Trong bối cảnh internet đang trở nên ngày càng phổ biến và đóng vai trò
quan trọng trong cuộc sống của chúng ta hiện nay, việc triển khai hoạt động
marketing điện tử nhằm hỗ trợ phục vụ cho hoạt động kinh doanh là không thể
thiếu đối với các doanh nghiệp. Trong cả quá trình hoạch định chiến lƣợc
marketing, việc tìm hiểu cụ thể về nhu cầu của khách hàng thông qua việc giải mã
4 chữ P, bao gồm Product (sản phẩ m) – Price (giá cả) – Place (phân phối) –
Promotion (hỗ trợ và xúc tiến kinh doanh) là một khâu không thể thiếu đƣợc để
đạt đƣợc mục đích của cả chiến lƣợc marketing. Tại các nƣớc phát triển, các ứng
dụng của công nghệ đã lan đến những khía cạnh nhỏ nhặt nhất của đời sống, từ
việc đặt mua những mặt hàng nhu yếu phẩm hàng ngày cho đến việc tìm một cửa
hàng gần với vị trí của mình nhất.
88 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3250 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Yếu tố 4P trong marketing điện tử và việc triển khai tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2007 về trƣớc hệ thống
thanh toán điện tử hầu nhƣ chƣa phát triển, do đó gây tâm lí e ngại cho ngƣời
dùng khi sử dụng các dịch vụ mua bán trên môi trƣờng Internet. Tuy nhiên, từ
đầu năm 2007, một văn bản quan trọng liên quan đến thanh toán điện tử đã có
hiệu lực, đó là Quyết định số 291/2006/QD TTg ngày 29 tháng 12 năm 2006 của
Thủ tƣờng chính phủ phê duyệt đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn
2006-2010 và định hƣớng đến năm 2020. Ngay trong năm triển khai quyết định
này ngành ngân hàng đã đạt đƣợc nhiều thành tựu nổi bật. Trƣớc hết, toàn ngành
ngân hàng đã có 15 ngân hàng lắp đặt và đƣa vào sử dụng 4.300 máy rút tiền tự
động ATM, 24.000 máy POS. Hiện nay 29 ngân hàng trên cả nƣớc đã phát hành
gần 8,4 triệu thẻ thanh toán và thành lập lên các liên minh thẻ, tạo sự thuận tiện
cho ngƣời sử dụng. Trong khi đó, hệ thống các ngân hàng thành viên của
Smartlink và Banknetvn chiếm khoảng 90% thị phần thẻ cả nƣớc và đang liên kết
với nhau để từng bƣớc thống nhất toàn thị trƣờng thẻ. Các ngân hàng thƣơng mại
đã xây dựng lộ trình để chuyển dần từ công nghệ sử dụng thẻ từ sang công nghệ
chip điện tử. Một tín hiệu đáng mừng cho việc hỗ trợ thanh toán điện tử là hầu hết
các nghiệp vụ từ Ngân hàng Nhà nƣớc đến các ngân hàng thƣơng mại và các tổ
chức tín dụng đã đƣợc ứng dụng công nghệ thông tin. [15]
Yếu tố 4P trong marketing điện tử và việc triển khai tại Việt Nam
Bùi Kim Điệp - Nhật 1 - K43 ĐH Ngoại thương 61
Theo Báo cáo thƣơng mại điện tử năm 2007 của Bộ Công thƣơng, tính đến
hết năm 2007 cả nƣớc có 18 ngân hàng cung cấp dịch vụ thanh toán qua Internet
(Internet banking) và tin nhắn di động (SMS Banking). Thanh toán qua thẻ hay
POS đƣợc đƣa vào ứng dụng rộng rãi hơn với các chức năng ngày càng đa dạng.
Hiện tại các website B2C uy tín nhất Việt Nam đều cho phép ngƣời mua thanh
toán bằng thẻ với số lƣợng thẻ đƣợc chấp nhận ngày càng gia tăng. Đây là một
bƣớc tiến quan trọng giúp quá trình giao dịch trên mạng diễn ra nhanh chóng và
hiệu quả hơn,
III. Đánh giá chung về việc triển khai yếu tố 4P trong hoạt động
marketing điện tử tại Việt Nam
1. Kết quả đạt đƣợc
Một trong những kết quả khả quan cho thấy hiệu quả triển khai marketing
điện tử tại các doanh nghiệp Việt Nam đã đƣợc nâng cao là nhận thức của các
doanh nghiệp về tầm quan trọng của việc xúc tiến hoạt động kinh doanh qua
Internet đã đƣợc cải thiện rõ rệt. Trong năm 2007, tỉ lệ các doanh nghiệp xây
dựng và vận hành website tăng đều và đạt đến mức 38%, tức là cứ 10 doanh
nghiệp tham gia điều tra thì có tới 4 doanh nghiệp có website. Đồng thời, trong
năm 2007 đã có 10% các doanh nghiệp tham gia các sàn giao dịch điện tử (e-
marketplace), 82% có mạng cục bộ LAN và đáng lƣu ý nhất là có tới 97% doanh
nghiệp đã kết nối Internet với hình thức chủ yếu là băng thông rộng ADSL.
Tính đến hết năm 2007, tổng số website với tên miền.vn đã đƣợc đăng ký
lên đến 60.604, tăng gấp 4 lần so với năm 2005. Tỉ lệ doanh nghiệp có website
cao nhất là những doanh nghiệp thuộc ngành ngân hàng, tài chính (88,9%); du
lịch (65,2%); nông lâm thủy sản, chế biến thực phẩm (40,6%); dệt may, da giày
(40%)... Ngoài ra, còn xuất hiện nhiều doanh nghiệp kinh doanh thƣơng mại điện
tử chuyên nghiệp với khoảng 40 sàn B2B và 100 sàn B2C. [4]
Yếu tố 4P trong marketing điện tử và việc triển khai tại Việt Nam
Bùi Kim Điệp - Nhật 1 - K43 ĐH Ngoại thương 62
Theo khảo sát của Cục thƣơng mại điện tử và Công nghệ Thông tin, hơn
1/3 doanh nghiệp có doanh thu nhờ các đơn đặt hàng qua phƣơng tiện điện tử đạt
15% trở lên so với tổng doanh thu, trong khi năm 2005 chỉ dừng ở mức 8%.
Trong số 38 thành viên ký đƣợc 185 hợp đồng qua cổng thƣơng mại điện tử quốc
gia www.ecvn.com thì mỗi thành viên ký đƣợc hợp đồng với 5 doanh nghiệp tổng
giá trị đạt 53,2 tỉ đồng. Trong số những doanh nghiệp tham gia sàn giao dịch
thƣơng mại điện tử, có doanh nghiệp đã ký đƣợc hợp đồng xuất khẩu trị giá 9,6 tỉ
đồng. Có tới 63% doanh nghiệp tin tƣởng rằng doanh thu có đƣợc từ các đơn đặt
hàng qua giao dịch thƣơng mại điện tử sẽ tiếp tục tăng, giúp doanh nghiệp tăng vị
thế cạnh tranh trong kinh doanh.
Nhìn chung, trong những năm vừa qua hiệu quả đầu tƣ của các doanh
nghiệp cho hoạt động marketing điện tử khá cao và đang có xu hƣớng tiếp tục
tăng. Kết quả điều tra cho thấy trên một phần ba doanh nghiệp có doanh thu nhờ
các đơn đặt hàng qua phƣơng tiện điện tử ở mức 15% trở lên so với tổng doanh
thu. Nếu so sánh tỉ lệ này với tỉ lệ tƣơng ứng 8% của năm 2005 thì có thể thấy rõ
các doanh nghiệp đã nhận thức rõ đƣợc tầm quan trọng của việc xúc tiến hoạt
động kinh doanh bằng những phƣơng tiện điện tử và đã biết cách khai thác những
lợi ích tiềm tàng của ứng dụng Internet. Tín hiệu lạc quan nhất là có tới 63%
doanh nghiệp tin tƣởng rằng doanh thu có đƣợc từ các đơn đặt hàng sử dụng
phƣơng tiện điện tử sẽ tiếp tục tăng.
Kết quả trên có mối tƣơng quan mật thiết với tỉ trọng cũng nhƣ cơ cấu đầu
tƣ cho thƣơng mại điện tử. Chi phí đầu tƣ cho các hoạt động thƣơng mại điện tử
tăng mạnh, năm 2007 có tới 50% số doanh nghiệp tham gia điều tra trong báo cáo
thƣơng mại điện tử thƣờng niên của Bộ Công thƣơng (cao gấp ba lần tỉ lệ 18%
của năm 2005) cho biết đã dành trên 5% tổng chi phí hoạt động để đầu tƣ cho các
hoạt động marketing điện tử. Mặt khác, cơ cấu đầu tƣ trở nên hợp lí hơn với
Yếu tố 4P trong marketing điện tử và việc triển khai tại Việt Nam
Bùi Kim Điệp - Nhật 1 - K43 ĐH Ngoại thương 63
khoảng một nửa chi phí dành cho phần cứng và một phần năm dành cho đào tạo.
