Đề tài Ý nghĩa của nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc

A. ĐẶT VẤN ĐỀ Pháp luật nước ta đã quy định tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động nhân danh quyền lực của Nhà nước để tuyên một bản án kết tội hay không kết tội bị cáo. Phán quyết của Tòa án ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do đó, yêu cầu tối cao và cũng là cái mốc để đánh giá hiệu quả của công tác xét xử là phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không xử oan người vô tội. Do đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã ghi nhận điều này vào các nguyên tắc cơ bản và Điều 16 quy định “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Tuy nhiên trên thực tế, không phải khi nào nguyên tắc này cũng được hiểu đúng, đầy đủ và thực hiện triệt để. Trong bài luận này chúng ta sẽ cùng đi sâu phân tích ý nghĩa của nguyên tắc và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc. B. NỘI DUNG I. Lý luận về nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” 1. Cơ sở pháp lý của nguyên tắc 2. Nội dung của nguyên tắc 3. Ý nghĩa của nguyên tắc II. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. 1. Thực trạng áp dụng nguyên tắc. 2. Một số giải pháp nhằm áp dụng hiệu quả nguyên tắc trên thực tế C. KẾT LUẬN Danh mục tài liệu tham khảo

docx15 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2671 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Ý nghĩa của nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. ĐẶT VẤN ĐỀ Pháp luật nước ta đã quy định tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động nhân danh quyền lực của Nhà nước để tuyên một bản án kết tội hay không kết tội bị cáo. Phán quyết của Tòa án ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do đó, yêu cầu tối cao và cũng là cái mốc để đánh giá hiệu quả của công tác xét xử là phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không xử oan người vô tội. Do đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã ghi nhận điều này vào các nguyên tắc cơ bản và Điều 16 quy định “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Tuy nhiên trên thực tế, không phải khi nào nguyên tắc này cũng được hiểu đúng, đầy đủ và thực hiện triệt để. Trong bài luận này chúng ta sẽ cùng đi sâu phân tích ý nghĩa của nguyên tắc và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc. B. NỘI DUNG I. Lý luận về nguyên tắc “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” 1. Cơ sở pháp lý của nguyên tắc Sau cách mạng tháng Tám thành công, ngày 24/1/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 13/SL về tổ chức tòa án và các ngạch thẩm phán, trong đó có quy định: “Tòa án tư pháp sẽ độc lập với cơ quan hành chính, các quy định thẩm phán sẽ chỉ trong pháp luật và công lý. Các cơ quan khác không được can thiệp vào tư pháp. Mỗi thẩm phán quyết định theo pháp luật và lương tâm của mình không quyền lực nào được can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào công việc xử án”. Mặt khác, Sắc lệnh số 13/SL còn quy định “Các phụ thẩm nhân dân có bổn phận lấy lý trí sáng suốt và lương tâm ngay thẳng ra xét mọi việc rồi phát biểu ý kiến một các công bằng, không vì nể, vì sợ một thế lực nào, vì lợi ích riêng hay tư thù mà bênh vực hay làm hại ai”. Điều 69 Hiến pháp năm 1946 cũng quy định “Trong khi xét xử các thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp”. Hiến pháp năm 1959 ra đời nguyên tắc này chỉ được ghi nhận một cách rõ nét hơn: “Khi xét xử tòa án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” (Điều 100 Hiến pháp năm 1959 và Điều 4 Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1960). Trên cơ sở hiến pháp năm 1980, luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1981 và Bộ luật tố tụng hình sự được ban hành. Nguyên tắc này được khẳng định cụ thể hơn: “ Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Hiến pháp năm 1992 ra đời, một lần nữa nguyên tắc này được khẳng định một cách rộng rãi hơn ( Điều 130 Hiến pháp 1992, Điều 5 luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1992 và Điều 3 pháp lệnh về thẩm phán và hội thẩm nhân dân…). Điều 16 BLTTHS năm 2003 cũng ghi nhận nguyên tắc này: “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. 