tổ chức phương thức và phương pháp, quản lý nhà nước và
quản lý kinh doanh theo hướng vận dụng “động lực kép” bao gồm lợi ích kinh
tế và lợi ích văn hoá đối với người lao động. Động lực đó bao gồm lợi ích
kinh tế và lợi ích văn hoá đối với người lao động. Động lực đó bao gồm lợi
ích cá nhân, lợi ích bộ phận lợi ích quốc gia.
- Tiến hành cải cách hệ thống giáo dục, đào tạo trên cơ sở mạnh dạn
làm thí điểm đổi mới đồng bộ về giáo trình, giáo viên và phương thức đào
tạo. Đồng thời sớm khắc phục tình trạng “thương mại hoá’ lan tràn trong lĩnh
vực giáo dục, đào tạo.
- Xây dựng kế hoạch hợp tác quốc tế về đào tạo, trước hết đối với đội
ngũ giáo viên, đội ngũ quản lý, dần dần hình thành đội ngũ có trình độ cao với
tấm lòng vì dân, vì nước.
b. Đề cao thang giá trị trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và
biến đổi cơ cấu xã hội – dân cư.
Hiện nay nước ta đang ở thời kỳ hình thành các quan hệ kinh tế mới và
quan hệ xã hội mới trong quá trình chuyển từ sản xuất nhỏ sang kinh tế thị
trường. Các quan hệ mới đang hình thành phải được đặt trong xu thế kết hợp
tăng trưởng kinh tế với văn hoá thì nước ta mới có thể đi đến mục tiêu “dân
giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh”.
Muốn vậy, trong các chiến lược và chính sách cũng như tổ chức thực
hiện phải phản ánh được yêu cầu của thang giá trị mới.
Từ yêu cầu này, cần đổi mới quan điểm và phương pháp đánh giá, các
tiêu chuẩn đánh giá về hiệu quả của hoạt động kinh tế, về con người lao động,
người lãnh đạo, quản lý kinh tế – xã hội. Muốn xây dựng quan điểm, phương
pháp và tiêu chuẩn đánh giá theo thang giá trị mới, cần phải xuất phát từ việc
phân tích thực tiễn nước ta và thế giới. Sự áp dụng các tiêu chuẩn đánh giá
này trước hết phải bắt đầu từ trên xuống bắt đầu từ cấp trưởng trong các đơn
vị, có như vậy mới tránh khỏi được tình trạng biến các tư tưởng tốt đẹp thành
khẩu hiệu hô hào suông.
83
c. Từng bước đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị,
nâng cao tầm vóc và hiệu quả của nó.
Đối với mỗi nước, hệ thống chính trị là nhân tố có ý nghĩa quyết định
trực tiếp sự phát triển của đất nước. Ngày nay vấn đề “văn hoá với chính trị”
trở thành vấn đề cốt lõi trong xu thế vận động kết hợp tăng trưởng kinh tế với
văn hoá.
d. Áp dụng hệ thống ISO trong sản xuất kinh doanh ở tất cả các
doanh nghiệp.
Việc áp dụng này, tạo ra sự kiểm tra các giai đoạn sản xuất, từ đó tạo ra
sản phẩm đầu ra chất lượng tốt, tạo ra sự quan tâm tới người lao động trong
chính các giai đoạn sản xuất đó. Sản phẩm sản xuất ra có chất lượng cao, giá
thành hạ rễ được khách hàng chấp nhận hơn. Giúp cho sản phẩm có thể cạnh
tranh được với các sản phẩm khác trên thị trường, tạo ra sự thuận lợi kinh
doanh cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp không phải chộp giật, tìm cách tồn tại
mà dành nhiều thời gian, chi phí đầu tư cho công nghệ, cho phát triển. Tạo ra
các sản phẩm có chất lượng đảm bảo ở các giai đoạn sản xuất trong tương lai.
3.2.2 Một số định hƣớng trong xây dựng văn hóa kinh doanh ở các doanh
nghiệp Việt Nam
a. Xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi.
Thực tế môi trường kinh doanh của Việt Nam chưa thuận lợi cho việc
xâydựng văn hoá kinh doanh. Bộ máy nhà nước còn nhiều biểu hiện quan
liêu, giấy tờ, nhiều loại thuế cao và pháp luật không rõ ràng, chưa có một sân
chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp. Trên thực tế, các doanh nghiệp nhà
nước thường được ưu đãi hơn về vốn, tín dụng, đất đai...Hay như Luật thuế
giá trị gia tăng sau khi được ban hành, có thêm 200 văn hoá dưới luật để
hướng dẫn, điều chỉnh. Trong hệ thống luật và văn bản dưới luật không ít các
trường hợp mâu thuẫn nhau, gây khó khăn cho người thực hiện chức trách của
mình và nhiều khi gây thiệt hại cho người kinh doanh.
84
b. Xây dựng văn hoá doanh nghiệp.
Xây dựng mối quan hệ ứng xử tốt đẹp giữa các thành viên trong cộng
đồng là yếu tố nền tảng để đạt tới sự thống nhất sức mạnh trong công việc
kinh doanh. Chẳng hạn như tổ chức hiếu, hỉ, thăm hỏi và giúp đỡ nhau trong
lúc khó khăn, cùng nhau quan tâm tới lợi ích chung của toàn doanh nghiệp.
