Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu là một bộ phận của cơ cấu kinh tế, bị chi
phối bởi cơ cấu của ngành kinh tế khác và nó được nghiên cứu dưới nhiều
tiêu thức, quan điểm khác nhau. Trong điều kiện tự do hoá thương mại và
bên cạnh đó cũng để chuẩn bị tiền đề đưa Việt Nam cơ bản trở thành một
nước công nghiệp vào năm 2020, đòi hỏi ngay từ bây giờ phải có định hướng
chiến lược và chính sách đổi mới cơ cấu các ngành kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá - hiện đại hoá. Vì vậy, đổi mới cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu sẽ
đóng góp một phần lớn trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung.
111 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3315 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu ở Việt Nam trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ung bình khoảng 1.800 USD/tấn. Tương
đương với kim ngạch 1,764 tỉ USD, giảm 8,6% về lượng và giảm 17,4% về
trị giá so với năm 2008. Năm 2008, ngành cà phê Việt Nam xuất khẩu đạt
954 nghìn tấn với kim ngạch 1,95 tỷ USD, giảm 22,4% về lượng nhưng vẫn
tăng 2,1% về trị giá so với năm 2007 [24].
Phấn đấu kim ngạch của mặt hàng này đến năm 2010 đạt trên 2,2 tỉ USD
và tăng trưởng bình quân 4.9%/ năm, mỗi năm xuất khẩu được 900 nghìn đến
1,1 triệu tấn, với mức giá khoảng 2.000 USD/tấn. Tuy nhiên, hiện nay, việc
mở rông diện tích để tăng lượng hàng xuất khẩu là khó, vì vậy khả năng gia
tăng giá trị trên một đơn vị sản phẩm xuất khẩu là điều phải tính đến do
chúng ta còn chủ yếu xuất khẩu cà phê dạng hạt sơ chế [24].
79
- Thuỷ sản
Dự kiến đến năm 2010 thuỷ sản đạt kim ngạch 4 - 5 tỷ USD và mỗi năm
tăng hơn 200 triệu USD [6]. Danh mục sản phẩm xuất khẩu và hàm lượng chế
biến của thuỷ hải sản không ngừng tăng trong thời gian qua. Từ chỗ chủ yếu
xuất khẩu sản phẩm đông lạnh, đễ nay đã sản xuất được nhiều mặt hàng ăn
sẵn. Tuy nhiên so với sản phẩm xuất khẩu của các nước xuất khẩu thuỷ sản
trên thế giới hay so các sản phẩm có nguồn gốc từ thuỷ sản bày bán trong các
siêu thị ở thị trường nước ngoài có thể thấy tiềm năng đẩy mạnh xuất khẩu
thuỷ hải sản chế biến sâu còn rất lớn.
Tuy tổng sản lượng thuỷ sản năm 2008 ước đạt 4,58 triệu tấn, tăng 9,2%
so với năm 2007, mức cao nhất từ trước tới nay. Nhưng theo dự báo của Hiệp
hội Chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (Vasep), kim ngạch tăng
trưởng năm 2009 sẽ giảm khoảng 15 – 20% so với năm 2008 [6].
Nguyên nhân chính dẫn đến sự giảm sút này được Vasep cho là do
khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế thế giới nên những khó khăn về
tín dụng, tỷ giá hối đoái, nhu cầu tiêu dùng sẽ tác động mạnh đến thương mại
thuỷ sản năm 2009. Đặc biệt, các thị trường truyền thống của thuỷ sản Việt
Nam là Eu, Mỹ, Nhật Bản có khả năng giảm nhiều nhất, khoảng 15-20%.
Nhiều nhà nhập khẩu bị ngân hàng siết tín dụng nên không có khả năng thanh
toán để nhập những đơn hàng mới.
Trong đó, 2 mặt hàng chủ lực của ngành thuỷ sản Việt Nam là tôm và
cá basa sẽ bị ảnh hưởng nặng nhất. Mới đây, việc Nga áp lệnh cấm nhập khẩu
cá tra, cá basa của Việt Nam từ ngày 20/12/2008, vì một số tiêu chuẩn kĩ
thuật như sản phẩm cá tra, cá basa của Việt Nam bị nhiễm vi sinh, lẫn tạp
chất và lớp mạ băng dày hơn yêu cầu. Việc này khiến cho xuất khẩu cá tra sẽ
càng khó khăn hơn. Ngoài ra, mặt hàng tôm hiện chiếm khoảng 40% kim
ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam nhưng lại đang phải cạnh tranh quyết
liệt với sụ giảm giá của tôm vanamei trên thị trường nên xuất khẩu tôm cũng
sẽ giảm ít nhất 20%.
- Cao su
Xét theo triển vọng cung cầu cao su tự nhiên thế giới, tăng trưởng kim
ngạch xuất khẩu cao su Việt Nam giai đoạn 2000 – 2007, dự báo giai đoạn
80
2007 - 2010 phát triển cao su của Việt Nam có thể đạt tốc độ cao, khoảng
26%/năm. Đồng thời kim ngạch đạt 2.786 triệu USD vào năm 2010. Tuy
nhiên, trong giai đoạn 2010 – 2015, do hạn chế về diện tích trồng cao su và
giới hạn về khả năng tăng sản lượng nên dự báo tốc độ tăng trưởng kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam sẽ chậm lại và đạt 12,5%/năm. Kim ngạch
xuất khẩu cao su của Việt Nam cũng được nâng lên 5.020 triệu USD vào năm
2015 [20].
Trước bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và tình hình suy thoái kinh tế
toàn cầu, cấu trúc thị trường sẽ có thay đổi. Do đó, để phát triển xuất khẩu,
ngành cao su Việt Nam cần phải tái cấu trúc lại các sản phẩm và thị trường.
Đây là giải pháp căn bản để đối phó với thị trường của một ngành cao su đã
hội nhập quốc tế nhiều năm qua. Tạo ra cơ cấu mới phù hợp với thị trường
nội địa và xuất khẩu, phải lấy hiệu quả kinh tế làm trung tâm với đòn bẩy
quyết định là công nghệ tiên tiến.
Trong xuất khẩu, cao su Việt Nam cần phải tăng giá trị gia tăng, với cơ
cấu mặt hàng mới nhằm giảm lệ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Cần
hướng tới các thị trường có giá trị gia tăng cao như Mỹ, Nhật Bản và các
nước Châu Âu, hạn chế xuất khẩu sản phẩm thô.
- Nhân điều
Việt Nam hiện là một trong những nước có sản lượng điều lớn nhất thế
giới. Những năm gần đây xuất khẩu điều nhân tăng khá cao, dự kiến kim
ngạch xuất khẩu đạt khoảng 1 tỷ USD vào năm 2010 [6]. Phẩm cấp và chất
lượng của hạt điều Việt Nam ngày càng được nâng cao và được thế giới ưa
chuộng. Hướng phát triển trong thời gian tới là tập trung qui hoạch và cải tạo
lại các vườn điều, tăng đầu tư thâm canh, mở rộng diện tích.
Thị trường xuất khẩu tiếp tục khai thác trong giai đoạn tới là Hoa Kì, Hà
Lan, Australia, Anh và Canada.
3.3. Nhóm hàng công nhiệp và thủ công mỹ nghệ
Tốc độ tăng trưởng của nhóm hàng này có xu hướng tăng mạnh do có
điều kiện để mở rộng qui mô sản xuất, phát triển thị trường mới, mặt hàng
mới, đồng thời nâng cao giá trị gia tăng nhờ đổi mới công nghệ. Theo dự
81
kiến nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ sẽ có tốc độ tăng trưởng
lớn nhất đạt 36,3%/năm [6].
- Dệt may
Theo Đề án “Đẩy mạnh xuất khẩu và kiềm chế nhập siêu hàng hoá giai
đoạn 2009 – 2010” của Bộ Công Thương đã xác định dệt may là một trong
những ngành xuất khẩu chủ lực. Mặc dù ngành công nghiệp này đang hứng
chịu những tác động bất lợi từ cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính toàn cầu.
Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu của ngành này đạt 9,108 tỷ USD, tăng
17,5% so với năm 2007, đóng góp quan trọng vào việc tăng trưởng kinh tế và
giải quyết công ăn việc làm của một lực lượng lớn lao động [2]. Song năm
2009 – 2010, dự báo tỷ lệ tăng trưởng có xu hướng thực sự khó khăn.