2. Nội dung của nguyên tắc a. Thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập. Thứ nhất là độc lập với các chủ thể khác của Tòa án. Mối quan hệ giữa thẩm phán, hội thẩm và nội bộ ngành Tòa án được thể hiện ở mối quan hệ giữa thẩm phán và chánh án và các đồng nghiệp cùng tòa án, quan hệ giữa hội thẩm và chánh án tòa án nơi hội thẩm tham gia xét xử… Chánh án là người đứng đầu cơ quan, vừa sử dụng cán bộ đồng thời cũng là người quản lí cán bộ trong đơn vị mình. Mà hội thẩm và thẩm phán lại là người chịu sự quản lí của chánh án và tòa án cấp trên. Thông qua công tác tổ chức, kiểm tra, xét xử như họp bàn án trước khi xét xử, phân công thẩm phán và hội thẩm xét xử vu án, chánh án có tác động đến hoạt động xét xử của thẩm phán và hội thẩm. Mặc dù pháp luật đã quy định khi hủy bản án để xét xử sơ thẩm lại, tòa án cấp phúc thẩm không được quy định trước những chứng cứ mà tòa án cấp sơ thẩm cần phải chấp nhận hoặc bác bỏ cũng như không quy định trước về điều khoản BLHS và hình phạt mà tòa án cấp sơ thẩm sẽ phải áp dụng những việc Tòa cấp trên hủy án Tòa cấp dưới, cũng ảnh hưởng tới tính độc lập của thẩm phán và hội thẩm. Chính vì vậy, thẩm phán và hội thẩm phải có chính kiến, quan điểm của mình trong việc đánh giá chứng cứ, xác định tội danh, mức hình phạt và giải quyết các vấn đề khác dựa trên quy định của pháp luật, đảm bảo việc xét xử công bằng, khách quan. Khi án bị hủy bỏ xét xử sơ thẩm lại, hội đồng xét xử cũng cần phải tỉnh táo để xem xét lại nguyên nhân mà tòa án cấp trên hủy, xem xét toàn diện các chứng cứ, thông tin có phù hợp với thực tế khách quan hay không để xét xử lại đúng pháp luật, không phụ thuộc vào kết quả bị hủy.Nếu cấp trên hủy đúng cần xem xét để xét xử lại cho chính xác, nếu cấp trên hủy sai thì phải bảo vệ chính kiến, quan điểm của hội đồng xét xử, miễn sao bản án, quy định phải có căn cứ và hợp pháp. Thứ hai là độc lập với sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng. Đảng lãnh đạo cơ quan tư pháp, trong đó có Tòa án thông qua cấp ủy. Đó là quan hệ chính trị giữa tổ chức Đảng với cơ quan trong bộ máy nhà nước. Đảng không chỉ đạo, xét xử từng vụ án cụ thể. “ Đảng không cho phép bất cứ ai dựa vào quyền thế để làm trái với pháp luật, mọi vi phạm đều được đưa ra xử lí theo pháp luật, dân thì phải chịu hình phạt, quan thì theo lễ”. Đối với hoạt động của tòa án nhân dân, Đảng có chủ trương là xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Sự chỉ đạo để hoạt động xét xử đảm bảo tính nghiêm minh là cần thiết, không ảnh hưởng đến việc xét xử độc lập của thẩm phán và hội thẩm. Ý kiến của cấp ủy Đảng trong việc bổ nhiệm và tái bổ nhiệm thẩm phán cũng dựa trên những quy định về tiêu chuẩn bổ nhiệm và tái bổ nhiệm thẩm phán chứ không phải là yếu tố quy định. Nguyên tắc lãnh đạo của Đảng không mâu thuẫn với sự độc lập xét xử của thẩm phán và hội thẩm. Song thực tế, chế độ đảng lãnh đạo Nhà nước, trong đó có các cơ quan, đơn vị, vị trí của cấp ủy Đảng trong việc tuyển chọn và bổ nhiệm thẩm phán, rõ ràng sẽ ảnh hưởng đến sự độc lập của thẩm phán khi có sự tác động của cấp ủy Đảng. Chính vì vậy, thẩm phán và hội thẩm phải nhận thức đúng sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động tư pháp để đảm bảo sự độc lập xét xử. Thứ ba: độc lập với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hồ sơ trong vụ án hình sự là tài liệu đầu tiên để thẩm phán và hội thẩm tiến hành xem xét, đánh giá việc có hành vi phạm tội hay không, phạm tội gì và được quy định ở những khung hình phạt nàoĐộc lập đối với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án