Đồng thời phải xây dựng mối giao lưu cởi mở, rộng rãi và tin cậy với các đối
tác bên ngoài doanh nghiệp. Ví dụ quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà nước, ý
thức tuân thủ pháp luật, bảo tồn vốn của nhà nước và làm nghĩa vụ nộp ngân
sách, giữa doanh nghiệp với các nhà cung cấp ( cung cấp thiết bị điện, nước,
tài chính, nguyên liệu, vật liệu...) giữa doanh nghiệp với khách hàng, giữa
doanh nghiệp với các đối tác cạnh tranh hay bạn hàng...Ngay từ khâu tuyển
dụng, cần đặt ra yêu cầu cao đối với nhân sự, buộc các thành viên mới tham
gia doanh nghiệp phải phát huy trí lực, tính năng động, sáng tạo trong việc tạo
ra hiệu quả của công việc. Tạo dựng không khí thi đua, phấn đấu của toàn đơn
vị. Trong kinh doanh hiện đại, xây dựng nền văn hoá doanh nghiệp còn tổ
chức ký đi tham quan, nghỉ mát, tổ chức các hoạt động vui chơi, giải trí, văn
hoá thể thao...để tạo ra bầu không khí lành mạnh thoả mái sau những ngày
làm việc căng thẳng. Tất cả những yếu tố đó góp phần tạo một “bầu không
khí” riêng, một bản sắc tinh thần đặc trưng riêng của từng doanh nghiệp so
với các doanh nghiệp khác.
c. Xây dựng một đội ngũ doanh nhân văn hoá.
Văn hoà là một thước đo, bên cạnh thước đo về kỹ năng chuyên môn để
đánh giá cán bộ xí nghiệp, nhất là cán bộ chỉ huy, quản lý. Nếu các nhà kinh
doanh có trình độ văn hoá (không phải chỉ là bằng cấp chuyên môn), họ sẽ có
nhiều cơ hội đóng góp vào sự nghiệp phát triển có văn hoá, hạn chế rất nhiều
sự phát triển kinh tế không văn hoá, tức là hạn chế những kiểu kinh doanh bất
chính, phi nhân bản. Phải bằng các biện pháp giáo dục, giáo dục kiến thức văn
hoá cho các nhà doanh nghiệp để giúp họ nâng cao nhận thức và hành động.
Phải thông qua các chương trình văn học nghệ thuật, thông tin nghe nhìn, giải
85
trí, du lịch, câu lạc bộ...để giáo dục những người làm kinh tế, kinh doanh nhất
là những người chủ chốt, cũng như những người tiêu dùng.
Doanh nhân văn hoá đòi hỏi phải có những phẩm chất như chủ nghĩa
yêu nước và ý thức công dân, cạnh tranh lành mạnh, tôn trọng khách hàng và
thực hiện tốt trách nhiệm xã hội, tham mưu cho nhà nước về đường lối, chiến
lược và chính sách kinh tế, đề xuất các giải pháp và là cầu nối cho nhà nước
trong các quan hệ đối ngoại, có các kiến thức, kỹ năng kinh doanh và tinh
thần sáng tạo, có khả năng hợp tác và có tính năng động.
d. Nâng cao nhận thức cộng đồng về văn hoá kinh doanh.
Nhận thức bao giờ cũng là khởi điểm cho mọi hành động. Cầu phải bắt
đầu từ nâng cao nhận thức cộng đồng về văn hoá kinh doanh. Điều này dựa
trên những cơ sở sau:
Một là, hiện tại các doanh nghiệp ở Việt Nam vẫn chưa chú ý tới sự cần
thiết tất yếu của văn hoá kinh doanh trong hoạt động của mình. Những áp lực
kinh tế, nhất là áp lực chạy theo lợi nhuận làm cho các doanh nghiệp không
chú ý tới vấn đề văn hoá kinh doanh hoặc coi đó là yếu tố phụ trợ.
Hai là, các chính sách và cơ chế quản lý kinh doanh hiện hành cũng
mới chỉ chú ý tới các khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường của kinh doanh.
Sự thiếu vắng hoặc mờ nhạt khía cạnh văn hoá trong các chính sách và cơ chế
quản lý kinh doanh hiện hành có nguyên nhân cơ bản bắt nguồn từ sự thiếu
hụt rõ ràng trong nhận thức của các nhà hoạch định chính sách.
Ba là, định hướng xã hội nhằm vào tạo dựng văn hoá kinh doanh còn
thiếu, văn hoá tiêu dùng tạo nên bầu không khí và áp lực dư luận xã hội, việc
nâng cao nhận thức cộng đồng về văn hóa kinh doanh cần phải được bắt đầu
ngay. Sự phối hợp giữa Chính phủ – doanh nghiệp – tổ chức xã hội phi chính
phủ là yếu tố rất quan trọng trong công việc này. Phải làm cho toàn bộ xã hội
nhận thức và nhận dạng đúng vai trò, vị trí của doanh nghiệp, doanh nhânViệt
Nam trong đổi mới.