Cơ cấu đầu tƣ này cho thấy đã có sự chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức tới triển
khai thƣơng mại điện tử nếu so sánh với các năm trƣớc. Tuy nhiên, tỉ lệ đầu tƣ
cho phần mềm và giải pháp hầu nhƣ không thay đổi trong ba năm qua và chỉ
dừng lại ở mức 23%. Rõ ràng cần phải có sự nỗ lƣc rất lớn từ nhiều phía để nâng
cao tỉ lệ này, bởi lẽ các hoạt động thƣơng mại điện tử không thể phát huy hết khả
năng nếu không đƣợc triển khai trên nền tảng các phần mềm ứng dụng hiện đại.
Trong những năm vừa qua, một tín hiệu đáng mừng nữa cho hoạt động
marketing điện tử là việc thanh toán điện tử đã trở nên quen thuộc hơn đối với
phần đông ngƣời tiêu dùng. Đây là một trong những nét khởi sắc của thƣơng mại
điện tử Việt Nam năm 2007 với sự ra đời và phát triển của hàng loạt nhà cung cấp
dịch vụ. Tuy nhiên, cần một khoảng thời gian nhất định để những dịch vụ này có
thể thâm nhập và thực tiễn kinh doanh và phát huy tác dụng đối với hoạt động của
từng doanh nghiệp. Kết quả khảo sát cho thấy các phƣơng thức thanh toán ứng
dụng trong doanh nghiệp đang từng bƣớc chuyển biến theo hƣớng hiện đại hóa,
mặc dù chƣa có sự phát triển đột phá nào trong năm qua. Phƣơng thức thanh toán
tiền mặt khi giao hàng đang giảm dần vai trò, với tỉ lệ doanh nghiệp áp dụng giảm
từ 75% trong năm 2006 xuống 67% vào năm 2007. Tỉ lệ doanh nghiệp triển khai
thanh toán trực tuyến tăng từ 3% lên 4%, tuy nhiên đây vẫn là tỉ lệ rất thấp so với
mặt bằng chung của thế giới và so với yêu cầu thanh toán của thƣơng mại điện tử.
để giao dịch B2C có thể thực sự đi vào cuộc sống, các tiện ích thanh toán trực
tuyến cần đƣợc sớm hoàn thiện và đƣa vào ứng dụng đại trà trên các website
doanh nghiệp trong tƣơng lai gần.
2. Những vƣớng mắc còn tồn tại
Hiện nay những hoạt động e-marketing tại Việt Nam mới chỉ có những
bƣớc phát triển đầu tiên. Hoạt động marketing điện tử chƣa thực sự đóng vai trò
Yếu tố 4P trong marketing điện tử và việc triển khai tại Việt Nam
Bùi Kim Điệp - Nhật 1 - K43 ĐH Ngoại thương 64
quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, môi trƣờng ảo vẫn
tiềm ẩn những rủi ro khiến ngƣời tiêu dùng e ngại khi đƣa ra quyết định mua sắm
qua mạng. Có thể nói hiện nay hoạt động marketing điện tử nói riêng và hoạt
động thƣơng mại điện tử của Việt Nam còn tồn tại những khó khăn sau đây
2.1. Mức độ khai thác thông tin của website còn yếu
Hiện nay đa phần các website về thƣơng mại điện tử của Việt Nam mới chỉ
dừng lại ở việc khai thác các tính năng cơ bản nhƣ thăm dò khách hàng, quảng bá
về công ty hay giới thiệu thông tin về các mặt hàng, sản phẩm.
Bảng 10. Các tính năng của website tại Việt Nam
Tính năng của website 2006 2007
Giới thiệu doanh nghiệp 98,3% 84,5%
Giới thiệu sản phẩm 62,5% 79,4%
Giao dịch thƣơng mại điện tử 27,4% 36,7%
Thanh toán trực tuyến 3,2% 4,8%
Nguồn: Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam 2007, Bộ Công thương
Nhƣ vậy có thể thấy các website của doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu tập
trung vào việc giới thiệu các thông tin cơ bản về doanh nghiệp và về sản phẩm.
Các nội dung khác tập trung vào việc hƣớng dẫn qui trình giao dịch chƣa đƣợc
đầu tƣ tƣơng xứng, gây khó khăn cho ngƣời tiêu dùng khi muốn mua sắm qua
mạng. Mặt khác, các thông tin về thanh toán trực tuyến còn ít. Bên cạnh đó, điểm
yếu lớn của các website của doanh nghiệp Việt Nam là tần suất cập nhật thông tin
kém. Điều này thể hiện tính chƣa chuyên nghiệp và cho thấy mức độ đầu tƣ của
các doanh nghiệp vào phần quảng bá hoạt động kinh doanh trên mạng chƣa cao.
Bảng 11. Tần suất cập nhật thông tin trên website của doanh nghiệp
Yếu tố 4P trong marketing điện tử và việc triển khai tại Việt Nam
Bùi Kim Điệp - Nhật 1 - K43 ĐH Ngoại thương 65
Nguồn: Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam 2007, Bộ Công thương
Nhƣ vậy, ta có thể thấy vào các năm 2005-2006, tỉ lệ doanh nghiệp
cập nhật thông tin cho website của mình một cách thƣờng xuyên là khá thấp. Tuy
nhiên, từ sau năm 2006, do có sự quan tâm ở cấp độ vĩ mô về việc phát triển
thƣơng mại điện tử và nhận thức của doanh nghiệp về tầm quan trọng của website
đã tăng lên nên tỉ lệ này đã tăng lên nhanh chóng. Cho đến hết năm 2007, có hơn
64% các doanh nghiệp đƣợc khảo sát có mức độ cập nhật thông tin trên website
của mình hàng ngày. Đây thực sự là một tín hiệu đáng mừng cho thấy mức độ
quan tâm đến các hoạt động xúc tiến kinh doanh qua mạng của các doanh nghiệp
Việt Nam đang tăng lên.
2.2. Hệ thống thanh toán điện tử còn kém phát triển
Theo Báo cáo Thƣơng mại điện tử Việt Nam năm 2007, hệ thống thanh
toán điện tử yếu kém luôn đƣợc doanh nghiệp đánh giá là trở ngại lớn thứ hai đối
với việc phát triển các ứng dụng thƣơng mại điện tử ở Việt Nam. Các doanh
nghiệp tỏ ra khá lúng túng khi muốn triển khai một qui trình ứng dụng thƣơng
mại điện tử trọn vẹn trong bối cảnh hệ thống thanh toán điện tử còn yếu, đặc biệt
Yếu tố 4P trong marketing điện tử và việc triển khai tại Việt Nam
Bùi Kim Điệp - Nhật 1 - K43 ĐH Ngoại thương 66
là trong khâu hỗ trợ và xúc tiến kinh doanh qua mạng. Đồng thời, ngƣời tiêu dùng
cũng chƣa có nhận thức đúng đắn và đầy đủ về các dịch vụ thanh toán điện tử. Do
đặc thù tâm lí tiêu dùng của ngƣời dân Việt Nam là quen sử dụng tiền mặt trong
giao dịch hàng ngày và có tâm lí bất an khi tham gia giao dịch trong một hệ thống
thanh toán điện tử còn tồn tại bất cập về mặt an ninh nên cho đến nay, việc giao
dịch qua thẻ thanh toán hay qua hệ thống giao dịch tự động của các ngân hàng
chƣa thực sự phổ biến trong cộng đồng ngƣời Việt. Mặt khác, hiện nay tại Việt
Nam chƣa có sự thống nhất về hệ thống thẻ ATM. Đối với mạng lƣới thẻ thanh
toán của các ngân hàng, hiện vẫn còn tồn tại 3 liên minh thẻ là liên minh của
Vietcombank, hệ thống kết nối giữa ANZ và Sacombank, và hệ thống của ngân
hàng Đông Á. Do đó, nếu ngƣời mua và ngƣời bán có tài khoản tại các ngân hàng
thuộc các liên minh khác nhau thì việc thanh toán điện tử là gần nhƣ không thực
hiện đƣợc trong giao dịch trực tuyến. Thực trạng này đƣa đến hậu quả không
những là bó hẹp mạng lƣới của khách hàng mà còn gây lãng phí nguồn lực của xã
hội.