Theo Hiệp hội Dệt may, xuất khẩu ngành công nghiệp dệt may đạt khoảng
9,5 tỷ USD năm 2009, tăng 5% so với năm 2008 [2]. Song tại Đề án “Đẩy
mạnh xuất khẩu và kiềm chế nhập siêu hàng hoá giai đoạn 2009 – 2010”, Bộ
Công Thương đã đề ra mục tiêu phấn đấu kim ngạch xuất khẩu dệt may năm
2009 là 10,5 tỷ USD. Và đến năm 2010 sẽ đạt kim ngạch 11,9 tỷ USD với tốc
độ tăng trưởng bình quân khoảng 15%/ năm. Theo đó, một loạt các mục tiêu
và giải pháp cụ thể đối với một số thị trường trọng điểm được đề ra, trước
mắt là thị trường Hoa Kì, EU và Nhật Bản.
Đối với thị trường Hoa Kì, mục tiêu là đạt kim ngạch khoảng 6 tỷ USD
vào năm 2010, nâng tỷ lệ kim ngạch nhập khẩu của nước này lên trên 6%
(xuất khẩu của Việt Nam năm 2008 vào Hoa Kì chỉ chiếm 5% kim ngạch
nhập khẩu của nước này). Đối với thị trường EU, phấn đấu kim ngạch xuất
khẩu đạt trên 2,2 tỷ USD năm 2010, nâng tỷ lệ xuất khẩu lên 1,4% kim ngạch
nhập khẩu của khu vực này (xuất khẩu dệt may năm 2008 của Việt Nam vào
EU chỉ chiếm 1% kim ngạch nhập khẩu). Năm 2008, EU bãi bỏ kim ngạch
dệt may cho Trung Quốc. Do vậy, Bộ Công Thương cần nghiên cứu tác động
của thị trường EU khi Trung Quốc được bãi bỏ hạn ngạch để giúp các doanh
nghiệp định hướng mặt hàng và nước xuất khẩu để có thể nâng cao cạnh
tranh. Đối với thị trường Nhật Bản, từ năm 2009, hàng dệt may của ta xuất
khẩu sang Nhật được hưởng mức thuế 0% theo Hiệp định đối tác kinh tế toàn
diện Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) được kí kết tháng 4 năm 2008. Các
82
doanh nghiệp Việt Nam có thể phải sử dụng nguồn nguyên phụ liệu nội địa
hoặc được nhập khẩu từ Nhật Bản hoặc các nước ASEAN để được hưởng
mức thuế này. Do vậy, kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này có thể phấn
đấu đạt khoảng 1,1 tỷ USD vào năm 2010, nâng tỷ lệ xuất khẩu lên 3% kim
ngạch nhập khẩu của nước này (xuất khẩu của Việt Nam vào Nhật Bản năm
2008 chỉ chiếm 2,8% kim ngạch nhập khẩu nước này). Ngoài các thị trường
trọng điểm xuất khẩu dệt may nêu trên, Bộ Công Thương cũng nhấn mạnh
đến các thị trường khác như: Canada, Hàn Quốc, Australia và các thị trường
nhỏ lẻ nhưng đóng vai trò là trung tâm mua sắm của các khu vực như Hồng
Kông, Singapore, Thuỵ Sỹ, Anh... [24].
- Giày dép
Hiện nay, Việt Nam là nước xuất khẩu giầy dép đứng thứ 4 trên thế giới.
Đây là ngành đạt kim ngạch xuất khẩu lớn. Với những đóng góp đáng kể vào
việc giải quyết công ăn việc làm, giày dép được xác định là mặt hàng có
nhiều khả năng để gia tăng kim ngạch xuất khẩu thông qua mở rộng sản xuất,
đa dạng hoá thị trường xuất khẩu và tăng cường hàm lượng giá trị tạo mới
của sản phẩm xuất khẩu bằng cách tập trung đầu tư vào khâu thiết kế kiểu
dáng, tạo mẫu sản phẩm… Xuất khẩu nhóm mặt hàng giày dép dự kiến sẽ đạt
kim ngạhc 5,6 tỷ USD vào năm 2010, tăng bình quân 11,9%/năm [25].
Thị trường xuất khẩu tiềm năng của nhóm mặt hàng này là các nước phát
triển có sức mua lớn như Mỹ, Eu, Canada, Nhật Bản, Hồng Kông, Hàn Quốc,
Australia. Bên cạnh đó có thể khai thác các thị trường có sức mua không lớn
nhưng chấp nhận hàng hoá phù hợp với năng lực sản xuất của các doanh
nghiệp Việt Nam như Inđônêxia, Maliaxia, Trung Đông, Châu Phi, Nam Á,
Nga, các nước Đông Âu cũ…
Tuy nhiên, ngành giầy dép Việt Nam vẫn còn những vấn đề còn tồn đọng
cần giải quyết như: gia công xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn, chưa chủ động
được nguồn nguyên liệu, công tác thiết kế, xúc tiến thương mại và quảng bá
thương hiệu trong và ngoài nước chưa được đẩy mạnh.
- Điện tử và linh kiện máy tính
Trong nhiều năm qua, xuất khẩu máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện
của nước ta không ngừng tăng mạnh. Bộ Công Thương cho biết, năm 2008
83
xuất khẩu sản phẩm điện tử và linh kiện máy tính đạt kim ngạch 2,7 tỷ USD,
tăng 25,3% so với năm 2007. Chúng ta phấn đấu đến 2010 kim ngạch xuất
khẩu đạt 5 tỷ USD, tăng bình quân 32,6%/năm giai đoạn 2008 – 2010 [24].
Theo đánh giá đây là mặt hàng có nhiều khă năng tạo sự tăng trưởng đột
biến trong thời gian tới và rất có thể với những định hướng phát triển phù
hợp thì đây sẽ là mặt hàng tạo kim ngạch xuất khẩu lớn của Việt Nam vì
những lí do cơ bản sau:
- Thứ nhất, trong những năm gần đây, làn sóng đầu tư nước ngoài vào lĩnh
vực điện, điện tử và sản xuất linh kiện máy tính ở Việt Nam đã tăng mạnh
với nhiều dự án đầu tư rất lớn như dự án đầu tư sản xuất máy in của tập đoàn
Canon, dự án đầu tư sản xuất chip điện tử của tập đoàn Intel (1 tỉ USD), dự
án của tập đoàn Nidec, Nhật Bản sản xuất đầu đọc quang học và mô tơ siêu
nhỏ (1 tỉ USD), dự án của tập đoàn Foxcon (Đài Loan) sản xuất linh kiện
điện tử (1 tỉ USD)… và nhiều dự án đầu tư khác của các công ty vệ tinh của
các tập đoàn lớn đã có hoạt động tại Việt Nam.
- Thứ hai, đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Việt Nam là Malaixia, Thái Lan và
Trung Quốc, tuy nhiên, lợi thế về nhân công đã và đang có sự chuyển dịch từ
Malaixia và Thái Lan sang Việt Nam. Trong khi đó tại các nước như Trung
Quốc, Malaixia… giá thuê đất, giá nhân công tăng. Vì vậy, Việt Nam trở nên
có lợi thế riêng. Riêng đối với Trung Quốc, bên cạnh lợi thế của Việt Nam về
giá nhân công thì sự phát triển kinh tế được coi là quá nóng của nước này
cũng đang tạo ra sự chuyển dịch đầu tư của các tập đoàn điện tử lớn của thế
giới sang Việt Nam.
- Thứ ba, về nhu cầu thị trường thế giới đối với mặt hàng điện tử và linh kiện
máy tính có thể coi là khổng lồ và đầy tiềm năng.
Về thị trường xuất khẩu, hiện nay ta đang xuất khẩu mặt hàng này chủ yếu
sang các nước ASEAN, Nhật Bản và Hàn Quốc, Hoa Kì. Trong thời gian tới
có thể nhắm tới Trung Quốc, Hồng Kông, EU (nhất là Đức) và đặc biệt là các
nước thành viên mới của EU như Hungary, Ba Lan, Cộng hoà Séc và
Slovakia.