86
3.2.3 Tiến tới sự hòa hợp về văn hóa cho các doanh nghiệp Việt Nam khi
kinh doanh trong môi trƣờng quốc tế
a. Ý thức được sự khác biệt văn hóa
Một giám đốc điều hành người Mỹ đã tiến hành nghi thức chào
hỏi truyền thống và rất lịch sử mà người Mỹ bỏ từ rất lâu khi giao tiếp đón đối
tác Nhật Bản. Một phần vủa nghi lễ chào hỏi là mọi người trao cho nhau
meishi (danh thiếp). Vị giám đốc điều hành người Mỹ biết được điều này và
đặt các tấm danh thiếp lên trên bàn phía trước mặt ông theo đúng thứ tự sắp
xếp chỗ ngồi cho các đại biểu Nhật Bản. Bằng cách này, ông có thể gọi tên
từng người một vì đã có sẵn ngay trước mặt mình.
Khi cuộc họp trở nên căng thẳng hơn, những câu trả lời thoái thác và
thiếu kiên nhẫn của ông ngày càng tăng lên, ông nhặt một tấm danh thiếp, lơ
đễnh cuộn tròn nó lại sau đó mở ra và dùng để lau chùi ngón tay. Đột nhiên
ông cảm thấy ánh mắt giận dữ của các đại biểu Nhật Bản nhìn ông. Sau cuộc
tạm nghỉ khá lâu, vị giám đốc người Nhật Bản đứng dậy và rời bỏ ra khỏi
phòng. Người biên dịch bên phía Nhật Bản nói “chúng tôi muốn tạm dưng”.
Vị giám đốc khi đó mới nhìn xuống tấm danh thiếp đã bị mờ hết cả chữ trên
tay mình. Đó chính là một trong số những danh thiếp mà giám đốc người
Nhật đã đưa cho ông.
Ví dụ trên cho thấy những ảnh hưởng không nhỏ của việc thiếu hiểu
biết về sự khác biệt văn hóa gây ra. Nếu vị giám đốc điều hành đó tuân thủ
theo một danh mục những lời khuyên, những việc nên và không nên làm thì
chắc cũng “không nên nghịch với các meishi” đã có trong danh mục đó. Tóm
lại, có hàng trăm nghìn những sai lầm có thể mắc phải.
Tuy nhiên những hiểu biết có tính hệ thống về sự khác biệt văn hóa có
thể giúp vị giám đốc điều hành này lường trước những điều không ngờ tới và
nhiều điều khác nữa. Nếu như ông biết rằng người Nhật rất hiếm khi trả lời
một cách trực tiếp, muốn xây dựng quan hệ trước khi đi đến đích, đưa ra
những chức vụ rất chung chung cho các giám đốc, một trong những nghi thức
87
của họ, để họ không biết cụ thể và coi những tấm danh thiếp là tượng trưng
cho người đó cũng như tích chất của mối quan hệ đang được tạo ra cũng vậy,
ông sẽ không bào giờ làm hỏng tấm danh thiếp của một ai đó khi họ đang
nhìn mình.
Hiểu biết về văn hóa là hiểu biết về “trạng thái tinh thần” của đối tác
và của những người bạn gặp gỡ. Bạn không thể có được thông tin đầy đủ vì
luôn có những sai sót tiềm ẩn. Tuy nhiên, những tiêu chí đề cập trong chương
một phần nào giúp chúng ta phân tích được cách thức mà mọi người suy nghĩ
về thế giới xung quanh họ.
Do đó, một trong những mục đích khi đào tạo về nhận thức văn hóa là
cảnh báo cho mọi người về một thực tế rằng họ đang tham gia vào một quá
trình nhận định đối với những hành động và vật thể họ đã quan sát. Với một
khóa đào tạo thành công, sẽ không có hạn chế nào trong việc cũng cấp ít hay
nhiều những thông tin chi tiết về các quốc gia và các nên văn hóa khác. Nếu
bị hạn chế, thậm chí những khác biệt về văn hóa phức tạp nhất sẽ chỉ làm
củng cố thêm những khuôn mẫu riêng và người đọc đã nhận thức về một nền
văn hóa khác.
Hơn thế nữa, những chuyên gia trong lĩnh vực quản lý so sánh về
văn hóa mong muốn phát triển khả năng giao lưu văn hóa đã cảm nhận được
nhu cầu đã vượt cả ra khỏi ngoài cả những khuôn mẫu của chính họ. Khuôn
mẫu là chính đáng. Tất cả chúng ta đều là sàn phẩm trong nền văn hóa của
chính chúng ta. Vấn đề ở chỗ chúng ta phải học cách vượt qua khỏi khuôn
mẫu đó và không phải lo lắng những khuôn mẫu truyền thống đó sẽ sụp đổ.
Nhu cầu này có thể lôi kéo được những người khác theo quan điểm chúng ta,
chứng tỏ sự hạn chế hơn trong cách suy nghĩ của họ, bọc lộ sự thiếu tự tin và
nghi ngờ vào sức mạnh đồng nhất của chúng ta.
b. Tôn trọng sự khác biệt văn hóa
Điều đầu tiên để có thể hình thành sự tôn trọng đối với người khác biệt
về văn hóa là tìm được những tình huống trong chính cuộc sống của chúng ta
88
mà chúng ta đã cư sử như người đến từ một nền văn hóa khác. Điều này đã
giúp một nhân viên của phòng kinh doanh thuộc một công ty dầu khí lớn của
Châu Âu đàm phán một đơn đặt hàng với nhà cung cấp Hàn Quốc. Tại cuộc
họp đầu tiên, đối tác Hàn Quốc tặng một cây bút bằng bạc cho giám đốc của
công ty Châu Âu. Tuy nhiên, phía Châu Âu lại lịch sự từ chối món quà này, vì
lo sợ bị cho là nhận hối lộ (mặc dù ông có biết về nghi thức tặng quà của
người Hàn Quốc). Mặc cho sự ngạc nhiên của đối tác, cuộc họp thứ hai họ lại
bắt đầu bằng việc tặng một hệ thống âm thanh nổi. Lại một lần nữa vị giám
đốc từ chối, lo lắng bị cho là nhận hối lộ càng tăng lên.
