Dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay

Phát triển NN là vấn đề lớn, bao trùm hầu hết khoảng 70-75% số dân. Nếu cho rằng NN của chúng ta đã cơ bản được giải quyết, đảm bảo cung cấp đủ lương thực và thực phẩm cho xã hội thì chưa toàn diện. Vì hiện nay nông dân vẫn là khu vực khó khăn, yếu thế so với các khu vực khác trong xã hội, người nghèo tập trung chính vẫn ở khu vực nông thôn. Sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội đã tạo ra khoảng cách ngày càng xa trong đời sống giữa nông thôn với thành thị, giữa lao động NN với lao động phi NN. Những diễn biến trong xã hội như đã nêu, phần nào đó làm cho tư tưởng của nông dân chưa thật sự tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước trước tình hình hiện nay. Với bản tính cần cù, không cam chịu đói, nghèo nhiều hộ nông dân tự phát dồn, đổi đất NN với mong muốn vươn lên làm giàu. Và nếu như vấn đề này được quan tâm kịp thời, thoả đáng tiếp thêm sức cho họ thì người được hưởng lợi trong xã hội sẽ là số đông nông dân. Đồng thời, công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo hơn 20 năm qua được bắt đầu từ NN, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng trân trọng và tự hào. Vì vậy, đây chính là lý do quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta cần quan tâm, phải coi đó là một chiến lược trong sự nghiệp tiếp tục chấn hưng đất, nước bằng con đường “ dân giàu , nước mạnh”, thông qua DĐ, ĐT đất NN.

pdf99 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3627 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y hàng năm đã được giao theo Nghị định 64/CP. Như vậy, chủ thể tham gia DĐ, ĐT bao gồm các hộ gia đình, cá nhân, các tổ chức, các HTX nông nghiệp được giao đất SXNN. Đối với Vĩnh Phúc, do đặc thù việc chia ruộng thời điểm năm 1993 để tránh xáo trộn tỉnh vẫn giữ nguyên đất đã giao theo Quyết định 450/QĐ-UB, ngày 19/5/1992 của UBND tỉnh Vĩnh Phú cũ cho các hộ, gia đình cá nhân. Quan điểm đảm bảo hài hoà quyền lợi cho các chủ thể tham gia DĐ, ĐT phải đạt được những yêu cầu, nguyên tắc dưới đây: + Giữ nguyên số khẩu và diện tích đã giao hợp pháp cho các chủ thể thời điểm 15/10/1993 theo Nghị định 64/CP của Chính phủ và Quyết định 450/QĐ-UBND của UBND tỉnh Vĩnh Phú (cũ), không chia thêm, cũng không rút bớt diện tích đối với các hộ có biến động nhân khẩu như sinh thêm con, biến động nhân khẩu do cơ học chuyển đi chuyển đến, người già yếu bệnh tật đã chết sau thời điểm 15/10/1993 trở lại đây; + Phần diện tích của các hộ đã bị thu hồi và đền bù theo chính sách của Nhà nước thì không được chia trở lại; diện tích giữa các hộ đã chuyển nhượng hợp pháp cho nhau thì tôn trọng và giữ nguyên diện tích đã giao cho người nhận chuyển nhượng làm căn cứ chuyển đổi; + Do đất chuyển đổi có sự khác nhau về vị trí, về hạng đất, tính chất đất đai, vùng cao thấp khác nhau và sự khác nhau về điều kiện khó khăn, thuận lợi trong canh tác. Vì vậy phải định ra được hệ số quy đổi (K) giữa các loại đất khác nhau để đảm bảo sự hoán đổi cho nhau mang tính công bằng. Diện tích mới nhận của các hộ sau DĐ, ĐT có thể thay đổi so với diện tích ban đầu, nhưng hạng đất không thay đổi. Đảm bảo yêu cầu sau khi quy đổi theo hệ số (K) diện tích được DĐ, ĐT phải không thừa, không thiếu trong tổng diện tích được đưa vào để chuyển đổi; + Phải đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền, tôn trọng quyền lợi của người sử dụng đất trên nguyên tắc dân chủ, công khai và tự nguyện; không cầu toàn nóng vội hoặc để xẩy ra tiêu cực trong quá trình thực hiện, giữ vững ổn định tình hình ở địa