- Sản phẩm gỗ
84
Mặt hàng đồ gỗ đã khẳng định được vị trí vững chắc trong cơ cấu xuất
khẩu hàng hoá của Việt Nam trong những năm gần đây, với kim ngạch xuất
khẩu năm 2008 ước đạt 2,8 tỷ USD, tăng 16,5% so với năm 2007. Chúng ta
phấn đấu năm 2010 xuất khẩu sản phẩm gỗ sẽ đạt kim ngạch 3,6 tỷ USD,
tăng bình quân 14,4%/năm [26].
Đây là mặt hàng có thị trường lớn, khả năng cạnh tranh và chất lượng sản
phẩm đáp ứng được yêu cầu của nhà nhập khẩu song khó khăn cơ bản vẫn là
nguồn nguyên liệu nhập khẩu và khả năng đáp ứng được những đơn hàng lớn
còn hạn chế. Do vậy, nếu có thể khắc phục được những hạn chế này, mặt
hàng gỗ sẽ còn có thể gia tăng qui mô xuất khẩu cạnh tranh trong thời gian
tới.
- Hàng thủ công mỹ nghệ (TCMN)
Theo đánh giá của Hiệp hội xuất khẩu hàng TCMN Việt Nam, ngành này đã
có bước phát triển tích cực trong những năm qua. Tốc độ tăng trưởng bình
quân đạt khoảng 15%/ năm. Riêng 2 tháng đầu năm 2009 đạt 29 triệu USD.
Hiện cả nước có khoảng 2.000 làng nghề, thu hút 1,4 triệu lao động và 1.000
doanh nghiệp (DN) chuyên sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ [26].
Mục tiêu của ngành thủ công mỹ nghệ (TCMN) là đạt kim ngạch 1,5 tỷ
USD vào năm 2010. Trong bối cảnh khó khăn như hiện nay chúng ta càng
cần nhanh chóng tìm giải pháp cho viẹc duy trì và phát triển sản xuất hàng
TCMN [26].
II. Đề xuất đối với Nhà nƣớc
1. Giải pháp đổi mới cơ chế hoạt động xuất khẩu
Để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu việc đổi mới
hoàn thiện cơ chế quản lí hoạt động xuất khẩu là cần thiết và cần có sự tương
thích với nền kinh tế mở và xu thế tự do hoá thương mại.
Về chủ thể quản lí: Chúng ta cần đổi mới bộ máy quản lí xuất khẩu cũng
như hoạt động thương maị theo hướng gọn nhẹ và tạo được sự phối hợp nhịp
nhàng giữa các bộ phận trong đó. Năm 2007, Bộ Thương mại và Bộ Công
nghiệp đã hợp nhất thành Bộ Công Thương. Đây là một sự chuyển biến đúng
đắn. Sáp nhập hai Bộ sẽ giúp cho công tác kế hoạch hoá và thực hiện các
85
chính sách phát triển thương mại đặc biệt là xuất khẩu theo sát và thống nhất
với kế hoạch và chính sách. Trong thời gian tới Chính phủ cần xây dựng
được chương trình hành động thống nhất giữa các bộ ngành quản lí liên quan,
tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn về các qui định, định hướng phát triển. Bên
cạnh đó, chúng ta nên phát huy chức năng của các Hiệp hội ngành hàng và
xây dựng hiệp hội ngành hàng mới.
Về đối tượng quản lí: hiện nay, quyền kinh doanh xuất nhập khẩu đã được
mở rộng cho các thương nhân hợp pháp, họ được tự do kinh doanh tất cả
những mặt hàng mà pháp luật không cấm (Nghị định 12/2006/NĐ - CP ngày
23/ 01/ 2006). Qua quá trình này chúng ta thấy, các doanh nghiệp tư nhân
đang phải chịu thiệt thòi so với các doanh nghiệp Nhà nước vì các hợp đồng
lớn, các hợp đồng trả nợ đều do các doanh nghiệp Nhà nước thực hiện. Môi
trường cạnh tranh còn chưa thực sự bình đẳng. Do vậy, thời gian tới chúng ta
cần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp tư nhân được cạnh
tranh một cách công bằng với các doanh nghiệp quốc doanh như tổ chức đấu
thầu giành các hợp đồng lớn
Các công cụ quản lí xuất khẩu phải đảm bảo đáp ứng được những cam kết
của Việt Nam với thế giới đồng thời có tác dụng thúc đẩy xuất khẩu những
sản phẩm có hàm lượng chế biến cao. Cần phải xác định thị trường trọng
điểm, thị trường ưu tiên vì trong điều kiện kinh tế của chúng ta hiện nay kinh
tế còn kém phát triển, thiếu vốn, qui mô sản xuất nhỏ… Các thị trường nên
được chọn làm thị trường ưu tiên đó là: những thị trường có khả năng thanh
toán cao, nhiều khả năng cung cấp yếu tố vật chất kỹ thuật cho CNH - HĐH
đất nướcnhư Hoa Kì, Eu, Nhật Bản…
2. Các giải pháp phát triển khoa học công nghệ
Khoa học công nghệ là yếu tố hết sức quan trọng trong đẩy mạnh xuất
khẩu và chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu. Chỉ có đầu tư vào xuất khẩu chúng ta
mới có được cơ cấu xuất khẩu hiện đại, phù hợp với yêu cầu của thị trường
thế giới. Chính sách về khoa học công nghệ cần dựa trên những đặc điểm chủ
yếu của nước ta như: lực lượng lao động dồi dào, chi phí lao động rẻ, nguồn
86
nguyên liệu sản xuất tương đối lớn. Để phát triển xuất khẩu bằng khoa học
công nghệ chúng ta cần chú ý những điểm như sau:
- Chúng ta cần hoàn thiện môi trường pháp lí cho việc phát triển khoa học
công nghệ qua các văn bản luật điều chỉnh trực tiếp và gián tiếp hoạt động
khoa học công nghệ và các qui định thi hành luật. Nhà nước cần sớm ban
hành luật chuyển giao công nghệ theo đó đảm bảo nội dung đầy đủ, thông
thoáng và có tính cởi mở (bởi khoa học công nghệ luôn biến đổi một cách
nhanh chóng, nếu luật của chúng ta không theo kịp thì sẽ bị lạc hậu và không
có ý nghĩa áp dụng). Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần ban hành các luật bổ
sung, hỗ trợ cho luật Sở hữu trí tuệ, luật Chuyển giao công nghệ như luật
Thuế, luật Đầu tư, luật Thương mại, luật Doanh nghiệp, luật Hải quan…
Bên cạnh việc ban hành luật, Nhà nước cần nâng cao năng lực thực thi
hành luật. Thực thi luật Sở hữu trí tuệ, luật Chuyển giao công nghệ trong điều
kiện hiện nay còn chịu sự chi phối trực tiếp của các cam kết với WTO. Vì
vậy Nhà nước nên sớm có qui định về thực thi sở hữu trí tuệ, chuyển giao
công nghệ, các chế định trong giải quyết các tranh chấp về sở hữu trí tuệ
(nguyên tắc đối xử quốc gia trong tố tụng, thẩm quyền của toà án dân sự và
toà án kinh tế, các biện pháp khẩn cấp, tạm thời, tố tụng…) và cùng với các
chế tài (khung hình phạt, mức phạt, biện pháp xử phạt…). Phân định rõ chức
năng, thẩm quyền của các cơ quan thực thi như toà án nhân dân, thanh tra, uỷ
ban nhân dân, quản lí thị trường, công an kinh tế, hải quan …
- Đồng thời chúng ta phải có đầu tư hợp lí một phần ngân sách cho hoạt
động phát triển khoa học công nghệ. Đó là đầu tư, hỗ trợ cho các hoạt động
sáng tạo và hoàn thiện công nghệ, mua sáng chế, thiết kế công nghệ tiên tiến
và các hoạt động nghiên cứu khoa học, nhất là khoa học ứng dụng. Nhà nước
cần có biện pháp, chính sách khuyến khích các doanh nghiệp nhất là các
doanh nghiệp lớn đầu tư tập trung cho hoạt động R & D. Các doanh nghiệp
vì mục tiêu lợi nhuận sẵn sàng bỏ ra chi phí đủ lớn để phát triển các công
nghệ sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu thị
trường thế giới. Nhà nước cũng phải ban hành qui định xác lập quyền sở hữu
các tài sản trí tuệ, quyền định đoạt các tài sản này để bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của các doanh nghiệp và các trung tâm nghiên cứu (viện nghiên cứu,
87
trường đại học). Đây cũng là cơ sở để thị trường công nghệ ở Việt Nam ra
đời, giúp các doanh nghiệp trao đổi, mua bán, tăng cường giúp các doanh
nghiệp áp dụng các thành tựu khoa học kĩ thuật, nâng cao tỉ lệ sản xuất và
xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao.
3. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là một yếu tố quan trọng, không thể thiếu trong chuyển
dịch cơ cấu xuất khẩu. Phát triển nguồn nhân lực trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế đòi hỏi có những giải pháp hệ thống, đồng bộ và tổng thể,
trong đó phải xác định được những nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm, trọng
điểm cần được ưu tiên thực hiện.
- Cần phải đào tạo nguồn nhân lực có cơ sở vững chắc từ những bậc học
dưới. Cần có những đổi mới về cơ sở vật chất kỹ thuật, nội dung và phương
pháp dạy, học theo hướng gắn với nhu cầu thực tế của thị trường lao động
trong nước và quốc tế. Mở rộng việc dạy và nâng cao chất lượng dạy, học
ngoại ngữ, ngay từ cấp giáo dục phổ thông, hướng tới đạt được mục tiêu sau
khi tốt nghiệp phổ thông trung học, phần lớn học sinh có thể sử dụng ngoại
ngữ trong giao tiếp thông thường hoặc theo học tiếp ở trình độ cao hơn bằng
ngoại ngữ.
- Phát triển nguồn nhân lực có trọng điểm cần ưu tiên các nhóm nhân lực cốt
yếu. Thứ nhất là đội ngũ giảng viên, giáo viên các cấp phải được đảm bảo về
chuyên môn, nghiệp vụ, có đạo đức. Đồng thời họ phải là những người có
lương tâm nghề nghiệp, đủ năng lực tạo ra sự cải biến trong chất lượng giáo
dục. Có như thế mới đáp ứng được yêu cầu thực tế của xây dựng đất nước,
hội nhập quốc tế hiện nay. Bên cạnh đó, chúng ta cần phát triển đội ngũ
chuyên gia tư vấn, hoạch định chính sách trong các lĩnh vực kinh tế, tài
chính, thương mại, ngân hàng, pháp lí… Đội ngũ này cần phải tinh thông
nghiệp vụ, am hiểu sâu rộng kiến thức và thực tiễn quốc tế nhằm đảm bảo
cho việc xây dựng và thực thi chính sách có tính khả thi cao. Như vậy, các
chính sách mới ra đời mới có thể thích ứng với tình hình quốc tế không
ngừng biến đổi, nhằm kịp thời làm tăng làm tăng sức cạnh tranh của nền kinh
tế Việt Nam và các doanh nghiệp nước ta trên trường quốc tế. Ngoài ra, đội
ngũ doanh nhân và quản trị doanh nghiệp cũng cần được đào tạo một cách
88
bài bản và chuyên nghiệp. Đội ngũ này phải có bản lĩnh vững vàng, giỏi về
nghiệp vụ quản lí, đồng thời am hiểu luật kinh doanh quốc tế để có thể giúp
Việt Nam cạnh tranh được trên trường quốc tế mà không bị bất lợi. Cần phải
nhanh chóng đào tạo được đội ngũ lãnh đạo, giám đốc điều hành (CEO),
chuyên gia quản lí cho các doanh nghiệp để có thể đáp ứng được yêu cầu của
xu thế mới. Một đội ngũ không thể thiếu và cần được đào tạo đó là những đội
ngũ kĩ sư, công nhân kĩ thuật trình độ cao, đạt tiêu chuẩn quốc tế. Có như thế
mới có thể đáp ứng được nhu cầu áp dụng khoa học kĩ thuật máy móc hiện
đại ngày nay của các doanh nghiệp Việt Nam.
- Cuối cùng, để có được đội ngũ lao động, nguồn nhân lực tốt cho nền kinh tế
thì yếu tố mở rộng hợp tác đào tạo quốc tế, đa dạng hoá phương thức kinh
doanh liên kết với nước ngoài là không thể thiếu. Chúng ta nên mạnh dạn đầu
tư thuê giảng viên giỏi cũng như những chuyên gia giỏi của nước ngoài. Điều
này nhằm đào tạo nguồn nhân lực trong nước một cách có chất lượng cao
hơn, khiến cho nguồn nhân lực nước ta không bị bỡ ngỡ với công nghệ hiện
đại, xu hướng mới của nền kinh té thế giới, đặc biệt thông qua các nước phát
triển đi trước.
4. Giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu
Bên cạnh các giải pháp vừa nêu thì giải pháp hỗ trợ cho doanh nghiệp
xuất khẩu là giải pháp thiết thực và trực tiếp nhất cho quá trình chuyển dịch
cơ cấu xuất khẩu ở nước ta. Để đẩy nhanh quá trình này các doanh nghiệp
cần phải tham gia sản xuất, xuất khẩu những mặt hàng có hàm lượng chế
biến, hàm lượng vốn và công nghệ cao. Các doanh nghiệp mới là người trực
tiếp và thực sự thực hiện cải biến cơ cấu hàng xuất khẩu. Các giải pháp hỗ trợ
doanh nghiệp xuất khẩu được chia làm 2 nhóm chính:
- Nhóm giải pháp hỗ trợ tài chính
Nhà nước cần có biện pháp hỗ trợ thương mại đối với doanh nghiệp xuất
khẩu nhưng cũng phải chú ý trong khuôn khổ của WTO cho phép. Các chính
sách tài trợ thương mại có thể là Nhà nước bảo lãnh trước ngân hàng cho nhà
xuất khẩu, Nhà nước bảo lãnh trước khoản tín dụng mà nhà xuất khẩu thực
hiện cấp cho nhà nhập khẩu, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, cấp tín dụng cho
doanh nghiệp xuất khẩu trong nước (gồm cả doanh nghiệp vốn trong nước và
89
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) với lãi suất ưu đãi. Đồng thời tạo
điều kiện cho các ngân hàng thương mại phát triển các dịch vụ thanh toán
quốc tế dưới hình thức cấp tín dụng cho doanh nghiệp như thư tín dụng, bao
thanh toán factoring, forfaiting. Khi gia nhập WTO chúng ta đã cam kết bãi
bỏ hoàn toàn trợ cấp xuất khẩu phi nông nghiệp và trợ cấp xuất khẩu nông
nghiệp. Ngoại trừ bảo lưu 2 hình thức trợ cấp xuất khẩu nông nghiệp mà
WTO dành cho các nước đang phát triển gồm xúc tiến thương mại và ưu đãi
cước phí vận tải hàng xuất khẩu. Vì vậy Việt Nam cần tận dụng những hình
thức hỗ trợ được phép, tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu.
Bên cạnh đó, tỷ giá hối đoái cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng
đến thành quả của quá trình xuất khẩu. Khi đồng nội tệ (VNĐ) mất giá so với
đồng ngoại tệ, hàng xuất khẩu trở nên rẻ tương đối so với hàng nội địa ở
nước ngoài. Nhờ vậy, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu đồng thời hạn chế nhập
khẩu, tăng đầu tư nước ngoài vào trong nước. Trên thế giới đã có nhiều nước
thực hiện chính sách phá giá hối đoái thành công, đó là Ấn Độ, Đài Loan….
Tuy nhiên Nhà nước cũng cần cân nhắc những bất lợi mà phá giá tiền tệ gây
ra như uy tín quốc gia suy giảm, mất cân đối cán cân thanh toán quốc tế.
Hiện nay, thuế xuất khẩu của Việt Nam đối với hầu hết các mặt hàng
bằng 0, trừ những sản phẩm không qua chế biến. Thuế nhập khẩu đối với
những hàng hoá là tư liệu sản xuất hàng xuất khẩu cùng có mức thuế suất rất
thấp. Nhà nước cần liệt kê những mặt hàng thuộc diện chuyển đổi cơ cấu
trong thời gian tới và đưa vào danh sách cần đặc biệt ưu tiên trong miễn,
giảm và hoàn thuế.
