Điểm bất lợi của chính sách cắt giảm chi tiêu khi cán cân thanh toán bội chi là gì và liên hệ thực tiễn Việt Nam

Khi cán cân thanh toán bội chi chính phủ đã có nhiều biện pháp giải quyết tình trạng đó. Một trong số giải pháp thường được sử dụng là biện pháp hạn chế chi tiêu. Khi thực hiện các biện pháp này sẽ làm giảm nhập khẩu dẫn đến giảm bội chi trong cán cân thanh toán, giảm các khoản nợ nước ngoài. Để hạn chế chi tiêu Chính phủ sử dụng 2 chính sách đó là chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. Bằng việc nâng mức dự trữ bắt buộc, nâng lãi suất chiết khấu và thực hiện các hoạt động trên thị trường mở, tăng thu giảm chi ngân sách nhà nước để làm giảm bội chi cán cân thanh toán thì việc trả giá cho nó không hề rẻ. Thực hiện các biện pháp này đồng nghĩa với việc chúng ta phải chấp nhận rủi ro suy giảm tăng trưởng, thị trường vốn phát triển chậm, sức mua giảm sút, tổng cầu giảm.Nó tác động đến doanh nghiệp một cách trực tiếp, thông qua đó tác động gián tiếp đến các vấn đề về sản xuất kinh doanh, thất nghiệp. Việc cắt giảm chi tiêu về lâu dài sẽ gây ra những vấn đề về suy giảm kinh tế, bất ổn về chính trị xã hội. Vì vậy mà chính phủ cần thực thi hài hòa giữa chính sách này và ổn định tăng trưởng. Cần phải tính toán "cái giá phải trả" cho việc thắt chặt chính sách để quyết định nên duy trì chính sách thắt chặt hay nới lỏng.

docx40 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3039 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Điểm bất lợi của chính sách cắt giảm chi tiêu khi cán cân thanh toán bội chi là gì và liên hệ thực tiễn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ốc gia trong đó trình độ khoa học công nghệ giữ vị trí quyết định. - Có chính sách hợp lý và năng động để thu hút khách du lịch, kiều hối, xuất khẩu lao động, xuất khẩu công nghệ nhằm tăng thu ngoại tệ. - Quản lý thu chi ngoại tệ theo nguyên tắc tăng thu giảm chi ngoại tệ. - Đổi mới chính sách quản lý kinh tế đối ngoại để thu hút vốn đầu tư . - Nâng cao trình độ quản lý và điều hành kinh tế của chính phủ và các cấp chính quyền CHƯƠNG 2. TÁC ĐỘNG CỦA BIỆN PHÁP CẮT GIẢM CHI TIÊU KHI BỘI CHI CÁN CÂN THANH TOÁN. Bội chi cán cân thanh toán quốc tế. Cán cân thanh toán của một nước phản ánh kết quả hoạt động trao đổi đối ngoại của nước đó với các nước khác. Trường hợp cán cân thặng dư hay bội chi cho biết nước đó là chủ nợ hay đang mắc nợ nước ngoài và nó sẽ tác động tới sự phát triển kinh tế - xã hội. Tình trạng dư thừa hay thiếu hụt của cán cân thanh toán tại một thời điểm nhất định sẽ ảnh hưởng tới quan hệ cung cầu ngoại hối trên thị trường, do đó ảnh hưởng ngay đến tình hình biến động của tỷ giá hối đoái của nước đó. Nhìn chung, dư thừa cán cân thanh toán sẽ dẫn đến sự ổn định hoặc giảm tỷ giá hối đoái mặc dù sự dư thừa quá nhiều của cán cân có thể tăng sức ép lên mức giá cả trong nước. Ngược lại, thiếu hụt cán cân thanh toán sẽ làm cho tỷ giá hối đoái mất tính ổn định và tăng lên từ đó sẽ tạo ra những biến động trong phát triển kinh tế - xã hội. Mặt khác, thực trạng của cán cân thanh toán có thể kích thích các nhà quản trị hoạch định chính sách thay đổi nội dung chính sách kinh tế của họ. Thâm hụt cán cân thanh toán có thể làm cho chính phủ nâng lãi suất lên hoặc giảm bớt chi tiêu công cộng để giảm chi về nhập khẩu... Do vậy, cán cân thanh toán được xem là một trong những tài liệu quan trọng nhất đối với các nhà hoạch định chính sách ở tầm vĩ mô. Giữ cho cán cân thanh toán cân bằng được xem là một trong những mục tiêu quan trọng trong chính sách kinh tế của quốc gia. Khi cán cân thanh toán bội thu hoặc bội chi, các nước thường phải áp dụng các biện pháp điều chỉnh cán cân thanh toán. Biện pháp cắt giảm chi tiêu khi bội chi cán cân thanh toán quốc tế. Chính sách tiền tệ. Chính sách dự trữ bắt buộc - Dự trữ bắt buộc là số tiền gửi bắt buộc của các ngân hàng thương mại tại NHTW, mức tiền gửi này do pháp luật quy định bằng một tỷ lệ nhất định so với các khoản tiền gửi ở ngân hàng thương mại. - Khi cán cân thanh toán bội chi, NHTW sẽ nâng mức dự trữ bắt buộc vì vậy lượng tín dụng trong ngân hàng thương mại sẽ giảm => ngân hàng thương mại sẽ giảm bớt cho vay, nhất là cho vay các hoạt động xuất nhập khẩu nên cán cân thanh toán sẽ được cải thiện. Chính sách lãi suất chiết khấu. - Để hạn chế chi tiêu, NHTW thường nâng lãi suất chiết khấu. Lãi suất chiết khấu tăng sẽ có tác động dây chuyền: giảm đầu tư dẫn đến giảm thu nhập, dẫn đến giảm nhập khẩu từ đó sẽ cải thiện được cán cân thanh toán. Chính sách hoạt động thị trường mở. - NHTW bán trái phiếu ra thị trường để thu hút tiền vào ngân hàng, từ đó giảm lượng cung tiền trong lưu thông, từ đó cũng có tác dụng làm tăng lãi suất tín dụng => giảm đầu tư => giảm nhập khẩu => cái thiện cán cân thanh toán. Chính sách tài khóa. Tăng thu cho ngân sách nhà nước. - Công cụ hữu hiệu để tăng thu ngân sách nhà nước là tăng thuế. Thứ nhất: tăng thuế nhập khẩu và giảm thuế xuất khẩu để khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu để cải thiện cán cân thanh toán. Thứ hai: tăng thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các hàng hóa chịu thuế TTĐB mà phải nhập khẩu để từ đó giảm nhập khẩu, hơn nữa còn khuyến khích, đẩy mạnh nghiên cứu, sản xuất trong nước để xuất khẩu. Từ đó góp phần cân bằng cán cân thanh toán đang bội chi. Thứ ba là tăng các loại thuế trực thu, biện pháp này tạo tác động dây chuyền, nó làm giảm thu hập qua đó giảm tiêu dùng, nhất là các mặt hàng nhập khẩu vì những loại hàng này thường có giá trị cao, qua đó giảm nhập khẩu, giúp cải thiện cán cân thanh toán. Cắt giảm chi tiêu cho ngân sách nhà nước. Để cắt giảm chi tiêu ngân sách, các chính phủ thường sử dụng biện pháp cắt giảm các khoản trợ cấp xã hội, các khoản chi cho đầu tư, từ đó giảm mức thu nhập và tiêu dung của dân cư, giảm mức đầu tư của tư nhân để cuối cùng là giảm nhập khẩu. Tác động tiêu cực của biện pháp cắt giảm chi tiêu khi bội chi cán cân thanh toán. Bội chi cán cân thanh toán quốc tế có những ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực, các hoạt động của nền kinh tế xã hội nói chung, làm cho nền kinh tế kém phát triển. Nhà nước phải tìm cách tăng các khoản thu, giảm chi tiêu điều này ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống nhân dân, hơn nữa khi đó các nguồn vốn trong ngân hàng sẽ trở nên khan hiếm hơn điều đó sẽ dẫn đến tình trạng lãi suất tăng cao, điều này gây ra trở ngại trong việc vay vốn của nhà đầu tư. Về lâu dài thì sẽ dẫn đến tình trạng đầu tư giảm sút nghiêm trọng, sẽ có nhiều doanh nghiệp bị phá sản do không tìm được những khoản vay thích hợp, sản xuất trong nước bị thu hẹp lại từ đó sẽ tạo điều kiện nhập siêu cán cân thương mại quốc tế mất cân bằng. Những điều kiện này Những điều này dẫn đến tình trạng thất nghiệp ngày càng gia tăng, thu nhập thực tế của người dân giảm sút và ngày càng gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống. Tác động tới ngân hàng thương mại. Do giá vàng và tỷ giá biến động mạnh nên nguỗng vốn đi vào ngân hàng rất hạn chế. Lãi suất huy động tăng gây méo mó trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, văn hóa kinh doanh ngân hàng suy giảm khi tình trạng hai giá phổ biến, khách hàng đến ngân hàng giao dịch đương nhiên là mặc cả lãi suất, không quan tâm tới lãi suất của ngân hàng và của NHTW. Tăng tính bị động và rủi ro thanh khoản đối với hoạt động ngân hàng Mất cân đối tiền tệ, thanh khoản ngoại tệ căng thẳng ngoại tệ và áp lực tỷ giá. Dư nợ nền kinh tế thấp so với trần cho phép và nợ xấu gia tăng, do lãi suất cao, nhu cầu vay hạn chế. Tác động tới nền kinh tế. Thứ nhất, cắt giảm chi tiêu làm sức mua giảm sút, tổng cầu giảm. Thực tế cho thấy nhu cầu tiêu dùng là yếu tố tác động đến sự sống còn của doanh nghiệp, thị hiếu mua sắm của người tiêu dùng có tác động lớn đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.Thị trường tiêu dùng càng phát triển thì hoạt động kinh doanh ngày càng phát triển, mở rộng sản xuất. Nếu sức mua bị giảm sút làm cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp bị thu hẹp. Sức mua yếu cộng thêm chính sách thắt chặt tiền tệ chắc chắn sẽ làm thị trường trở nên tê liệt. Mặt khác tiêu dùng giảm mạnh, hàng tồn kho của các loại hàng hóa lâu bền trong các doanh nghiệp tăng lên ngoài dự kiến. Việc này dẫn đến nhà sản xuất cắt giảm sản lượng kéo theo đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng cũng giảm và kết quả là GDP thực tế giảm sút. Thứ hai, cắt giảm chi tiêu sẽ làm nền kinh tế kém phát triển. Một nền kinh tế như Việt Nam đang trong thời kỳ hội nhập kinh tế muốn tăng trưởng, phát triển thì ắt phải phát triển kinh tế. Kinh tế phát triển được khi các hoạt động tiêu dùng, sản xuất, đầu tư, xây dựng phát triển. Tuy nhiên khi bị cắt giảm các khoản chi tiêu thì nền kinh tế sẽ không tăng trưởng, kìm hãm sự phát triển của quốc gia. Thứ ba, tác động đến doanh nghiệp một cách trực tiếp, thông qua đó tác động gián tiếp đến các vấn đề về sản xuất kinh doanh, thất nghiệp Khi cắt giảm chi tiêu người tiêu dùng chi ít tiền hơn cho hoạt động mua sắm làm lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh. Khi tổng cầu giảm doanh nghiệp sẽ thu hẹp sản xuất kinh doanh,cầu lao động giảm Cầu về lao động giảm, đầu tiên là số ngày làm việc của người lao động giảm xuống tiếp theo là hiện tượng cắt giảm nhân công và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao. Đối với người lao động, sự cắt giảm chi tiêu công sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của họ thông qua mấy khoản sau: Một là giảm lương; Hai là giảm thậm chí mất việc làm; Ba là giảm các phúc lợi xã hội từ nhà nước mà họ vẫn được hưởng. Bốn là giảm hiệu quả sử dụng đồng lương vốn vẫn chưa đúng với yêu cầu "làm theo năng lực, hưởng theo khả năng" trên thị trường tiêu dùng. Và khi tỉ lệ thất nghiệp tăng cao thì một số tác động đến nền kinh tế xã hội như Thất nghiệp ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống của người lao động. Người lao động bị thất nghiệp, tức mất việc làm, sẽ mất nguồn thu nhập. Do đó, đời sống bản thân người lao động và gia đình họ sẽ khó khăn. Điều đó ảnh hưởng đến khả năng tự đào tạo lại để chuyển dổi nghề nghiệp, trở lại thị trường lao động; con cái họ sẽ khó khăn khi đến trường; sức khoẻ họ sẽ giảm sút do thiếu kinh tế để bồi dưỡng, để chăm sóc y tế…Có thể nói, thất nghiệp “đẩy” người lao động đến bần cùng, đến chán nản với cuộc sống, với xã hội; dẫn họ đến những sai phạm đáng tiếc…Thất nghiệp gia tăng làm trật tự xã hội không ổn định; hiện tượng lãn công, bãi công, biểu tình đòi quyền làm việc… tăng lên: hiện tượng tiêu cực xã hội cũng phát sinh nhiều lên; Sự ủng hộ của người lao động đối với nhà cầm quyền cũng bị suy giảm… Từ đó, có thể có những xáo trộn về xã hội, thậm chí dẫn đên biến động về chính trị. Thất nghiệp là hiện tượng kinh tế- xã hội khó khăn và nan giải của quốc gia, có ảnh hưởng và tác động đến nhiều mặt đời sống kinh tế- xã hội. Đối với Nhà Nước giảm chi tiêu ngân sách nhà nước thường đi đôi với chính sách thắt chặt tiền tệ, thuế khóa như: tăng lãi suất cho vay để giảm đầu tư, dùng công cụ thuế để hạn chế tiêu dùng nhất là hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng. Khi sử dụng chính sách thắt chặt tiền tệ để giảm bội chi cán cân thanh toán quốc tế cũng có những tác động tiêu cực đến doanh nghiệp. CHƯƠNG 3. LIÊN HỆ THỰC TẾ CÔNG TÁC CẮT GIẢM CHI TIÊU KHI CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ BỘI CHI VỞ VIỆT NAM Thực trạng cán cân thanh toán quốc tế ở Việt Nam. Cán cân tổng thể của Việt Nam năm 2012 đã biến chuyển theo hướng tích cực: từ bị thâm hụt trong 2 năm 2009 (-8,4 tỷ USD), 2010 (-1,7 tỷ USD) sang thặng dư trong năm 2011 (2,5 tỷ USD) và tiếp tục thặng dư trong các quý năm 2012 – quý I: 4,28 tỷ USD; quý II: 2,17 tỷ USD; quý III: 4,2 tỷ USD. Đây là sự chuyển dịch vị thế quan trọng, góp phần làm tăng sức mạnh tài chính quốc gia chống lại kỳ vọng về biến động tỷ giá, kỳ vọng lạm phát. Cán cân thanh toán quốc tế Việt Nam từ năm 2008 đến 2010 những năm thâm hụt. Cán cân vãng lai (Current Account - CA) Năm 2008 2009 2010 CA -11,1 -8,0 -3,5 Đơn vị: (Tỷ USD) Nguồn: SBV, ĨMF, WB Theo số liệu ước tính của IMF, trong năm 2008 cán cân vãng lai của Việt Nam thâm hụt 11.100 triệu USD, tương đương 10,3 % GDP, vượt ngưỡng an toàn 2 lần, cao hơn nhiều so với con số cao ki lục của thâm hụt cán cân vãng lai 2007, tất cả những con số này cho thấy thâm hụt cán cân vãng lai của Việt Nam đã thật sự đáng báo động. Nguyên nhân do những ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế thế giới tới nền kinh tế Việt Nam., lạm phát trong nước tăng cao trong những tháng đầu năm 2008, giá xăng dầu trên thế giới tăng cao... Sang năm 2009,thâm hụt cán cân vãng lai tuy có giảm nhưng vẫn ở mức cao. Năm 2010, thâm hụt cán cân thương mại ở Việt Nam đã giảm xuống còn 3500 triệu USD. Cán cân thương mại Năm 2008 2009 2010 TB -14,2 -8,9 -5,1 Đơn vị: (Tỷ USD) Nguồn: SBV, ĨMF, WB Năm 2008. cán cân thương mại tiếp tục thâm hụt cao hơn năm 2007, lên tới tỷ 14,2 tỷ USD. Nguyên nhân chính là do giá cả hàng hóa trên thế giới tăng cao. Năm 2009 là năm kinh tế thế giới chịu ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, giá cả hàng hóa thế giới sau thời kì tăng giá vào khoảng 3 quý đầu năm 2008 đã có chiều hướng