phương, đem lại lợi ích thiết thực cho người sử dụng đất; 3.1.3. Dồn điền, đổi thửa phải gắn với phát triển nông nghiệp hiệu quả, bền vững theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá Về tổng thể, ngoài việc xây dựng kế hoạch DĐ, ĐT phải gắn với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung như đã nêu trên thì DĐ, ĐT phải tôn trọng hiện trạng, tôn trọng những khoản chi phí, những công trình đã đầu tư trên đất. Cần chú trọng gắn với quy hoạch lại đồng ruộng, với hoàn thiện quy hoạch sử dụng đất cho các nhu cầu giao thông, thuỷ lợi, công trình công cộng và đất chuyên dùng khác. Hình thành các vùng chuyên canh, vùng sản xuất hàng hoá tập trung, thuận lợi cho việc ứng dụng các tiến bộ kĩ thuật, cơ giới hoá, chuyển giao công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân bổ lại lao động nông thôn phù hợp với tiến trình CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống nông dân. 3.2. YÊU CẦU CẦN ĐẠT ĐƯỢC CỦA VIỆC DỒN ĐIỀN, ĐỔI THỬA ĐẤT NÔNG NGHIỆP 3.2.1. Phải làm tốt công tác tuyên truyền, vận động để nhân dân hiểu được lợi ích của dồn điền, đổi thửa và tự giác thực hiện Hiện nay, đại đa số nông dân nước ta dân trí còn thấp và nhận thức chưa đồng đều giữa các vùng; tính tự do, tư tưởng tiểu nông, bảo thủ còn khá nặng nề. Sự gắn kết giữa các hộ trong quá trình sản xuất chưa cao, thiếu tính cộng đồng, nhiều hộ nông dân bằng lòng với hiện tại, ngại khó, ngại thay đổi, thiếu ý chí vươn lên. Do vậy, khi đưa ra chủ trương DĐ, ĐT không dễ gì ngày một, ngày hai mà nhân dân đã thông suốt. Cho nên ở mỗi địa phương, đơn vị khi triển khai DĐ, ĐT phải làm tốt công tác tuyên truyền, vận động bằng nhiều hình thức để nhân dân ủng hộ. Phương thức tuyên truyền có thể thông qua các phương tiện như báo, tạp chí, đài truyền hình, các bài phân tích một cách cụ thể, khái quát, dễ hiểu. Song có lẽ thiết thực nhất là ở từng thôn, từng HTX NN phải dựa vào chi bộ và các tổ chức quần chúng để vận động. Phải thành lập Ban chỉ đạo DĐ, ĐT từ tỉnh đến cơ sở xã, thị trấn. Ban chỉ đạo các cấp cần phải xây dựng kế hoạch chỉ đạo, tổ chức họp với dân để nêu vấn đề, gợi ý để nông dân bàn bạc dân chủ. Chỉ khi nào người dân thấy rõ được lợi ích, tự giác thực hiện thì DĐ, ĐT mới thành công. Mặt khác cần phải dựa vào tính tiền phong gương mẫu của gia đình cán bộ, đảng viên, những cá nhân điển hình, tiên tiến làm hạt nhân. Đồng thời có thể tổ chức cho nông dân đi thăm quan những mô hình, địa phương đã làm tốt để nông dân thấy được lợi ích to lớn của việc DĐ, ĐT. Từ đó, chỉ cho nông dân thấy rõ cái gốc của vấn đề DĐ, ĐT đất nông nghiệp là đem lại lợi ích kinh tế lớn hơn cho chính người nông dân mà không phải tốn thêm chi phí sản xuất như trước DĐ, ĐT, thậm chí chi phí thấp hơn mà hiệu quả lại cao hơn. Bên cạnh đó còn phải chỉ cho nhân dân thấy được nông dân ta đã bao đời nay phải lao động cực nhọc, nhưng đời sống vẫn còn khó khăn, nông dân không thể giàu lên được nếu ta vẫn duy trì tình trạng ruộng đất manh mún như hiện nay. Có thực hiện DĐ, ĐT thì NN mới đưa được cơ giới hoá vào sản xuất từ đó mới giảm bớt được lao động cực nhọc, NN mới có điều kiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, phát triển sản xuất hàng hoá, làm giàu trên chính thửa ruộng của người nông dân. Có thực hiện DĐ, ĐT mới đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH từ đó NN Việt Nam mới đủ sức vươn lên cạnh tranh với NN của các nước trên thế giới và các quốc gia trong khu vực trong điều kiện kinh tế mở cửa và hội nhập hiện nay. 3.2.2. Phải tôn trong các quy định của pháp luật về đất đai và các chính