- Nhóm giải pháp hỗ trợ và xúc tiến xuất khẩu
Hoạt động xúc tiến xuất khẩu phải được tiến hành cả ở doanh nghiệp và
cả trên phương diện quốc gia. Trong đó, hoạt động xúc tiến ở cấp doanh
nghiệp là các hoạt động như: quảng cáo bán hàng ra nước ngoài, cử cán bộ ra
nước ngoài nghiên cứu thị trường hàng hoá, thương nhân và chính sách nhập
khẩu của nước ngoài, lập văn phòng đại diện ở nước ngoài và ở các trung tâm
thương mại quốc tế. Để thúc đẩy công tác xúc tiến của doanh nghiệp, Nhà
nước cũng cần tham gia vào quá trình này. Nhà nước thiết lập mạng lưới xuất
khẩu quốc gia, nâng cao năng lực hỗ trợ thương mại của hệ thống cơ quan đại
90
diện thương mại (cung cấp thông tin thương mại về thị trường xuất khẩu,
phối hợp tổ chức các sự kiện thương mại), củng cố và kiện toàn các cơ quan
thương vụ của Việt Nam ở nước ngoài với nhiệm vụ nắm bắt tình hình
thương mại của từng nước…Chính phủ cũng cần có những biện pháp đơn
giảm hoá thủ tục hành chính và quản lí xuất nhập cảnh để thuận lợi cho việc
đi lại của các thương nhân Việt Nam và nước ngoài.
5. Thu hút vốn đầu tƣ cho quá trình đổi mới cơ cấu hàng xuất
khẩu.
Để thay đổi cơ cấu sản xuất nói chung và cơ cấu hàng xuất khẩu nói
riêng, cần phải có đầu tư. Vì vậy, trong những năm qua, Nhà nước đã ban
hành rất nhiều chế độ, chính sách để khuyến khích đầu tư, bao gồm cả đầu tư
trong nước và đầu tư nước ngoài, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất hàng
xuất khẩu.
5.1. Khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài đầu
tƣ trực tiếp vào sản xuất phục vụ xuất khẩu.
Đây là khối doanh nghiệp có vốn lớn, công nghệ cao nên sản phẩm sản
xuất ra có tỷ lệ chất xám lớn. Do đó, hàng hoá sẽ dễ dàng xâm nhập vào các
thị trường đòi hỏi chất lượng cao, lợi nhuận tăng lên tương ứng.
- Cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được quyền xuất
khẩu hàng hoá như thương nhân Việt Nam.
Hiện nay, doanh nghiệp FDI đã được phép xuất khẩu và nhận uỷ thác
xuất khẩu hàng hoá không phụ thuộc vào nội dung của giấy phép đầu tư trừ
các mặt hàng nhạy cảm như: gạo, động vật rừng, đá quý... Nếu hàng nhập
khẩu dùng để phục vụ cho xuất khẩu, cũng được xét vào diện trên. Tuy
nhiên, Bộ Công thương nên bàn bạc với các Bộ, ngành hữu quan để quyết
định cụ thể về phạm vi kinh doanh xuất nhập khẩu của khối FDI.
- Các ưu đãi dành cho sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu phải được
minh bạch hoá một cách tối đa, áp dụng bình đẳng cho tất cả các nhà đầu tư
và phổ biến rộng rãi tới mọi chủ thể đầu tư tiềm năng.
- Song song với việc dành ưu đãi cho đầu tư, cần hết sức chú ý ổn định
môi trường đầu tư.
91
Bên cạnh việc ban hành các chính sách khuyến khích thì việc duy trì một
môi trường đầu tư ổn định nhằm tạo tâm lý tin tưởng cho nhà đầu tư mang ý
nghĩa cực kỳ quan trọng, nhất là đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Là nước
đang phát triển, đang ở trong quá trình chuyển đổi, lại thiếu kinh nghiệm xử
lý các vấn đề kinh tế vĩ mô, cơ chế chính sách của ta không thể tránh khỏi
việc phải điều chỉnh, bổ sung vào lúc này hay lúc khác. Vấn đề đặt ra là phải
làm sao để các nhà đầu tư thông cảm với những khó khăn của chúng ta và
khẳng định với họ nguyên tắc đã được đề cập trong Luật Đầu tư Nước ngoài:
nếu sự thay đổi của quy định pháp luật làm thiệt hại đến lợi ích của nhà đầu
tư thì Nhà nước sẽ có biện pháp giải quyết thoả đáng đối với quyền lợi của
nhà đầu tư. Chỉ bằng cách đó, chúng ta mới có thể duy trì được lòng tin của
nhà đầu tư nước ngoài, mới có thể thu hút được nguồn vốn FDI cần thiết cho
phát triển sản xuất và xuất khẩu, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh về thu hút
FDI đang diễn ra hết sức gay gắt.
Do đó, trong thời gian tới đây, quá trình xem xét điều chỉnh luật pháp về
đầu tư nước ngoài nên chuyển trọng tâm từ “ưu đãi” sang “ổn định, minh
bạch và hài hoà quyền lợi”.
5.2. Tập trung nguồn lực để hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và
vừa (SME- Small and medium enterprises).
Trong những năm qua, khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh, trong
đó đa số là các SME, đã đóng góp tích cực vào hoạt động xuất khẩu. Để
khuyến khích tính năng động của khu vực này, nhất là SME có tham gia xuất
khẩu hoặc đối với một số mặt hàng cần khuyến khích sản xuất, xuất khẩu,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quy chế giao cho các tỉnh thành tự đứng ra
thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng cho SME. Tuy nhiên, tiềm lực tài chính ở
các nơi này là có hạn, lại không đồng đều. Nếu mỗi tỉnh thành đều phải tự
tìm nguồn để thành lập quỹ cho riêng mình thì hiệu quả thực tế sẽ không cao
do nguồn lực bị dàn trải. Đó là chưa kể SME ở những tỉnh có hoàn cảnh khó
khăn sẽ ở vào thế bất lợi hơn so với SME ở những tỉnh có tiềm năng. Vấn đề
tín dụng cho doanh nghiệp nói chung và cho SME nói riêng hiện nay đang là
vấn đề hết sức bức xúc. Vì vậy, nên có một cơ chế tập trung nguồn lực để
thành lập một quỹ bảo lãnh tín dụng cho SME tại Trung ương. Quỹ này sẽ có
92
đại lý là chi nhánh các quỹ hỗ trợ phát triển hoặc tổ chức tín dụng được thành
lập ở địa phương. Khi có nhu cầu, mọi “đại lý” đều có thể tiếp cận với nguồn
lực tập trung, hiệu quả thực tiễn sẽ cao hơn, SME tại tất cả các tỉnh cũng ở
vào thế bình đẳng hơn.
5.3. Tiếp tục thực thi chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà
nƣớc.
Doanh nghiệp Nhà nước chiếm số lượng lớn trong toàn bộ các loại
hình doanh nghiệp và được hưởng nhiều ưu đãi của Nhà nước. Tuy nhiên,
trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp Nhà nước làm ăn liên tục
thua lỗ, tỷ lệ đóng góp vào ngân sách Nhà nước không tương xứng với những
gì Nhà nước bỏ ra. Hơn nữa, yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đòi hỏi doanh
nghiệp Nhà nước phải có những thay đổi thích ứng phù hợp với xu thế hội
nhập.
Trước tình hình trên, Nhà nước đã triển khai thực hiện chính sách cổ
phần hoá doanh nghiệp Nhà nước nhưng hiệu quả đạt được không cao. Vì
vậy, các giải pháp cần thực hiện triệt để là:
- Đối với những doanh nghiệp lớn, có vai trò quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế đất nước thì doanh nghiệp sẽ chia sẻ quyền sở hữu và
nắm cổ phần khống chế. Biện pháp này mang lại nhiều lợi ích, đó là: giảm
gánh nặng vốn cho ngân sách Nhà nước, tăng tinh thần trách nhiệm cho
người lao động (do bán cổ phần cho họ).
- Còn với những doanh nghiệp nhỏ, làm ăn thua lỗ không thể khắc
phục nổi thì Nhà nước nên trực tiếp bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp.