giảm mạnh trên thị trường thế giới cùng với xu hướng giảm mạnh của giá dầu, điều này gây ra khó khăn cho hoạt động xuất khâu của nhiều nước và Việt Nam Cán cân dịch vụ (Se) Năm 2008 2009 2010 Se -1 -1,2 -2,5 Đơn vị: (Tỷ USD) Nguồn: SBV, ĨMF, WB Nhìn vào bảng số liệu trên, có thể thấy quy mô xuất khẩu của Việt Nam nói chung còn rất nhỏ. Xét trên khía cạnh về tỷ trọng của xuất khẩu dịch vụ trong tổng kim ngạch của xuất khẩu nói chung (bao gồm cả hàng hóa dịch vụ) thì tỷ trọng của xuất khâu dịch vụ vừa nhỏ lại vừa có xu hướng giảm đi, nguyên nhân chính là do sức cạnh tranh của ngành dịch vụ nước ta trên thị trường thế giới còn chưa cao, tốc độ tăng của kim ngạch xuất khẩu dịch vụ luôn thấp, còn thấp hơn tốc độ tăng của xuất khấu hàng hóa. Cán cân thu nhập (Ic) Năm 2008 2009 2010 Ic -4,9 -4,9 -4,6 Đơn vị: (Tỷ USD) Nguồn: SBV, ĨMF, WB Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới kéo theo suy thoái kinh tế thế giới hầu hết NHTW các nước thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng, cắt giảm lãi suất, trong đó điểm hình như FED, trong năm 2008 đã 8 lần cắt giảm lãi suất, xuống mức thấp kỷ lục là 0,25%...điều này sẽ tác động làm giảm lãi suất của các khoản tiền gửi bàng ngoại tệ của người cư trú ở nước ngoài, làm giảm nguồn thu chủ yếu của cán cân thu nhập của Việt Nam. Mặt khác, do khó khăn về mặt tài chính nên nhiều doanh nghiệp FDĨ, chi nhánh các công ty nước ngoài có xu hướng chuyển khoản các khoản lợi nhuận về nước đế hồ trợ công ty mẹ, làm tăng các khoản chi trong cán cân dịch vụ do đó trong hai năm 2008, 2009 cán cân thu nhập của Việt Nam tiếp tục thâm hụt với mức độ cao hơn so với năm 2007 Cán cân chuyến giao vãng lai một chiều (Tr) Năm 2008 2009 2010 Tr 8,1 7 8,7 Đơn vị: (Tỷ USD) Nguồn: SBV, ĨMF, WB Theo ước tính của cơ quan lập báo cáo, thu nhập đầu tư (bao gồm trả nợ lãi các khoản vay nước ngoài, lãi tù- hoạt động đầu tu- của nhà đầu tu- nước ngoài...) thâm hụt 5,4 tỷ USD. Chỉ duy nhất mục chuyển tiền trong cán cân vãng lai có thặng dư khoảng 6,9 tỷ USD Cán cân vốn (Capital Balance - K) Năm 2008 2009 2010 K 13,4 12,3 5,5 Đơn vị: (Tỷ USD) Nguồn: SBV, ĨMF, WB Cán cân vốn của Việt Nam bao gồm các bộ phận cơ bản: vốn đầu tu- trực tiếp nước ngoài (FDI), vốn đầu tư gián tiếp (FII), các khoản nợ ngắn hạn, tín dụng thương mại, các khoản nợ trung - dài hạn và tài sản ngoại tệ của các Ngân hàng thương mại. Nhìn vào cán cân vốn của Việt Nam trong giai đoạn 2008 - 2010 có thề thấy rõ xu hướng chuyển dịch của cán cân bắt đầu có thặng dư. Sau đây nhóm chúng tôi xin đi vào phân tích thực trạng của các thành phần vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là thành phần dễ bị ảnh hưởng nhiều nhất khi khủng hoảng kinh tế xảy. Đầu tư trực tiếp nước ngoài Năm 2008 2009 2010 FDI 10 7,4 7,1 Đơn vị: (Tỷ USD) Nguồn: SBV, IMF, WB Dòng tiền FDI của năm 2008 là 10 tỷ USD, tăng vọt so với các năm trước giúp làm bội thu cán cân thanh toán tài khoản vốn. Tuy nhiên, so với các nước Đông Nam Á thì thu hút vốn FDI của Việt Nam chỉ đứng thức 4 sau Singapore (22,7 tỷ USD), Thái Lan (10,1 tỷ USD), và trong các năm này, xu hướng dòng vốn FDI không tập trung vào các ngành công nghiệp chế biến và nông nghiệp, mà tập trung vào các ngành bất động sản, khách sạn, nhà hàng (chiếm 63%) nhàm tìm kiếm lợi nhuận cao. Sự dịch chuyền dòng vốn FDI như vậy cần được xem xét dưới góc độ hiệu quả kinh tế, trình độ công nghệ đi kèm với FDI và năng lực xuất khẩu trong tương lai. Trong năm 2009 con số FDI được giải ngân đạt 7.400 trệu USD, thấp hon so với năm 2008 là 2.600 triệu USD. Theo Cục Đầu tư nước ngoài- Bộ Ke hoạch và Đầu tư, vốn đầu tư trục tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục là nhân tố quan trọng giúp giảm thâm hụt cán cân thanh toán, trong hoàn cảnh thâm hụt cán cân thương mại năm 2010 là 7,1 tỷ USD. Cán cân thanh toán quốc tế Việt Nam từ năm 2011-2012 những năm thặng dư. Khoản mục Giá trị (tỷ USD) Năm 2011 Ql-2012 Q2-2012 A. Cán cân vãng lai (1+2+3+4) -3.00 3.37 1.40 1. Cán cân thương mại -6.00 2.19 1.93 2. Dịch vụ -5.00 0.13 -1.38 3. Thu nhập đầu tư -1.00 -1.08 -1.12 4. Chuyên tiên 9.00 2.13 1.96 B. Cán cân vốn và tài chính (5+Ó+7+8+9) 8.60 1.40 1.44 5. Đầu tư trực tiếp 10.00 1.63 1.77 6. Vay trung-dài hạn 2.60 0.08 0.31 7. Vay ngăn hạn 0.50 0.47 0.86 8. Đầu tư vào GTCG 1.00 0.77 0.40 9. Tiền và tiền gửi -0.50 0.44 -0.10 10. Tài sản khác -5.00 -2.06 -1.79 c. Lỗi và sai sót (D-A-B) -4.00 -0.43 -0.67 D. Cán cân tông thế (-E) 1.60 4.28 2.17 E. Bù đắp (10+11) -1.60 -4.28 -2.17 Đơn vị: (Tỷ USD) Nguồn: SBV, IMF, WB Cán cân tông thê của Việt Nam đã có sự chuyên biên quan trọng, từ thâm hụt sang thặng dư trong năm 2011 và tiếp tục thặng dư trong quý I (4.28 tỷ USD) và quý II (2.17 tỷ USD), tính chung 6 tháng 2012 đã thặng dư 6.45 tỷ USD. Cán cân vãng lai: Cán cân vãng lai có sự thay đôi tích cực khi tăng tù' mức thâm hụt 3.3 tỷ USD năm 2011 đạt thặng dư trong 6 tháng đầu năm 2012 là 4.77 tỷ USD (Quý I đạt 3.37 tỷ USD, Quý II đạt 1.40 tỷ USD). Cán cân vãng lai bao gồm 4 nội dung cụ thể, đó là cán cân thương mại, dịch vụ, thu nhập đầu tư, chuyển tiền. Cán cân thương mại Sự mất cân đối của cán cân thương mại giai đoạn này đã giảm so với các năm trước. Năm 2012, cán cân thương mại đã đạt thặng dư 2.19 tỷ USD trong quý I, 1.93 tỷ USD trong quý II và tính chung đã thặng dư 4.121 tỷ USD, trong khi 6 tháng đầu năm 2011 là thâm hụt 2 tỷ USD. Nguyên nhân là do cùng tính theo giá FOB thì xuất khẩu đã cao hơn nhập khẩu. Tuy nhiên, cán cân thương mại thặng dư nhưng chưa vừng chắc, do nhu cầu đầu tư, sản xuất, tiêu dùng bị co lại. Cán cân dịch vụ, cán cân thu nhập đầu tư Cán cân dịch vụ, thu nhập, đầu tư có tăng cao so với năm 2011 nhưng vẫn ở mức thâm hụt trong 6 tháng đầu năm 2012. Năm 2012, cán cân dịch vụ quý I tuy thặng dư nhẹ, nhưng quý II thâm hụt lớn, nên tính chung 6 tháng bị thâm hụt 1.24 tỷ USD; thu nhập đầu tư quý I bị thâm hụt 1.08 tỷ USD, quý II bị thâm hụt 1.11 tỷ USD, tính chung 6 tháng bị thâm hụt 2.2 tỷ USD. Cán cân chuyển tiền Cán cân chuyển tiền đã đạt được thặng dư trong nhiều năm qua. Năm 2011, cán cân chuyên tiền thặng dư 9 tỷ USD. Sang năm 2012, đà thặng dư tiếp tục đượcduy trì, quý I thặng dư 2.13 tỷ USD; quý II thặng dư 1.96 tỷ USD. Tính chung 6 tháng đầu năm đã thặng dư 4.09 tỷ USD, trong đó riêng khu vực tư nhân thặng dư. 3.95 tỷ USD. Cán cân vốn và tài chỉnh Cán cân vốn và tài chính đã đạt thặng dư 8.6 tỷ trong năm 2011 và tiếp tục thặng dư trong 2 quý đầu năm 2012. Tính chung trong 6 tháng đầu năm 2012 đã đạt thặng dư 2.78 tỷ USD. Cán cân vốn và tài chính bao gồm 6 khoản, trong đó khoản mục đàu tư trực tiếp đạt thặng dư cao