sách của địa phương Trước hết phải tôn trọng Luật Đất đai, các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thực hiện Luật Đất đai do Nhà nước ban hành. Chấp hành tốt các chính sách chế độ quy định của địa phương, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở. Đặc biệt phải tôn trọng tiêu chuẩn diện tích đất nông nghiệp đã được chia theo Nghị định 64/CP của Chính phủ thời điểm 15/10/1993, bởi đất đã giao cho các hộ chính là tài sản của dân, là phương tiện chính để người dân kiếm kế sinh nhai hàng ngày. Đất NN đã được giao cho các hộ gắn chặt với quyền lợi, lợi ích của họ. Một khi lợi ích của các hộ không được đảm bảo thì DĐ, ĐT sẽ khó thành công. Bên cạnh đó phải tôn trọng những diện tích giữa các hộ đã chuyển nhượng hợp pháp cho nhau. Khi thực hiện DĐ, ĐT thì tiêu chuẩn cũ của hộ đã chuyển nhượng không được chia lại mà phải chia cho hộ nhận chuyển nhượng. Chủ động giải quyết những vấn đề tranh chấp đất đai theo đúng các quy định của pháp luật, vừa có lý, vừa có tình. Đồng thời, đây là vấn đề lớn có liên quan đến nhiều hộ dân, vì vậy phải thực hiện tốt Quy chế công khai dân chủ ở cơ sở, đảm bảo tính khách quan, không áp đặt, gò ép, nhất là công khai quy hoạch xây dựng, công thức quy đổi. Phương án DĐ, ĐT, phải được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Thực hiện cân đối quỹ đất và giao lại ruộng đất trên sơ đồ, bản đồ giải thửa trước sau đó mới giao trên thực địa. Thời điểm giao ruộng ngoài thực địa phù hợp nhất là sau khi thu hoạch xong cây vụ đông. Các vấn đề như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tài sản trên đất, giá trị đã đầu tư trên đất, các Hợp đồng kinh tế đang còn hiệu lực, khi chuyển đổi giữa các hộ với nhau cần được xem xét thận trọng, đầy đủ, chính xác, công bằng và tôn trọng các quy định của pháp luật có liên quan và quy định ở địa phương. 3.2.3. Sau dồn điền, đổi thửa chỉ còn 1-3 thửa/hộ, đồng thời phải gắn với quy hoạch lại đồng ruộng, phân vùng sản xuất, sắp xếp lại ngành nghề và lao động trong sản xuất nông nghiệp Hiện nay, khi chưa DĐ, ĐT mỗi hộ có quá nhiều thửa ruộng, ruộng lại nằm ở nhiều xứ đồng khác nhau. Do đó, khi DĐ, ĐT khuyến khích các hộ chỉ nhận 1 thửa, tối đa không quá 3 thửa, ruộng được chia lại phải gần nhau trên một xứ đồng. Trường hợp đặc biệt hộ gia đình chỉ có 1 khẩu thì thửa chia cho hộ đó có diện tích bằng diện tích bình quân một khẩu được chia thời điểm 15/10/1993. Do mục đích của DĐ, ĐT nhằm giảm tối thiểu số thửa và tăng tối đa diện tích trên thửa, cho nên trước khi thực hiện phải lập quy hoạch. Quy hoạch phải quan tâm hàng đầu đến phân vùng sản xuất, từ phân vùng sản xuất làm tiền đề cho quy hoạch lại hệ thống thuỷ lợi, giao thông nội đồng, hệ thống điện phục vụ sản xuất…Nhà nước cần quan tâm đầu tư kinh phí để thực hiện quy hoạch xây dựng các công trình sử dụng chung trên đồng ruộng nhất là giao thông nội đồng, hệ thống tưới, tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ trong quá trình sản xuất. Bên cạnh đó việc quy hoạch vùng sản xuất phải đảm bảo giúp cho nông dân chủ động lựa chọn mô hình sản xuất có hiệu quả hơn, phù hợp với khả năng, điều kiện, sở trường của họ. Chính điều này giúp cho việc sắp xếp lại ngành nghề trong nông thôn được thuận lợi, trên cơ sở đó sẽ khai thác và phát huy được tiềm năng của các làng nghề truyền thống, thúc đẩy phân công lại lao động trong xã hội. Mặt khác, để chuyển đổi được ngành, nghề thành công, các địa phương phải có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng kiến thức, nâng cao tay nghề cho nông dân, tạo lập thị trường cung cấp dịch