5.4. Thu hút vốn đầu tƣ trong dân.
Nhu cầu vốn đầu tư phát triển của ngành thương mại nói chung và cho
quá trình đổi mới cơ cấu hàng xuất khẩu nói riêng là rất lớn nhưng khả năng
đáp ứng lại có hạn. Hiện nay, nguồn vốn trong dân còn khá nhiều nhưng
chưa được huy động cho việc phát triển sản xuất, kinh doanh. Những giải
pháp đặt ra là:
93
- Một là, phát triển thị trường chứng khoán và phải có cách thức quản
lý nghiệp vụ thị trường này nhằm cung cấp thông tin cho người dân và doanh
nghiệp, hoặc khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng.
- Hai là, thúc đẩy người dân đầu tư trực tiếp vào lĩnh vực sản xuất -
kinh doanh để thu lợi nhuận.
III. Giải pháp đối với doanh nghiệp
Không chỉ Nhà nước cần có biện pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu xuất
khẩu mà ngay cả doanh nghiệp cũng cần phải có định hướng rõ ràng. Định
hướng này giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể dễ dàng bắt nhịp với
xu hướng thị trường và tận dụng có hiệu quả những biện pháp hỗ trợ của Nhà
nước. Để cơ cấu hàng xuất khẩu có những chuyển biến tích cực trong thời
gian tới, doanh nghiệp cần xác định cho mình định hướng rõ ràng, thực hiện
các hoạt động đầu tư hợp lí và có mục tiêu xác định.
1. Thay đổi quan điểm, chiến lƣợc kinh doanh trong thời kì hội
nhập
Gia nhập WTO đã đánh một dấu mốc quan trọng trong tiến trình hội
nhập quốc tế của Việt Nam. Việt Nam trở thành thành viên chính thức của
WTO đồng nghĩa với việc cạnh tranh trong nước ngày càng khắc nghiệt. Các
doanh nghiệp phải thay đổi để có thể cạnh tranh được với sự xâm nhập của
các doanh nghiệp nước ngoài vốn rất mạnh về tiềm lực kinh tế và kinh
nghiệm kinh doanh. Trong điều kiện hiện nay, thay đổi cách nghĩ, chiến lược
kinh doanh là điều kiện cần thiết cho sự tồn tại của doanh nghiệp. Họ cần đặt
hoạt động của mình hướng về thị trường, hướng về khách hàng: bán những
thứ thị truờng cần chứ không phải bán những gì mình có. Hàng hoá sản xuất
phải đạt mục tiêu đảm bảo chất lượng, thoả mãn nhu cầu khách hàng bằng
việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về quản lí chất lượng hàng hoá.
Hơn nữa, quản trị doanh nghiệp trong tình hình mới cũng đòi hỏi các
nhà quản trị có tầm nhìn rộng hơn, linh hoạt hơn, phản ứng nhanh hơn với
những diễn biến phức tạp liên tục của thị trường. Các nhà quản trị nên lưu ý
những tín hiệu do Nhà nước phát ra thông qua chính sách, chiến lược phát
triển để tận dụng được những ưu đãi của Nhà nước đối với doanh nghiệp.
94
Qua đó, doanh nghiệp tăng hiệu quả sản xuất, hiệu quả xuất khẩu và tối đa
hoá lợi nhuận. Trên thực tế, việc sản xuất, xuất khẩu những mặt hàng đã qua
chế biến sâu, các mặt hàng có hàm lượng vốn và công nghệ cao đem lợi
nhuận trực tiếp về cho doanh nghiệp.
2. Đầu tƣ vào khoa học công nghệ, hoạt động nghiên cứu (R&D) và
nguồn nhân lực
Các doanh nghiệp Việt Nam hầu hết là còn ở trình độ khoa học công
nghệ thấp, máy móc thiết bị lạc hậu, cũ kĩ. Do đó, sản phẩm sản xuất ra còn
chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Qua thực tế đó cho thấy phát
triển công nghệ là nhiệm vụ quan trọng của doanh nghiệp. Vì vòng đời sản
phẩm ngày càng rút ngắn và liên tục thay đổi, nhu cầu của khách hàng cũng
trở nên đa dạng và khắt khe hơn, cạnh tranh gay gắt buộc các doanh nghiệp
đua nhau hạ giá thành sản phẩm, cải tiến mẫu mã. Để có thể làm được điều
này, các doanh nghiệp buộc phải thay đổi công nghệ của mình, áp dụng công
nghệ mới theo kịp với xu hướng chung của thế giới. Doanh nghiệp cần dành
ra một khoản nhất định cho việc nghiên cứu, tìm tòi, nâng cao chất lượng, cải
tiến mẫu mã hàng hoá, đồng thời nhập khẩu công nghệ kĩ thuật mới từ nước
ngoài. Bên cạnh đó, ứng dụng thương mại điện tử vào quá trình kinh doanh
cũng là một yếu tố cần thiết đối với các doanh nghiệp xuất khẩu. Nó giúp cho
quá trình giao dịch của doanh nghiệp với đối tác, với khách hàng thuận tiện
hơn và tiết kiệm chi phí. Doanh nghiệp có thể ứng dụng thương mại điện tử
bằng cách: lập website riêng nếu doanh nghiệp đủ tiềm lực tài chính hoặc
tham gia vào “Hệ thống thư viện Catalogue doanh nghiệp và sản phẩm hàng
hoá trên thị trường Việt Nam” do phòng Công nghiệp và Thương mại Việt
Nam - VCCI và Bộ Văn hoá thông tin phối hợp thành lập. Ngoài ra, doanh
nghiệp có thể kinh doanh trực tuyến từ doanh nghiệp tới khách hàng B2C qua
chương trình cầu nối thương mại điện tử của VIETTRADE, hoặc tham gia
sàn giao dịch thương mại điện tử www.vnemart.com của VCCI.
Trong xu thế hiện nay, lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp chủ yếu dựa
vào việc tạo ra các đầu vào cao cấp và chuyên ngành. Đó là, tính độc đáo của
sản phẩm và công nghệ, cơ sở hạ tầng hiện đại, lao động có tay nghề và trình
95
độ cao. Trong đó, lao động là yếu tố quan trọng, có tính quyết định đến các
đầu vào khác. Tuy nhiên, doanh nghiệp phải là người chủ động trong hoạt
động đầu tư nguồn nhân lực cho đơn vị mình. Vì chỉ chính doanh nghiệp mới
hiểu rõ đặc thù cũng như những kĩ năng mà người lao động của mình cần có.
Nhà nước chỉ có thể hỗ trợ phần nào về mặt cơ chế chính sách để tạo ra sự
thuận lợi hơn cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể đào tạo nguồn nhân lực
cho mình bằng cách mời chuyên gia có trình độ về giảng dạy hoặc cử các cán
bộ có năng lực đi học để bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ.
Hiện nay, trình độ kỹ thuật, công nghệ của Việt Nam còn lạc hậu so với
thế giới từ 10 - 20 năm. Phần lớn các doanh nghiệp được trang bị máy móc
thiết bị có nguồn gốc từ Liên Xô cũ và các nước Đông Âu, các nước
ASEAN, Bắc Âu và các nước khác thuộc các thế hệ khác nhau. Đó là một
trong những nguyên nhân làm cho chất lượng sản phẩm - dịch vụ thấp và
không ổn định. Hơn nữa, công nghệ thấp cũng làm cho doanh nghiệp khó
khăn trong việc tái đầu tư nâng cao công nghệ và mở rộng sản xuất, gia công
chế biến. Điều đó tất yếu sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên
thương trường, khiến cho giá trị kinh tế thu về ngày càng thấp.
Chính vì thế, các việc cần phải làm ngay là:
- Phát triển mạnh hình thức chuyển giao công nghệ từ DCs (nước phát
triển – developed countries) sang LDCs (nước kém phát triển - less
developed countries) và không nhất thiết phải là những máy móc thiết bị hiện
đại, tối tân mà cốt yếu là phải phù hợp với trình độ, khả năng sản xuất trong
nước.
- Nhanh chóng triển khai công tác đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với
quá trình hội nhập quốc tế, nâng cao tay nghề cho người lao động, nhằm
thích ứng với việc đổi mới công nghệ hiện đại.
