MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ DẦU 3
1.1. Giới thiệu chung 3
1.2. Đối tượng, mục đích và phương pháp nghiên cứu 4
1.2.1. Đối tượng 4
1.2.2. Mục đích 4
1.2.3. Phương pháp nghiên cứu 5
1.2.4. Chọn mẫu 6
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 6
III.1 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU QUA SỐ LIỆU VÀ PRA 6
3.1. Đặc điểm chung của vùng 6
3.1.1 Điều kiện tự nhiên 7
3.1.2 Kinh tế - xã hội 9
3.2 Đặc điểm các xã điều tra 14
3.1.1. Xã Giao Thiện 14
3.1.2. Xã Giao An 14
3.1.3. Xã Giao Lạc 15
3.1.4. Xã Giao Xuân 15
3.1.5. Xã Giao Hải 15
III.2 KÊT QUẢ NGHIÊN CỨU TẠI HIỆN TRƯỜNG 18
3.2. Hiện trạng sinh kế hộ gia đình 18
3.2.1 Vốn con người 19
3.2.2 Vốn vật chất 24
3.2.3 Vốn tự nhiên 26
3.2.4 Vốn tài chính 27
3.2.5 Vốn xã hội 29
3.3. Tình hình nuôi trồng và đánh bắt thủy sản ở khu vực vùng đệm 31
3.3.1. Hiện trạng nuôi trồng thuỷ sản 31
3.3.2. Hiện trạng đánh bắt thuỷ sản 36
3.3.3 Khó khăn về thị trường 43
3.4. Tác động qua lại của phát triển sinh kế của người dân và vấn đề bảo tồn đất ngập nước 44
3.5. Lựa chọn sinh kế của hộ 49
3.6. Những ưu tiên và ý thức của người dân nếu có các dự án phát triển 51
3.6.1. Các đối tượng cần được quan tâm 51
3.6.2. Nhận thức của người dân với các dự án gần đây 53
3.7. Các chính sách đất ngập nước 54
IV. KẾT LUẬN VÀ VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM 56
4.1. Kết luận 56
4.2. Vấn đề cần quan tâm 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO 59
Phụ lục 61
I. PHẦN MỞ DẦU
1.1. Giới thiệu chung
Vườn quốc gia Xuân Thuỷ được thành lập theo Quyết định số 01/2003/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc chuyển hạng Khu BTTN đất ngập nước Xuân Thuỷ thành Vườn quốc gia. Theo đó Vườn có toạ độ địa lý :
- 20010' đến 20015' vĩ độ Bắc
- 106020' đến 106032' kinh độ đồng
Vườn quốc gia Xuân Thuỷ có tổng diện tích là 15.110 ha, trong đó diện tích vùng lõi là 7110 ha, bao gồm Bãi Trong, Cồn Ngạn, Cồn Lu, Cồn Xanh ( với khoảng 3100 ha đất nổi có rừng). Tháng 1/1989, UNESCO đã chính thức công nhận Khu bảo tồn Xuân Thuỷ trở thành khu RAMSAR. Vườn quốc gia Xuân Thuỷ có một thảm rừng ngập mặn lớn với nhiều hệ sinh thái khác nhau. Sự bồi tụ phù sa của Sông Hồng cùng với sự lưu thông của những con sông nhánh như: Sông Trá, Sông Vọp đã tạo cho VQG Xuân Thuỷ những hệ sinh thái độc đáo với mức độ đa dạng sinh học cao. Ở Xuân Thuỷ đã ghi nhận gần 200 loài chim, trong đó có 100 loài chim di trú, 50 loài chim nước. Nhiều loài quý hiếm được ghi trong sách đỏ thế giới, hiện chỉ có ở nơi đây như: Cò thìa (Platalea minor). Mòng bể (Larus ichthyaetus), Rẽ mỏ thìa (Tringa orchropus), cò trắng bắc (Egretta eulophotes) cần được bảo vệ .
Dân số sống ở khu vực vùng đệm là hơn 40.000 người với hơn 10.000 hộ dân sống ở các xã vùng đệm. Sinh kế của người dân chủ yếu là trồng lúa, khai thác các loại thuỷ sản. Trong thời gian gần đây hiện tượng đánh bắt quá mức cộng với các phong trào nuôi trồng loại thuỷ sản không theo quy hoạch đang diễn ra ở các khu vực vùng đệm. Đã và đang làm lượng thuỷ sản ở khu vực này đang bị suy giảm nghiêm trọng ảnh hưởng tới môi trường sinh thái và nguồn thức ăn của hơn 220 loài chim sinh sống ở đây.
Trong khuân khổ báo cáo này chúng tôi tập chung đánh giá hiện trạng phát triển sinh kế của hộ gia đình và sự thay đổi sinh kế trong thời gian tới. Đồng thời phân tích tác động qua lại giữa sự thay đổi các vùng đất ngập nước và sự phát triển sinh kế của người dân địa phương.
1.2. Đối tượng, mục đích và phương pháp nghiên cứu
1.2.1. Đối tượng
Đối tưọng nghiên cứu là cộng đồng địa phương 5 xã vùng đệm của VQG Xuân Thuỷ bao gồm: Giao Thiên, Giao An, Giao Lạc, Giao Xuân, Giao Hải
1.2.2. Mục đích
Điều tra, đánh giá thực trạng phát triển sinh kế của người dân 5 xã vùng đệm Vườn Quốc gia Xuân Thuỷ, ảnh hưởng qua lại giữa đất ngập nước (ĐNN) và phát triển sinh kế của hộ gia đình, và từ đó đánh giá mức độ dễ bị tổn thương của sinh kế phụ thuộc vào tài nguyên ĐNN.
1.2.3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập thông tin số liệu:
ã Số liệu thứ cấp: Thông qua các báo cáo hàng năm cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã và số liệu thu thập từ các dự án nghiên cứu trước, số liệu từ các sở ban ngành địa phương.
- Nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp kế thừa
- Phỏng vấn theo bảng biểu cấu trúc với các xã
- Quan sát
ã Số liệu sơ cấp: Chủ yếu sử dụng phương pháp phỏng vấn thông qua bảng câu hỏi phỏng vấn nông hộ và cán bộ quản lý cấp xã, các cuộc phỏng vấn sâu cán bộ xã và thôn/bản sử dụng các câu hỏi định tính. Sử dụng phương pháp đánh giá nhanh nông thôn có sự tham gia của người dân (PRA) để thảo luận với người dân để quyết định các vấn đề phát triển.
Phương pháp xử lý và phân tích số liệu
Số liệu thứ cấp được tổng hợp để đánh giá hiện trạng tình hình kinh tế - xã hội. Số liệu sơ cấp sẽ được tổng hợp và phân tích bằng phần mềm SPSS 11.5 để phân tích sâu các vấn đề quan tâm, đồng thời phân tích nhu cầu của người dân thông qua kết quả của các cuộc PRA.
1.2.4. Chọn mẫu
Phương pháp chọn mẫu sử dụng là phương pháp ngẫu nhiên theo hệ thống, số lượng mẫu 1000 và dựa vào danh sách hộ gia đình của các xã. Trong quá trình chọn mẫu có chia ra 2 nhóm đối tượng hộ nghèo và hộ không nghèo nhằm mục đích so sánh tác động của 2 nhóm này tới sự thay đổi của vùng đệm và khả năng dễ bị tổn thương của từng nhóm.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
III.1 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU QUA SỐ LIỆU VÀ PRA
3.1. Đặc điểm chung của vùng
Quan sát hình chụp khu vực VQG từ trên cao cho thấy 5 xã nằm trong khu vực vùng đệm của VQG có vị trí rất thuận lợi để phát triển, đặc biệt là phát triển về các hoạt động đánh bắt, nuôi trồng thủy sản. Bên cạnh đó đây là vùng có rất nhiều các điều kiện để phát triển du lịch nhưng cùng với thế mạnh đang có trong thời gian gần đây khu vực vùng đệm đang bị suy tho
66 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3977 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Điều tra đánh giá thực trạng phát triển sinh kế hộ của người dân 5 xã vùng đệm vườn quốc gia Xuân Thuỷ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hủ yếu dựa vào nguồn thu từ nghề của chủ hộ. Vì thế, nghề của chủ hộ có vai trò quan trọng ảnh hưởng tới kinh tế hộ gia đình.
Với các hộ gia đình ở khu vực vùng đệm VQG Xuân Thủy, 83,76% số chủ hộ làm nông nghiệp (trồng lúa), có 3,63% tham gia là thợ (thợ xây, mộc,...); 3,15% tham gia hoạt động trong các cơ quan nhà nước xã/thôn; 2,39% tham gia đánh cá biển, và số ít còn lại làm các nghề khác như: buôn bán, làm thuê, nuôi thuỷ sản, khai thác thuỷ sản tự do ngoài bãi... Như vậy, các chủ hộ ở đây phần lớn là làm nông nghiệp nhưng đây là vùng ven biển chị ảnh hưởng của nhiều hiện tượng thời tiết bất thường. Theo như người dân cho biết, trung bình một năm chịu ảnh hưởng trực tiếp từ 4-6 cơn bão, do đó sản xuất nông nghiệp ở đây gặp rất nhiều khó khăn, không ổn định.
Quy mô gia đình
Theo quan niệm của các người dân Việt Nam trước kia, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, một gia đình giàu là gia đình đông con. Quan niệm này đúng ở khía cạnh con người-nhân văn, nhưng có lẽ không phù hợp với khía cạnh phát triển kinh tế hiện nay. Số nhân khẩu trong hộ gia đình có thể ảnh hưởng rất nhiều tới kinh tế của hộ.