vụ phục vụ sản xuất, tạo cơ hội việc làm cho lao động nhất là lao động dôi dư sau DĐ, ĐT khi mở rộng áp dụng cơ giới hoá, góp phần ổn định đời sống cho nông dân. 3.2.4. Dồn điền, đổi thửa phải đảm bảo đoàn kết tốt giữa các hộ, ổn định sản xuất và an ninh trên địa bàn DĐ, ĐT là việc làm phức tạp, vất vả, khó khăn, mất nhiều thời gian, kinh phí và liên quan đến tất cả các hộ nông dân. Các cấp uỷ đảng phải có Nghị quyết định hướng chỉ đạo, những chủ trương, chính sách phải được phổ biến, học tập, quán triệt thật tốt trong cán bộ đảng viên, Mặt trận Tổ quốc, hội viên các ngành đoàn thể. Thông qua các tổ chức chính trị, xã hội làm hạt nhân nòng cốt trong việc tuyên truyền, vận động các hộ nông dân tham gia DĐ, ĐT. Ngoài việc thành lập Ban Chỉ đạo DĐ, ĐT từ tỉnh đến xã, thị trấn phải thành lập Tiểu Ban Chỉ đạo theo từng thôn hoặc HTX NN sao cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa bàn. Trong các Tiểu Ban chỉ đạo cần mời đại diện hộ nông dân tham gia để đảm bảo tính khách quan. Cán bộ tham gia công việc này đòi hỏi phải lựa chọn những người có năng lực, hiểu biết, nhiệt tình, bền bỉ. Trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện, tránh tư tưởng chủ quan nóng vội, gò ép, cá nhân cục bộ. Chú ý quan tâm đến các gia đình chính sách, các hộ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Đồng thời phải biết lắng nghe, thu thập thông tin và xử lý thông tin kịp thời, đúng các quy định của pháp luật. Chủ động giải thích chủ trương để nhân dân được hiểu, đồng tình thực hiện, tránh gây bức xúc trong nhân dân. Xử lý nghiêm khắc các hành vi gian lận như dấu ruộng, gian lận diện tích, khai man nhân khẩu. Diện tích ruộng dôi dư sau khi DĐ, ĐT có thể do khai hoang, do diện tích bờ giảm tăng diện tích ruộng, do quỹ đất trước đây (1993) không chia, do thu hồi diện tích trước đây giao thừa nay mới phát hiện được, do không xác định được chủ sử dụng, người thừa kế,… đều được giao cho UBND xã, thị trấn quản lý. Khi giao lại ruộng đất phải lựa chọn thời điểm thích hợp không gây ảnh hưởng đến sản xuất. Sau khi giao ruộng xong cần khẩn trương hoàn thiện việc cấp mới giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để giúp các hộ nông dân yên tâm đầu tư sản xuất, có điều kiện để góp vốn bằng quỹ đất liên doanh sản xuất hoặc thế chấp bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất để vay vốn tại các tổ chức tín dụng trên địa bàn phục vụ sản xuất kinh doanh. Tiến hành tổ chức tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm gắn với công tác thi đua khen thưởng nhằm tìm ra bài học phục vụ cho sự chỉ đạo, khắc phục những yếu kém tồn tại trong quá trình tổ chức, thực hiện góp phần lành mạnh hoá quan hệ đất đai trong nông nghiệp, nông thôn, nông dân. 3.3. NHỮNG GIẢI PHÁP CHÍNH ĐỂ THỰC HIỆN DỒN ĐIỀN, ĐỔI THỬA Ở VĨNH PHÚC 3.3.1. Xây dựng chủ trương chính sách Đối với Vĩnh Phúc, do tốc độ thu hút đầu tư, phát triển công nghiệp quá nhanh so với mục tiêu Đại hội Đảng bộ tỉnh khoá XIV nhiệm kỳ 2005-2010 đã đề ra. Nhờ công nghiệp phát triển vượt bậc mà kinh tế của tỉnh phát triển với tốc độ cao, liên tục trong khoảng 10 năm qua. Hệ quả của nó là các lĩnh vực khác phát triển không theo kịp, đất đai biến động lớn, diện tích đất SXNN giảm mạnh, lao động trong NN dư thừa nhiều. Đại đa số những lao động trong NN không đáp ứng được trình độ, tay nghề, chuyên môn vì không có sự chuẩn bị trước về đào tạo. Để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển hài hoà giữa các lĩnh vực, đồng thời giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội, vấn đề môi trường, vấn