3. Nâng cao chất lƣợng hàng xuất khẩu
Trong quá trình đổi mới, chất lượng hàng xuất khẩu là một đòi hỏi
khách quan bức bách, là mục tiêu có ý nghĩa chiến lược, đồng thời là phương
tiện cơ bản để đảm bảo cho sự phát triển kinh tế - xã hội được đúng hướng,
96
vững chắc và đạt hiệu quả cao. Vì vậy, trong thời gian tới cần có các giải
pháp nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu, cụ thể như sau:
3.1. Đa dạng về mẫu mã, phong phú về chủng loại sản phẩm.
Đây là một việc làm thiết thực, cần phải hành động ngay vì:
- Một mặt, nhằm thoả mãn nhu cầu, đáp ứng thị hiếu của các khu vực
khác nhau trên thế giới.
- Mặt khác, trên thương trường quốc tế, cạnh tranh là điều khó tránh
khỏi giữa các nước, các doanh nghiệp xuất khẩu về cơ cấu mặt hàng, chất
lượng và giá cả sản phẩm, nhất là trong điều kiện hội nhập ngày nay. Trong
thời gian qua, hàng hoá của Việt Nam liên tục phải chịu sức ép từ phía hàng
Trung Quốc trên cùng một thị trường xuất khẩu do chất lượng tốt hơn, giá cả
rẻ hơn, mẫu mã đẹp, chủng loại phong phú.
Trước tình hình trên, những biện pháp cần phải thực thi là:
Phải có sự phối hợp giữa Nhà nước và doanh nghiệp nhằm thu thập
thông tin, hỗ trợ cho việc sản xuất hàng xuất khẩu, đáp ứng thị hiếu, khả
năng thu nhập của khách hàng, phong tục tập quán ở các thị trường mà Việt
Nam dự định thâm nhập. Qua đó, phát triển mạnh các loại hình dịch vụ hỗ trợ
cho xuất khẩu.
Hiện nay, có rất nhiều doanh nghiệp đòi hỏi Nhà nước phải “cung cấp
đầy đủ thông tin” cho họ. Thực ra, cái mà doanh nghiệp cần không phải là
thông tin mà là kết quả phân tích thông tin. Các câu hỏi mà doanh nghiệp
thường xuyên đặt ra là: nên trồng dứa hay trồng sắn, nên đầu tư vào nước quả
hay mỳ ăn liền, nếu cần xuất khẩu chôm chôm thì tìm khách hàng ở đâu, giá
cà phê liệu sang năm sẽ lên hay xuống... Đấy là những câu hỏi không đúng
địa chỉ. Địa chỉ đúng phải là các công ty chuyên phân tích thông tin và làm
dịch vụ tư vấn cho doanh nghiệp. Trong hoàn cảnh loại hình dịch vụ trên còn
chưa phát triển, Nhà nước có thể cố gắng làm thay thế để đáp ứng nhu cầu
bức xúc của các doanh nhân. Tuy nhiên, việc làm thay đó không thể kéo dài
bởi sẽ gây tâm lý ỷ lại từ phía doanh nghiệp, tư duy kinh doanh thụ động, chờ
đợi thông tin, chờ đợi khách hàng sẽ ngày càng phát triển. Biện pháp tốt nhất
là có chính sách khuyến khích phát triển các loại hình dịch vụ hỗ trợ cho hoạt
97
động xuất khẩu, kể cả mở cửa thị trường cho các công ty cung ứng dịch vụ
nước ngoài để nhanh chóng phát triển các loại hình dịch vụ này.
Xây dựng mạng lưới vệ tinh cung cấp nguyên vật liệu, bán thành
phẩm. Đặc biệt cần chú ý đến nguồn nguyên liệu tại chỗ với giá rẻ, rủi ro ít
hơn để thay thế nguyên vật liệu nhập khẩu.
Cần quan tâm đến chiến lược hàng hoá của các đối thủ cạnh tranh,
nghiên cứu sản phẩm của đối thủ, từ chỗ học tập kinh nghiệm đến việc đổi
mới, khác biệt hoá sản phẩm.
3.2. Hàng hoá sản xuất ra phải phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và
đảm bảo vệ sinh an toàn.
Một điều dễ nhận thấy là hàng xuất khẩu của Việt Nam rất khó xâm
nhập vào những thị trường “khó tính” như EU, Nhật Bản, Mỹ... do chưa đáp
ứng được tiêu chuẩn của các thị trường này. Nếu hàng của ta có khả năng tiêu
thụ tốt ở nhóm thị trường này thì giá trị thu về sẽ lớn hơn rất nhiều; thị
trường được mở rộng, ổn định; vị thế cạnh tranh trên trường quốc tế ngày
càng được củng cố thông qua sự tín nhiệm của khách hàng, khối lượng hàng
xuất khẩu tăng; mặt khác sẽ tránh bị kiện tụng, hàng hoá bị trả lại gây thiệt
hại cho cả doanh nghiệp, người tiêu dùng và Nhà nước.
Các giải pháp cần thiết là:
Chất lượng sản phẩm tạo ra phải được bảo đảm trong suốt chu trình
sống của sản phẩm, với sự đóng góp của tất cả các yếu tố có liên quan, chứ
không phải chỉ do kiểm tra mà có.
Áp dụng hệ thống quản lý tiêu chuẩn đo lường chất lượng vào các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu và các tổ chức khác. Coi
đó là công cụ quản lý không thể thiếu được nhằm thoả mãn nhu cầu người
tiêu dùng, để bán được sản phẩm và dịch vụ, để đạt được sự tín nhiệm của
khách hàng, để hỗ trợ phát triển sản xuất và xuất khẩu.
Bảo đảm an toàn thực phẩm
Đây là vấn đề mới nổi lên trong thời gian gần đây và có thể ảnh hưởng
nghiêm trọng đến xuất khẩu nông thuỷ sản của ta, đặc biệt là thuỷ sản. Nếu
98
không giải quyết vấn đề này một cách quyết liệt và triệt để thì hậu quả sẽ rất
lớn, hàng Việt Nam sẽ bị mất uy tín trên nhiều thị trường chính.
Một số giải pháp chủ yếu là:
- Nghiêm cấm sử dụng các loại kháng sinh, hoá chất trong danh mục
cấm sử dụng của Bộ Thuỷ sản và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
trong tất cả các khâu từ nhập khẩu, sản xuất cho đến lưu thông, bảo quản và
vận chuyển sản phẩm.
- Các cơ quan Hải quan, Biên phòng cần tăng cường kiểm tra, kiểm
soát ở các cửa khẩu đối với loại hàng này.
- Các nhà máy chế biến thực phẩm xuất khẩu phải đáp ứng được các
tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm.
4. Tăng cƣờng hoạt động nghiên cứu thị trƣờng và xúc tiến xuất
khẩu
Nghiên cứu thị trường là hoạt động quan trọng và cơ bản để xác định
nhu cầu của khách hàng, quy mô và đặc tính của thị trường, mối tương quan
giữa doanh nghiệp với các đối thủ cạnh tranh, và hàng hoá. Từ đó, lựa chọn
thị trường mục tiêu và xây dựng chiến lược marketing phù hợp (chính sách
4P). Hoạt động này của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn đang còn
yếu. Doanh nghiệp của ta thu thập thông tin về thị trường nước ngoài chủ yếu
thông qua Internet, các đại diện thương mại của Việt Nam tại nước ngoài.
Các nguồn tin này thường khá chung chung và khó xác định được tính chân
thực của chúng. Vì vậy, doanh nghiệp cần tăng cường hoạt động nghiên cứu
thị trường bằng cách đầu tư cho hoạt động này, đào tạo một đội ngũ chuyên
phụ trách về vấn đề này có khả năng và trình độ ngoại ngữ, nếu tốt hơn thì có
thể thành lập văn phòng đại diện ở nước ngoài làm đầu mối cho nghiên cứu
thị trường nước sở tại.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần có chính sách xúc tiến xuất khẩu phù
hợp. Khi doanh nghiệp đã có được sản phẩm phù hợp với yêu cầu thị trường
thì cần phải có hoạt động xúc tiến để khách hàng biết đến và sản phẩm được
tiêu thụ. Tuỳ vào tính chất của sản phẩm và mức độ xuất hiện trên thị trường
mà chúng ta có những chính sách xúc tiến khác nhau cho phù hợp. Doanh
99
nghiệp có thể tham gia xúc tiến xuất khẩu dưới nhiều hình thức như đại diện
thường trú, văn phòng liên lạc, đại diện uỷ thác, công ty liên doanh... Nhưng
trong điều kiện hiện nay doanh nghiệp nên chú ý tới trưng bày sản phẩm tại
các trung tâm thương mại của Việt Nam đặt tại nước ngoài, tham gia các hội
chợ triển lãm thương mại...