nhất. Đầu tư trực tiếp năm 2011 là 10 tỷ USD, và trong 6 tháng đầu năm 2012 là 3.4 tỷ USD. Tuy nhiên, cán cân tài sản khác thâm hụt 5 tỷ USD năm 2011, và quý 1/2012 bị thâm hụt 2.06 tỷ USD, quý 11/2012 bị thâm hụt 3.85 tỷ USD, tính chung 6 tháng đầu năm 2012 bị thâm hụt 3.85 tỷ USD. Các biện pháp của VN khi bội chi cán cân thanh toán quốc tế Năm 2008: Chính sách tiền tệ thắt chặt: Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Ngày 16/1/2008, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN ngày 16/01/2008 về việc điều chỉnh dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng.Theo đó, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu mở rộng diện các loại tiền gửi phải dự trữ bắt buộc. Cụ thể là: đối với tiền VND không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được tăng từ 10% lên 11%, đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được tăng từ 4% lên 5%; đối với tiền gửi bằng ngoại tệ không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ 10% lên 11%, đối với tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng từ 4% lên 5%.  Phát hành tín phiếu NHNN bắt buộc: Phát hành 20300 tỷ đồng tín phiếu NHNN bắt buộc, các NHTM phải mua 20300 tỷ đồng trái phiế cùng một lúc và đặc biệt trong lần phát hành tín phiếu này NHNN nói rõ là không được tái cấp vốn. Đây là động thái của NHNN nhằm thu hồi lượng tiền mặt quá lớn đồng thời thắt chặt tín dụng của các NHTM. Tăng lãi suất: Ngày 10/06/2008, NHNH đã ban hành hai Quyết định số 1316/QĐ-NHNN và Quyết định số 1317/QĐ-NHNN ngày 10/6/2008 về việc điều chỉnh lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu. Theo đó, kể từ ngày 11/6/2008, NHNN sẽ điều chỉnh lãi suất cơ bản từ 12%/năm tăng lên 14%/năm, lãi suất tái cấp vốn từ 13%/năm tăng lên 15%/năm, lãi suất tái chiết khấu từ 11%/năm tăng lên 13%/năm và có hiệu lực thực hiện kể từ ngày 11/6/2008.  NHNN ban hành Quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN, ngày 1/2/2008 về sửa đổi Chỉ thị 03 về cho vay chứng khoán. Trái với mong đợi của các NHTM, Quyết định 03 còn thắt chặt cho vay chứng khoán hơn so với Chỉ thị 03 trước đây. Chính sách tài khóa: Cắt giảm chi tiêu, đầu tư công: Thủ tướng chính phủ ban hành quyết định số 390/QĐ-TTg ngày 17/4/2008 về việc điều hành kế hoach đầu tư xây dựng cơ bản và chi tiêu ngân sách 2008 với các nội dung xoay quanh việc tiết kiệm chi tiêu và rà soát chặt chẽ việc thực hiện các kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản Rà soát lại danh mục các dự án, công trình đầu tư; đình hoãn và giãn tiến độ thực hiện trong kế hoạch năm 2008 là 1968 dự án, với tổng số vốn là khoảng 5992 tỷ đồng. Toàn bộ số vốn dành ra từ việc đình hoãn, ngừng triển khai và giãn tiến độ thực hiện này được tập trung bố trí cho các dự án hoàn thành và có khả năng đẩy nhanh tiến độ để hoàn thành đưa vào sử dụng năm 2008, các dự án cần thiết, cấp bách, có hiệu quả. Điều chỉnh giảm 25% kế hoạch vốn đầu tư từ nguồn trái phiếu Chính phủ cho các công trình giao thông, thủy lợi và nâng cấp bệnh viện tuyến huyện so với mức Quốc hội quyết định.Đình hoặc giãn tiến độ cấp tín dụng cho các dự án không triển khai, triển khai chậm hoặc không hiệu quả. Thực hiện tiết kiệm thêm 10% dự toán chi thường xuyên còn lại trong 8 tháng cuối 2008. Sử dụng nguồn kinh phí tiết kiệm được để bổ sung thực hiện các chính sách an sinh xã hội; phòng, chống thiên tai,… Biện pháp chống thất thu Ngân sách: Chống thất thu thuế: 18/4/2008 Tổng cục hải quan ban hành chỉ thị Số: 1007/CT-TCHQ về việc tăng cường các biện pháp chống buôn lậu, gian lận thương mại và chống thất thu thuế. Chỉ thị này ban hành nhằm hạn chế tình trạng: Khai báo không đúng tên hàng, khai báo nhiều chủng loại hàng hóa với một tên hàng để áp mã có mức thuế suất thấp; làm giả C/O để được hưởng thuế suất ưu đãi đặc biệt; khai báo không đúng trị giá thực thanh toán để gian lận trị trí; bán nguyên phụ liệu, thành phẩm ra thị trường nội địa đối với loại hình nhập khẩu đầu tư gia công, sản xuất – xuất khẩu để trốn thuế với số lượng lớn, xuất hiện tình trạng doanh nghiệp bỏ trốn khi nợ thuế ngân sách nhà nước; Tăng thuế đối với một số ngành hàng nhập khẩu: ngày 11/3, Thứ trưởng Bộ Tài chính Trương Chí Trung đã ký quyết định tăng thuế đối với mặt hàng ôtô mới nguyên chiếc dùng chở người, từ 60% lên 70%. Thuế tuyệt đối của mặt hàng xe cũ nhập khẩu có mức tăng trung bình 10%. Năm 2009: Chính sách tiền tệ : Nền kinh tế thế giới gặp nhiều khó khan, NHNN sử dụng chính sách tiền tệ linh hoạt theo hướng nới lỏng hơn so với 2008 để khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp sản xuât kinh doanh. Trong bối cảnh các nguồn cung ngoại tệ bị suy giảm do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, NHNN đã thực hiện nhiều biện pháp để ổn định thị trường. Trong đó có việc điều hành linh hoạt tỷ giá bình quân liên ngân hàng phù hợp với tín hiệu thị trường và mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập siêu. Triển khai đồng bộ các giải pháp về điều hành tín dụng nhằm khuyến khích sản xuất và xuất khẩu, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội. Cụ thể, NHNN đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng thực hiện các giải pháp về tín dụng và lãi suất để vừa chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa bảo đảm an toàn hoạt động và ngăn ngừa nguy cơ tái lạm phát… Đẩy mạnh công tác cải cách hành chính: NHNN đã hoàn thành việc thống kê và công bố Bộ thủ tục hành chính thuộc phạm vi, chức năng quản lý của NHNN, và là đơn vị hoàn thành sớm nhất giai đoạn 1- giai đoạn rà soát và thống kê tất cả các thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực hoạt động ngân hàng, đảm bảo đơn giản hóa tối thiểu 30% các quy định về thủ tục hành chính => tiết kiệm thời gian, chi phí, giúp các doanh nghiệp dễ dàng hơn trong tiếp cận nguồn vốn nay và nắm bứt cơ hội kinh doanh. Chính sách tài khóa: Thu ngân sách: Tạm hoãn thu hồi một số khoản vốn ngân sách nhà nước đã ứng trước kế hoạch  năm 2009. Luật thuế TNCN có hiệu lực từ 1/1/2009, nhưng để khuyến khích tiêu dùng chính phủ đã hoãn đến 6/2009 Giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của quý IV năm 2008 và thuế thu nhậdoanh nghiệp phải nộp năm 2009 đối với thu nhập của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giãn thời hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian 9 tháng đối với số thuế thu nhập phải nộp năm 2009 của các doanh nghiệp có hoạt động gia công, chế biến nông – lâm thủy sản, dệt may, điện tử. Mặc dù bị ảnh hưởng trong những tháng đầu năm do thực hiện miễn, giảm, giãn  thuế và giá dầu thô trên thế giới giảm, nhưng những tháng cuối năm