Vào cuộc họp thứ ba, ông nhìn không chớp mắt vào món đồ sứ Hàn
Quốc, ông chợt nhận thấy điều gì đang xảy ra ở đây. Sự từ chối của ông
không được hiểu là “chúng ta hãy bàn công việc theo đúng cách” mà lại được
hiểu: “nếu bạn muốn làm ăn với chúng tôi thì hãy mang đến cái đó lớn hơn
thế”. Sự bối rối của đối tác Hàn Quốc khi ông từ chối nhận quà hiện rõ trong
tâm trí ông khi ông nhớ lại một tình huống tương tự đã xảy ra với mình. Đó là
một cuộc hẹn đầu tiên với vợ, ông đã mua cho bà một món quà nhỏ. Nhưng
nhìn nét mặt của bà, ông có thể dễ dàng nhận thấy món quà của ông không
như bà mong đợi. Nhờ nhớ lại điều này mà ông đã nhận ra đối tác Hàn Quốc
chỉ đơn thuần muốn tạo ra mối quan hệ làm ăn tốt chứ không có ý định hối lộ.
Để tránh những hiểu lầm tương tự trong những buổi gặp gỡ tiếp theo, vị giám
đốc đã quyết định bày tỏ sự quan tâm của mình đến một mối quan hệ tốt đẹp
nhưng ông cho rằng không phải tặng nhau những món quà đắt tiền (ông đưa
ra một cách khác đó là có thể tặng những món quà bình thường song lại thể
hiện được sự quan tâm và đánh giá cao.
Câu chuyện trên đây đã chứng minh chúng ta có thể học cách đánh giá,
cách tôn trọng những hành vi và những giá trị khác với chúng ta. Khi suy nghĩ
về những tình huống trong cuộc sống đã giúp bạn hiều được những cách cư sử
có vẻ khác nhau khi khác biệt tùy vào tình huống mà bạn gặp phải chứ không
phải vì bản chất của chúng. Điều này sẽ giúp bạn tránh được sự đánh giá thái
89
độ của người khác một cách nóng vội theo chiều hướng xấu, quan trọng hơn
là giúp bạn hiểu thực sự người khác đang cố gắng làm gì. Khi hiểu được ý
định của người khác, tỏ thái độ bạn hiểu những ý định đó, bạn đã thực hiện
bước đầu tiên để hình thành sự chia sẻ với đối tác.
Nói chung, những điểm nội trội trong văn hóa khác cũng tồn tại dưới
một hình thức nào đó trong văn hóa chúng ta. Chúng ta nói đến “văn hóa tội
lỗi”, “văn hóa xấu hổ”: những điều làm cho chúng ta cảm giác tội lỗi khi phá
luật, những nguyên tắc yêu cầu sự xin lỗi của công chúng và ném những cái
nhìn hằn học vào kẻ vô lại ví dụ “mất mặt”. Liệu đây có phải là sự khác biệt
lớn giữa những người phương Tây và phương Đông mặc dù họ đều là những
người không bao giờ biết xấu hổ vì một sai lầm nghiêm trọng nào đó?
Tôn trọng là cách thể hiện hiệu quả nhất, một khi chúng ta nhận ra phần
lớn sự khác biệt đó là trong chính chúng ta, thậm chí cả khi chúng ta không
công nhận chúng. Ví dụ, chúng ta vẫn thường nghĩ những người Nhật là
những người bí ẩn và không đáng tin cậy. Bạn không bao giờ biết được họ
đang nghĩ gì, họ muốn nói vâng ngay cả khi họ phủ nhận điều đó. Tuy nhiên,
liệu chúng ta sẽ không gặp phải những tình huống tương tự xảy ra với bản
thân hay không? Nếu như con bạn quá lo lắng và phải tạm dừng phần biểu
diễn lần đầu tiên trong một buổi hòa nhạc của trường, sau khi tạm dừng tâm
trạng cô bé vẫn không khá hơn, bạn chắc chắn sẽ nói với cô bé “con thật tuyệt
vời con yêu ạ” để tạo cho con lòng tự tin mặc dù bản than bạn thực sự không
tin con bạn sẽ trình diễn tốt.
Giả sử một nhân viên người thiểu số bị phân biệt đối xử trong công ty
đến gặp bạn trong sự thất vọng. Bạn lo lắng anh ta sẽ làm tổn thương chính
mình hoặc kiện công ty, hoặc làm phiền người tư vấn của mình. Chắc chắn
bạn phải tìm cách tái thiết lập mối quan hệ với người nhân viên này, gây niềm
tin đối với anh ta trước khi gợi ý anh ta nên có cách cư xử khác đi. Hiển nhiên
là bạn cũng phải tế nhị và khéo léo để đưa ra lời gợi ý đó. Bạn phải xử sự theo
cách của người Nhật trong tình huống này. Nhưng với những hoàn cảnh
90
tương tự ở Nhật, cái tôi cá nhân rất dễ bị tổn thương khiến người ta phải rất
thận trọng với những cảm nhận của người khác. Giả sử phần đông người Nhật
không quá tôn trọng cái tôi cá nhân, cách cư xử của họ thường tạo cảm giác
rất tốt. Chúng ta cũng cần phải khôn khéo đè xử sự như thế khi ở Nhật.