Xúc tiến xuất khẩu có vai trò quan trọng trong việc cải thiện khả năng
cạnh tranh và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh
nghiệp, đảm bảo thực hiện mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu của đất nước, mở
rộng thị trường xuất khẩu nhằm quảng bá sản phẩm và khẳng định vị thế của
hàng xuất khẩu Việt Nam trên trường quốc tế.
Ở cấp doanh nghiệp (vi mô), hoạt động xúc tiến xuất khẩu gồm:
- Đẩy mạnh tiếp thị để kịp thời nắm bắt xu thế thị trường, bám sát các
thay đổi trong sản xuất và kinh doanh, tiến hành quảng cáo để bán hàng ra
nước ngoài.
- Trực tiếp và thường xuyên tiếp xúc với thị trường thế giới thông qua
hội thảo khoa học, hội chợ triển lãm.
- Cử các đoàn cán bộ ra nước ngoài nghiên cứu thị trường hàng hoá,
thương nhân và chính sách nhập khẩu của nước mua hàng.
- Chủ động lo tìm bạn hàng, thị trường, lo tổ chức sản xuất và xuất
khẩu theo nhu cầu và thị hiếu của thị trường, tránh tư tưởng ỷ lại vào các cơ
quan quản lý Nhà nước.
- Đặc biệt chú trọng giữ “chữ tín” trong kinh doanh để duy trì chỗ
đứng trên thị trường.
- Phối hợp với nhau trong việc đi tìm và quan hệ với bạn hàng.
- Lập văn phòng đại diện ở nước ngoài hay ở các trung tâm thương
mại quốc tế lớn.
100
KẾT LUẬN
Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu là một bộ phận của cơ cấu kinh tế, bị chi
phối bởi cơ cấu của ngành kinh tế khác và nó được nghiên cứu dưới nhiều
tiêu thức, quan điểm khác nhau. Trong điều kiện tự do hoá thương mại và
bên cạnh đó cũng để chuẩn bị tiền đề đưa Việt Nam cơ bản trở thành một
nước công nghiệp vào năm 2020, đòi hỏi ngay từ bây giờ phải có định hướng
chiến lược và chính sách đổi mới cơ cấu các ngành kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá - hiện đại hoá. Vì vậy, đổi mới cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu sẽ
đóng góp một phần lớn trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung.
Đề tài “Xuất khẩu và chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam
trong thời gian tới” đã cố gắng phân tích, luận giải các nội dung nhằm mục
đích đổi mới cơ cấu để phát huy lợi thế cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu.
Từ lý luận, thực trạng và triển vọng về thị trường của Việt Nam trên con
đường tự do hoá thương mại, đề tài đã chỉ ra những tồn tại, cơ hội, thách thức
cần phải giải quyết trên con đường phát triển để tiến tới một nền kinh tế hàng
hoá hướng mạnh vào xuất khẩu, ngày càng nâng cao khả năng xuất khẩu
hàng hoá của Việt Nam ra thị trường khu vực và thế giới.
Mặc dù Việt Nam đã gia nhập WTO nhưng thời gian chính thức trở
thành thành viên của tổ chức này là mới (chỉ có 2 năm). Những gì tác động
của WTO cũng như việc gia nhập tổ chức này đối với cải biến hàng xuất
khẩu chưa đáng kể và cũng chưa có gì rõ rệt. Trong thời gian tới chuyển
dịch cơ cấu xuất khẩu sẽ ngày càng theo hướng tích cực hơn.
Tuy nhiên, khoảng cách giữa mong muốn và khả năng, giữa mục
tiêu và kết quả, giữa lý thuyết và thực tế lớn hay nhỏ sẽ phụ thuộc
không ít vào cách tiếp cận và giải quyết vấn đề đang đặt ra cho quá
trình phát triển kinh tế nói chung và sản xuất, xuất khẩu hàng hoá nói
riêng của Việt Nam từ nay đến năm 2010. Hy vọng rằng, Việt Nam với
những tiềm năng dồi dào sẵn có cả về đất đai, điều kiện tự nhiên và
nguồn lao động, với định hướng phát triển kinh tế đúng đắn của Đảng
và Nhà nước trong việc tăng cường, phát huy nội lực, chúng ta có trong
101
tay một lực lượng ngành hàng hùng hậu, đa dạng, đủ sức cạnh tranh
trên trường quốc tế.
102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban nghiên cứu & dự báo thị trường- Viện nghiện cứu thương mại, Báo
cáo tổng kết đánh giá 10 năm (2001 – 2010) thực hiện chiến lược xuất
nhập khẩu và xây dựng chiến lược phát triển xuất nhập khẩu trong 10
năm iếp theo (2011 – 2020).
2. Bộ Công Thương, Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ kế
hoạch năm 2008 và kế hoạch năm 2009 của ngành công thương.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo tình hình kinh tế – xã hội tháng 12 và cả
năm 2008, các giải pháp cần triển khai thực hiện trong quí I, 2009.
4. Bộ Công Thương (2000), Chiến lược phát triển xuất khẩu thời kì 2001 –
2010
5. Bộ Công Thương (2006), Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 –
2010.
6. Bộ Công Thương (2008), Kế hoạch phát triển xuất khẩu 2008.
7. Bộ Công Thương , Báo cáo Thương mại (các năm 2001, 2002, 2003,
2004, 2005, 2006, 2007).
8. TS. Trần Văn Hoà, TS. Nguyễn Văn Tuấn (2007), Giáo trình Thương mại
quốc tế, NXB Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
9. GS.TS Bùi Xuân Lưu, PGS.TS Nguyễn Hữu Khải (2006), Giáo trình
Kinh tế ngoại thương, NXB Lao động – xã hội.
10. .PGS., TS. Đặng Thị Loan, GS. TSKH Lê Du Phong, PGS. TS. Hoàng
Văn Hoa (2006), Kinh tế Việt Nam 20 năm đổi mới 1986 – 2006: Thành
tựu và những vấn đề đặt ra, NXB Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.
11. PGS.TS Nguyễn Hữu Khải, ThS. Đào Ngọc Tiến, ThS. Vũ Thị Hiền
(2007), Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam, NXB Thống
kê, Hà Nội.
12. GS.,TS.Nguyễn Văn Thường, Gs. TSKH Lê Du Phong (2006), Tổng kết
kinh tế Việt Nam2001 – 2005:Lý luận và thực tiễn, NXB Đại học Kinh tế
quốc dân, Hà Nội.
13. Trung tâm thông tin Kinh tế - Thương mại, Bộ Công Thương (2008), Tạp
chí Ngoại thương số 1,3,4+5 năm 2008.
103
14. Tổng cục Thống kê (2007), Niên giám Thống kê 2006, NXB Thống kê,
Hà Nội.
15. Lưu thị Anh Vân (2003), Đổi mới chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu
hàng hoá của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB
Thống kê, Hà Nội.
16. Văn kiện Đại hội Đảng IX, X.
17. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới, Tạp
chí những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới số 2 (142) 2008.
18. Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp, Bộ Công nghiệp,
Tuần tin chiến lược, chính sách công nghiệp số 12/2007, chuyên đề: Công
nghiệp phụ trợ.
19. Viện nghiên cứu Chiến lược, chính sách công nghiệp, Bộ Công thương,
Tuần tin công nghiệp – Thương mại Việt Nam số 08 từ ngày 18/ 02/ 2008.
Các website
20.
21.
_xuat_khau_nam_2009.html
22.
23.
11049915
24.
104
79/Default.aspx
3409/Default.aspx
25.
26.
day-manh-xuat-khau-hang-dien-tu-va-linh-kien-may-tinh-den-nam-
2010/22320.136138.html
te-2009/kim-ngach-xuat-khau-ca-phe-nam-2009-se-giam/26477.s_33.1.html
kinh-te-2009/kim-ngach-xuat-khau-ca-phe-nam-2009-se-
giam/26477.s_33.1.html
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4716_9465.pdf