Nhìn chung, thanh toán bằng tiền mặt còn rất phổ biến trong các giao dịch
hàng ngày của ngƣời dân. Tiền mặt vẫn là phƣơng tiện thanh toán chiếm tỉ trọng
lớn trong khu vực doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng cá nhân. Theo khảo sát của
Ngân hàng Nhà nƣớc về thực trạng thanh toán năm 2003 tại 750 doanh nghiệp
trên cả nƣớc (trong đó doanh nghiệp nhà nƣớc chiếm hơn 80%), đối với những
doanh nghiệp lớn có trên 500 công nhân, khoảng 63% số giao dịch của doanh
nghiệp đƣợc tiến hành qua hệ thống ngân hàng, doanh nghiệp có ít hơn 25 công
nhân thì tỉ lệ này chỉ còn 47%. Đối với hộ kinh doanh, 86,2% hộ chi trả hàng hóa
bằng tiền mặt. Kết quả điều tra cho thấy việc sử dụng tiền mặt trong giao dịch của
doanh nghiệp, đặc việt là giao dịch với ngƣời tiêu dùng còn ở mức rất cao.
2.3. Khả năng bảo mật thông tin chƣa cao
Yếu tố 4P trong marketing điện tử và việc triển khai tại Việt Nam
Bùi Kim Điệp - Nhật 1 - K43 ĐH Ngoại thương 67
Đặc thù của môi trƣờng điện tử là mức độ truyền dẫn thông tin nhanh và
khả năng tiếp cận thông tin dễ dàng cho mọi đối tƣợng, hệ quả là việc khó kiểm
soát cũng nhƣ quản lí sự rò rỉ hoặc lạm dụng thông tin cá nhân. Việc thu thập,
phát tán các thông tin cá nhân của ngƣời tiêu dùng cho mục đích thƣơng mại đang
ngày càng phổ biến, và trong nhiều trƣờng hợp đi ngƣợc lại lợi ích cũng nhƣ
quyền chính đáng của ngƣời tiêu dùng. Điều này làm phát sinh tâm lí e ngại của
ngƣời tiêu dùng khi tham gia vào các hoạt động đòi hỏi tiết lộ thông tin cá nhân
nhƣ đăng kí thành viên, tham gia khảo sát hay thanh toán điện tử… Hiện nay, tại
Việt Nam các doanh nghiệp chƣa thực sự chú trọng đến chính sách bảo vệ thông
tin cá nhân cho ngƣời tiêu dùng.
Theo ông Đinh Công Tuấn, Giám đốc điều hành Công ty TNHH Thƣơng
mại điện tử Tiên Phong, đơn vị quản lý sàn giao dịch B2B www.gophatdat.com,
trƣớc khi mời gọi doanh nghiệp tham gia, công ty phải đầu tƣ trang thiết bị và
cam kết bảo mật cũng nhƣ sử dụng thông tin cá nhân của ngƣời đại diện doanh
nghiệp đúng mục đích. Song không phải doanh nghiệp nào cũng ý thức đƣợc
trách nhiệm này. Vì vậy, giao dịch thƣơng mại điện tử tại VN đã xảy ra một số vụ
vi phạm liên quan đến việc tiết lộ thông tin cá nhân gây thiệt hại cho ngƣời tiêu
dùng. Chẳng hạn nhƣ vụ ăn cắp thông tin thẻ tín dụng để mua vé máy bay của
Tiger Airways; ăn cắp tài khoản thẻ tín dụng để mua hàng qua mạng với tổng trị
giá lên đến 440 triệu đồng…
Yếu tố 4P trong marketing điện tử và việc triển khai tại Việt Nam
Bùi Kim Điệp - Nhật 1 - K43 ĐH Ngoại thương 68
Bảng 12.Kết quả khảo sát về chính sách bảo vệ thông tin cá nhân trên cac
website thƣơng mại điện tử
Loại hình website Có Không
Số lƣợng % Số lƣợng %
C2C 19 19 83 81
B2C 36 24 117 76
Sàn giao dịch B2B 20 57 15 43
Tổng số 75 26 215 74
Nguồn: Đề tài Thông tin cá nhân và bảo vệ thông tin cá nhân trong thương mại
điện tử - Vụ Thương mại điện tử, Bộ Công thương tháng 5/2007
Nhiều quốc gia phát triển đặc biệt quan tâm và đã xây dựng khung pháp lí
tƣơng đối hoàn thiện để điều chỉnh vấn đề này. Đây cũng là chủ đề đƣợc thảo
luận trong chƣơng trình nghị sự của nhiều tổ chức quốc tế lớn về thƣơng mại nhƣ
APEC, AFACT, UNCITRAL, UNCTAD. Việt Nam hiện chƣa có Luật về bảo vệ
thông tin cá nhân. Xét đặc thù của tập quán kinh doanh và môi trƣờng thƣơng mại
truyền thống, bản thân vấn đề thông tin cá nhân cũng còn tƣơng đối mới mẻ với
nhiều doanh nghiệp. Tuy nhiên, trƣớc sức ép của quá trình hội nhập, các cơ quan
quản lí nhà nƣớc cũng bắt đầu ý thức đƣợc tầm quan trọng của việc tạo lập khung
pháp lí điều chỉnh vấn đề này. Tiếp sau Luật Giao dịch điện tử ban hành năm
2005, Luật Công nghệ thông tin ban hành ngày 29 tháng 6 năm 2006 đã có những
qui định mang tính nguyên tắc về việc bảo vệ thông tin cá nhân trong môi trƣờng
điện tử.
2.4. Những bất cập trong hoạt động quảng cáo trực tuyến
Trong khi triển vọng đƣợc thừa nhận là vô cùng lớn thì hiệu quả quảng cáo
trực tuyến của Việt Nam lại đang ở mức rất thấp, doanh thu chỉ chiếm khoảng 1%
Yếu tố 4P trong marketing điện tử và việc triển khai tại Việt Nam
Bùi Kim Điệp - Nhật 1 - K43 ĐH Ngoại thương 69
tổng doanh thu quảng cáo nói chung. So với các loại hình quảng cáo truyền thống,
ƣu điểm lớn nhất của quảng cáo trực tuyến là tính tƣơng tác cao với ngƣời dùng,
điều này khiến loại hình quảng cáo trực tuyến có triển vọng phát triển rất lớn
trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do các doanh nghiệp tại Việt Nam chƣa
nhận thức và khai thác đƣợc hết tiềm năng của quảng cáo trực tuyến. So với loại
hình quảng cáo truyền thống là thông tin đƣợc truyền tải một chiều thì với quảng
cáo trực tuyến, sản phẩm đƣợc giới thiệu toàn diện các khía cạnh hình ảnh và tính
năng chi tiết, đƣợc đặt trong vô số sự so sánh với các sản phẩm liên quan bằng
nhiều đƣờng liên kết và quan trọng nhất, ngƣời xem quảng cáo trực tuyến có thể
mua ngay đƣợc sản phẩm theo nhu cầu. Đây là một mắt xích quan trọng giữ
quảng cáo và bán hàng. Tuy nhiên, tại Việt Nam, cách làm quảng cáo trực tuyến
mới chỉ ở mức giới thiệu chi tiết hơn một chút về sản phẩm. Các doanh nghiệp
mua loại hình quảng cáo này thƣờng quan niệm đây là hình thức tăng mật độ hình
ảnh của doanh nghiệp, gần nhƣ không có liên kết quảng cáo liên quan và không
có bán hàng trực tuyến, do vậy hiệu quả tƣơng tác là rất thấp.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng hiệu quả quảng cáo trực
tuyến tại Việt Nam thấp là các doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng Việt Nam đang
mất lòng tin vào mức độ tin cậy của các chƣơng trình quảng cáo trực tuyến do
hiện nay, nhiều hoạt động gian lận trong quảng cáo đã diễn ra. Hiện nay, một
trong những nỗi lo thƣờng trực của doanh nghiệp khi đánh giá hiệu quả các chiến
dịch quảng cáo trên mạng là Click Fraud.