Theo điều tra trong khu vực, số nhân khẩu trung bình của những hộ ở đây là xấp xỉ 04 người, trong đó hộ lớn nhất có tới 09 khẩu và hộ ít nhất chỉ có 01. Trong khi đó, số người phụ thuộc trung bình là 1,65 người và hộ có nhiều người phụ thuộc nhất lên đến 5 người. Lao động chính trung bình một hộ là 2,21, nhiều nhất là 7 lao động/hộ, và thấp nhất là không có lao động nào – đây là những hộ già cả neo đơn.
Phân tích trên cho thấy tuy vẫn còn nhiều hộ đông con, nhưng bình quân nhân khẩu (4), số người sống phụ thuộc (1,65), và lực lượng lao động của hộ (2,21) nên yếu tố đông con hay thiếu lao động không phải là yếu tố quan trọng cản trở nhiều tới phát triển kinh tế hộ.
Nguồn thu nhập và nghề phụ của hộ gia đình
Một nhân tố khác ảnh hưởng tới sự phát triển của nguồn vốn con người là nghề phụ của hộ gia đình. Ở các vùng nông thôn, nghề phụ thường là nghề cho thu nhập thường xuyên, ổn định và góp phần giải quyết công ăn việc làm cho các hộ gia đình trong lúc nông nhàn.Quan sát các hộ ở khu vực 5 xã vùng đệm VQG Xuân Thủy cho thấy các hộ đều có một vài nghề phụ để bổ trợ kinh tế cho nghề chính (chủ yếu là nông nghiệp trồng lúa). Trong đó có khoảng 35% số hộ chăn nuôi và trồng màu; 11% đi làm ăn xa trên các thành phố lớn; 7% tham gia khai thác thủy sản tự do ngoài bãi triều của VQG; 6% làm các nghề không thường xuyên; và số còn lại làm một số nghề khác.
Nếu xét về tổng số nguồn thu của một hộ trong khu vực, trung bình một hộ có 2,39 nguồn thu nhập, hộ nhiều nhất là 5 và ít nhất là 1. Quan sát thấy nguồn thu tốt nhất của hộ thấy có 56,87 % số người đồng ý là nghề trồng lúa và có 7 % đồng ý đi làm ăn ở xa là nguồn thu tốt nhất, một số hộ khác lại đồng ý như; Chăn nuôi có 5% và có 7% là làm thợ… Tuy nguồn thu từ sản xuất nông nghiệp đang gặp khó khăn do tác động của thời tiết, nhưng đây vẫn là nguồn thu tốt nhất cho các hộ gia đình thuần nông và hộ lấy nông nghiệp trồng lúa là nghề chính của mình.
Những nhận xét chung về vốn con người
Yếu tố tác động tích cực
Phần lớn các chủ hộ là nam giới nên có khả năng quyết định các vấn đề phát triển sinh kế của hộ gia đình
Tuổi trung bình của chủ hộ là 49 đây là độ tuổi có đủ cả kinh nghiệm sống và các mối quan hệ xã hội
Trình độ học vấn của chủ hộ chủ yếu là cấp 2 và cấp 3 với trình độ này có thể tiếp thu được những kỹ thuật sản xuất mới
Hộ có nhiều nguồn thu nhập số nhân khẩu và số lao động thuận lợi bên cạnh đó số người phụ thuộc của một hộ gia đình ít
Yếu tố làm hạn chế
Nghề nghiệp chính của hộ gia đình phần lớn trên 90% là sản xuất nông nghiệp (trồng lúa). Người dân đã quen với tập quán lao động, nên sẽ gặp khó khăn khi muốn phát triển một loại sinh kế thay thế khác.
Nguồn thu tốt nhất vẫn chủ yếu là từ trồng lúa nhưng nguồn thu này thì lại phụ thuộc nhiều vào thời tiết và khí hậu, nhất là trong thời gian gần đây do các hiện tượng biến đổi khí hậu đang diễn ra.
3.2.2 Vốn vật chất
Trong ngũ giác sinh kế, vốn vật chất cũng rất đa dạng và tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế của cộng đồng hay của hộ gia đình. Vốn vật chất của một hộ gia đình bao gồm: nhà cửa, các vật dụng sinh hoạt, các vật dụng sản xuất, máy móc, gia súc... Nó có thể là công cụ phát triển kinh tế, hay là công cụ bổ trợ trong phát triển kinh tế.
Điều kiện nhà ở và tiện nghi sinh hoạt
Với hộ gia đình đặc biệt là ở vùng nông thôn thì nhà ở rất quan trọng và là tài sản lớn nhất trong gia đình. Hiện trạng nhà ở thể hiện thực trạng kinh tế và phương thức phát triển sinh kế của hộ gia đình, và là yếu tố đầu tiên khi đánh giá vốn vật chất của hộ gia định. Theo kết quả điều tra các hộ gia đình khu vực 5 xã vùng đệm cho thấy có trên 50% có nhà cấp 4 và đã được sửa mới, khoảng 30% số hộ có nhà cấp 4 nhưng đã cũ và nền gạch, xi măng; và chỉ có 13% số hộ có nhà mái bằng có cơ sở vật chất tốt.
Tất nhiên, khi mà nhà ở của người dân chưa được xây dựng thì người ta sẽ không quan tâm nhiều tới công trình phụ khác như nhà vệ sinh, nhà tắm… Kết quả điều tra cho thấy chỉ có hơn một nửa số hộ vẫn sử dụng nhà vệ sinh tạm bợ (60%).
Ngoài các cơ sở vật chất lớn như nhà cửa thì các vật dụng trong gia đình cũng thể hiện hiện trạng vốn vật chất của hộ. Tiện nghi cho sinh hoạt hàng ngày cho các hộ dân nông thôn cũng đã được cải thiện với các trang thiết bị điện tử như tivi màu (hơn 80%), đầu đĩa, điện thoại và xe máy (60-65%), và bàn ghế xa-lông tủ tường (trên 60%). Tuy nhiên các tiện nghi cao cấp khác như tủ lạnh, máy vi tính hay máy giặt thì vẫn còn rất hạn chế.
Công cụ sản xuất
Hiện trạng các vật dụng sử dụng cho sản xuất theo điều tra cho thấy chỉ có 8,1% số hộ có máy thủ công là các máy móc như máy cưa, máy đập lúa, thuyền thủ nhỏ…, gần 40% hộ có máy bơm nước nhưng chỉ có 2,37% có máy phát điện và 0,47% có ô tô vận chuyển hàng hoá.
Những nhận xét chung về vốn vật chất
Yếu tổ tác động tích cực
- Khoảng 70% số hộ gia đình có mái bằng 2 tầng trở lên hay là nhà cấp 4 nhưng đã được sửa sang xây mới. Điều này chứng tỏ rằng các hộ gia đình đã ở đây rất quan tâm tới việc sửa mới và xây nhà kiên cố đây cũng là yếu tố quan trọng để các hộ yên tâm phát triển sinh kế.
- Các hộ đều có TV phương tiện để nắm bắt các thông tin, khoa học kỹ thuật mới. Trên 60% có điện thoại và có xe máy để đi lại, một số hộ đã có ô tô để vận chuyển hàng hoá ra bên ngoài bán.
Yếu tố làm hạn chế
- Vẫn còn nhiều hộ sống trong những căn nhà cấp 4 cũ (chiếm trên 30%). Các vật dụng trong gia đình tương đối đầy đủ, tuy nhiên vật dụng và các máy móc công cụ phục vụ cho sản xuất thì còn rất hạn chế.
- Các máy móc hiện đại phục vụ cho sản xuất như ô tô, máy phát điện, các thuyền hiện đại rất ít hộ có.
3.2.3 Vốn tự nhiên
Vốn tự nhiên là tư liệu sản xuất rất quan trọng đặc biệt là với hộ nông dân, nếu thiếu nguồn vốn này sẽ khó khăn trong phát triển kinh tế kinh tế hộ. Vốn tự nhiên nếu xét trên phương diện một cộng đồng bao gồm các loại tài nguyên như đất đai, tài nguyên rừng, tài nguyên khoáng sản, đa dạng sinh học, tài nguyên nước, tài nguyên khí hậu....Tuy nhiên, với một hộ gia đình ở vùng ven biển và Vườn Quốc gia vốn tự nhiên chỉ bao gồm đất đai, tài nguyên rừng được khoanh nuôi bảo vệ, hay diện tích các ao hồ tự nhiên, bãi triều và biển được phép khai thác.
Đất nông nghiệp
Đất đai là tư liệu sản xuất chính của các hộ gia đình ở các xã vùng đệm VQG với một số loại đất sản xuất chính như đất sản xuất lúa gạo, hoa màu. Trung bình mỗi hộ gia đình có 4,12 sào bắc bộ, hộ nhiều nhất có 16 sào, và hộ ít nhất có khoảng gần một sào.
Diện tích nuôi trồng thủy hải sản
Ngoài ra do là vùng ven biển nên một số hộ có diện tích nuôi thuỷ sản là các vây, các đầm. Tuy nhiên, các hộ nuôi trồng thủy sản lại rất ít. Chỉ có khoảng hơn 4% hộ nuôi thủy sản, mà trong đó chỉ có khoảng 1% hộ nuôi thủy sản là nghề chính của gia đình. Trung bình diện tích của hộ có nuôi trồng thủy sản có 7.08 ha đầm và 2,08 ha các loại vây nuôi ngao. Các loại thuỷ sản được người dân nuôi chủ yếu như tôm, ngao giống, ngao thịt và một số loại cá... Các ao nuôi cá trung bình có khoảng gần 1ha/hộ.