sản xuất kinh  doanh trong nước phát triển nên tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến  15/12/2009 ước tính đạt xấp xỉ dự toán năm, trong đó các khoản thu nội địa bằng  102,5%; thu từ dầu thô bằng 86,7%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu bằng 101,6%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước bằng 106,2%; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) bằng  88,8%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước bằng 95,6%; thuế  thu nhập cá nhân bằng 87%; thu phí xăng dầu đạt 157,5%; thu phí, lệ phí bằng 90,8%. Chi ngân sách: Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/12/2009 ước tính đạt 96,2% dự toán  năm, trong đó chi đầu tư phát triển đạt 95,2% (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản đạt  93,4%); chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể đạt 99,6%; chi trả nợ và viện trợ đạt 102,7%. Bội chi ngân sách Nhà nước  năm 2009 ước tính bằng 7% GDP, thực hiện được mức bội chi Quốc hội đề ra, trong đó 81,2% mức bội chi được bù đắp bằng nguồn vay trong nước; 18,8% bù đắp bằng nguồn  vay nước ngoài. Năm 2010: Chính sách tiền tệ thắt chặt: Tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc: Thông tư 13/TT-NHNN được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ký ban hành vào ngày 20/5/2010 quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng; Thông tư này thay thế cho Quyết định số 457/QĐ/NHNN. Theo đó, Tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng sẽ phải nâng lên mức 9% thay cho 8% như hiện nay, thời gian áp dụng từ ngày 1/10/2010. Bổ sung thêm tỷ lệ về dự trữ thanh khoản nhằm đánh giá được mức độ dự trữ của các tổ chức tín dụng để xử lý kịp thời khi gặp khó khăn về thanh khoản. Tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động cũng được bổ sung nhằm tăng cường quản lý thanh khoản và khả năng huy động vốn của các tổ chức tín dụng. Tăng lãi suất chiết khấu: Quyết định 2620/QĐNHNN 05/11/2010 quy định lãi suất chiết khấu là 7%/năm tăng 1% so với trước đó. Lãi suất tái cấp vốn: 9,0%/năm. Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng: 9,0%/năm. Chính sách tài khóa: Thực hiện chính sách tài khóa chủ động, chặt chẽ: Những giải pháp tài khóa nhằm khắc phục ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu trong năm 2009 như miễn, giảm, giãn thuế đã dừng thực hiện (trừ thuế thu nhập DN của các DN nhỏ và vừa, DN sản xuất, gia công, dệt, may, da, giầy, dép được tiếp tục giãn nộp thêm 3 tháng). Bộ Tài chính đã xây dựng, trình Chính phủ ban hành và hướng dẫn thực hiện các chính sách tài chính, thuế nhằm hỗ trợ DN khắc phục khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh và xuất khẩu phù hợp với những cam kết quốc tế. Điều hành chính sách thuế linh hoạt, phù hợp với các cam kết quốc tế nhằm hạn chế nhập siêu, kiềm chế lạm phát Thu ngân sách tiếp tục lập kỷ lục mới Mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng tổng thu cân đối NSNN vẫn vượt khoảng 14,4% so với dự toán, tăng 19,4% so với năm 2009. Trong đó, số thu do ngành Thuế quản lý đạt khoảng 400.800 tỷ đồng, vượt 11% so với dự toán, tăng 21,4% so với cùng kỳ. Những điểm nổi bật trong kết quả thu NSNN năm 2010 đó là cơ cấu thu ngân sách tiếp tục thay đổi theo chiều hướng tích cực với tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu ngân sách ngày càng tăng, từ 61% năm 2009 lên 62,5% năm 2010; thu từ khu vực sản xuất kinh doanh (chiếm tỷ trọng 72% trong tổng thu nội địa), tăng 28,7% so với cùng kỳ; Tỷ lệ huy động thu NSNN trên GDP đạt 27,3%, trong đó huy động từ thuế và phí đạt 25,1%... Huy động vốn cho NSNN và đầu tư phát triển cao hơn nhiều so với năm 2009 Năm 2010, Bộ Tài chính đã chủ động và tích cực thực hiện nhiều biện pháp nhằm tăng khả năng huy động vốn từ nguồn trái phiếu Chính phủ, tín phiếu kho bạc. Kết quả huy động vốn cho NSNN và đầu tư phát triển năm 2010 đạt hơn 90% kế hoạch, riêng huy động trái phiếu Chính phủ tăng hơn 3,5 lần so với năm 2009, qua đó vừa đảm bảo vốn cho đầu tư phát triển và bù đắp bội chi NSNN, vừa hút vốn- giảm áp lực lạm phát.  Thực hiện quản lý chi tiêu chặt chẽ, tiết kiệm chi Tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa linh hoạt có kiểm soát chặt chẽ, phấn đấu nâng cao hiệu quả chi, phấn đấu giảm bội chi ngân sách nhà nước năm Tác động của biện pháp cắt giảm chi tiêu. Tác động của các chính sách tiền tệ Tác động tích cực Sự can thiệp quyết liệt của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho thấy được sự quyết tâm của toàn hệ thống ngân hàng trong việc kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng thực sự các NHTM đã phải trải qua những tháng ngày cực kỳ khó khăn về thanh khoản. Chiến dịch lãi suất của các ngân hàng giai đoạn này đã tạo nên một dấu ấn khá sâu đậm. Chỉ trong khoảng thời gian vài ngày, có ngân hàng đẩy lãi suất tiền gửi từ 15%/năm lên 19%/năm, lãi suất cho vay được đẩy lên đúng với lãi suất tối đa 21%/năm ở hầu hết các ngân hàng. Trong năm 2008, NHNN thực hiện điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt. 6 tháng đầu năm, NHNN sử dụng đồng bộ giải pháp thắt chặt tiền tệ bằng cách thu hút tiền từ lưu thông, kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng, đồng thời, hỗ trợ kịp thời vốn ngắn hạn cho các tổ chức tín dụng gặp khó khăn về thanh khoản. Trước những tín hiệu khả quan về kinh tế vĩ mô, từ tháng 7 đến nay, NHNN nới lỏng chính sách tiền tệ bằng cách điều chỉnh linh hoạt lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc, lãi suất tín phiếu… Nhờ đó, tổng phương tiện thanh toán toàn ngành tăng 16-17% so với năm 2007, dư nợ tín dụng tăng 21-22%. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng 5,4%, tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại tăng 8-9%. Sự bình ổn trở lại được bắt đầu vào quý III năm 2008. Những ngày đầu quý III, nền kinh tế trong nước phải đối mặt với nhiều khó khăn, tăng trưởng kinh tế giảm dần, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản vẫn đang trong tình trạng “ngủ đông”, thị trường tiền tệ thì diễn biến phức tạp, sản xuất kinh doanh thì chật vật bởi lãi suất cao, chi phí nguyên liệu cũng cao… Tuy nhiên, chỉ số lạm phát tháng 7 được công bố ở mức 1,13% - mức thấp nhất so với các tháng trước - đã làm cho tình hình dịu đi. Và hy vọng về sự sáng sủa của bức tranh kinh tế đã bắt đầu le lói khi chỉ số lạm phát ngày càng có xu hướng giảm dần, tháng 8 là 1,56%; đến tháng 9 chỉ còn 0,18%; tháng 10 giá cả bắt đầu có xu hướng giảm (âm 0,19%); sang tháng 11, chỉ số giá cả giảm với mức độ sâu hơn (âm 0,76%) và tháng 12/2008 - tháng cuối cùng năm 2008, chỉ số giá cả vẫn tiếp tục giảm... Cuộc chạy đua lãi suất cũng bắt đầu có dấu hiệu chững lại sau một loạt các quyết định của NHNN trong việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ. Cho đến cuối tháng 12/2008, tình hình kinh tế có dấu hiệu khả quan hơn, hoạt động ngân hàng đang khởi sắc trở lại, huy động vốn và cho vay đang bắt đầu trở về với nhịp độ bình thường, lãi suất không còn đóng vai trò gần như tuyệt đối trong việc hướng dẫn khách hàng có nguồn tiền gửi… Tác động tiêu cực Tăng trưởng kinh tế. Kinh tế tăng trưởng ở mức thấp. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2009 thấp nhất trong 10 năm gần đây chỉ là 5,2% Tăng trưởng chủ yếu vẫn theo chiều rộng, cơ cấu kinh tế kém hiệu quả, năng suất lao động, chất lượng và sức cạnh tranh còn thấp. Các doanh nghiệp và cả nền kinh tế chưa chuyển mạnh theo hướng biến thách thức thành cơ hội để cơ cấu lại sản xuất. Công nghiệp tuy đã vượt qua khó khăn, nhưng tăng trưởng vẫn ở mức thấp. Sản xuất nông nghiệp kém bền vững, giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích đất canh tác còn rất thấp. Xuất khẩu và du lịch giảm mạnh. Tiêu thụ hàng hoá còn khó khăn. Một số chỉ tiêu chưa đạt kế hoạch. Nhập siêu tăng và đầu tư nước ngoài giảm, cộng với lượng kiều hối giảm, đã khiến tổng cán cân thanh toán của Việt Nam bị (-162) triệu USD năm 2008 và ước khoảng (-2,5) tỷ USD năm 2009 (Hình 1.10). Thị trường ngoại hối của Việt Nam do đó đã trở nên căng thẳng vào những tháng cuối năm 2009. Hệ quả là chính phủ buộc phải giảm giá VND thêm 5% đồng thời yêu cầu các tập đoàn và tổng công ty nhà nước phải bán ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại để giải áp lực trên thị trường này. Do những ảnh hưởng như vậy nên tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã giảm mạnh, đặc biệt quý 1-2009 chỉ đạt 3,14%. Nhờ tác động của gói kích cầu của Chính phủ cũng như tình hình kinh tế thế giới cải thiện dần trong những tháng cuối năm, tốc độ tăng trưởng GDP các quý sau đã được cải thiện. Tính chung cả năm 2009, tổng sản phẩm trong nước tăng 5,32%, bao gồm: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,83%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,52%; khu vực dịch vụ tăng 6,63%. Một số quan điểm cho rằng trong bối cảnh các nền kinh tế lớn và phát triển đều có mức tăng trưởng âm, trong khi Việt Nam cùng với một số nước như Trung Quốc vẫn giữ mức tăng trưởng dương và khá “cao” nên có thể coi đây là thành tích đặc biệt của những nền kinh tế này. Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng việc so sánh các chỉ tiêu thuần tuý như vậy là không phù hợp đối với các nền kinh tế ở những giai đoạn, trình độ phát triển khác nhau. Điều quan trọng là phải so sánh tốc độ tăng trưởng hiện thời với tốc độ tăng trưởng tiềm năng. Với các nước như Việt Nam và Trung Quốc, mức tăng trưởng tiềm năng bản thân đã khá cao, chẳng hạn là 8%, trong khi mức tăng trưởng tiềm năng ở các nước đang phát triển có thể chỉ là 1%, thì mọi mức tăng trưởng thấp dưới 8% ở Việt Nam hoặc Trung Quốc đều đem lại những hậu quả kinh tế và xã hội không khác gì mức tăng trưởng âm hoặc dưới 1% ở các nước phát triển (thất nghiệp gia tăng, bất ổn xã hội, v.v.). Năm 2010 cũng là năm thị trường vàng có những cơn sốt kinh ngạc. Mặc dù tỷ suất lợi nhuận đầu tư vào vàng năm qua đạt khoảng 38%. Tuy nhiên, điều này về tổng thể không có lợi cho nền kinh tế, bởi nó không những không tạo ra việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, nó còn góp phần làm méo mó dây chuyền sang các thị trường khác như USD, nhà đất và chứng khoán. Năm 2010 cũng là năm việc thiếu điện đã khiến nhiều doanh nghiệp bị đình đốn sản xuất, gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế. Không chỉ khách hàng thiệt hại, ngay cả Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN) chỉ trong 7 tháng đầu năm đã lỗ tới 6.500 tỷ đồng. Doanh nghiệp khó tiếp cận vốn vay. Các doanh nghiệp rất khó tiếp cận vốn. Dù hiện nay nhiều ngân hàng đã rất có thành ý và đặt ra mục tiêu tăng dư nợ trong những tháng cuối năm 2008 nhưng việc cho vay cũng chưa hẳn đã dễ dàng. Cho đến cuối tháng 10/2008, kế hoạch mở rộng quy mô cho vay của một số ngân hàng chỉ thực hiện được khoảng 10% - 20%. Có nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó dĩ nhiên nguyên nhân từ phía doanh nghiệp cũng không kém phần quan trọng, song nếu xét ở góc độ do chịu hệ lụy của chính sách tiền tệ thì lãi suất chính là một trong những nguyên nhân cơ bản làm giảm hẳn khả năng vay vốn của các doanh nghiệp. Theo thống kê gần đây của Hiệp hội các doanh nghiệp nhỏ và vừa thì có tới 60% doanh nghiệp khó khăn do lãi suất tăng. Và kể cả trong thời gian này, khi ngân hàng giảm lãi suất cho vay thì doanh nghiệp vẫn thật khó có thể vay vốn bởi lãi suất vẫn cao hơn so với tỷ suất lợi nhuận mà nó có thể đạt được. Mặt khác, nền kinh tế khó khăn, thì doanh nghiệp không chỉ khó khăn về vốn, về lãi suất mà giá cả đầu vào cao- chi phí sản xuất kinh doanh tăng vọt cũng góp phần làm suy yếu sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp và do vậy việc tăng trưởng tín dụng của các ngân hàng cũng không phải dễ dàng. Vốn dĩ việc kinh doanh của ngân hàng là dựa trên những đồng vốn được huy động từ nền kinh tế, cho dù ngân hàng có khó khăn như thế nào thì việc hoàn trả tiền gửi khi đến kỳ hạn cũng không bao giờ được chậm trễ. Điều đó đã buộc ngân hàng phải từ chối với những dự án vay không đủ chuẩn và do vậy đã làm hạn chế khả năng cho vay của các ngân hàng. Không có vốn tiếp tục cho các hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường, thì hàng loạt hợp đồng thi công, hợp đồng cung ứng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ,... không thực hiện được. Tiếp theo đó là người lao động không có việc làm, máy móc thiết bị phải bỏ không, gây lãng phí và thiệt hại lớn cho bản thân doanh nghiệp cũng như nền kinh tế. Thậm chí có thể doanh nghiệp rơi vào nguy cơ bị phá sản. Thực ra tình trạng khó khăn về vốn tín dụng của doanh nghiệp bắt đầu tư giữa quý I/2008, khi chính sách tiền tệ bị thắt chặt. Song trong các tháng qua, không ít doanh nghiệp vẫn có thể vay được vốn của một số NHTM, hoặc "giật gấu vá vai” chạy vạy chỗ này chỗ khác, chiếm dụng vốn của đối tác, trây ỳ công nợ đối với bạn hàng,... nhưng tình trạng đó không thể kéo dài mãi được. Bên cạnh đó chuẩn bị bước vào quý IV, giai đoạn khẩn trương hoàn thành các hợp đồng kinh tế đã ký kết trước khi kết thúc năm 2008; chuẩn bị hàng hoá tiêu thụ cuối năm và giao hàng, xuất khẩu hàng cho đối tác của năm mới, tiêu thụ lúa hàng hoá và thu mua cá tra, cá ba sa,... cho chế biến xuất khẩu ở các tỉnh vùng ĐBSCL,... nên tình hình vốn của doanh nghiệp lại càng có tính cấp bách và trở thành chủ đề nóng hổi. Một số NHTM chỉ cho vay khách hàng truyền thống, quan hệ có uy tín, kinh doanh có hiệu quả. Do đó nhiều doanh nghiệp khác không vay được. Một số NHTM, chủ yếu là NHTM cổ phần, đến nay đã đạt được mức tăng trưởng 30% rồi, nên họ cũng hầu như không cho vay mới, mà chỉ thu nợ được số vốn vay cũ thì mới cho vay ra, nhưng cho vay ra cũng chọn lọc chứ không phải doanh nghiệp nào cũng có thể vay được.  