Để tổng kết, cả sự học hỏi lẫn tôn trọng đều là những bước rất cần thiết
cho sự phát triển khả năng trau dồi văn hóa. Song, việc kết hợp cả hai yếu tố
này vẫn chưa đủ. Trong các cuộc hội thảo, mọi người thường hỏi những câu
như: “tại sao họ lại không tôn trọng và thích ứng với nền văn hóa của chúng
ta?” Chúng ta sẽ quay trở lại câu hỏi này khi thảo luận về vấn đề hòa hợp.
Mặt khác, một vấn đề thú vị hơn là sự đồng cảm- một thuật ngữ của
Milton Bennett. Điều gì sẽ xảy ra khi một người cố gắng thay đổi viễn cảnh của
một nền văn hóa khác trong khi người khi đang cố gắng làm điều tương tự?
Đó cũng là lý do tại sao chúng ta cần phải hòa hợp với những sự khác
biệt đó, chúng ta phải luôn là chính mình đồng thời tìm hiểu xem quan điểm
của người khác có thể giúp chúng ta như thế nào.
Hòa hợp sự khác biệt văn hóa.
Một khi chúng ta hiểu biết những khuôn mẫu tinh thần và khuynh
hướng văn hóa của bản thân, có thể tôn trọng và hiểu rằng trong những nên
văn hóa khác nhau thì những điều này cũng khác nhau thì chúng ta mới có thể
hòa hợp được. Tại sao lại như vậy? Bởi vì chúng ta kinh doanh là để tạo ra
của cải và giá trị chứ không phải kinh doanh cho bản thân, mà còn cho cả
những người thuộc thế giới văn hóa khác. Chúng ta cần chia sẻ những giá trị
mua bán, cổ phần và công việc với đối tác.
Lấy ví dụ là hai công ty ở Hà Lan và Bỉ. Công ty thứ nhất theo xu
hướng đổi mới. Công ty thứ hai dựa vào danh tiếng lâu năm và uy tín của nó
gắn liền với nền văn hóa Bỉ. Sự thành công của hai công ty này lần lượt xuất
phát từ thành tựu và uy tín của nó. Hai công ty này đã có thể cạnh tranh cãi
hàng giờ về “giá trị” của mình nhưng họ đã không làm điều đó. Mặt khác, họ
tạo dựng danh tiếng nhờ sự đổi mới và chất lượng mà họ đã đạt được sau đó.
91
Sau đây là những lời khuyên thực tiến để hòa hợp các khác biệt văn
hóa và xây dựng phong cách quản lý trong kinh doanh theo mô hình của Fons
Trompenaars:
o Hòa hợp chủ nghĩa cá nhân- chủ nghĩa cộng đồng:
Nhận ra những khác biệt:
Chủ nghĩa cá nhân Chủ nghĩa cộng đồng
1. Sử dụng thường xuyên hơn từ “tôi”
2. Những người đại diện ra quyết định
ngay lập tức
3. Một cách lý tưởng mọi người đạt được
thành tích và chịu trách nhiệm một mình
4. Đi nghỉ theo cặp , thậm chí là một mình
Sử dụng thường xuyên hơn từ
“chúng ta”
Đoàn đại biểu hỏi ý kiến tổ
chức về quyết định
Một cách lý tưởng mọi người
đạt được thành tích và chịu
trách nhiệm theo nhóm
Đi nghỉ theo nhóm hay đi
cùng gia đình
Lời khuyên khi làm việc kinh doanh với:
Những người theo chủ nghĩa cá nhân(
cho những người theo chủ nghĩa cộng
đồng)
Những người theo chủ nghĩa cộng
đồng (cho những người theo chủ
nghĩa cá nhân)
1. Chuẩn bị ra quyết định nhanh
chóng và những đề nghị bất ngờ
không phải từ tổng hành dinh
Tỏ ra kiên nhẫn cho thời gian hỏi ý
kiến và được chấp thuận
2. Người đàm phán có thể cam kết
với những người đã gửi anh ta đi và
rất miễn cưỡng và không giữ lời với
công việc
Người đàm phán chỉ có thể đồng ý
một cách không dứt khoát và có thể
rút lui khỏi công việc sau khi đã hỏi ý
kiến cấp cao hơn
3. Các cuộc đàm phán khó khăn
nhất có thể đã được giải quyết giải
Các cuộc đàm phán khó khăn nhất là
với những người thoe chủ nghĩa cộng
92
quyết ngay trong tổ chức khi chuẩn bị
cho cuộc họp. Nhiệm vụ khó khăn
nhất là phải thuyết phục được họ về
giải pháp trong cuộc họp đó
đồng gặp phải. Phải thuyết phục họ
bằng một cách nào đó nhượng bộ tới
mức các lợi ích của công ty đạt được
4. Xử lý công việc một mình có
nghĩa là người đó được công ty tôn
trọng và có uy tín
Xử lý công việc với sự góp sức của
nhiều người có ý nghĩa là người đó
có địa vị cao trong công ty
5. Mục tiêu là phải hòa thuận thật
nhanh
Mục tiêu là xây dựng những mối
quan hệ lâu dài
Khi quản lý và khi bị quản lý
Những người theo Chủ nghĩa cá nhân Những người theo chủ nghĩa cộng
đồng
1. Cố gắng điều chỉnh các nhu cầu
của cá nhân theo nhu cầu của tổ chức
Tìm kiếm việc hội nhập cá nhân vào
quyền uy trong tổ chức
2. Đưa ra các sáng kiến cá nhân
như trả lương theo thành tích, đánh
giá hiệu quả công việc cá nhân
Chú ý đến tinh thần khỏi nghiệp, đạo
đức và sự đoàn kết.