Click Fraud là thuật ngữ để chỉ hành động dùng phần mềm chuyên dụng
hay thuê nhân công giá rẻ để click liên tục vào một hay nhiều banner hay logo,
link, quảng cáo tìm kiếm… trên mạng để tạo ra sự thành công giả tạo của một
chiến dịch quảng cáo. Việc làm này đặc biệt gây nhiều thiệt hại cho những doanh
Yếu tố 4P trong marketing điện tử và việc triển khai tại Việt Nam
Bùi Kim Điệp - Nhật 1 - K43 ĐH Ngoại thương 70
nghiệp sử dụng dịch vụ quảng cáo trực tuyến và chọn cách trả tiền quảng cáo theo
số lƣợng những cú nhấp chuột vào quảng cáo của họ vì số lƣợng click càng lớn,
số tiền họ phải trả càng nhiều. Những cá nhân có hiềm khích hay ý đồ xấu với
doanh nghiệp cũng có thể thực hiện Click Fraud với mục đích làm thâm hụt tài
chính của doanh nghiệp đối thủ. Trong một khảo sát của tạp chí Wall Street, có
khoảng 10-20% những cú click trả tiền là từ những ngƣời không thực sự quan tâm
đến quảng cáo. Tại Việt Nam, Click Fraud đã xuất hiện và có thể khẳng định là đã
bƣớc vào giai đoạn phổ biến. Tuy nhiên, hành động gian lận thƣơng mại này ở
Việt Nam hầu nhƣ mới chỉ dừng lại ở mức nhằm tạo ra những hiệu quả giả tạo
cho một chiến dịch quảng cáo, hoặc tạo ra lƣợng truy cập giả tạo cho một website
để làm cơ sở mời gọi doanh nghiệp quảng cáo trên website đó.
Tại Việt Nam hiện nay, để đánh giá mức độ phổ biến của một website,
ngƣời dân thƣờng sử dụng thƣớc đo xếp hạng trên website đánh giá nổi tiếng
Alexa.com. Thứ hạng Alexa (Alexa Ranking) đƣợc hầu hết ngƣời sử dụng
Internet tại Việt Nam coi là tiêu chí hàng đầu để đánh giá một website, và nhiều
doanh nghiệp cũng dựa trên tiêu chí này để quyết định có nên đăng quảng cáo
trên website đó không. Chính vì vậy, nhiều chủ website đã sử dụng các phần mềm
chuyên dụng nhằm đánh lừa các công cụ tìm kiếm để đẩy chỉ số Alexa Ranking
của website, từ đó thu hút doanh nghiệp đăng quảng cáo. Năm 2006, một trang
báo điện tử của Việt Nam lọt vào danh sách 100 website có lƣợng truy cập nhiều
nhất thế giới đã gây ra nhiều nghi vấn trong cộng đồng mạng và từ đó làm giảm
sút lòng tin của một bộ phận ngƣời dân về uy tín của trang website này.
Yếu tố 4P trong marketing điện tử và việc triển khai tại Việt Nam
Bùi Kim Điệp - Nhật 1 - K43 ĐH Ngoại thương 71
CHƢƠNG 3
GIẢI PHÁP NHẰM HỖ TRỢ VIỆC TRIỂN KHAI YẾU TỐ 4P
TRONG MARKETING ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM
***
I. Định hƣớng phát triển thƣơng mại điện tử và marketing điện tử
tại Việt Nam đến năm 2010
Với sự bùng nổ của Internet và các ứng dụng công nghệ thông tin trên thế
giới, việc phát triển thƣơng mại điện tử nói chung và thúc đẩy các hoạt động
marketing điện tử nói riêng đã trở thành một nhiệm vụ cấp bách với Việt Nam
nếu không muốn trở nên tụt hậu so với mặt bằng chung của thế giới. hiện nay,
chính phủ Việt Nam đã và đang có những động thái triển khai thƣơng mai thƣơng
mại điện tử và marketing điện tử. đảng, nhà nƣớc và chính phủ nhất quán quan
điểm cho rằng việc phát triển thƣơng mại điện tử là một điều kiện cần thiết để đẩy
mạnh tăng trƣởng kinh tế, hỗ trợ quá trình hòa nhập và đạt đƣợc các mục tiêu đề
ra từ nay cho đến năm 2020.
Thƣơng mại điện tử và marketing điện tử chỉ có thể phát triển tốt khi đƣợc
đặt trên nền tảng các cơ sở hạ tầng nhƣ công nghệ thông tin, chính sách pháp luật,
các điều kiện về nhận thức … để thúc đẩy sự quan tâm của xã hội và để tập trung
nhiều nguồn lực hơn vào việc xây dựng các cơ sở hạ tầng này, trong các năm
2006-2007, Việt Nam đã ban hàng nhiều văn bản pháp luật có liên quan nhằm tào
dựng cơ sở hạ tầng pháp lí nhƣ Luật giao dịch điện tử, Luật thƣơng mại sửa đổi,
nghị định về thƣơng mại điện tử… đánh dấu bƣớc tiến trong việc tiếp tục hoàn
thành khung pháp lí để các doanh nghiệp yên tâm khi tiến hàng các giao dịch qua
mạng, bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia, đồng thời cũng là căn cứ
pháp lí để xét xử khi có tranh chấp liên quan đến hoạt động thƣơng mại điện tử.
Yếu tố 4P trong marketing điện tử và việc triển khai tại Việt Nam
Bùi Kim Điệp - Nhật 1 - K43 ĐH Ngoại thương 72
Chính phủ cũng đã xây dựng “Kế hoạch phát triển tổng thể thƣơng mại
điện tử giai đoạn 2006-2010” theo đó mục tiêu đặt ra cho đến năm 2010 là:
- Khoảng 60% doanh nghiệp có qui mô lớn tiến hành giao dịch thƣơng
mại điện tử loại hình B2B
- Khoảng 80% doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ biết tới tiện ích của
thƣơng mại điện tử và tiến hàng giao dịch thƣơng mại điện tử loại hình B2C hoặc
B2B
- Khoảng 10% hộ gia đình tiến hàng giao dịch thƣơng mại điện tử loại
hình B2C hoặc C2C
Kế hoạch tổng thể cũng đặt ra yêu cầu đối với các cơ quan chính phủ về
việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ thƣơng mại điện tử và thực hiện giao dịch điện
tử trong mua sắm nhƣ “đến năm 2010, các cơ quan chính phủ phải đƣa hết các
dịch vụ công lên mạng, trong đó ƣu tiên các dịch vụ thuế, điện tử, hải quan điện
tử, các thủ tục xuất nhập khẩu điện tử, thủ tục liên quan đến đầu tue và đăng kí
kinh doanh điện tử, các loại giấy phép thƣơng mại chuyên ngành, thủ tục giải
quyết tranh chấp…”
Với điều kiện chủ quan và khách quan hiện nay tại Việt Nam, việc đặt mục
tiêu phát triển thƣơng mại điện tử và marketing điện tử tại tất cả các ngành là
không khả thi, do vậy, nhà nƣớc đã đặt ra những ƣu tiên thích hợp đối với việc
ứng dụng marketing điện tử tại một số lĩnh vực trọng điểm sau:
Lĩnh vực tài chính ngân hàng: đây là một lĩnh vực đang có mức phát triển
hết sức mạnh mẽ tại Việt Nam, đặc biệt là khi cam kết khi gia nhập wto đã cho
phép các ngân hàng 100% vốn nƣớc ngoài hoạt động tại Việt Nam. Việc đặt mục
tiêu phát triển trong lĩnh vực tài chính ngân hàng cũng mang ý nghĩa hết sức to
lớn, bởi lẽ việc này sẽ giúp phát triển hệ thống thanh toán điện tử, là khâu hết sức
quan trọng trong việc hoàn thiện qui trình giao dịch qua mạng. Đặc biệt, đầu tƣ
Yếu tố 4P trong marketing điện tử và việc triển khai tại Việt Nam
Bùi Kim Điệp - Nhật 1 - K43 ĐH Ngoại thương 73
chứng khoán là một lĩnh vực đang đƣợc chính phủ và toàn dân hết sức quan tâm.
Thị trƣờng chứng khoán Việt Nam đang tăng trƣởng mạnh mẽ trong hai năm gần
đây, với sự phát triển nhanh chóng cả về số lƣợng thành viên tham gia thị trƣờng
và cả các dịch vụ đƣợc cung cấp. Đặc thù của hoạt động giao dịch chứng khoán là
dựa trên thông tin, do đó chất lƣợng cũng nhƣ tính kịp thời của thông tin có ý
nghĩa quan trọng đối với thành công của mỗi giao dịch, đồng thời ứng dụng công
nghệ thông tin đóng vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của các tổ
chức tham gia thị trƣờng. Vì vậy, mặc dù là lĩnh vực dịch vụ còn khá non trẻ tại
Việt Nam, nhƣng có thể nói chứng khoán đang là một trong những ngành ứng
dụng công nghệ thông tin và hoạt động thƣơng mại điện tử mạnh nhất hiện nay.