là việc thẩm phán và hội thẩm trên cơ sở đánh giá tính chính xác của các thông tin, kiểm tra lại tính xác thực, đúng đắn của quyết định truy tố, từ đó đưa ra các quan điểm chứng minh tội phạm của hội đồng xét xử, các tình tiết, thông tin thu thập được phải phù hợp với hiện thực khách quan. Thứ tư: Độc lập với yêu cầu của những người tham gia tố tụng, với dư luân và với cơ quan báo chí. Phán quyết của tòa án bao giờ cũng làm xuất hiện những mâu thuẫn với lợi ích giữa bị cáo và người bị hại, giữa nguyên đơn dân sự và bị đơn dân sự, giữa Nhà nước và người phạm tội. Xử đúng pháp luật hay là xử theo xu hướng dư luận báo chí yêu cầu hay vì lợi ích của người bị hại. Xử đúng chưa chắc được dư luận đồng tình, lại có thể không đảm bảo theo yêu cầu của một số người tham gia tố tụng. Vậy, thẩm phán và hội thẩm cần xét xử độc lập với yêu của của người tham gia tố tụng, với báo chí, với dư luận, nghĩa là việc xét xử chỉ dựa trên những chứng cứ, những quy định của pháp luật, không phụ thuộc vào những người nói trên. Thứ năm là độc lập giữa các thành viên của hội đồng xét xử. Khi xét xử, hội thẩm ngang quyền với thẩm phán. Việc đánh giá chứng cứ, kết luận được thực hiện một cách độc lập, thẩm phán không được phép chỉ đạo cho hội thẩm trong việc định tội danh, quyết định hình phạt. Hội thẩm cũng không được có thái độ ỷ lại thẩm phán mà phải tích cực, chủ động và có trách nhiệm trong hoạt động chứng minh tội phạm. b. Thẩm phán và hội thẩm xét xử chỉ tuân theo pháp luật. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập không có nghĩa là xét xử tùy tiện mà độc lập trong khuôn khổ pháp luật. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải dựa vào các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án, chứ không được áp đặt ý chí chủ quan của mình. Điều này đòi hỏi có tính chất bắt buộc đối với Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Việc xét xử phải theo đúng thẩm quyền được quy định trong pháp luật và chỉ xét xử những bị cáo, những hành vi theo tội danh mà Viện Kiểm sát đã truy tố và tòa án đã quyết định đưa ra xét xử. Hội đồng xét xử phải tôn trọng các quyền của những người tiến hành tố tụng về việc đưa ra chứng cứ, đưa ra yêu cầu và tranh luận trước tòa. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử cần nắm chắc làm đúng theo trình tự thủ tục mà pháp luật quy định, bắt đầu phiên tòa đến khi kết thúc phiên tòa. Vì vậy, thẩm phán và hội thẩm cần phát huy nhưng quyền năng của mình để quyết định các vấn đề của vụ án một cách khách quan, chính xác trên cơ sở những quy định của pháp luật. c. Mối quan hệ giữa “độc lập” và “chỉ tuân theo pháp luật” Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ và ràng buộc với nhau. Độc lập là điều cần cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử. Tuân theo pháp luật là cơ sở không thể thiếu để Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập khi xét xử. Nếu chỉ độc lập mà không tuân theo pháp luật thì dễ dẫn đến xét xử tùy tiện, độc đoán. 3. Ý nghĩa của nguyên tắc Thứ nhất độc lập xét xử là một nguyên tắc đặc thù, mang tính chất riêng trong tố tụng hình sự.tuy nhiên, nguyên tắc này là một nguyên tắc hiến định cho mọi thủ tục tố tụng ở nước ta nhưng ở mỗi thủ tục tố tụng của mỗi ngành luật khác nhau thì nguyên tắc này lại mang tính chất khác nhau. Ở tố tụng hình sự, nguyên tắc độc lập xét xử mang tính chất tuyệt đối. Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm sẽ dựa vào những căn cứ hợp lý để dưa ra quyết định hoặc bản án mà không phụ thuộc vào ý kiến của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hay yêu cầu thỏa thuận của người bị hại, bị cáo... Chỉ có tòa án mới có quyền quyết định một người nào đó có tội hay không. Như vậy, sự độc lập trong xét xử trong tố tụng hình sự là bắt buộc, nó thể hiện tính chất cứng rắn triệt để theo tinh thần: “Mọi hành vi phạm tội được phát hiện xử lý nghiêm minh và kịp thời”. Thứ hai, về ý nghĩa chính trị, xã hội. Nguyên tắc này đảm bảo cho thẩm phán và hội thẩm trong quá trình giải quyết vụ án không bị rang buộc bởi bất kỳ yếu ttos nào khác ngoài pháp luật, loại trừ mọi sự can thiệp từ các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức xã hội và mọi công dân vào hoạt đọng xét xử của tòa án. Nguyên tắc này cũng là một trong những yếu tố để thực hiện công bằng xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mọi công dân đều sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Các quyền cơ bản của mỗi con người trong xã hội sẽ được đảm bảo khi những người cầm cân nảy mực thực sự độc lập xét xử những hành vi vi phạm các quyền đó. Độc lập xét xử cũng là một điều quan trọng để đảm bảo sự thành công trong việc phòng chống tham nhũng bởi lẽ những kẻ tham nhũng sẽ không có cơ hội được bao che dưới sự can thiệp hay tác động vào quá trình xét xử của tòa án. Thứ ba, về ý nghĩa pháp lý, nguyên tắc: “Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” là cơ sở đảm bảo cho Hiến pháp và pháp luât được thực thi một cách nghiêm túc trong đời sống bởi những người thi hành pháp luật và những người xét xử hành vi vi phạm pháp luật Thứ tư, về ý nghĩa với hoạt động thực tiễn. Việc nghiên cứu và tìm hiểu nội nội dung của nguyên tắc này cho thấy nó không chỉ xác định được nhiệm vụ và nâng cao tinh thần trách nhiệm của hội đồng xét xử, buộc họ phải khách quan, vô tư, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, mà còn tạo tiền đề quan trọng cho việc thực hiện hàng loạt các nguyên tắc khác II. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. 1. Thực trạng áp dụng nguyên tắc. Trên thực tế, nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử và chỉ tuân theo pháp luật được các chủ thể của hoạt động xét xử tuân thủ và ngày càng phát huy ý nghĩa tích cực của nó, đảm bảo hoạt động xét xử của Tòa án được khách quan, đúng pháp luật hạn chế mức tối đa án oan sai, thiếu chính xác. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn những biểu hiện tiêu cực, ảnh hưởng đến chất lượng xét xử, xâm hại đến quyền và lợi ích của công dân, gây dư luận xấu và bất bình trọng quần chúng nhân dân. Hoạt động xét xử chủ yếu là hoạt động của Thẩm phán, Hội thẩm chưa phát huy hết quyền năng được giao khi thực hiện nhiệm vụ. Theo quy định của pháp luật, vai trò vị trí của Hội thẩm chỉ phát sinh kể từ thời điểm Chánh án phân công và Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Kể từ đây, Hội thẩm được quyền nghiên cứu hồ sơ để xác định thẩm quyền xét xử, hành vi phạm tội và những tình tiết có liên quan khác. Tại phiên tòa, cũng như thẩm phán, Tòa án có quyền xét hỏi để làm rõ các tình tiết khách quan của vụ án, được thảo luận, biểu quyết. Sau khi nghị án, một thành viên trong Hội đồng thẩm phán tuyên bản án chính đã được thông qua. Song, thông thường, đối với những vụ án không phức tạp, Hội thẩm chỉ nghiên cứu đến hồ sơ một buổi sát ngay mở phiên tòa, thậm chí chỉ đến nghiên cứu cáo trạng hoặc không nghiên cứu hồ sơ nhưng vẫn tiến hành hoạt động xét xử. Điều này khiến cho việc triển khai mô hình điều tra, đánh giá chứng cứ gặp nhiều lúng túng. Do đó, khi tham gia xét hỏi, Thẩm phán chủ tọa nắm vai trò “độc diễn”, hỏi hết các vấn đề, trong khi Hội thẩm thì không. Khi nghị án, Thẩm phán cũng là người đưa ra ý kiến gợi ý là nên giải quyết như thế nà và Thẩm phán là người biểu quyết theo. Như vậy, tính độc lập xét xử không được bảo đảm, dẫn đến tình trạng Hội thẩm tham gia xét xử chỉ là hình thức, mọi phán quyết đều phụ thuộc vào ý chí của Thẩm phán. Mặt khác, như chúng ta đã biết, tòa án nước ta không có chức năng điều tra, xây dựng hồ sơ án hình sự nên trong nhiều vụ án Hội đồng xét xử tin vào kết quả điều tra có trong hồ sơ vụ án mà có thành kiến bị cáo có tội, từ đó đặt những câu hỏi mang tính áp đặt buộc bị cáo khai đúng lời khai trước