3. Trông đợi cao về thu nhập và
luân chuyển công việc.
Có thu nhập và tỷ lệ việc thấp
4. Tìm kiếm những nhân viên
xuất sắc, những ngôi sao để tuyên
dương đặc biệt
Ca ngợi cả nhóm và tránh thể hiện
5. Cho mọi người tự do để thể
hiện sáng kiến cá nhân
Giữ lại các mục tiêu đặc biệt đẻ cả
nhóm cùng thực hiện
93
o Hòa hợp Trường phái trung lập và cảm xúc
Nhận ra những khác biệt:
Trường phái Trung lập Trường phái cảm xúc
1. Không để lộ ra họ đang nghĩ
hay cảm thấy gì
Để lộ suy nghĩ và cảm giác bằng lời
nói và cử chỉ
2. Có thể (do sơ sót) lộ ra sự căng
thẳng trên khuôn mặt và trong điệu bộ
Thể hiện rõ rang, giải phóng sự căng
thẳng
3. Cảm xúc thường bị kìm nén, sẽ
bùng phát khi có dịp
Dễ xúc động, không kiềm chế sự biểu
lộ cảm xúc
4. Hành xử điềm tĩnh và kiềm chế
được sự ngưỡng mộ
Ưa thích sự thể hiện sống động, sôi
nổi và đầy sức truyền cảm
5. Giao tiếp bẵng ngôn ngữ cơ
thể, thể hiện cảm xúc qua nét mặt là
điều hiếm thấy
Giao tiếp bằng ngôn ngữ cơ thể, thể
hiện cảm xúc qua nét mặt là điều dễ
thấy
6. Thường nói chuyện bằng giọng
đều đều
Kể chuyện trôi chảy , thường xuyên
thay đổi giọng điệu khi nói chuyện
Lời khuyên khi làm việc, kinh doanh với:
Những người theo trường phái trung
lập ( cho những người theo trường
phái cảm xúc)
Những người theo trường phái Cảm
xúc (cho những người theo trường
phái trung lập)
1. Yêu cầu có thời gian nghỉ trong
các cuộc đàm phán để có thể tập hợp
mọi người lại và nghỉ ngơi
Không để lộ quá nhiều khi đang đóng
kịch, dung thời gian nghỉ ngơi để tỉnh
táo lại và đánh giá đúng mức
2. Chuẩn bị trước tài liệu càng
nhiều càng tốt
Khi họ thể hiện thiện chí, phản ứng
lại một cách nồng nhiệt
3. Giọng nói đơn điệu của họ
không có nghĩa là họ không thích hay
Nhiệt tình và sự sẵn long của họ để
đồng tình hay không có nghĩa là họ
94
chán chường, chỉ là họ không thích để
lộ bản thân
đã quyết định
4. Toàn bộ cuộc đàm phán tập
trung chủ yếu vào mục tiêu hay đề
nghị được thảo luận, chứ không phải
vào cá nhân
Toàn bộ cuộc đàm phán được tập
trung chủ yếu vào cá nhân, chứ
không phải vào mục tiêu hay đề xuất
được thảo luận
Khi quản lý và khi bị quản lý
Những người theo trường phái trung
lập
Những người theo trường phái cảm
xúc
1. Tránh những hành vi nồng
nhiệt, thể hiện quá nhiệt tình, vì điều
đó sẽ được suy diễn thành sự thiếu
kiểm soát cảm xúc và không xứng với
địa vị cao
Tránh thái độ quá khách quan, mơ hồ
và điềm tĩnh. Nó có thể được hiểu
thành sự đánh giá tiêu cực, khinh suất
kém hứng thú và tạo khoảng cách xã
giao, có thể làm người khác cảm thấy
bị tách ra khỏi “gia đình”
2. Nếu đã chuẩn bị kỹ càng trước
đó, sẽ cảm thấy dễ dàng bám chặt vào
những luận điểm cần thảo luận
Nếu phát hiện ra công việc, năng
lượng và sự nhiệt tình của ai đó đem
vào công việc, hãy đánh giá cao sự
kiên trì của họ
3. Tìm những điểm lộ ra họ đang
hài lòng hay giận dữ để tán dương về
tầm quan trọng của họ
Khoan dung cho “sự thừa thãi” về
cảm xúc, không nên hăm dọa, làm
giảm bớt tầm quan trọng của họ
o
95
o Hòa hợp trường phái Đặc thù và Phổ biến
Nhận ra những khác biệt:
Trường phái Đặc thù Trường phái Phổ biến
1. Trực tiếp, có động cơ trong
quan hệ
Gián tiếp, loanh quanh, có vẻ “không
mục đích” trong quan hệ
2. Chính xác, thẳng thắn, dứt
khoát và minh bạch
Hay lẩn tránh, lịch thiệp, mơ hồ,
thậm chí là không rõ rang
3. Các nguyên tắc đạo đức nhất
quán, đứng độc lập với người được
nói đến
Nguyên tắc đạo đức phục thuộc vào
hoàn cảnh và đối tượng tiếp xúc
Lời khuyên khi làm việc, kinh doanh với:
Những người theo trường phái dặc thù
( cho những người theo Trường phái
Phổ biến)
Những người theo trường phái Phổ
biến ( cho những người theo trường
phái đặc thù)
1. Nghiên cứu các mục tiêu,
nguyên tắc và mục đích của đối tượng
mang tính đặc thù cần đàm phán
Nghiên cứu lịch sử, hoàn cảnh và
triển vọng tương lai của đối tượng
mang tính phổ biến cần đàm phán
2. Nhanh chóng, có mục tiêu rõ
rang và hiệu quả cao
Kiên nhẫn và cần nhớ rằng có nhiều
con đường để dẫn tới thành Rome
3. Sắp xếp cuộc họp theo lịch