Xu hƣớng trong tƣơng lai cho thấy hoạt động ứng dụng cho lĩnh vực chứng khoán
có thể tăng trƣởng mạnh ở nhiều cấp độ, từ mức đơn giản nhƣ dịch vụ tra cứu
thông tin trực tuyến về thị trƣờng cho đến mức phức tạp hơn nhƣ đặt lệnh giao
dịch trực tuyến. Hầu hết các công ty chứng khoán hiện nay đều đã triển khai ít
nhất một loại hình giao dịch điện tử trong gói dịch vụ của mình. Với việc ban
hành ngày càng chi tiết các văn bản pháp qui về lĩnh vực tài chính nói chung và
chứng khoán nói riêng cho thấy, đây hứa hẹn sẽ là một lĩnh vực tiềm năng để phát
triển các hoạt động marketing điện tử. [8]
Lĩnh vực du lịch: lĩnh vực kinh doanh dịch vụ du lịch đòi hỏi cao về hàm
lƣợng thông tin và mức độ tƣơng tác giữa khách hàng và nhà cung cấp, rất thích
hợp với việc triển khai các yếu tố của marketing điện tử. Thêm vào đó, Việt Nam
hiện nay đang đặt mục tiêu quảng bá hình ảnh đất nƣớc tới thế giới, phát triển
ngành du lịch. Theo thống kê của Tổng cục du lịch Việt Nam thì tính đến hết
tháng 3/2007, lƣợng khách quốc tế đến Việt Nam ƣơc tính đạt gần 1.200.000 lƣợt
khách, tằng 13.7% so với cùng kì năm 2006. Chính phủ Việt Nam cũng đã có
nhiều động thái nhằm quảng bá hình ảnh đất nƣớc, nâng cao hiệu quả du lịch nhƣ
Yếu tố 4P trong marketing điện tử và việc triển khai tại Việt Nam
Bùi Kim Điệp - Nhật 1 - K43 ĐH Ngoại thương 74
quảng cáo trên kênh truyền hình quốc tế CNN hay gần đây nhất là đăng cai cuộc
thi Hoa hậu hoàn vũ 2008… Những tín hiệu trên cho thấy du lịch là một lĩnh vực
đang nhận đƣợc sự quan tâm lớn của nhà nƣớc, việc áp dụng các mục tiêu
marketing điện tử vào lĩnh vực này không chỉ mang ý nghĩa kinh tế mà còn mang
ý nghĩa hình ảnh quốc gia trên trƣờng quốc tế. [21]
Lĩnh vực bán lẻ: với việc thu nhập bình quân đầu ngƣời không ngừng đƣợc
cải thiện và sức mua trong xã hội ngày càng tăng, hành vi mua sắm của ngƣời tiêu
dùng Việt Nam đang có những thay đổi đáng kể trong vòng vài năm trở lại đây và
cũng với đó là tiềm năng phát triển trong lĩnh vực bán lẻ. Giờ đây, ngƣời tiêu
dùng có nhu cầu tinh tế hơn, am hiểu hơn về thị trƣờng và tiếp cận đƣợc với
những thông tin rất đa dạng về hàng hóa từ nhiều nguồn. Theo khảo sát của công
ty nghiên cứu thị trƣờng Nielsen, Việt Nam hiện đang là thị trƣờng hấp dẫn thứ 4
thế giới của các công ty bán lẻ. Thị trƣờng bán lẻ Việt Nam hiện đang có sự cạnh
tranh rất sôi động, đặc biệt là khi Việt Nam đã cam kết thực thi lộ trình mở cửa
thị trƣờng bán lẻ cho các công ty nƣớc ngoài tham gia sau khi gia nhập WTO.
Việc xây dựng các chiến lƣợc marketing trong lĩnh vực này không chỉ có ý nghĩa
tăng cƣờng chất lƣợng mua sắm, tiêu dùng của ngƣời Việt Nam mà còn là giải
pháp then chốt giúp các doanh nghiệp Việt Nam hiện đại hóa qui trình và cải
thiện dịch vụ cung cấp cho khách hàng để có thể cạnh tranh trực tiếp với các tập
đoàn bán lẻ lớn của thế giới. [4]
II. Những giải pháp đề xuất nhằm hỗ trợ cho việc triển khai yếu tố
4P trong marketing điện tử tại Việt Nam
1. Giải pháp từ phía nhà nƣớc
1.1. Hoàn thiện môi trƣờng pháp lí và nâng cao năng lực giải quyết tranh
chấp trong thƣơng mại điện tử
Yếu tố 4P trong marketing điện tử và việc triển khai tại Việt Nam
Bùi Kim Điệp - Nhật 1 - K43 ĐH Ngoại thương 75
Cho tới cuối năm 2007, các nghị định hƣớng dẫn Luật Giao dịch điện tử và
nhiều nghị định hƣớng dẫn Luật Công nghệ thông tin đã đƣợc ban hành. Hệ thống
các luật và nghị định này đã tạo thành khung pháp lí cơ bản cho sự phát triển của
thƣơng mại điện tử. Tuy nhiên thƣơng mại điện tử là hình thái kinh doanh dựa
trên nền tảng công nghệ tiên tiến và liên quan mật thiết tới nhiều linh vực nên
phải tiếp tục ban hành nhiều văn bản qui phạm pháp luật khác.
Những văn bản này bao gồm Nghị định về chống thƣ rác, Nghị định về
quản lí, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet thay thế Nghị định số 55/2001/NĐ –
CP ngày 23 tháng 8 năm 2001, Thông tƣ về giao kết hợp đồng trên các website
thƣơng mại điện tử. Ngoài ra cần nghiên cứu và tiến tới ban hành hoặc sửa đổi
nhiều văn bản pháp luật liên quan tới chứng từ điện tử, bảo vệ ngƣời tiêu dùng,
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và nhiều khía cạnh đa dạng khác. Đồng thời việc ban
hành các văn bản qui phạm pháp luật tháo gỡ khó khăn trong việc đầu tƣ trong
lĩnh vực công nghệ thông tin, đặc biệt là đầu tƣ phát triển phần mềm, sẽ góp phần
tích cực cho sự phát triển của thƣơng mại điện tử.
Từ năm 2008 việc giao kết hợp đồng trực tuyến cũng nhƣ các giao dịch
trực tuyến khác nhƣ thanh toán điện tử và mua bán các sản phẩm số hóa sẽ tăng
lên nhanh chóng cả về số lƣợng lẫn giá trị giao dịch. Số vụ tranh chấp thƣơng mại
liên quan tới mua bán trực tuyến sẽ xuất hiện ngày càng nhiều, những tranh cháo
về tài sản trí tuệ liên quan tới môi trƣờng mạng nhƣ tên miền và bản quyền tác giả
cũng gia tăng với độ phức tạp cao. Ngoài ra, số vụ tranh chấp khi tiến hành mua
bán kinh doanh trên môi trƣờng Internet giữa Việt Nam và các nƣớc khác cũng sẽ
tăng. Trong khí đó, năng lực giải quyết tranh chấp về thƣơng mại điện tử của Việt
Nam còn thấp. Các tòa án kinh tế, trọng tài kinh tế, các tổ chức thanh tra viễn
thông và thƣơng mại, các tổ chức thực thi cạnh tranh lành mạnh và bảo vệ ngƣời
tiêu dùng, các cơ quan điều tra,… chƣa đƣợc đào tạo tốt về lĩnh vực này và hầu
Yếu tố 4P trong marketing điện tử và việc triển khai tại Việt Nam
Bùi Kim Điệp - Nhật 1 - K43 ĐH Ngoại thương 76
nhƣ chƣa có kinh nghiệm trong việc giải quyết tranh chấp. Một nhiệm vụ cấp
bách trong năm 2008 là phải nâng cao năng lực giải quyết tranh chấp trong
thƣơng mại điện tử.
1.2. Tập trung hoàn thành chỉ tiêu về phổ cập Internet
Thủ tƣớng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 32/2006/QĐ-TTg ngày
7/2/2006 về việc Qui hoạch phát triển Viễn thông và Internet Việt Nam đến năm
2010 với một số chỉ tiêu phát triển Internet, cụ thể là việc thực hiện phổ cập
Internet đến tất cả các vùng, miền trong cả nƣớc với chất lƣợng và dịch vụ ngày
càng cao. Chính phủ đặt mục tiêu đến năm 2010, trên toàn quốc:
· Mật độ thuê bao Internet đạt từ 8 đến 12 thuê bao/110 dân (trong đó
có 30% là thuê bao băng rộng).
· Tỉ lệ số ngƣời sử dụng Internet đạt 25% đến 35% dân số.