đó. Hơn nữa, không thể tránh khỏi những yếu tố tác động bện ngoài đến hoạt động xét xử. Ví dụ: nhiều Chánh án đã can thiệp cụ thể vào việc xét xử thông qua hoạt động họp bản án, lạm dụng sự chỉ đạo để tác động trái pháp luật vào hoạt động xét xử; cơ quan, các cấp ủy Đảng. Thực tế, các cơ quan, cá nhân tiến hành tố tụng tuy nói là độc lập nhưng họ vẫn phải giữ mối quan hệ tốt vớ các cơ quan khác. Bên cạnh đó, cơ quan báo chí, dư luận cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động xét xử. Những vụ án Tòa xét xử “nhẹ” hoặc chưa chính xác làm lợi cho một số người nhất định được báo chí “quan tâm”. Vấn đề đặt ra là nếu có kháng cáo, kháng nghị thì cấp sơ thẩm xét xử lại như thế nào. Có thể , thay vì phải quyết định mức phạt tương xứng với hành vi phạm tội thì dưới sức ép, ý kiến của dư luận, Hội đồng xét xử phải cân nhắc dẫn đến án có thể quá nặng hoặc quá nhẹ. Do số lượng ít, trình độ Thẩm phán và Hội thẩm nhìn chung còn yếu kém, có một bộ phận đạo đức nghề nghiệp giảm sút đã làm cho công tác xét xử chưa thực sự hiệu quả. Cơ chế tuyển chọn Thẩm phán và Hội thẩm còn nhiều bất cập dẫn đến tình trạng Thẩm phán và Hội thẩm xét xử thiếu độc lập, khách quan. Ngoài ra, còn phải kể đến là chế độ đãi ngộ về kinh tế - xã hội cho Thẩm phán và Hội thẩm chưa thực sự hợp lý. 2. Một số giải pháp nhằm áp dụng hiệu quả nguyên tắc trên thực tế Thứ nhất, phải hoàn thiện về pháp luật nói chung và các quy định có liên quan trực tiếp đến việc thực hiện các nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, không chồng chéo, mâu thuẫn với nhau; các văn bản hướng dẫn thi hành và giải thích luật phải kịp thời. Có như vậy mới tạo điều kiện cho Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân khi xét xử có cơ sở pháp lý vững chắc và chỉ tuân theo pháp luật. Thứ hai, các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, giữ gìn đạo đức, lương tâm nghề nghiệp. Các Thẩm phán phải được đào tạo và thường xuyên được cập nhật những kiến thức mới về tin học, ngoại ngữ, pháp luật quốc tế. Đồng thời, có tinh thần dũng cảm, dám đấu tranh cho sự công bằng, bảo vệ lẽ phải. Chỉ khi Thẩm phán có một trình độ chuyên môn cao với cái tâm trong sáng, tôn trọng sự công bằng, thì họ mới không bị chi phối bởi những suy nghĩ lệch lạc hoặc những tác động bên ngoài mang tính chất vụ lợi cá nhân. Khi đó, Thẩm phán sẽ có niềm tin nội tâm vững chắc để xét xử đúng pháp luật. Cùng với Thẩm phán, các Hội thẩm nhân dân cũng phải được bồi dưỡng tập huấn nâng cao kiến thức pháp luật, kỹ năng xét xử để đủ năng lực khi xét xử. Đổi mới quy trình bổ nhiệm Thẩm phán theo hướng rút ngắn thủ tục, giảm sự can thiệp của các cơ quan chính quyền địa phương. Nhiệm kỳ năm năm đối với Thẩm phán các cấp hiện nay là quá ngắn. Vì vậy, để Thẩm phán yên tâm công tác, tận dụng được tối đa kinh nghiệm xét xử và dám thể hiện bản lĩnh nghề nghiệp, cần kéo dài nhiệm kỳ của Thẩm phán. Cần hoàn thiện các quy định để nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán như quy định về kỷ luật, quy định về bãi miễn khi Thẩm phán vi phạm phẩm chất đạo đức hoặc năng lực xét xử yếu kém. Bởi vì, pháp luật quy định người Thẩm phán độc lập trong xét xử thì họ cũng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về những phán quyết của mình. Việc bổ nhiệm Hội thẩm cũng cần được xem xét lại. Vì khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với thẩm phán nên cần có sự quản lí chặt chẽ hơn với đội ngũ hội thẩm. Hội thẩm là người đại diện cho dân để tham gia xét xử nên Hội thẩm phải do nhân dân bầu chọn một cách công khai, dân chủ trên cơ sở lựa chọn những người có đủ tiêu chuẩn, năng lực. Thứ ba, xây dựng và củng cố các cơ quan, tổ chức, bổ trợ tư pháp vững mạnh. Thực tiễn xét xử cho thấy, hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp như luật sư, công chứng, giám định, hộ tịch… tuy không trực tiếp quyết định các bản án, nhưng sự