Những nhận xét chung về Vốn tự nhiên
Yếu tố tác động tích cực
Đất đai của các hộ gia đình đa dạng,là vùng ven biển vùng đệm của VQG nên tài nguyên đất mặt nước phong phú về loại hình và thuận lợi cho phát triển chăn nuôi các loại thuỷ sản.
Yếu tố làm hạn chế
Phần lớn diện tích đất mặt nước có thể nuôi trồng thuỷ sản chỉ tập trung vào một số hộ khả giả. Còn các hộ nghèo thì không có diện tích nuôi thuỷ sản, thì chủ yếu tham gia khai thác tự do ngoài bãi hay làm thuê cho các chủ đầm. Trong khi diện tích đất cho sản xuất nông nghiệp ít không đủ để sản xuất.
3.2.4 Vốn tài chính
Vốn tài chính của một cộng đồng là các nguồn tiền mà người dân đóng góp, các quỹ phát triển của địa phương, hay tiền của các dự án phát triển. Còn trong một hộ gia đình, vốn tài chính bao gồm: các nguồn tiền thu được từ các hoạt động sinh kế, các nguồn tiền dự trữ trong gia đình, và các chi phí của hộ gia đình hay các nguồn vốn đi vay. Nguồn vốn tài chính của hộ gia đình trong nhiều trường hợp có khả năng điều chỉnh các nguồn vốn khác của hộ gia đình đồng thời có thể tạo ra các nguồn vốn khác.
Các hộ gia đình ở đây có rất nhiều nguồn thu nhập, các nguồn thu này đang tạo ra nguồn vốn tài chính cho hộ gia đình.
Hình 2: Hiện trạng các nguồn thu nhập
Nguồn: Điều tra thực địa 12/2008
Tuy từng loại nguồn thu nhập hay nghề nghiệp khác nhau mà đem lại các mức thu nhập khác nhau cho một hộ trong khu vực, nhưng nhìn chung nguồn thu/năm của các hộ gia đình còn thấp. Ví dụ như 2 nguồn thu thường xuyên của hộ là trồng lúa và chăn nuôi trong 1 năm chỉ thu được hơn 6 triệu đồng ; các nghề có nguồn thu nhập lớn (hơn 20 triệu/năm) như đánh cá biển, nuôi thuỷ hải sản, buôn bán, hay công chức nhà nước lại không phải là nguồn thu nhập phổ biến với các hộ trong khu vực.
Với hiện trạng nguồn thu nhập như trên, nếu một hộ gia đình có 1-2 nguồn thu nhập (dưới 20 triệu/năm) sẽ không đủ cho cuộc sống hàng ngày vì mức chi phí cho sinh hoạt gia đình cao hơn nhiều lần. Trung bình trong một tháng một hộ gia đình phải chi cho rất nhiều các khoản như: quần áo, thực phẩm, y tế, điện, nước, học phí,... Và nếu tính trung bình khoảng 4,8 triệu đồng/tháng/hộ như vậy một năm một hộ gia đình phải chi khoảng 50 triệu. Điều này giải thích tại sao vẫn có gần 20% số hộ phải vay tiền để mua lương thực phục vụ cho cuộc sống hàng ngày. Trong đó 2 xã Giao Xuân và Giao An là hai xã có tỷ lệ người phải vay tiền để mua lương thực nhiều nhất, chiếm lần lượt 34,58% và 28,57%. Các tháng mà hộ phải vay rơi vào tất cả các tháng trong năm từ tháng 1 tới tháng 12, và thời gian vay trung bình khoảng 2 tháng trong một năm.
Những nhận xét chung về Vốn tài chính
Yếu tố tác động tích cực
Các nguồn thu đang góp phần phát triển kinh tế hộ gia đình. Tài nguyên vùng đất ngập nước và biển tạo ra một số nguồn thu nhập tương đối cao như nuôi trồng thuỷ hải sản, đánh cá biển và buôn bán.
Yếu tố làm hạn chế
Nguồn thu chính từ sản xuất nông nghiệp như trồng lúa, chăn nuôi rất thấp so với các nguồn thu nhập khác, các nguồn thu nhập cao chỉ tập chung vào một nhóm hộ. Vẫn còn nhiều hộ phải vay tiền để mua lương thực (trung bình 2 tháng/năm).
3.2.5 Vốn xã hội
Vốn xã hội của một cộng đồng thể hiện ở các mối quan hệ giúp đỡ lẫn nhau của người dân. Trong quy mô hộ gia đình vốn xã hội thể hiện ở mức độ hiểu biết của các thành viên trong gia đình về các phương thức làm ăn, kinh nghiệm sản xuất, hay các mối quan hệ với người khác trong và ngoài cộng đồng mà hộ sinh sống. Với những hộ gia đình có các thành viên có nhiều kinh nghiệm sản xuất, có trình độ hay có mối quan hệ xã hội tốt sẽ có rất nhiều thuận lợi trong quá trình sản xuất. Nhất là khi muốn vay tiền phát triển sinh kế hay cần sự giúp đỡ khi hộ gia đình gặp khó khăn. Ngoài ra, vốn xã hội còn thể hiện ở mức độ tham gia vào các tổ chức xã hội, các nhóm hội địa phương; những hộ tích cực tham gia vào các tổ chức địa phương là những hộ có nguồn vốn xã hội tốt.
Khi được hỏi về mức độ tham gia của hộ gia đình vào các tổ chức, các dịch vụ xã hội, kết quả cho thấy gần 70% số hộ tham gia vào các hội/phường chung vốn làm ăn, khoảng 8% tham gia vào hội nghề nghiệp giúp đỡ nhau trong sản xuất, và tham gia vào các hội địa phương như hội phụ nữ, hộ nông dân, đoàn thanh niên, mặt trận tổ quốc... Ngoài ra, đa số người dân trong khu vực đã được sử dụng và tiếp cận đến các dịch vụ và công trình phúc lợi xã hội. Trên 30% các hộ thường xuyên sử dụng các dịch vụ y tế; xấp xỉ 60% các hộ có sử dụng hệ thống dịch vụ giáo dục, và 100% số hộ sử dụng điện. Tuy nhiên, hạn chế trong khu vực đó là hệ thống nước sạch chưa được hoặc là rất hạn chế xây dựng; do đó chỉ có dưới 10% hộ sử dụng dịch vụ nước sạch (tập trung nhiều nhất ở xã Giao An).
Nhìn chung các hộ gia đình có mối quan hệ khá tốt trong xã hội, thể hiện ở tỷ lệ cao (40%) số hộ có khả năng vay vốn từ các cá nhân khác mà không phải trả lãi. Ngoài ra, có khoảng 50% số hộ có thể vay các cá nhân khác nhưng trả lãi thấp, và số hộ có khả năng vay các tổ chức địa phương là 7,35%.
Những nhận xét chung về Vốn xã hội
Yếu tố tác động tích cực
Phần lớn các hộ tham gia vào các tổ chức xã hội, các hộ có khả năng vay vốn từ các tổ chức cá nhân quen biết, thể hiện khả năng huy động tài chính của các hộ gia đình rất đa dạng từ nhiều nguồn khác nhau.
Yếu tố làm hạn chế
Để phát triển sinh kế cần một nguồn vốn lớn, nhưng các tổ chức cá nhân, các nhóm tổ chức xã hội chỉ có thể cho vay ở mức hạn chế. Các hộ gia đình điều tra rất ít hộ tham gia vay vốn từ các ngân hàng, một trong số lý do khiến họ không vay tiền là do lãi xuất ngân hàng quá cao và các thủ tục phức tạp
3.3. Tình hình nuôi trồng và đánh bắt thủy sản ở khu vực vùng đệm
Bản đồ: Hiện trạng khu vực khai thác và nuôi trồng thủy sản
3.3.1. Hiện trạng nuôi trồng thuỷ sản
Loài thủy sản và địa điểm nuôi trồng
Vùng đệm VQG Xuân Thuỷ có điều kiện thuận lợi cho phát triển nuôi trồng thuỷ hải sản nhất là các đầm phá và các bãi triều. Tuy nhiên, kết quả điều tra cho thấy chỉ có 6,6% hộ gia đình nuôi trồng thủy hải sản. Trong số các hộ nuôi thủy sản tập trung chủ yếu là nuôi tôm chiếm 51%, các hộ nuôi cá và nuôi ngao đều chiếm 15%, còn lại là nuôi các loại thủy sản khác.
Hình 3: Hiện trạng nuôi thủy sản của các hộ gia đình
Nguồn: Số liệu điều tra 12/2008
Hình 4: Khu vực nuôi thủy sản của người dân
Nguồn: Điều tra thực địa 12/2008
Khu vực nuôi trồng thủy sản của người dân cũng rất đa dạng, nhưng nuôi nhiều nhất là Bãi trong (chiếm 31,94% số hộ nuôi trồng thủy sản), các hộ nuôi ở Cồn Lu chiếm 26,39%, và một số nơi khác như các ao kênh, ruộng đồng chiếm 11,11%, Cồn Ngạn chiếm 13,89%. Ngoài ra có những hộ nuôi thủy sản trong các khu vực RNM Cồn Ngạn (rừng trồng) chiếm 8,33%, và nuôi trong RNM tự nhiên chiếm 5%.
Phần lớn các điểm nuôi trồng đều là các đầm trắng – không có rừng ngập mặn (52,05%), chỉ có khoảng 30,14% có cây ngập mặn và một số vùng nuôi thủy sản là các bãi đê trống. Thời gian nuôi các loại thuỷ sản khác nhau, trung bình một vụ tôm thả nuôi khoảng 7 tháng và nếu tôm thả tự nhiên khoảng 9 tháng. Thời gian nuôi ngao giống là 1,6 tháng và nuôi ngao thịt là 3,6 tháng.Các loại cá và cua biển trung bình nuôi mất khoảng 7 tháng.