· Đảm bảo đa số cán bộ, công chức, viên chức, giáo viên, bác sĩ, sinh
viên đại học và cao đẳng, học sinh trung học chuyên nghiệp và học sinh phổ
thông trung học có điều kiện sử dụng Internet.
· Đẩy mạnh việc phổ cập Internet đến tất cả các xã trong cả nƣớc. Đến
năm 2010 đảm bảo 70% số xã có điểm truy nhập Internet công cộng, 100% số
huyện và hầu hết các xã trong các vùng kinh tế trọng điểm đƣợc cung cấp dịch vụ
Internet băng rộng.
· Đảm bảo tất cả các Bộ, ngành, cơ quan hành chính nhà nƣớc, chính
quyền cấp tỉnh và huyện đƣợc kết nối Internet băng rộng và kết nối với mạng diện
rộng của Chính phủ;
· 100% viện nghiên cứu, trƣờng đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp và trung học phổ thông có kết nối để truy nhập Internet băng rộng; trên
90 % các trƣờng trung học cơ sở, bệnh viện đƣợc kết nối Internet.
Yếu tố 4P trong marketing điện tử và việc triển khai tại Việt Nam
Bùi Kim Điệp - Nhật 1 - K43 ĐH Ngoại thương 77
Có thể nói, mục tiêu phổ cập và phát triển Internet là mục tiêu hàng đầu
của chính phủ trong nỗ lực nhằm nâng cao điều kiện sống của ngƣời dân và tạo
tiền đề phát triển các hoạt động kinh tế. Trong quá trình đàm phán gia nhập WTO,
Việt Nam cũng đã cam kết sẽ có chính sách thông thoáng hơn đối với dịch vụ
viễn thông. Tuy vẫn còn một số hạn chế cơ bản, nhƣng trong tƣơng lai với sự
tham gia của các tập đoàn viễn thông lớn trên thế giới, các dịch vụ viễn thông
nhất định sẽ phát triển mạng mẽ, song song với sự xuất hiện nhiều dịch vụ mới,
chất lƣợng dịch vụ sẽ ngày càng gia tăng trong khi giá cƣớc sẽ giảm do xu hƣớng
cạnh tranh, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của Internet tại Việt Nam.
1.3. Phát triển hệ thống thanh toán điện tử
Thực tiễn cho thấy thanh toán điện tử là một điều kiện cần cho việc phát
triển các hoạt động thƣơng mại điện tử, bởi lẽ đây là một trong những hoạt động
hỗ trợ và xúc tiến kinh doanh chủ đạo. Thƣơng mại điện tử khó có thể phát huy
đƣợc hết ƣu điểm của mình khi chƣa có hệ thống thƣơng mại điện tử với năng lực
đủ mạnh. Tốc độ phát triển của thƣơng mại điện tử Việt Nam trong những năm
qua đang đặt ra nhu cầu về một hệ thống thanh toán điện tử hiện đại để hỗ trợ
doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng tận dụng tối đa lợi ích của phƣơng thức kinh
doanh mới này.
Hơn thế nữa, thanh toán điện tử không chỉ là nhân tố thúc đẩy thƣơng mại
điện tử mà còn đóng một vai trò quan trọng trong việc hiện đại hóa hệ thống
thanh toán, nâng cao năng lực cạnh tranh của các dịch vụ trong ngành ngân hàng
tài chính tại Việt Nam. Do vậy, việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin,
phát triển nhanh các dịch vụ ngân hàng hiện đại càng trở nên cấp bách để các
ngân hàng Việt Nam có thể đứng vững trƣớc những thử thách của quá trình hội
nhập.
1.4. Xây dựng hệ thống an toàn thông tin trên mạng
Yếu tố 4P trong marketing điện tử và việc triển khai tại Việt Nam
Bùi Kim Điệp - Nhật 1 - K43 ĐH Ngoại thương 78
Internet là một môi trƣờng có độ tƣơng tác rất cao, nhƣng chính vì tính chất
mở của nó nên đây cũng là một môi trƣờng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trở ngại lớn nhất
trong việc xúc tiến các hoạt động marketing điện tử là nguy cơ của ngƣời tiêu
dùng về việc đảm bảo an toàn cho thông tin cá nhân trên mạng. cho đến nay
những trở ngại lớn nhất đối với sự phát triển marketing điện tử tại Việt Nam là
môi trƣờng pháp lí, hạ tầng công nghệ thông tin và Internet, nhận thức và tập
quán mua bán, thanh toán. Từ năm 2006 vấn đề an ninh an toàn thông tin trên môi
trƣờng mạng đã trở thành một trở ngại đáng kể tới việc tham gia thƣơng mại điện
tử của cả doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng. Theo xu hƣớng chung của thƣơng mại
điện tử toàn cầu, trong những năm tới vấn đề dữ liệu cá nhân sẽ nổi lên nhƣ một
trong những trở ngại lớn nhất đối với sự phát triển thƣơng mại điện tử, đặc biệt là
các giao dịch giữa doanh nghiệp với ngƣời tiêu dùng.
Việt Nam cần có kế hoạch rõ ràng để hạn chế tới mức cao nhất trở ngại này.
Vấn đề mất an toàn trong bảo mật thông tin cá nhân, đặc biệt là trong lĩnh vực
thanh toán điện tử sẽ gây mất lòng tin đối với khách hàng và làm hạn chế sự phát
triển của các hình thức phân phối qua mạng. Năm 2007 Việt Nam đã tham gia
tích cực với các thành viên của APEC triển khai một số hoạt động cụ thể về bảo
vệ dữ liệu cá nhân. Trong năm 2008 chính phủ Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh
hoạt động phổ biến, tuyên truyền tới các tổ chức, doanh nghiệp và công dân về
vấn đề bảo vệ dữ liệu cá nhân thông qua việc xuất bản các tài liệu, tổ chức hội
thảo , đặc biệt là triển khai mạnh mẽ hoạt động dán nhãn tín nhiệm các website
thƣơng mại điện tử.
2. Giải pháp từ phía doanh nghiệp
2.1. Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của hoạt động marketing
điện tử
Yếu tố 4P trong marketing điện tử và việc triển khai tại Việt Nam
Bùi Kim Điệp - Nhật 1 - K43 ĐH Ngoại thương 79
Kết quả điều tra ứng dụng thƣơng mại điện tử năm 2007 cho thấy sự quan
tâm đầu tƣ nhiều hơn cho phát triển nguồn nhân lực trực tiếp ứng dụng và triển
khai thƣơng mại điện tử đã góp phần nâng cao hiệu quả đầu tƣ và năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi các doanh nghiệp muốn chuyển sang
mức ứng dụng cao hơn thì phải đầu tƣ nhiều hơn nữa cho việc phát triển nguồn
nhân lực.
Làm thƣơng mại trong môi trƣờng kinh doanh quốc tế đòi hỏi không chỉ
am hiểu về nghiệp vụ kinh doanh quốc tế, nắm vững luật pháp kinh doanh quốc tế
mà còn phải biết tận dụng những thành tựu của công nghệ thông tin truyền thông
và các hoạt động kinh doanh để tăng hiệu quả, giảm chi phí, nâng cao vị thế cạnh
tranh của doanh nghiệp. Với đặc thù của chuyên ngành marketing điện tử trong
thƣơng mại điện tử, việc đào tạo ra một nguồn nhân lực vừa có kiến thức về kinh
doanh quốc tế và chuyên sâu về marketing điện tử, vừa giỏi ngoại ngữ, có kĩ năng
và kiến thức đầy đủ về công nghệ thông tin là một nhu cầu rất cấp bách của các
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế quốc tế, các cơ quan quản lí, nghiên cứu kinh tế.
Hiện nay, ở Việt Nam chƣa có các chƣơng trình đào tạo chuyên sâu về
thƣơng mại điện tử cũng nhƣ marketing điện tử. Tại các trƣờng đại học,
marketing điện tử và thƣơng mại điện tử mới chỉ đƣợc đƣa vào giảng dạy nhƣ
những môn học bổ trợ với số lƣợng tiết học không nhiều. Do đó, các doanh
nghiệp cần phải có chƣơng trình đào tạo nhân lực của riêng mình. Các doanh
nghiệp có thể tuyển các nhân viên chuyên ngành về marketing hoặc công nghệ
thông tin rồi sau đó bồi dƣỡng, đào tạo thêm về khía cạnh còn lại, hoặc cử cán bộ
tham gia các chƣơng trình đào tạo về thƣơng mại điện tử tại các trƣờng đại học
hoặc các khóa tập huấn về thƣơng mại điện tử do các cơ quan quản lí nhà nƣớc tổ
chức. Các doanh nghiệp cũng có thể khai thác nhiều tài liệu hƣớng dẫn về thƣơng
Yếu tố 4P trong marketing điện tử và việc triển khai tại Việt Nam
Bùi Kim Điệp - Nhật 1 - K43 ĐH Ngoại thương 80
mại điện tử trực tuyến, marketing trực tuyến… hoặc học tập kinh nghiệm triển
khai mô hình marketing điện tử hỗn hợp thành công của các doanh nghiệp khác.