trình, có giờ nghỉ và giờ làm việc
riêng
Để cho buổi họp tự trôi đi, thỉnh
thoảng mới can thiệp vào
4. Không sử dụng các kỹ năng
nhắc đến tuổi hay chức danh không
liên quan đến vấn đề đang thảo luận
Tôn trọng danh vị, tuổi tác, các mối
liên kết, cho dù vấn đề đang thảo luận
là gì
96
Khi quản lý và khi bị quản lý
Những người theo Trường phái Đặc
thù
Những người theo Trường phái Phổ
biến
1. Quản lý và sự hiện thực hóa
các mục tiêu và tiểu chuẩn với những
tưởng thưởng kèm theo
Quản lý là quá trình cải tiến không
ngừng nghi, trong đó ưu tiên nâng
cao chất lượng
2. Công việc cá nhân và doanh
nghiệp đươc tách biệt với nhau
Các vấn đề cá nhân và của doanh
nghiệp có liên qua có liên hệ với
nhau
3. Xung đột lợi ích không được
tán thành
Xem xét toàn bộ hoàn cảnh của nhân
viên trước khi đưa ra phán xét
4. Các chỉ dẫn rõ rang, chính xác
và chi tiết được xem là bảo đảo cho
sự phục tùng tốt hơn, hay cho phép
nhân viên bất đồng quan điểm trong
những giới hạn nhất định
Các chỉ dẫn mơ hồ và không rõ ràng
được hiểu là phản ứng tinh tế qua đó
nhân viên có thể phán xét cá nhân
5. Bắt đầu bản báo cáo với tổng
kết của lãnh đạo
Kết thúc bản báo cáo với một cái
nhìn tổng quan mang tính kết luận
97
o Hòa hợp Trường phái Quy gán và Thành tích
Nhận ra những khác biệt:
Trường phái thành tích Trường phái Quy gán
1. Sử dụng chức danh chỉ trong
những hoàn cảnh giúp giải quyết
được vấn đề
Sử dụng rộng rãi các chức danh, đặc
biệt khi những chức danh này xác
định được địa vị trong tổ chức
2. Tôn trọng cấp trên dựa trên
hiệu quả công việc và kiến thức của
anh ta
Tôn trọng cấp trên được coi là cách
đo lường sự tận tâm với nhiệm vụ tổ
chức. Hầu hết các giám đốc cấp cao
là nam giới, trung niên trở lên và
được chọn lựa dựa trên lại lịch xuất
thân
3. Hầu hết các giám đốc cấp cao
có sự khác biệt trong độ tuổi, giới tính
và thể hiện tài năng trong các công
việc cụ thể
Hầu hết giám đốc cấp cao là nam
giới, trung niên trở lên và được chọn
lựa dựa trên lai lịch xuất thân
Lời khuyên khi làm việc kinh doanh với:
Những người theo trường phái Thành
tích ( cho những người theo trường
phái Quy gán)
Những người theo trường phái Quy
gán ( cho những người theo trường
phái Thành tích)
1. Đảm bảo nhóm đàm phán có đủ
số liệu, cố vấn chuyên môn và những
người có kiến thức để thuyết phục
công ty đối tác rằng dự án mà hai bên
theo đuổi sẽ thành công
Đảm bảo nhóm đàm phán có đủ
những người có thâm niên, nắm giữ
những vị trí cao để gây ấn tượng với
công ty đối tác về sự coi trọng cuộc
đàm phán
2. Tôn trọng trí thức và thông tin
của các đồng nghiệp, ngay cả khi cho
rằng họ có ít ảnh hưởng
Tôn trọng địa vị và ảnh hưởng của
các đồng nghiệp, ngay cả khi cho
rằng họ thiếu năng lực, không làm họ
98
cảm thấy xấu hổ
3. Sử dụng chức năng danh phản
ánh đúng năng lực
Sử dụng chức danh phản ánh mức độ
ảnh hưởng trong tổ chức
4. Đừng đánh giá thấp kỳ vọng
của các đồng nghiệp làm việc tốt hơn
sự trông đợi
Không đánh giá thấp kỳ vọng của
đồng nghiệp khiến những quy gán trở
thành sự thật
Khi quản lý và khi bị quản lý
Những người theo trường phái Thành
tích
Những người theo trường phái Quy
gán
1. Tôn trọng giám đốc trên cơ sở
trí thức và làm việc
Tôn trọng giám đốc trên cơ sở thâm
niên và kinh nghiệm làm việc
2. Quản lý theo mục tiêu, trả
lương theo thành thích là công cụ hữu
ích
Quản lý theo mục tiêu và trở lương
theo thành tích thường kém hiệu quả
hơn những sự tưởng thưởng trực tiếp
từ giám đốc
3. Các quyết định bị thách thức
bởi do chuyên môn và chức năng
Các quyết định bị thách thức bởi
những người có thẩm quyền cao hơn
99
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra ngày
càng mạnh mẽ như hiện nay, để thành công trong kinh doanh quốc tế đòi hỏi
các nhà quản lý phải thay đổi lối tư duy về văn hóa. Nếu như trước kia, văn
hóa có vẻ như một vật trang sức xa xỉ đối với hầu hết các giám đốc, một món
ăn không cần thiết thì hiện tại họ phải có cái nhìn thật sâu sắc về văn hóa cũng
như nhận ra tầm quan trọng to lớn của chúng trong phát triển kinh doanh.