Đầu tư nuôi trồng thủy hải sản
Các khoản đầu tư cho nuôi trồng các loại thuỷ sản rất lớn, nhất là việc cải tạo nuôi tôm trong các đầm. Trung bình các hộ đầu tư khoảng 100 triệu cho các khoản chi phí để nuôi thuỷ sản tuỳ thuộc vào diện tích của các vây, các đầm.
Hình 5: Các khoản đầu tư cho nuôi tôm trung bình của các hộ nuôi thuỷ sản
Nguồn: Điều tra thực địa 12/2008
Trong các khoản đầu tư cho nuôi các loại thuỷ sản như tôm, ngao, cua, cá... khoản đầu tư lớn nhất là con giống, tiếp đến là cải tạo vùng nuôi, đấu thầu và thuê nhân công. Vốn đầu tư lớn, thời gian nuôi các loại thủy hải sản dài nên dễ gặp rủi ro do thiên tai, dịch bệnh. Và cũng vì các khoản đầu tư lớn mà các hộ gia đình nghèo không thể có tiền đầu tư cho nuôi trồng thủy sản.
Sản lượng thủy sản nuôi trồng
Bảng 4: Sản lượng nuôi các loại thuỷ sản trong vụ vừa qua
Sản lượng (Kg)
%
Bán
%
Sử dụng
%
Trao đổi biếu
Tôm thả
191,92
87,36
9,64
3,00
Tôm tự nhiên
674,82
89,46
7,86
2,68
Ngao giống
2906,84
92,63
7,11
0,26
Ngao thịt
15370,00
98,50
0,50
1,00
Cá
230,59
64,82
30,41
4,77
Cua biển
42,91
100,00
0
0
Rau câu
4410,00
100,00
0
0
Nguồn: Điều tra thực địa 12/2008
Bảng trên đã cho thấy sự khác biệt lớn về sản lượng của tôm thả và tôm tự nhiên. Sản lượng tôm thả trung bình 191,9kg, thấp hơn 3 lần so với sản lượng tôm tự nhiên (674,9 kg). Trong đầm tôm, chủ hộ có thể kết hợp nuôi cua, cá, và trồng rau câu. Hiện nay, sản lượng rau câu thu được là rất lớn (khoảng 4,4 tạ) và đang trở thành nguồn thu chính từ đầm tôm cho các chủ hộ.
Sản lượng ngao giống trung bình là 2,9 tạ; ngao thịt 1,5 tạ. Các loại thủy sản (tôm, cua, ngao và rau câu) chủ yếu dành để bán (80% đến 100%), chỉ có cá là loại thủy sản được sử dụng làm thực phẩm nhiều hơn cả (30%); điều này cho thấy cá là loại thực phẩm (thủy sản) phổ biến nhất cho người dân khu vực ven biển này.
Xu hướng thay đổi của sản lượng thủy sản nuôi trồng
Mặt khác sản lượng nuôi trồng các loại thuỷ sản so với 5 năm trước đây đều giảm đi nhiều. Kết quả điều tra đã cho thấy cua biển giảm tới 60%, một số loại khác như tôm, ngao cũng giảm trên 50%.
Hình 6: Suy giảm sản lượng một số thủy sản nuôi trồng
Nguồn: Điều tra thực địa 12/2008
Nguyên nhân suy giảm sản lượng do nhiều yếu tố có cả yếu tố do thiên nhiên, thay đổi thời tiết, dịch bệnh làm cho thủy sinh chết, chất lượng nước ở các vùng đang bị ô nhiễm (theo kinh nghiệm và ý kiến của người địa phương).
3.3.2. Hiện trạng đánh bắt thuỷ sản
Qua điều tra phỏng vấn các hộ gia đình có 15,2% tham gia khai thác thuỷ sản tự nhiên. Trong số các hộ tham gia khai thác thủy sản tập trung nhiều ở các xã như: Giao Thiện 16%, Giao Xuân 19%, Giao Hải 28%. (% của tổng dân số xã hay của tổng số người đi khai thác)
Phương tiện đánh bắt thủy sản
Phương tiện đánh bắt mà người dân sử dụng chủ yếu là các công cụ thô sơ như các bẫy tự làm bằng tay chiếm tới 65%; gần 3% số hộ sử dụng thuyền thô sơ để đánh bắt gần bờ và ở các bãi; các phương tiện hiện đại như thuyền máy chỉ có gần 25% số hộ sử dụng chủ yếu để khai thác ở ngoài biển quy mô lớn.
Những hộ sử dụng bằng công cụ thô sơ để đánh bắt thủy sản tập trung ở các xã như: Giao Thiện (74,29%), Giao An (88,24%), Giao Xuân (86,36%), Giao Lạc (62,50%). Còn số hộ sử dụng thuyền máy tập chung chủ yếu ở xã Giao Hải (51,52%) điều này chứng tỏ những hộ tham gia đánh bắt thủy sản ở xã Giao Hải có điều kiện kinh tế hơn các xã khác.
Bảng 5: Loại hình khai thác thủy sản của người dân
%
Giao Thiện
Giao An
Giao Xuân
Giao Hải
Giao Lạc
Trung bình
Khai thác thủ công tự do ngoài bãi
86,11
76,47
90,70
50,00
75,00
72,84
Đánh cá biển
2,86
5,88
6,98
66,67
0
26,88
khai thác đánh bắt thủy sản tự nhiên trong Vườn Quốc gia
16,43
8,13
19,72
27,27
3,96
15,20
Đăng đáy
5,71
5,88
0
0
25,00
3,13
Khác
2,86
0
0
0
0
0,63
Nguồn: Điều tra thực địa 12/2008
Loại hình khai thác
Người khai thác thủy sản có thể có các hình thức hoạt động khai thác khác nhau như: khai thác thủ công bằng tay, tàu đánh cá biển, hay đăng đáy. Qua bảng trên thấy trong số các hộ tham gia khai thác thủy sản có 72,84% số hộ khai thác thủ công và tự đo ngoài bãi, số hộ tham gia đánh bắt cá biển chiếm 26,88% tập chung chủ yếu ở xã Giao Hải chiếm 66,67%. Các hộ đánh bắt bằng hình thức dăng đáy chiếm 3,13% tập chung nhiều xã Giao Lạc chiếm 25%.
Hình thức tổ chức đánh bắt chủ yếu là theo cá nhân (hơn 70%), khai thác theo nhóm hay hợp tác với người khác cùng đi khai thác chiếm dưới 20%, và khoảng 10% số còn lại đi khai thác theo hình thức gia đình.
Địa điểm và phương tiện đi lại đến địa điểm khai thác
Bảng 6: Địa điểm khai thác thủy sản của người dân
%
Giao Thiện
Giao An
Giao Xuân
Giao Hải
Giao Lạc
Chung
Ao kênh và rừng nuôi trồng
2,7
0
0
1,28
0
1,08
Bãi trong cồn ngạn
2,7
15,79
0
0
25
3,24
RNM cồn ngạn
5,41
63,16
0
3,85
0
9,19
Bãi bồi
29,73
10,53
0
1,28
0
7,57
Rừng ngập mặn tự nhiên
21,62
10,53
34,88
17,95
0
21,08
Bãi bồi cồn lu
16,22
0
46,51
25,64
75
28,11
Rừng phi lao
0
0
2,33
0
0
0,54
Sông rạch trong RNM
16,22
0
9,3
0
0
5,41
Biển
2,7
0
6,98
47,44
0
22,16
Cồn xanh và các cồn cát
2,7
0
0
2,56
0
1,62
Tổng
100
100
100
100
100
100
Nguồn: Điều tra thực địa 12/2008
Địa điểm mà người dân đánh bắt rất đa dạng nhưng tập trung ở Rừng ngập mặn tự nhiên, khu vực bãi bồi Cồn Lu và vùng biển (đều chiếm trên 20%). Và tùy vào vị trí địa lý của các xã mà khu vực khai thác cho các hộ dân của các xã khác nhau. Bảng trên chỉ ra rằng địa điểm khai thác của người dân xã Giao thiện và Giao Hải là đa dạng nhất. Trong khi đó người dân các xã khác chỉ khai thác được ở một số nơi. Ví dụ, xã Giao Lạc người dân ở đây chỉ có thể khai thác ở các bãi bồi Cồn Ngạn và Cồn Lu.
Mặt khác do khu dân cư cách xa khu vực khai thác trung bình khoảng 10 km, một số xã cách xa 12-16 km. Vì thế phương tiện mà người dân sử dụng để đi tới nơi đánh bắt rất đa dạng. Trong đó có 40% đi xe đạp tới nơi đánh bắt, chủ yếu là những đối tượng khai thác thủ công; khoảng 40% khác sử dụng thuyền của nhà và 23,90% đi đò, 22,64% đi bộ tới nơi đánh bắt, chỉ có 3,14% số người sử dụng xe máy để đi tới nơi đánh bắt có đường đi lại thuận lợi.
Thời gian khai thác
Người dân tham gia đánh bắt ở tất cả các tháng trong năm và chủ yếu vào những lúc nông nhàn. Một số hộ tham gia khai thác quanh năm, nhiều nhất vào các tháng 3, 4 và từ tháng 9 đến tháng 11. Vào các tháng mùa lạnh người dân khai thác ít hơn. Bình quân một tháng các hộ khai thác 14,53 ngày, cá biệt có hộ khai thác toàn thời gian (30ngày/tháng).