2.2. Xây dựng chiến lƣợc phát triển hoạt động marketing điện tử
Song song với việc phát triển nguồn nhân lực, các doanh nghiệp cần xây
dựng chiến lƣợc marketing điện tử trên cơ sở gắn chặt chiến lƣợc này với chiến
lƣợc kinh doanh dài hạn của mình. Khi xây dựng chiến lƣợc marketing, các doanh
nghiệp cần nhận thức rõ rằng sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin
và truyền thông đã và đang tác động một cách cực kì sâu sắc và mau lẹ đến mọi
mặt của kinh tế xã hội toàn thế giới, cũng có nghĩa là nhận thức và nhu cầu của
ngƣời tiêu dùng đang thay đổi từng ngày….
Đồng thời, chiến lƣợc marketing điện tử của doanh nghiệp cũng cần phù
hợp với mức phát triển chung của chính phủ điện tử và hạ tầng công nghệ thông
tin và Internet trên phạm vi quốc gia nói riêng và quốc tế nói chung. Các doanh
nghiệp cần bám sát các chiến lƣợc, kế hoạch, chƣơng trình phát triển công nghệ
thông tin và thƣơng mại điện tử của cơ quan quản lí nhà nƣớc các cấp khi xây
dựng chiến lƣợc marketing điện tử của mình.
2.3. Đầu tƣ thiết kế website phong phú về nội dung và hình thức
Website là bộ mặt thông tin của một doanh nghiệp trên môi trƣờng Internet.
Chất lƣợng của một website, do đó là một trong những tiêu chí quan trọng giúp
đánh giá mức độ triển khai hoạt động marketing điện tử của doanh nghiệp. Khi
việc kết nối giữa các đối tác chiến lƣợc để trao đổi dữ liệu điện tử còn chƣa phát
triển, thì các website là kênh phổ biến nhất để doanh nghiệp quảng bá sản phẩm,
xúc tiến dịch vụ và tiến hành giao dịch theo cả hình thức B2C và B2B. Do vậy,
nếu một doanh nghiệp xây dựng và duy trì đƣợc một website hiệu quả để phục vụ
Yếu tố 4P trong marketing điện tử và việc triển khai tại Việt Nam
Bùi Kim Điệp - Nhật 1 - K43 ĐH Ngoại thương 81
hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị mình thì điều đó đã thể hiện phần nào
mức độ chuyên nghiệp của doanh nghiệp đó trong thời đại công nghệ hiện nay.
Hiện nay, hình thức phổ biến để xây dựng website của các doanh nghiệp là
thuê một công ty thiết kế web chuyên nghiệp, cung cấp thông tin để công ty đó
xây dựng trang web. Điều này mang lại lợi thế về mặt kĩ thuật, vì các công ty
chuyên nghiệp thƣờng có một đội ngũ thiết kế viên lành nghề, sẽ đảm bảo mang
lại cho website một giao diện ấn tƣợng và đẹp mắt. Tuy nhiên, các công ty dù
chuyên nghiệp đến đâu cũng không thể hiểu rõ về doanh nghiệp nhƣ chính doanh
nghiệp đó. Do đó, để đảm bảo có một website có khả năng phục vụ hiệu quả cho
hoạt động kinh doanh, khi tiến hành thiết kê website doanh nghiệp cần chú ý
những điều sau:
- Nghiên cứu thật kỹ khả năng và cơ hội của doanh nghiệp để trình bày rõ
ràng mục tiêu của doanh nghiệp cho công ty thiết kế khi chuẩn bị kế hoạch tham
gia thƣơng mại điện tử.
- Chuẩn bị kỹ càng để trình bày rõ ràng mục tiêu của doanh nghiệp cho
công ty thiết kế, truyền đạt rõ cho công ty biết doanh nghiệp muốn đạt kết quả gì
khi có mặt trên mạng Internet
- Xác định đƣợc những gì doanh nghiệp muốn đƣa vào websíte và dự kiến
sơ đồ website.
- Soạn phần nội dung thông tin cho website
- Tập hợp đầy đủ các văn bản và hình ảnh mà doanh nghiệp đƣa vào
website
- Vạch ra quá trình phê duyệt từng phần trong quá trình xây dựng website.
Khi làm việc với công ty xây dựng website doanh nghiệp cần:
Yếu tố 4P trong marketing điện tử và việc triển khai tại Việt Nam
Bùi Kim Điệp - Nhật 1 - K43 ĐH Ngoại thương 82
- Xem xét kỹ những gợi ý của công ty xây dựng website vì có thể những ý
kiến ấy giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm đƣợc tiền và làm cho website có hiệu quả
hơn.
- Càng ít thay đổi càng tốt khi quá trình xây dựng đã bắt đầu. Càng thảo
luận nhiều với công ty xây dựng website thì càng có ít thay đổi khi đã bắt đầu xây
dựng và càng ít thay đổi thì chi phí sẽ ít hơn và thời gian hoàn thành nhanh hơn.
- Phê duyệt từng phần trong quá trình xây dựng càng nhanh càng tốt.
Việc xây dựng website là rất quan trọng, tuy nhiên quan trọng hơn là
website đó phải đƣợc thƣờng xuyên nâng cấp và cập nhật thông tin. Để duy trì
quá trình này, doanh nghiệp có thể thuê các công ty thiết kế để phụ trách, nhƣng
để đạt hiệu quả cao nhất thì các doanh nghiệp nên đầu tƣ cho việc duy trì một bộ
phận trong công ty chuyên trách mục này.
2.4. Đẩy mạnh các dịch vụ hỗ trợ thƣơng mại điện tử
Nhằm nâng cao hiệu quả của các hoạt động kinh doanh trực tuyến, các
doanh nghiệp cần đầu tƣ phát triển các dịch vụ hỗ trợ nhằm tạo lòng tin cho ngƣời
sử dụng, khuyến khích ngƣời tiêu dùng sử dụng các dịch vụ kinh doanh trên
mạng.
Trƣớc mắt, các doanh nghiệp cần có kế hoạch thúc đẩy việc ứng dụng
hoạt động thanh toán trực tuyến, mà vấn đề quan trọng nhất là việc kết nối hệ
thống thanh toán của các ngân hàng để tạo thành một hệ thống duy nhất cho
cácgiao d ịch thẻ nội địa. Bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng cần đẩy mạng lắp
đặt các điểm chấp nhận thanh toán POS.
Mặt khác, một trong những trở ngại khiến ngƣời tiêu dùng e ngại với
hoạt động mua sắm trên mạng là những rủi ro về thông tin. Do đó, để phòng tránh
những rủi ro này và nâng cao chất lƣợng giao dịch, các doanh nghiệp cần chú ý
đến việc xây dựng các dịch vụ hỗ trợ về kĩ thuật nhằm bảo vệ khách hàng nhƣ sử
Yếu tố 4P trong marketing điện tử và việc triển khai tại Việt Nam
Bùi Kim Điệp - Nhật 1 - K43 ĐH Ngoại thương 83
dụng tƣờng lửa và các phần mềm chuyên dụng nhằm kiểm soát truy cập và xác
thực. Kiểm soát truy cập nhằm kiểm soát ai và cái gì truy cập vào máy chủ
thƣơng mại, xác thực nhằm kiểm tra nhận dạng thực thể muốn truy cập vào máy
tính. Phổ biến hơn là việc sử dụng các phƣơng pháp mã hóa nhƣ chữ kí số và
phong bì số nhằm đảm bảo tính xác thực và tính riêng tƣ của các bên trong giao
dịch, đặc biệt là các giao dịch có giá trị lớn hoặc có chứa các thông tin quan trọng.