Văn hóa lan tỏa và phân tán ý nghĩa của nó tới tất cả các khía cạnh của
doanh nghiệp. Văn hóa xác lập kiểu mẫu cho toàn bộ các mối quan hệ kinh
doanh. Và trong mỗi vùng miền, mỗi khu vực hay mỗi quốc gia mà các tổ
chức kinh doanh hoạt động thì nền văn hóa lại có những nét độc đáo hay
những bản sắc riêng. Do vậy, vấn đề đặt ra cho các công ty kinh doanh trong
một môi trường đa văn hóa chính là họ phải dung hòa được những khác biệt
văn hóa ở các khu vực khác nhau nếu không xung đột văn hóa sẽ xảy ra và
cản trở bước đường tiến tới thành công của họ.
Các công ty cần phải đặt sự đa dạng về văn hóa trong mối tương quan
với những chiến lược kinh doanh để từ đó thấy được những tác động tích cực
cũng như tiêu cực mà đa văn hóa đem lại và có những biên pháp thích ứng kịp
thời. Đa văn hóa không chỉ thể hiện trong chiến lược quản trị nguồn nhân lực
mà còn trong cả chiến lược tiếp thị sản phẩm và hợp tác kinh doanh với các
nhà cung cấp, nhà phân phối và cộng đồng địa phương.
Những nhà quản lý thành công phải biết thích nghi với mọi nền văn
hóa, vượt ra khỏi vòng quản lý của riêng mình, cùng nhau tạo thành một hệ
thống vận hành chức năng hoàn hảo và xây dựng những chiến lược hay các
mô hình quản trị đa văn hóa thành công.
Các doanh nhân Việt Nam trong thời kì hội nhập cũng không phải là
một ngoại lệ. Họ cần phải trang bị cho mình những kiến thức sâu rộng về các
nền văn hóa. Từ đó nhìn nhận được sự khác biệt giữa chúng và trở thành +
100
những công dân, những nhà lãnh đạo toàn cầu, chinh phục được “những làn
sóng văn hóa”, phát huy sức mạnh nội lực cũng như tranh thủ được lợi thế
bên ngoài.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài còn nhiều hạn chế, tác giả kính
mong nhận được sự đóng góp quý báu của người đọc để đề tài ngày càng
hoàn thiện hơn, mang lại sự đóng góp thiết thực vào sự phát triển chung của
các doanh nghiệp Việt Nam trên lĩnh vực quản trị đa văn hóa khi hội nhập
kinh tế toàn cầu.
101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A - Tiếng Viêt
1. Fons Trampenaars – Charles Hampden-Turner, Chinh phục các đợt
sóng văn hóa, Nhà xuất bản trị thức
2. PGS.TS Dương Thị Liễu, Bài giảng văn hóa kinh doanh, Nhà xuất
bản đại học kinh tế quốc dân
3. Đào Hồng Nhung, Luận văn tốt nghiệp: “Quản trị đa văn hóa tại các
tập đoàn đa quốc gia và bài học cho các doanh nghiệp Việt Nam trong thời kì
toàn cầu hóa”, trường Đại học Ngoại Thương
4. TS. Trần Thị Vân Hoa, Văn hóa doanh nghiệp, Nhà xuất bản kinh tế
quốc dân
B – Tiếng Anh
1. Fons Trompenaars – Charles Hampden-Turner (1998), Riding the
waves of culture
2. John D. Daniels, Lee H. Radebaugh, Daniel P.Sullivan (2007)
International Business, Pearson Prentice Hall
3. Jeanne Brett, Kristin Behfar, Mary C.Kern (2006), Managing
multicultural teams, Harvard Business Review
4. Chang-Hoan Cho, Ph. D. , John Holcombe , Daniel Murphy (2004),
Multicultural Marketing in Contemporary U.S.Markets
5. The United Nations Alliance of Civilizations and The United Nations
Global Compact Offce, Doing Business in a Multicultural World: Challenges
and Opportunities, UN Alliance of Civilizations Secretariat
C - Các trang web:
1.
2.
3.
4.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5232_6926.pdf