Đối với người đi tàu đánh cá biển, mỗi chuyến đi đánh bắt trung bình mất khoảng 19 ngày. Đối với người khai thác thủ công trên bãi bồi và ven biển, thời gian đánh bắt trung bình là 7,6 giờ/ngày.
Về thời điểm đánh bắt thủy sản, người dân hoạt động vào tất cả các thời gian trong ngày, và nhiều nhất vào khoảng thời gian từ 14h-18h. Một số hộ đánh bắt vào ban đêm (từ 19h-5h sáng), đây là những hộ đánh bắt các loại thủy sinh gần bờ.
Loại thủy sản và sản lượng thủy sản khai thác tự nhiên
Bảng 7: Loại thủy sản đánh bắt của người dân các xã điều tra
%
Giao Thiện
Giao An
Giao Xuân
Giao Hải
Giao Lạc
Trung bình
Tôm thả
0
5,88
0
0
0
0,63
Tôm tự nhiên
22,86
29,41
0
12,28
50
15,00
Ngao giống
8,57
0
2,33
14,04
0
7,50
Ngao thịt
5,71
11,76
67,44
24,56
25
30,63
Nhuyễn thể khác
17,14
11,76
33,33
45,61
0
30,19
Cá
45,71
41,18
9,52
64,91
50
42,77
Cua biển
37,14
76,47
0
8,77
0
19,50
Thuỷ sinh khác
57,14
11,76
0
42,11
37,50
30,82
Nguồn: Điều tra thực địa 12/2008
XXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXXCác loại thuỷ sản được người dân đánh bắt rất đa dạng, nhiều nhất là cá chiếm 42,77%, tiếp đến là ngao và các loại nhuyễn thể khác (đều hơn 30%). Bảng trên cũng cho thấy mỗi xã có một thế mạnh khai thác các loại nhuyễn thể riêng. Giao Hải có bến cá và nhiều hộ dân đi tàu đánh cá biển, nên cá là loại được khai thác nhiều nhất (xấp xỉ 65%) là điều rất dễ hiểu. Trong khi đó, Giao Xuân nổi bật lên với khả năng khai thác ngao và các loại nhuyễn thể khác (lần lượt là 67,44% và 33,33%). Tuy nhiên, sản lượng ngao giống trong vụ vừa qua (năm 2008) rất thấp (7,5%), điều này phản ánh sự bấp bênh trong nguồn lợi ngao giống. Lý do cho việc Giao Xuân tập trung mạnh vào ngao và nhuyễn thể là Giao Xuân có diện tích lớn đất bãi bồi (cát) thuộc Cồn Lu có khả năng nuôi ngao rất tốt; hơn nữa người dân Giao Xuân trên thực tế là người đi tiên phong (hơn 80% số dân nuôi ngao là người Giao Xuân) và họ có nhiều kinh nghiệm trong nuôi và khai thác nguồn lợi ngao. Giao Thiện và Giao An lại là hai xã có diện tích rừng ngập mặn rộng, chính vì thế mà họ có thể phát triển mạnh hơn xã khác các hoạt động khai thác thủ công và đăng đáy; vì vậy các loại thủy sản thu được rất đa dạng như cá, cua, và rất nhiều loại thủy sinh khác.
Bảng 8: Sản lượng khai thác trung bình của một số loại thủy sản
Loại thủy sản
N
kg/ngày
Minimum
Maximum
Tôm
25
9,6
0,3
50
Ngao giống
13
5,51
0,1
50
Ngao thịt
49
5,34
0,5
18
Nhuyễn thể
47
10,67
0,4
100
Cá
65
17,32
0,2
150
Cua biển
29
1,03
0,1
6
Thủy sinh khác
44
315,26
0,2
2000
Nguồn: Điều tra thực địa 12/2008
Qua bảng sản lượng các loại thủy sản mà người dân khai thác cho thấy sản lượng của các loại như tôm, cua biển sản lượng ít nhất.
Xu hướng thay đổi của thủy sinh khai thác tự nhiên
Cũng theo người dân thì hầu hết các loại thủy sản mà họ thường xuyên khai thác sản lượng đều giảm so với 5 năm trước đây
Hình 6: Sản lượng một số thủy sản suy giảm
Nguồn: Điều tra thực địa 12/2008
So với 5 năm trước theo đánh giá của những người thường xuyên khai thác sản lượng thuỷ sản so với 5 năm trước đây đã giảm đi từ 50% đến 70%. Điều này chứng tỏ sản lượng thuỷ sản đang giảm do việc người dân khai thác quá mức. Sản lượng khai thác thay đổi nhưng các yếu tố khác liên quan tới đánh bắt không thay đổi so với trước kia, hiện tượng khai thác không quy hoạch tự do, cùng với hiện tượng ô nhiễm môi trường trong thời gian gần đây. Căn cứ vào số liệu điều tra, có từ 80% tới hơn 90% hộ khai thác thủy sản vẫn giữ nguyên số thành viên tham gia, địa điểm đánh bắt, thời gian đánh bắt, số giờ đánh bắt/ngày, và các công cụ để đánh bắt. Thực tế này đã cho thấy người dân sống dựa vào nguồn lợi thủy sản tự nhiên trong khu vực VQG Xuân Thủy sẽ phải chịu áp lực gấp đôi trong việc khai thác và kiếm thêm thu nhập cho gia đình. Mặt khác, bản thân các loại thủy sinh vật của vùng ĐNN và biển VQG Xuân Thủy cũng phải đối đầu với nguy cơ bị khác thác quá mức và dễ dẫn đến cạn kiệt.
Nhận thức về khai thác thủy sản
Đánh giá nhận thức của người dân khi khai thác thuỷ sản ở các khu vực VQG cho thấy người dân ở người dân ở khu vực nghiên cứu đã có ý thức trong việc khai thác các loại thủy sản như: Không nên khai thác thủy sản nhỏ, thủy sản đang mang trứng, hay các loại thủy sản quý và các loại chết không rõ nguyên nhân.
Hình 8: Nhận thức của người dân khi khai thác thủy sản
Nguồn: Điều tra thực địa 12/2008
Tuy nhiên người dân vẫn chưa nhận thức được các phương pháp khai thác có tác động tới hệ sinh thái có 98% số hộ vẫn cho rằng có thể sử dụng điện và hoá chất để đánh bắt thuỷ sản và 91% vẫn muốn sử dụng các chất kích thích sinh trưởng trong nuôi trồng thuỷ sản. Các hộ nuôi trông thủy sản có 58 % cho rằng nên nuôi tôm theo chu trình công nghiệp không cần rừng ngập mặn, chỉ có 17% số hộ cho rằng nên nuôi tôm theo kiểu quảng canh kết hợp với phát triển rừng ngập mặn.
3.3.3 Khó khăn về thị trường
Các sản phẩm thủy sản mà người dân nuôi, đánh bắt chủ được tiêu thụ tại 3 thị trường: chợ địa phương, lái buôn tại xã, và các chợ bên ngoài. Với thủy sản nuôi hiện nay trên 85% thủy hải sản được bán thông qua các đại lý trung gian (lái buôn tại xã) để vận chuyển lên các thành phố lớn và/hoặc xuất khẩu. Tuy nhiên, thủy sản của địa phương chủ yếu được bán dưới dạng tươi sống (80%), chỉ có 20% thuỷ sản được người dân chế biến trước khi bán.
Với thủy sản tự nhiên 90% thủy sản mà người dân khai thác được sử dụng để bán tại các chợ có 86,16% bán cho lái buôn tại xã, có 13% bán ra các chợ bên ngoài và có 2,6% bán tại các chợ ở địa phương., Phần lớn các loại sản phẩm bán cho lái buôn là thuỷ sản tươi sống, có 84,38% thủy sản bán tại chợ xã là thực phẩm tươi sống và 75% bán ra chợ ngoài là thuỷ sản tươi sống.
Hình 7: Khó khăn khi người dân bán các sản phẩm khai thác
Nguồn: Điều tra thực địa 12/2008
Khi tham gia tị trường người dân vẫn gặp phải một số khó khăn trong đó: khó khăn trong khâu vận chuyển hàng hóa chủ yếu là ở khi người dân mang ra các chợ bên ngoài để bán, ngoài ra khi tham gia thị trường bên ngoài người dân còn gặp một khó khăn khác là khâu bảo quản sản phẩm. Thị trường mà người dân sử dụng nhiều nhất là bán cho lái buôn thì thường bị ép giá, giá cả không ổn định. Còn thị trường tại các chợ xã hạn chế ít người mua và giá cả không ổn định.
3.4. Tác động qua lại của phát triển sinh kế của người dân và vấn đề bảo tồn đất ngập nước
Đất ngập nước chiếm 1/3 diện tích cả nước với hơn 10 triệu ha. Các vùng đất ngập nước đang là nguồn sống của những người dân sống gần chúng. Ở nước ta 70% dân số hoạt động kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp nên rất cần sử dụng các vùng đất ngập nước để trồng lúa, chăn nuôi thủy sản và hoạt động đánh bắt các thủy sản. Nhưng trong thời gian gần đây do hoạt động khai thác và sử dụng quá mức đang gây ra một số vấn đề nghiêm trọng với các vùng đất ngập nước: môi trường sống và di cư của nhiều loại sinh vật bị phá huỷ; đa dạng sinh học và các nguồn tài nguyên ĐNN bị suy giảm nghiêm trọng do các hoạt động chuyển đổi mục đích sử dụng ĐNN; các loại chất thải ngày càng gia tăng; đánh bắt thuỷ hải sản bằng phương pháp có tính huỷ diệt; nạn chặt phá rừng ngập mặn, phá huỷ rạn san hô; chất thải công nghiệp, chất thải sinh hoạt và thuốc trừ sâu, phân bón hoá học đổ ra các thuỷ vực làm ô nhiễm đất ngập nước...