khách quan, kịp thời, chính xác của các hoạt động bổ trợ tư pháp sẽ góp phần bảo đảm chất lượng xét xử của Tòa án. Nếu hoạt động bổ trợ tư pháp kém hiệu quả, sẽ dẫn đến sự sai lệch trong kết quả điều tra, truy tố và khi xét xử, Thẩm phán rất dễ sai lầm, đưa ra phán quyết không đúng pháp luật. Vì vậy, trong tiến trình cải cách tư pháp, phải hoàn thiện pháp luật về luật sư, công chứng, giám định, hộ tịch theo hướng công khai, minh bạch, đơn giản và thuận tiện cho người dân. Thứ tư, tăng cường vai trò giám sát của các Đoàn đại biểu Quốc hội, của Hội đồng nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án. Đồng thời, nâng cao chất lượng hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền, cung cấp thông tin về hoạt động xét xử. Thứ năm, tăng cường cơ sở vật chất, chế độ chính sách đối với Thẩm phán, cán bộ Tòa án. Nhà nước cần ưu tiên đầu tư xây dựng trụ sở, trang thiết bị, phương tiện làm việc cho các Tòa án; cần có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với Thẩm phán, cán bộ Tòa án để họ yên tâm công tác và tăng khả năng tự vệ phòng, chống tiêu cực trong hoạt động xét xử. Mặt khác, Nhà nước cần quy định chế độ bảo đảm an ninh đối cơ quan Tòa án, Thẩm phán và gia đình họ trong trường hợp thi hành công vụ. Thứ sáu, cần có chế tài áp dụng riêng dành cho các thẩm phán theo nguyên tắc khoa học, chế độ trách nhiệm rõ ràng, thể hiện rõ nguyên tắc dân chủ và bình đẳng, đảm bảo cả chất và lượng hoạt động, về uy tín của hệ thống tư pháp trong nhà nước XHCN để ngăn cản hiện tượng tiêu cực. Cuối cùng, đổi mới vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xét xử cũng cần được chú trọng như một giải pháp nâng cao tính độc lập của thẩm phán.Tính độc lập của Thẩm phán trong xét xử không phải là một vấn đề mới. Tuy nhiên, để hoàn thiện các định chế đảm bảo cho nguyên tắc hiến định này được thực hiện không phải là vấn đề đã được giải quyết trọn vẹn. Cho đến thời điểm hiện nay đây vẫn là vấn đề mà Đảng và Nhà nước ta đặc biệt coi trọng C. KẾT LUẬN Nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” được hình thành phát triển và được thử thách qua thực tiễn, là một nguyên tắc hiến định bắt buộc mọi tổ chức, mọi cơ quan phải chấp hành nghiêm chỉnh. Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm được độc lập xem xét và đưa ra ý kiến của mình, không bị phụ thuộc bởi bất cứ một cơ quan tổ chức hay cá nhân nào. Độc lập xét xử của thẩm phán và hội thẩm không có ý nghĩa là xét xử tùy tiện mà phải tuân theo quy định của pháp luật. Thực hiện tốt nguyên tắc này là đã góp phần cho hội đồng xét xử phải tiến hành xét xứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, ra bản án được khách quan chính xác để không kết án oan người vô tội đồng thời có mức hình phạt thích đáng đủ để cho người phạm tội có điều kiện cải tạo tốt thành người có ích cho xã hội. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Hiến pháp Việt Nam năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992. 2. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. 3. Pháp lệnh thẩm phán và hội thẩm tòa án nhân dân năm 2002. 4. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb.CAND, Hà Nội, 2008. 5. Viện khoa học pháp lý, Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005. 6. Từ Thị Hải Dương, Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2009. 7. Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyên tắc Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, Luận văn tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 1997. 8. Trần Văn Kiểm, “Bảo đảm nguyên tắc khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 1/2011. 9. Nguyễn Văn Tuân, “Bảo đảm nguyên tắc khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề 1/2011. 10. Các webside:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxÝ nghĩa của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc.docx
Luận văn liên quan