3. Giải pháp từ phía ngƣời tiêu dùng
Trong khi việc triển khai thƣơng mại điện tử chủ yếu thuộc về các
doanh nghiệp thì ngƣời tiêu dùng là đối tƣợng hƣớng tới của loại hình giao dịch
thƣơng mại điện tử B2C và C2C. Nhận thức và hành vi của ngƣời tiêu dùng khi
tham gia các hoạt động trực tuyến nói chung và mua bán trực tuyến nói riêng có
tác động rất lớn đến loại hình thƣơng mại điện tử này. Để nâng cao chất lƣợng
giao dịch cũng nhƣ để có thể tự bảo vệ mình tốt hơn trong môi trƣờng mạng,
ngƣời tiêu dùng cần quan tâm đến các khuyến nghị sau:
Thay đổi tập quán mua sắm, tích cực tham gia mua sắm trên mạng: sự
thay đổi tập quán mua sắm của hàng triệu ngƣời tiêu dùng trên cả nƣớc sẽ góp
phần thúc đẩy thƣơng mại điện tử phát triển nhanh và đa dạng, tạo ra thị trƣờng
mới cho các doanh nghiệp và kích thích các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ
mới. Quá trình tác động qua lại giữa ngƣời tiêu dùng và doanh nghiệp trong
phƣơng thức mua bán mới sẽ mang lại lợi ích chung cho toàn xã hội.
Nâng cao ý thức sử dụng mạng: để góp phần tạo nên môi trƣờng
thƣơng mại lành mạnh, ngƣời tiêu dùng cần nâng cao ý thức khi sử dụng mạng,
không góp phần phát tán các virus, phần mềm gián điệp, tránh để bị lừa đảo thông
qua việc để rò rỉ dữ liệu cá nhân.
Quan tâm tới việc tự bảo vệ thông tin cá nhân: bảo vệ ngƣời tiêu dùng
là một vấn đề lớn trong hoạt động thƣơng mại truyền thống và càng trở nên lớn
Yếu tố 4P trong marketing điện tử và việc triển khai tại Việt Nam
Bùi Kim Điệp - Nhật 1 - K43 ĐH Ngoại thương 84
hơn trong các giao dịch thƣơng mại trực tuyến. Ở tầm vĩ mô, các cơ quan nhà
nƣớc và các tổ chức bảo vệ pháp luật, cạnh tranh lành mạnh và bảo vệ quyền lợi
ngƣời tiêu dùng có trách nhiệm triển khai nhiều hoạt động nhằm bảo vệ quyền lợi
ngƣời tiêu dùng. Tuy nhiên, tƣơng tự nhƣ hoạt động mua bán trong môi trƣờng
truyền thống, ngƣời tiêu dùng phải tìm hiểu những rủi ro khi tham gia thƣơng mại
điện tử và chủ động tự bảo vệ mình tránh khỏi những rủi ro đó, đặc biệt là các rủi
ro có thể xảy ra khi thông tin cá nhân liên quan tới mua bán trực tuyến bị lƣu trữ
và khai thác, sử dụng bất hợp pháp.
Tham gia phản biện xã hội, cung cấp thông tin về các biểu hiện cạnh
tranh không lành mạnh: ngƣời tiêu dùng cũng cần tích cực tham gia góp ý cho
các cơ quan hoạch định chính sách và xây dựng pháp luật về những qui định liên
quan tới thƣơng mại điện tử gây cản trở tới quyền lợi của mình. Thực tiễn cho
thấy những hành vi không lành mạnh diễn ra cực kì phức tạp nhƣng lại rất khó
xác định danh tính những kẻ chủ mƣu và tham gia trực tiếp trên môi trƣờng mạng.
Vì vậy, bên cạnh việc sử dụng các công nghệ tiên tiến và các biện pháp chuyên
môn, các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung và bảo vệ ngƣời tiêu dùng nói riêng
rất cần sự giúp đỡ, phối hợp của ngƣời tiêu dùng trong việc phòng ngừa, ngăn
chặn các hành vi không lành mạnh trên môi trƣờng mạng, đặc biệt là việc cung
cấp thông tin về các biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại tới lợi ích
về vật chất và tinh thần của ngƣời tiêu dùng.
Yếu tố 4P trong marketing điện tử và việc triển khai tại Việt Nam
Bùi Kim Điệp - Nhật 1 - K43 ĐH Ngoại thương 85
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh internet đang trở nên ngày càng phổ biến và đóng vai trò
quan trọng trong cuộc sống của chúng ta hiện nay, việc triển khai hoạt động
marketing điện tử nhằm hỗ trợ phục vụ cho hoạt động kinh doanh là không thể
thiếu đối với các doanh nghiệp. Trong cả quá trình hoạch định chiến lƣợc
marketing, việc tìm hiểu cụ thể về nhu cầu của khách hàng thông qua việc giải mã
4 chữ P, bao gồm Product (sản phẩm) – Price (giá cả) – Place (phân phối) –
Promotion (hỗ trợ và xúc tiến kinh doanh) là một khâu không thể thiếu đƣợc để
đạt đƣợc mục đích của cả chiến lƣợc marketing. Tại các nƣớc phát triển, các ứng
dụng của công nghệ đã lan đến những khía cạnh nhỏ nhặt nhất của đời sống, từ
việc đặt mua những mặt hàng nhu yếu phẩm hàng ngày cho đến việc tìm một cửa
hàng gần với vị trí của mình nhất. Do đó có thể nói triển vọng kinh doanh dựa
trên những ứng dụng điện tử là vô cùng to lớn. Tại Việt Nam, hoạt động thƣơng
mại điện tử mới chỉ đang ở giai đoạn thâm nhập vào đời sống ngƣời dân, và hoạt
động marketing điện tử vẫn còn khá lạ lẫm đối với một bộ phận các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, với việc nhà nƣớc đang có sự đầu tƣ về nhiều mặt, đặc biệt là về mặt
phát lí, đồng thời với việc nhận thức của ngƣời dân và doanh nghiệp trong nƣớc
về hoạt động marketing điện tử đang tăng cao, trong tƣơng lai đây sẽ là xu hƣớng
marketing chủ đạo tại Việt Nam. Và việc tìm hiểu cặn kẽ về mô hình 4P sẽ là đòi
hỏi không thể thiếu để các doanh nghiệp có thể thực hiện chiến lƣợc marketing
điện tử của mình một cách hiệu quả
Hà nội, tháng 06 năm 2008
Bùi Kim Điệp
Yếu tố 4P trong marketing điện tử và việc triển khai tại Việt Nam
Bùi Kim Điệp - Nhật 1 - K43 ĐH Ngoại thương 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. PGS.TS Lê Đình Tƣờng, TS Nguyễn Trung Vãn, CN. Nguyễn Thanh
Bình, Th.S Phạm Thu Hƣơng, Th.S Lê Huy Thanh, Th.S Nguyễn Huyền
Minh (2000), Giáo trình Marketing lý thuyết, Đại học Ngoại thƣơng,
NXB Giáo dục.
2. Thạc sĩ Nguyễn Văn Thoan (2006), Bài giảng thương mại điện tử,
trƣờng ĐH Ngoại thƣơng HN.
3. Báo cáo thương mại điện tử năm 2006 , Bộ Công thƣơng
4. Báo cáo thương mại điện tử năm 2007, Bộ Công thƣơng
5. Nghị định số 26/2007/NĐ-CP qui định chi tiết thi hành Luật giao dịch
điện tử về chữ kí số và dịch vụ chứng thực chữ kí số
6. Nghị định số 57/2006/NĐ-CP về Thƣơng mại điện tử
7. Nghị định số 27/2007/NĐ-CP về Giao dịch điện tử trong hoạt động tài
chính
8. Nghị định số 35/2007/NĐ-CP về Giao dịch điện tử trong hoạt động
ngân hàng
9. Tổng cục du lịch Việt Nam (2007), Thống kê về số lượng khách du lịch
quốc tế đến Việt Nam tính đến tháng 03/2007, Hà nội.
10. Trần Công Nghiệp (2008), Bài giảng Thương mại điện tử, Đại học Kinh
tế và Quản trị kinh doanh, Phòng thực hành Kinh doanh, Tài liệu lƣu
hành nội bộ.
11. Philip Kotler (1999), Quản trị Marketing, NXB Thống kê
TIẾNG ANH VÀ DANH MỤC CÁC WEBSITE THAM KHẢO
Yếu tố 4P trong marketing điện tử và việc triển khai tại Việt Nam
Bùi Kim Điệp - Nhật 1 - K43 ĐH Ngoại thương 87
12. Mike Schwede (2006), The structure of the e-marketing mix,
Switzerland
13. Dave Chaffey , E-marketing Excellence
14. Bách khoa toàn thƣ mở tiếng Anh www.wikipedia.org
15.
16.
17.
18.
19.
20.
21.
22.
html
23.
24.
25.
26.
chaffey.html
27.
28.
task,search/catid,44/check_phaseid,7/
29. www.pacificairlines.com.vn,
30. www.123mua.com.vn
31. www.golmart.com.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4246_3413.pdf