CÁC ĐỊA PHƯƠNG KHÁC
Rác, chất thải
DÂN CƯ
Sinh hoạt, trồng lúa, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản
HOA MÀU
LÚA
CỘNG ĐỒNG BÊN NGOÀI
CÁC XÃ LÂN CẬN
SÔNG HỒNG
RỪNG NGẬP MẶN
Nuôi trồng thuỷ sản
Trao đổi, buôn bán
Rác, chất thải
Chất thải
Hải sản
BIỂN
Rác, chất thải
Thu hoạch
Rác, chất thải
Nước sinh hoạt
Thuốc BVTV
Cấp nước
Lao động
Nước ngầm
Thu hoạch
Sản phẩm từ RNM
Thuỷ sản
Kênh rach
Hiện trạng phát triển của người dân (PRA)
Vấn đề đặt ra hiện nay là cần phải có các biện pháp bảo tồn các vùng đất ngập nước, hạn chế các hoạt động phát triển làm ảnh hưởng đa dạng sinh học của các vùng này
. Ở vùng đệm của VQG Xuân Thủy, thu nhập của người dân sống ở đây khoảng gần 50% phụ thuộc vào các hoạt động liên quan tới đất ngập nước, có những hộ 100% phụ thuộc vào các hoạt động khai thác, làm thuê ngoài các bãi, đăng đáy hay nuôi trồng thủy sản.
Bảng 9: Hộ nghèo và phần trăm thu nhập phụ thuộc vào đất ngập nước
%
Mẫu số quan sát
Trung bình
Lớn nhất
Nhỏ nhất
Hộ nghèo Ghi chú: Hộ nghèo là những hộ có thu nhập bình quân đầu người < 200000đ/tháng
184
43,93
100
4,26
Hộ không nghèo
864
49,69
100
4,44
Nguồn: Số liệu điều tra 12/2008
Theo điều tra các hộ nghèo thu nhập của hộ 43% phụ thuộc vào các hoạt động liên quan tới đất ngập nước, hộ không nghèo 49,7% thu nhập phụ thuộc vào khai thác và nuôi trồng thủy sản. Vì thế nếu chúng ta ngừng các hoạt động khai thác và đánh bắt thủy sản của người dân thì sẽ ảnh hưởng rất lớn tới nguồn thu của các hộ.
Bảng 10: Hiện trạng hộ nghèo và hộ nghèo nếu có sự tác động
Nội dung tìm hiểu
Mẫu số quan sát
Hộ nghèo
Hộ không nghèo
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Số lượng
Tỷ lệ
(%)
Hiện trạng hộ nghèo nếu không có tác động
1048
184
17,6
864
82.4
Hiện trạng hộ nghèo nếu có tác động (ngưng đánh bắt)
1048
286
27,3
762
72,7
Nguồn: Số liệu điều tra 12/2008
Thực tế theo bảng trên cho thấy. Nếu như để bảo vệ các vùng đất ngập nước mà ngừng các hoạt động khai thác và nuôi trồng thủy sản của người dân thì sẽ có 10% số hộ theo điều tra sẽ trở thành hộ nghèo, tức là khoảng 100 hộ dân sẽ tái nghèo nâng tỷ lệ hộ nghèo từ 17,6% lên 27,3%. Trong khi đó số hộ nghèo nếu không tham gia vào các hoạt động khai thác thủy sản là 24,6% và số hộ nghèo khi không tham gia vào các hoạt động khai thác thủy sản là 19,9%.
Hoạt động nuôi trồng, khai thác thủy sản của người dân cũng phụ thuộc nhiều vào khu vực khai thác và khu vực nuôi trồng. Kết quả phân tích mô hình so sánh giữa “Thu nhập của người dân” với “Vùng khai thác và nuôi trồng khác nhau” để xác định liệu địa điểm khai thác và nuôi trồng có tác động lên thu nhập không? Kết quả kiểm chứng theo bảng 11 đã cho phép kết luận thu nhập từ khai thác thủy sản phụ thuộc nhiều vào vùng hoạt động. Thu nhập lớn nhất là ở các vùng như: kênh ruộng nội đồng, biển, rừng ngập mặn tự nhiên, bãi Cồn Lu… Vì thế, cần phải cân nhắc trước khi có chính sách điều chỉnh vùng khai thác này của người dân. Trong khi đó bảng 11 cũng cho thấy không có sự khác biệt về lợi nhuận nếu nuôi thủy sản ở những khu vực khác nhau, vì vậy có thể quy hoạch vùng nuôi trồng thủy sản tập chung.
Bảng 11: Phân tích mô hình so sánh thu nhập khi người dân
khai thác và nuôi thủy sản ở các vùng khác nhau
Địa điểm khai thác thủy sản thu nhập
ĐVT: (Triệu đồng/năm)
Trung bình
Lớn nhất
Nhỏ nhất
Ao và kênh ruộng nội đồng
25
40
10
Bãi trong cồn ngạn
8,3
10
5
Rừng ngập mặn cồn ngạn
9
24
3
Bãi bồi
7,5
25
0,4
Rừng ngập mặn tự nhiên
10,7
50
1,5
Bãi bồi cồn lu
10,8
51
0,5
Rừng phi lao
6
6
6
Sông rạch trong rừng ngập mặn
9,9
25
1
Biển
21,4
51
3
Cồn xanh và các cồn cát
14,3
20
11
Chi-Square =42,8 df=9 p-value=0,000 Kiểm định Kruskal-Wallis Test với mức ý nghĩa 95%
Địa điểm nuôi trồng Thu nhập
Ao và rừng nuôi trồng
10
10
10
Bãi trong
26,18
67
4.8
Rừng ngập mặn cồn ngạn
31,17
72
20
Bãi cồn ngạn
35
100
20
Rừng ngập mặn tự nhiên
11,25
15
10
Bãi cồn lu
23,57
55
10
Cồn xanh và các cồn cát
11,00
11
11
Chi-Square =12 df=6 p-value=0,062
Nguồn: Phân tích từ số liệu điều tra 12/2008
Qua phân tích thấy hiện tại sinh kế của người dân vẫn còn phụ thuộc nhiều vào việc khai thác và nuôi trồng thủy sản các con số p-value của kiểm định cho thấy người dân thu nhập của người dân khai thác hay nuôi trồng thủy sản có sự khác nhau về địa điểm khai thác và nếu vùng khai thác hay nuôi trồng của họ bị tác động thì sẽ ảnh hưởng tới thu nhập của họ, điều này cũng cho thấy sinh kế của hộ không bền vững và bị tác động nếu có chính sách thay đổi điều chỉnh. Đây cũng là vấn đề cho các nhà chính sách cần chú ý khi đưa ra một các chính sách liên quan tới người dân sống tại các xã vùng đệm.
3.5. Lựa chọn sinh kế của hộ
Qua phân tích ở trên các hộ gia đình ở khu vực nghiên cứu các hộ gia đình có nhiều sinh kế khác nhau. Nhưng để lựa chọn một sinh kế tốt nhất để đầu tư phát triển sẽ phụ thuộc vào điều kiện và đặc trưng của gia đình đó. Biểu đồ sau sẽ cho thấy sự lựa chọn sinh kế trong tương lai của các chủ hộ
Hình 9: Lựa chọn phát triển sinh kế trong thời gian tới
Nguồn: Điều tra thực địa 12/2008
Qua biểu đồ trên có thể nhận thấy
Trong các nghề mà người dân muốn phát triển trong thời gian tới nhiều nhất vẫn là làm nông nghiệp trồng lúa chiếm 33,85% và 18,18% muốn phát triển theo hướng chăn nuôi và trồng màu, một số hộ khác muốn kinh doanh buôn bán hay đi làm ăn xa, ít hộ muốn tham gia các hoạt động nuôi trồng hay đánh bắt thủy sản.
Hình 10: Lý do lựa chọn hướng phát triển sinh kế
Nguồn: Điều tra thực địa 12/2008
Các lý do mà người dân lựa chọn phương hướng phát triển sinh kế của hộ gia đình mình là do nhân lực lao động chiếm 77,15%, có kỹ năng tay nghề chiếm 44,4% một số hộ khác có tiềm lực tài chính, hiểu biết về thị trường tiêu thụ, có đất và kinh nghiệm sản xuất…Vì thế trong thời gian tới cần hướng người dân vào các sinh kế nào phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của từng hộ gia đình. Nhưng cần tránh phát triển các sinh kế làm xâm hai tới đa dạng sinh học của VQG do lượng thuỷ sản trong những năm gần đây đã giảm tới 50% so với các năm trước và nếu cứ tiếp tục khai thác thì sẽ dẫn tới cạn kiệt. Mô hình so sánh thu nhập từ “khai thác thủy sản khu vực VQG” và các sinh kế khác sau đây đã khẳng định thêm cho chúng ta thấy rằng không nên phát triển sinh kế theo hướng khai thác thuỷ sản ở khu vực VQG.