Một số NHTM khác, nhất là NHTM có quy mô lớn, mặc dù chưa đạt mức tăng dư nợ 30%, nhưng lo ngại rủi ro, nên tốt nhất để bảo đảm an toàn trong bối cảnh hiện nay họ cũng không mặn mà gì cho vay ra. Các NHTM này hầu như chỉ giải quyết vốn cho các dự án lớn về điện, xi măng,... của các khách hàng lớn đã cam kết trong hợp đồng tín dụng ký từ đầu năm hay ký trước đây, một số dự án sản xuất hàng xuất khẩu, còn lĩnh vực khác thì rất hạn chế. Lãi suất cho vay mặc dù đã được số đông các NHTM điều chỉnh giảm, nhưng mức giảm không nhiều, chỉ khoảng 0,5%-1%/năm, nên vẫn đang ở mức rất cao, gấp 1,5 lần lãi suất cho vay thời điểm đầu năm hay cùng kỳ này năm trước. Với mức lãi suất cho vay nội tệ vẫn lên tới 1,6%-1,65%/tháng, hay 19,5%-20,5%/tháng, các NHTM này lo doanh nghiệp làm ăn gì cho có lãi mà trả nợ gốc và lãi cho NHTM đ được, nên mặc dù hạn mức tín dụng vẫn còn nhưng NHTM rất dè dặt cho vay. Không ít NHTM đánh giá, với lãi suất cao như vậy, một số doanh nghiệp “vẫn liều” vay, phải chăng là họ đành chấp nhận lỗ giai đoạn hiện nay để cố gắng duy trì sản xuất kinh doanh vượt qua lúc khó khăn. Nếu không vay vốn, hợp đồng dở dang không thanh toán được. Máy móc thiết bị  và nhà xưởng bỏ không, vừa lo khấu hao, vừa hao mòn vô hình, vừa tốn chi phí trông coi và bảo dưỡng. Công nhân không việc làm vừa phải trợ cấp 70% lương cho họ, hoặc không họ bỏ đi làm nơi khác, sau này rất khó thu hút trở lại. Không còn con đường nào khác đành chấp nhận phải vay, mà may còn có thể vay được của NHTM chứ không phải đi vay tư nhân với lãi suất không biết bao nhiêu. Lãi suất vốn vay cao, nhiều doanh nghiệp cũng không dám vay, vì không lấy đâu ra lãi, ra lợi nhuận để trả lãi ngân hàng. Chẳng hạn như một doanh nghiệp nhỏ và vừa vay 10 tỷ đồng, mỗi tháng tiền lãi đã lên tới 160–165 triệu đồng, đủ để trả lương cho tới 100 công nhân. Thị trường ngoại hối Điểm hạn chế đầu tiên của chính sách tiền tệ trong những năm gần đây là ở thị trường ngoại hối. Theo hệ thống tỷ giá hối đoái ít biến động hiện nay, nhiều lúc, khoảng cách giữ tỷ giá hối đoái chính thức và tỷ giá hối đoái trên thị trường phi chính thức đã dao động và bị nới rộng ra. Sự “chênh” giữa cung và cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối đã cản trở rất nhiều đến sự vận hành thông suốt và việc mở rộng lĩnh vực ngoại thương một cách ổn định. Ngân hàng Nhà nước cần phải xem lại việc quản lý hệ thống tiền tệ hiện nay để duy trì tính thông suốt trong các giao dịch hàng ngày. Khó khăn trong thanh khoản, nợ xấu tăng cao trong các NHTM. Ngân hàng thương mại khó có thể điều chỉnh lãi suất cho vay. Lãi suất cho vay không phải chỉ bị ảnh hưởng bởi mặt bằng giá cả mà nguyên nhân chính là nó phải chịu sự chi phối của quan hệ cung cầu tín dụng trong nền kinh tế, mà trong đó NHTW có thể thực hiện vai trò điều tiết của mình thông qua các công chính sách tiền tệ để trực tiếp điều chỉnh lãi suất hoặc gián tiếp điều chỉnh quan hệ cung cầu tín dụng. Ngân hàng cho vay dựa trên cơ sở nguồn vốn phải trả lãi huy động được từ nền kinh tế, nhưng đồng thời đó cũng là nguồn để dự trữ bắt buộc, để mua tín phiếu bắt buộc... trên cơ sở đó, ngân hàng phải tự cân đối nguồn vốn khả dụng, cân đối lãi suất để nếu không có lời thì cũng phải duy trì hoạt động của ngân hàng. Vì thế, toàn bộ các tín hiệu được phát ra từ NHNN như tăng dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất cơ bản, mua tín phiếu bắt buộc trong những tháng đầu năm 2008 đã buộc các ngân hàng phải nâng lãi suất, phải thắt chặt tín dụng. Hiện thời, lãi suất huy động và cho vay đều giảm xuống nhưng nguồn huy động lãi suất cao còn đó, không dễ gì ngay lập tức có thể giảm thật nhiều. Vấn đề này đối với các NHTM cổ phần lại càng khó khăn hơn vì nguồn vốn huy động lãi suất thấp từ tiền gửi thanh toán của các doanh nghiệp của họ thật vô cùng khan hiếm. Sự tương tác giữa các ngân hàng có phần suy giảm - cũng là một hệ lụy do việc vận dụng chính sách tiền tệ thời gian qua mang lại. Trong hoạt động ngân hàng, đòi hỏi giữa các thành viên phải có sự tương tác, hỗ trợ lẫn nhau để cùng tồn tại và phát triển, nhất là trong những hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, nếu không tương tác hỗ trợ mà còn xô đẩy nhau thì chắc chắn bão táp sẽ ập xuống - khủng hoảng toàn hệ thống, lúc đó thật khó có thể tồn tại. Thực ra các ngân hàng đều thấu hiểu sự ràng buộc đó, song có những khoảnh khắc rất ngắn trong những tháng đầu năm 2008, nhiều ngân hàng phải đối diện với vấn đề thanh khoản, những yêu cầu gấp gáp, khẩn trương cả về thời gian và số lượng đã buộc các ngân hàng phải đưa ra những phương án xử lí vấn đề thanh khoản một cách quyết liệt. Các ngân hàng phải lên kế hoạch, vạch chiến lược thanh khoản cho từng giờ - làm sao tránh khỏi việc chiêu dụ khách hàng của nhau; sử dụng công cụ lãi suất ép nhau... Thật lo lắng khi ngay trên thị trường liên ngân hàng, các ngân hàng cũng đã có lúc đối xử với nhau như không phải họ đang trong cùng một trận tuyến chống lạm phát - lãi suất cho vay giữa các ngân hàng có lúc lên đến 43%/năm - một con số không thể ngờ tới. Nợ xấu và rủi ro tiềm ẩn tăng lên. Lãi suất cao, thắt chặt tín dụng, giá cả nguyên vật liệu tăng vọt... là những gánh nặng đè lên vai các doanh nghiệp. Trong hoàn cảnh đó, rõ ràng các dự án đang hoạt động không thể tiến hành bình thường, các dự án mới không thể bắt đầu được, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh không thể có cơ hội để duy trì ổn định và doanh nghiệp đã gặp không ít khó khăn khi phải đương đầu với những thay đổi thất thường của nền kinh tế: lúc giá cả lên cao - chi phí nguyên vật liệu tăng vọt, khi giá cả giảm xuống - sản phẩm làm ra không thể bán giá cao… Nợ mới đã không vay được thì nợ cũ cũng không dễ gì trả được - nợ chồng nợ, nợ đọng, nợ khó thu hồi, đảo nợ... có nhiều cơ hội phát sinh, rủi ro tiềm ẩn tăng lên. Không thể khác được, sự khó khăn của doanh nghiệp lại gây hậu quả ngược lại cho ngân hàng. Chính sách tài khóa. Tích cực. Chính sách tái khóa giai đoạn này đã ứng phó nhanh, kịp thời hướng mạnh vào kích cầu. Nhờ đó Việt Nam ngăn chặn được suy giảm kinh tế năm 2010, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng 6,78%, cao hơn chỉ tiêu kế hoạch đề ra(6,5%). Tổng kim ngạch xuất khẩu tháng 12/2010 đạt 7,1 tỷ USD, cả năm 2010 đạt hơn 71,6 tỷ USD, tăng 25,5% so với năm 2009 và gấp hơn 4 lần so với chỉ tiêu quốc hội đề ra. Đặc biệt Việt Nam có 18 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, tăng 6 mặt hàng so với 2009. Lần đầu tiên dệt may đạt trên 11 tỷ USD, đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu trong 26 mặt hàng chính. Giá cả nhiều mặt hàng được cải thiện góp phần tăng trưởng xuất khẩu cả năm. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tính chung cả năm 2010 đạt 1.561,6 nghìn tỷ đồng tăng 24,5% so với 2009. Giá trị sản xuất nông lâm nghiệp thủy sản năm 2010 đạt 233.000 tỷ đồng tăng 4,7% so với 2009. Nhờ kiểm soát chặt nhập khẩu và thành công trong xuất khẩu mà nhập siêu hàng hóa đã giảm hơn 5% và bằng 17,3% so với năm 2009. Bên cạnh đó, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ cũng tăng trên 29%, góp phần khống chế nhập dịch vụ giảm 24% và bằng 11,5% kim ngạch xuất khẩu dịch vụ. Tiêu cực Bên cạnh những mặt tích cực, chính sách tài khóa giai đoạn này còn không ít hạn chế: Thu ngân sách Nhà nước vẫn còn tiềm ẩn những bất ổn do nguồn thu từ dầu thô còn chiếm tỷ trọng đáng kể. Khi giá dầu thế giới biến động giảm sút thì thu ngân sách nhà nước cũng sẽ giảm đáng kể. Tình trạng thất thu thuế, nợ đọng thuế không được giải quyết triệt để. Tổng chi ngân sách nhà nước hàng năm đã vượt quá 30% GDP, đó là một con số khá lớn. Chi đầu tư và phát triển còn dàn trải, lãng phí ngay từ khâu thiết kế và chọn dự án. Chi cho phát triển khoa học- công nghệ, cho giáo dục đào tạo và cho nguồn nhân lực chưa được coi trọng đúng mức về quy mô, cách thức phân bổ nên tác động còn hạn chế. Các giảm ưu đãi về thuế làm giảm ngân sách nhà nước, đồng thời gói chi ngân sách nhà nước cho gói kích cầu rất lớn dẫn đến tình trạng thâm hụt ngân sách nhà nước tăng lên, từ đó gây nên áp lực lạm phát. Các khoản chi hỗ trợ từ ngân sách nhà nước quá lớn tạo ra sự lấn át đối với khi vực tư nhân , hơn nữa cón hạn chế tác động của điều tiết thị trường, gây ra tình trạng bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp.  Năm 2010, thu ngân sách đạt 480000 tỷ đồng, tăng gần 18% so với năm 2009. Ngân sách tăng cao nhưng vẫn bội chi cho thấy vấn đề lạm phát không chỉ nằm ở chính sách tiền tệ. Tiền được đẩy vào các dự án mà chưa thể đánh giá ngay được hiệu quả kinh tế. Đáng lo ngại hơn là trong hàng trăm nghìn tỷ đồng đẩy ra, tỷ lệ rò rỉ ngân sách được các bộ, ngành chức năng báo cáo trước Quốc hội trong nhiều kỳ họp gần đây là từ 10-30%. Việc phối hợp chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ chưa hiệu quả, cách thức điều  hành tỷ giá VND/USD chưa linh hoạt, không theo thị trường đã đẩy chênh lệch tỷ giá  thị trường và tỷ giá ngân hàng lên tới gần 10% (2.000 đồng), điều chưa từng có trong  vòng 15 năm trở lại đây. Điều này đã làm cho lòng tin của người dân vào đồng nội tệ  bị giảm sút, tạo ra vòng xoáy găm giữ USD, tạo áp lực tăng giá đồng USD và gây bất  lợi cho nền kinh tế. Chính sách tài khóa với chi tiêu công quá mạnh trong khu vực đầu tư, làm tăng tỷ lệ đầu tư trên GDP ở mức 44,2% năm 2010- cao thứ 2 Châu Á, chỉ sau Trung Quốc. Do nên fkinh kém hiệu quả nên các khoản đầu tư công cũng không mấy hiệu quả đã tạo ra sự mất cân đối giữa lượng hàng hóa với số lượng tiền trong nền kinh tế và kết quả tất yếu phải xảy ra là lạm phát. Chi tiêu công và nợ công tăng cao trong những năm gần đây đã tạo ra sức ép nặng nề lên giá cả hàng hóa. Điều này cũng giải thích tại sao chính sách tiền tệ đã kiểm soát tăng trưởng tín dụng (28%) và gia tăng tổng phương tiện thanh toán(25%) khá tốt năm 2010 nhưng lạm phát vẫn ở mức 2 chữ số. Đây cũng chính là nguyên nhân cơ bản của lạm phát ở Việt Nam trong nhiều năm qua. Sự thiếu phối hợp, trao đổi thông tin trong điều hành chính sách tiền tệ và chính  sách tài khóa cũng đã ảnh hưởng tới việc điều hành của chính sách sách tiền tệ về ngắn hạn. Điều hành chính sách tiền tệ đòi hỏi có hệ thống thông tin tài chính đầy đủ, cập nhật và chính xác, thế nhưng trog một số trường hợp các thông tin, báo cáo về các vấn đề tài chính công, đặc biệt chi tiêu và đầu tư công lệch pha về thời gian với yêu cầu điề hành chính sách tiền tệ. Chính phủ thực thi chính sách tài khóa mở rộng, chấp nhận thâm hụt ngân sách (5,8%) và phát hành trái phiếu để bù đắp cho nhu cầu đầu tư, đặc biệt là đầu tư công. Tổng mức đầu tư ban đầu của các dự án, công trình thuộc danh mục đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2003-2010 là 246447 tỷ đồng. Hầu hết các dự án đều có điều chỉnh tổng mức đầu tư so với phê duyệt ban đầu. Có dự án điều chỉnh tổng mức đầu tư lên 3-4 lần , riêng phần vốn trái phiếu Chính phủ một số dự án điều chỉnh tới trên chục lần, qua tổng hợp của Bộ kế hoạch và Đầu tư tổng mức đầu tư điều chỉnh từ các bộ, ngành, địa phương đã lên tới 558654 tỷ đồng (tăng 226%). Ủy ban Tài chính-Ngân sách cho rằng tổng mức đầu tư các công trình, dự án sử dụng nguồn vốn này đã tăng quá cao so với khả năng cân đối ngân sách, ảnh hưởng đến khả năng vay và trả nợ. Trong khi cơ chế điều hành, quản lý nguốn vốn chưa hợp lý số lượng dự án hoàn thành còn quá ít, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn. KẾT LUẬN Khi cán cân thanh toán bội chi chính phủ đã có nhiều biện pháp giải quyết tình trạng đó. Một trong số giải pháp thường được sử dụng là biện pháp hạn chế chi tiêu. Khi thực hiện các biện pháp này sẽ làm giảm nhập khẩu dẫn đến giảm bội chi trong cán cân thanh toán, giảm các khoản nợ nước ngoài. Để hạn chế chi tiêu Chính phủ sử dụng 2 chính sách đó là chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. Bằng việc nâng mức dự trữ bắt buộc, nâng lãi suất chiết khấu và thực hiện các hoạt động trên thị trường mở, tăng thu giảm chi ngân sách nhà nước để làm giảm bội chi cán cân thanh toán thì việc trả giá cho nó không hề rẻ. Thực hiện các biện pháp này đồng nghĩa với việc chúng ta phải chấp nhận rủi ro suy giảm tăng trưởng, thị trường vốn phát triển chậm, sức mua giảm sút, tổng cầu giảm.Nó tác động đến doanh nghiệp một cách trực tiếp, thông qua đó tác động gián tiếp đến các vấn đề về sản xuất kinh doanh, thất nghiệp. Việc cắt giảm chi tiêu về lâu dài sẽ gây ra những vấn đề về suy giảm kinh tế, bất ổn về chính trị xã hội. Vì vậy mà chính phủ cần thực thi hài hòa giữa chính sách này và ổn định tăng trưởng. Cần phải tính toán "cái giá phải trả" cho việc thắt chặt chính sách để quyết định nên duy trì chính sách thắt chặt hay nới lỏng.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxcan_can_thanh_toan_tai_chinh_quoc_te_0177.docx
Luận văn liên quan