Bảng 12: Mô hình so sánh thu nhập
A
B
p-value Kiểm định T-Test với mức ý nghĩa 95%, P-value < 0.05 có sự khác biệt giữa hai nguồn thu nhập, ** lớn hơn, * nhỏ hơn
Khai thác thuỷ sản khu vực RNM
Trồng lúa*
0,001
Chăn nuôi, trồng màu
0,115
Làm thợ**
0,000
Công việc phụ không thường xuyên
0,250
Làm ăn xa**
0,000
Nuôi tôm**
0,000
Nuôi ngao**
0,000
Đánh cá biển**
0,000
Làm thuê ngoài bãi
0,932
Nguồn: Phân tích từ số liệu điều tra 12/2008
Theo như phân tích, thu nhập từ các công việc chăn nuôi, công việc phụ không thường xuyên, và làm thuê ngoài bãi không có khác biệt so với thu nhập từ khai thác thuỷ sản ở khu vực VQG. Tuy nhiên, sự khác biệt được quan sát thấy trong các hoạt động sinh kế khác. Cụ thể là nông nghiệp trồng lúa đem lại mức thu nhập cho người dân thấp hơn khai thác thủ công, trong khi đó nuôi trồng thủy sản, đánh cá biển, làm thợ và đi làm ăn xa đều đem lại nguồn thu lớn hơn. Vì vậy, nếu có chương trình tạo sinh kế thay thế hay sinh kế bổ trợ cho nghề khai thác thủy sản thủ công thì nên khuyến khích người dân tham gia theo vào các hoạt động như: Làm thợ, nuôi thuỷ sản, và đánh cá ngoài biển.
3.6. Những ưu tiên và ý thức của người dân nếu có các dự án phát triển
3.6.1. Các đối tượng cần được quan tâm
Trong các chính sách của đảng và nhà nước ta luôn luôn ưu tiên cho những người nghèo, người gặp phải những hoàn cảnh khó khăn, những gia đình chính sách. Trong các dự án phát triển của nhà nước hay của các tổ chức phi chính phủ cũng luôn ưu tiên tối đa cho những hộ nghèo trong cộng đồng.
Theo điều tra các hộ gia đình ở 5 xã vùng đệm vườn quốc gia cho thấy những hộ nghèo ở đây có nghề chính là trồng lúa chiếm 99,5%. Ngoài ra người dân nghèo có nghề phụ tập chung chủ yếu vào 2 nghề chính là: chăn nuôi chiếm 58,6% và nghề khai thác thủy sản tự do ngoài bãi chiếm 11,3%. Hộ nghèo là hộ có ít nguồn thu nhập thể hiện qua bảng … hộ nghèo chỉ có khoảng 2 nguồn thu nhập hộ lớn nhất cũng chỉ có 3 nguồn thu.
Bảng 13: Số nguồn thu của hộ và loại hộ
N
Mean
Maximum
Minimum
Mean rank
Hộ không nghèo
864
2,53
5
1
573,89
Hộ nghèo
184
1,70
3
1
282,29
Mann-Whitney U = 34921,5 P-value=0,000 Kiểm định Mann-Whitney Test với mức ý nghĩa 95%
Nguồn: Phân tích từ số liệu điều tra 12/2008
Do vậy các hộ nghèo là những đối tượng dễ bị tổn thương khi có sự tác động của các yếu tố tự nhiên. Phương hướng phát triển nghề nghiệp của hộ nghèo đơn giản chủ yếu chỉ muốn phát triển các nghề đã làm từ lâu như trồng lúa, chăn nuôi hay trồng hoa màu và không có mong muốn phát triển các nghề nghiệp khác do sợ rủi do. Ngoài ra theo điều tra trong các hộ nghèo 55,4% là những người theo theo các đạo tín ngưỡng. Các hộ nghèo ở khu vức nghiên cứu không có sự khác biệt về số người phụ thuộc so với các hộ không nghèo. Tuy nhiên, hộ nghèo có thể nhận thấy qua nhà cửa kết quả phân tích chứng minh rằng hộ nghèo là hộ có chất lượng nhà của kèm hơn hộ không nghèo.
Bảng 14: So sánh nhà của của hộ nghèo và hộ không nghèo
%
ĐVT
Hộ nghèo
Hộ không nghèo
Nhà mái bằng hay nhà cấp 4 mới xây và sơn tường
N
8
128
%
4,65
15,26
Nhà cấp 4 được sửa sang
N
71
471
%
41,28
56,14
Nhà cấp 4 cũ nền gạch, xi măng
N
93
240
%
54,07
28,61
df = 2 p-value = 0,000 Kiểm định Chi-Square Tests với mức ý nghĩa 95%
Nguồn: Phân tích từ số liệu điều tra 12/2008
Vì thế trong các dự án phát triển cộng đồng sống xung quanh khu vực vùng đệm trong thời gian tới để bảo tồn đa dạng sinh học của vườn quốc gia nên chú ý tới các đối tượng là hộ nghèo.
3.6.2. Nhận thức của người dân với các dự án gần đây
Trong những năm gần đây có rất nhiều các dự án bảo tồn và phát triển cộng đồng dân cư sống ở các khu vực vùng đệm của VQG. Tuy nhiên, số người biết về các dự án này chỉ 14,14% và số hộ tham gia chỉ 11,9% có tới 74% số hộ không biết về các dự án này.
Vai trò của các hộ khi tham gia vào các dự án phát triển này là: chủ yếu là các học viên chiếm 44% và 46% số hộ không làm gì hay không biết, có 5% tham gia tuyên truyền cho dự án và 3% là người chỉ đạo nhóm cộng đồng. Lợi ích của các dự án với cộng đồng chủ yếu vẫn mang tính chất tuyên truyền khi được hỏi có 29% số người cho rằng các dự án nâng cao nhận biết của cộng đồng về môi trường ĐNN, có 33,46% cho rằng các dự án nâng cao chất lượng cuộc sống về môi trường, có 22,43 cho rằng dự án mang lại thu nhập cho bản thân người tham gia và gia đình và có 9,9% cho rằng dự án hỗ trợ kỹ năng sinh kế và tạo sinh kế cho người dân.
Điều này cho thấy các dự án phát triển mới chỉ tập chung vào việc tuyên truyền nhận thức cho người dân, chưa có nhiều dự án giúp người dân cách thức sản xuất và thay đổi sinh kế cho họ.
3.7. Các chính sách đất ngập nước
Từ khi Việt Nam tham gia công ước Ramsar năm 1989 đến năm 2003 chúng ta có hơn 500 văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới bảo tồn. Những chỉ có 10 văn bản có những quy định trực tiếp về ĐNN. Với sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, các nhà tài trợ, các tổ chức phi chính phủ trong và ngoài nước chúng ta đang dần thay đổi nhận thức của các cấp các ngành về tầm quan trọng của ĐNN. Năm 2003 Chính phủ ban hành nghị định số 109/2003/NĐ-CP về bảo tồn và phát triển bền vững các vùng ĐNN.
Theo phân loại quy định trong các văn bản pháp luật của Việt Nam các vùng ĐNN bao gồm (i) ĐNN vên biển bao gồm: vùng nuôi thủ sản, bãi cát, sỏi, cuội, ruộng muối, bãi bùn, lầy ngập chiều, đầm phá, của sông, đồng bằng vên biển, rừng ngập mặn, thảm thực vật, quần thể san hô. (ii) ĐNN nội địa bao gồm: vùng đất lúa nước, cây ngập nước khác, sông, suối, kênh rạch, mặt nước chuyên dùng, hồ, ao, đầm, rừng tràm, bãi bùn lầy, hang động ngầm. Các nguồn vốn phát triển tập chung vào phục hồi và phát triển các hệ sinh thái ĐNN và biển, xây dựng mạng lưới quan trắc tài nguyên-môi trường và đa dạng sinh học tại các vùng ĐNN và vùng biển quan trọng.
Trong Nghị quyết 41-NQ/TW của Bộ Chính trị 2004 về bảo vệ môi trường trong giai đoạn đẩy mạnh CNH-HĐH có quy định Nghiêm cấm triệt để việc săn bắt chim, thú trong danh mục cần bảo vệ; ngăn chặn nạn sử dụng các phương tiện đánh bắt có tính huỷ diệt nguồn lợi thuỷ, hải sản; quy hoạch phát triển các khu bảo tồn biển và bảo tồn ĐNN. Các văn bản pháp lý, chiến lược, kế hoạch hành động quốc gia và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia trình bày ở trên là những cơ sở pháp lý, đồng thời là yêu cầu đối với việc thành lập các khu bảo tồn ĐNN tại Việt Nam.
Hệ thống chính sách, luật pháp, thể chế là công cụ quản lý hiệu quả các vùng ĐNN thể hiện qua kết quả thực tế đạt được trong thời gian qua. Mặc dù vậy, hệ thống này còn một số vấn đề bất cập, có thể nói đến như sau: Tổng quan Hệ thống luật pháp, chính sách liên quan đến ĐNN sau 15 năm Việt Nam tham gia Công ước Ramsar-Lê Trọng Bình, Phạm Việt Hồng
Tuy có Hệ thống văn bản dưới Luật, chính sách, thể chế quản lý ĐNN thiếu đồng bộ, chưa hoàn thiện, các điều khoản qui định pháp lý có liên quan đến ĐNN bị phân tán, chồng chéo trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật
Các chế tài xử phạt hành chính, hình sự chưa hợp lý, chưa đủ mạnh.
Hầu hết các văn bản pháp luật liên quan quản lý ĐNN mới chỉ đề cập đến các vấn đề bảo vệ, nghiêm cấm... nhưng chưa có cơ chế, biện pháp khuyến khích về kinh tế cho những sáng kiến sử dụng bền vững
Các quy định, pháp luật về cơ chế phối hợp giữa các bộ, ban ngành, địa phương trong các hoạt động liên quan đến ĐNN còn thiếu và chưa thống nhất, thiếu các chế tài để thi hành.
Kết luận Chính sách:
Mặc dù trong thời gian qua mặc dù nhà nước đã ban hành rất nhiều các văn bản điều chỉnh nhằm xây dựng hệ thống chế tài để quản lý bền vững các vùng ĐNN nhưng vẫn còn một số hạn chế cần phải điều chỉnh:
Hệ thống pháp luật ĐNN nhiều nhưng vẫn chưa tập chung mà các văn bản quy định các vấn đề chỉ liên quan tới ĐNN vẫn chỉ mang tính định hướng. Nội dung các văn bản chồng chéo, một vấn đề có thể được nhiều văn bản đề cập.
Các chế tài xử phạt đối với các hành vị khai thác, đánh bắt quá mức các loài thuỷ sinh ở các vùng ĐNN chưa đủ mạnh.
Do phần lớn người dân sống xung quanh vùng đệm của các khu bảo tồn ĐNN nguồn sinh kế của họ chủ yếu sống phụ thuộc vào việc khai thác thuỷ sản. Trong thời gian tới Chính phủ, các cấp các ngành phải có các chính sách để hỗ trợ người dân phát triển sinh kế thay thế hạn chế đánh bắt thuỷ sản.
IV. KẾT LUẬN VÀ VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM
4.1. Kết luận
1) Các nguồn vốn trong khung sinh kế của các hộ gia đình rất thuật lợi cho phát triển kinh tế hộ gia đình (i) Nguồn vốn con người có đủ các điều kiện về giới về học vấn của chủ hộ, đa dạng các nghề nghiệp. Tuy nhiên sẽ gặp khó khăn khi muốn thay đổi tập quán, thói quen làm việc của người dân. (ii) Cơ sở vật chất của các hộ tương đối đầy đủ, tuy nhiên số lượng các công cụ máy móc phục vụ sản xuất còn hạn chế, các phương tiện thô sơ. (iii) Là một huyện ven biển thuận lợi cho phát triển nuôi trồng thuỷ sản. Tuy nhiên, số lượng người tham gia nuôi thuỷ sản không nhiều. (iv) Nghề nghiệp chính là chăn nuôi, trồng lúa nhưng mang lại thu nhập thấp, nhiều hộ vẫn phải đi vay để mua lương thực trung bình 2 tháng trong năm. (v) Các hộ gia đình đều tham gia vào các tổ chức xã hội tuy nhiên vẫn chưa phát huy được các mối quan hệ để phát triển kinh tế hộ gia đình.
2) Như đã nói nuôi thuỷ sản chỉ tập chung vào một số gia đình, sản lượng thuỷ sản đã giảm đi nhiều so với 5 năm trước do suy giảm chất lượng nước. Buôn bán thuỷ sản gặp khó khăn giá cả không ổn định, thường bị lái buôn thu mua ép giá.
3) Lượng thuỷ sản đánh bắt giảm 50% so với 5 năm trước đây, công cụ đánh bắt chủ yếu là công cụ thô sơ, khó khăn trong việc bảo quản các thuỷ sản đánh bắt được và bị tư thương ép gía.
4) Phần lớn người dân muốn phát triển sinh kế theo hương phát triển nghề trồng lúa, nghề chăn nuôi đặc biệt là nhóm hộ nghèo. Lý do; có kinh nghiệm có tay nghề, có nhân lực, có các thuận lợi khác như đất đai, đầu tư tài chính thấp.
5) Thu nhập của hộ nghèo phụ thuộc rất nhiều vào các hoạt động liên quan tới đất ngập nước và chiếm tới 45% trong tổng thu nhập. Sẽ có 10% số hộ điều tra sẽ tái nghèo nếu chúng ta không cho họ khai thác hay nuôi trồng thủy sản trong các khu vực vùng đệm vườn quốc gia
6) Cộng đồng dân cư đa có nhân thức trong việc nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản phương pháp nào nên dùng, phương pháp nào không nên dùng. Có nhiều các dự án phát triển cộng đồng ở khu vực vùng đệm nhằm bảo tồn và phát triển vùng đất ngập nước, đồng thời hỗ trợ người dân phát triển sinh kế. Tuy nhiên, số người bết và tham gia vào các dự án này rất ít. Các dự án mang lại lợi ích chính vẫn là tuyên truyền về bảo vệ môi trường cho người dân, chưa giúp được nhiều cho người dân trong phát triển kinh tế.
7) Các chính sách liên quan về bảo tồn và phát triển các vùng đất ngập nước nhiều nhưng vấn mang tính quan điểm, các văn bản chồng chéo nhau một vấn đề nhắc lại nhiều trong các văn bản. Chính sách hỗ trợ phát triển cho người dân vùng đệm chưa nhiều.
4.2. Vấn đề cần quan tâm
Qua phân tích sinh kế của cộng đồng dân cư sống ở khu vực xung quanh vùng đệm VQG Xuân Thuỷ thấy rằng; (i) Người dân vẫn sống phụ thuộc nhiều vào việc nuôi trồng và khai thác thuỷ sản tại các khu vực vườn quốc gia. Vì vậy, trong thời gian tới nhà nước cần có Chính sách hỗ trợ dạy nghề cho người dân để thay đổi phương hướng phát triển sinh kế. (ii) Các chương trình dự án phát triển cần tập chung hơn vào giúp người dân phát triển sinh kế, hạn chế phát triển sinh kế vào khu vực VQG là cách bảo vệ khu vực VQG hiệu quả. (iii) Các dự án cần ưu tiên hỗ trợ cho các hộ nghèo để họ ứng phó với sự thay đổi của điều kiện tự nhiên. (iv) Các chính sách bảo tồn thời gian tới cần chú ý tới các đối tượng đang sống phụ thuộc vào vùng đệm vườn quốc gia đặc biệt là các đối tượng là những hộ nghèo dễ bị tổn thương.
Một số giải pháp cụ thể cho người dân vùng đệm trong thời gian tới
TT
Vấn đề
Giải pháp
1
Sinh kế của người dân ở khu vực vùng đệm chưa bền vững:
- Tập quán sản xuất phụ thuộc nhiều vào tự nhiên
- Chưa phát huy hết được thế mạnh của vùng sinh sống
- Thiếu công cụ sản xuất hiện đại
- Cần hỗ trợ dạy nghề cho hộ đặc biệt chú trọng vào các nghề Nông nghiệp và nuôi trông thủy sản (phát huy thế mạnh của địa phương)
- Cho các hộ vay vốn để đóng tàu lớn tham gia khai thác xa bờ
2
-Sản lượng thủy sản đang suy giảm nghiêm trọng do khai thác quá mức
-Thị trường buôn bán thủy sản bất lợi cho người sản xuất
-Khuyến khích người dân, đầu tư đánh bắt xa bờ
-Cần thiết lập hệ thống chợ đầu mối thu mua thủy sản cho người dân địa phương
3
-Phần lớn người dân không muốn thay đổi sinh kế hiện tại, mà lại muốn tập chung phát triển sản xuất các nghề như trồng lúa, chăn nuôi
-Tăng cường các lớp khuyến nông dậy cho người dân các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới trong sản xuất nông nghiệp
4
-Các hộ nuôi trồng và đánh bắt thủy sản chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, không đúng cách đang gây ra nhiều hậu quả cho môi trường (Ô nhiễm nước, mất đa dạng loài…)
- Cần nghiêm cấm khai thác và nuôi trồng ở những khu vực gần VQG
-Tập huấn kỹ thuật nuôi trồng thủy sản cho người dân (Nuôi thủy sản kết hợp trồng rừng ngập mặn)
5
-Các chính sách cho người dân vùng đệm chưa nhiều và chưa đồng bộ, còn chồng chéo nhiều
Cần có chính sách cụ thể hỗ trợ cho người dân vùng đệm phát triển kinh tế, đồng thời khi ban hành chính sách cần phải chú ý tới các hộ nghèo và cận nghèo những đối tượng dễ bị tổn thương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo quốc gia về việc thực hiện Công ước Ramsar về các vùng đất ngập nước - Báo cáo trình Kỳ họp thứ 10, hội nghị các Bên tham gia, Hàn Quốc, 28 tháng 10 – 4 tháng 11 năm 2008
2. Hệ thống phân loại đất ngập nước- Hoàng Văn Thắng, Lê Diên Dực - CRES, ĐHQGHN
3. Khu dự trữ sinh quyển ĐNN liên tỉnh châu thổ sông hồng – MAB Việt Nam
4. Lồng nghép đa dạng sinh học đất ngập nước: Nghiên cứu dự án UNDP/GEF về bảo tồn DDSH ĐNN và sử dụng bền vững ở Trung Quốc-YUAN JUN, 1 và Wu Haohan1
4. Đánh giá vấn đề đồng quản lý/quản lý tài nguyên ven bờ dựa vào cộng đồng – Trương Văn Tuyển
5. Sử dụng phương pháp đánh gia kinh tế xã hôi có sự tham gia nhằm giải quyết các vấn đề quản lý ĐNN ở KOSHI TAPPU, NEPAL -BHAGWAN RAJ DAHA1, Seb Buckton2
6. Tổng quan Hệ thống luật pháp, chính sách liên quan đến đất ngập nước sau 15 năm Việt Nam tham gia Công ước Ramsar, Lê Thanh Bình, Phạm Việt Hồng
7. Một số ý kiến về xây dựng và phát triển vùng đệm, Trần Nguyên Anh
Phụ lục
Một số hình ảnh khu vực nghiên cứu
Hình ảnh thảo luận PRA
Hình ảnh tài nguyên VQG
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Điều tra đánh giá thực trạng phát triển sinh kế hộ của người dân 5 xã vùng đệm vườn quốc gia xuân thuỷ.doc