đề lao động việc làm trong nông thôn thì tỉnh phải có chủ trương tác động tích cực đến khu vực nông thôn, nơi số đông dân cư sinh sống. Một trong những chủ trương thiết thực là điều chỉnh lại kế hoạch sử dụng đất đai một cách tốt nhất, trong đó có nội dung DĐ, ĐT. Đó cũng là điều mong mỏi của đại đa số nhân dân, đồng thời công nghiệp đã được NN dành đất cho phát triển nay phải có trách nhiệm quan tâm tác động trở lại để NN phát triển theo. Để DĐ, ĐT thành công trước hết phải ban hành các chủ trương chính sách cơ bản phù hợp với yêu cầu thực tế trước mắt và lâu dài đó là: + Tỉnh uỷ phải có Nghị quyết chuyên đề về DĐ, ĐT đất NN, Nghị quyết phải được phổ biến đến tất cả các chi bộ, nhằm đảm bảo có sự lãnh đạo của Đảng một cách nhất quán, xuyên suốt trong quá trình tổ chức, thực hiện để Nghị quyết đi vào cuộc sống một cách thiết thực; + UBND tỉnh phải xây dựng Kế hoạch, Đề án tổng thể về DĐ, ĐT trong toàn tỉnh; + Các cấp chính quyền phải xây dựng chương trình hành động, phát động trong toàn dân tham gia hưởng ứng một cách tích cực nhất, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội; + Xây dựng cơ chế hỗ trợ kinh phí cho công tác DĐ, ĐT bao gồm: Chi phí điều tra, khảo sát thực trạng ruộng đất; Đo đạc, in ấn bản đồ ruộng đất; Thiết lập hệ thống bản đồ địa chính một cách đồng bộ; Hỗ trợ người dân kinh phí cấp mới giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Hỗ trợ công chỉ đạo cho các xã, thị trấn theo định mức diện tích chuyển đổi; Đầu tư ngân sách cho xây dựng hoàn chỉnh hệ thống giao thông nội đồng, hệ thống kênh mương, hệ thống điện phục vụ sản xuất. + Khôi phục, xây dựng phát triển các làng nghề, ngành nghề mới, đào tạo nghề tiểu thủ công nghiệp cho lao động trong nông thôn. Có chính sách thu hút lao động nhất là những địa bàn đã và sẽ phải thu hồi đất sản xuất cho phát triển công nghiệp, tạo sự ổn định đời sống của nông dân trong khu vực nông thôn; +Thành lập Ban chỉ đạo DĐ, ĐT từ tỉnh đến các cơ sở và thành lập các Tiểu Ban chỉ đạo đến từng thôn để tổ chức, thực hiện. 3.3.2. Xây dựng kế hoạch tổng thể và các bước để tổ chức, thực hiện Để xây dựng được kế hoạch một cách sát thực cần phải căn cứ vào các chủ trương, các văn bản có tính chất pháp lý của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, phải có sự chuẩn bị trước về việc điều tra, khảo sát thực trạng ruộng đất hiện còn sau khi đã khoanh định những diện tích nằm trong diện quy hoạch cần phải thu hồi đất NN phục vụ cho chuyển mục đích sử dụng đối với các nhu cầu phi NN. Để kế hoạch DĐ, ĐT đạt được yêu cầu nhiệm vụ cần phải dựa vào các nội dung chính sau: + Căn cứ để xây dựng kế hoạch: - Căn cứ Nghị định 64/CP, ngày 27 tháng 9 năm 1993 của Chính phủ về việc giao đất NN cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích SXNN; - Căn cứ Nghị quyết TW 7 khoá X của Ban chấp hành TW Đảng về nông nghiệp, nông thôn, nông dân; - Căn cứ Nghị quyết 03/NQ-TU, ngày 27/12/2006 của Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc về nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống nông dân; - Căn cứ Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh về cơ chế hỗ trợ ngân sách cho công tác DĐ, ĐT; - Căn cứ chương trình hành động của UBND tỉnh về việc thực hiện chủ trương DĐ, ĐT đất NN; + Sự cần thiết phải thực hiện DĐ, ĐT đất NN Nội dung này phải thể hiện được các yêu cầu: - Đề cập được kết quả điều tra hiện trạng đất NN đến từng địa bàn theo thôn hoặc hợp tác xã nông nghiệp; - Đánh giá những ưu điểm, tồn tại của việc sử dụng đất hiện nay đối với từng địa phương; - Nêu được xu thế vận động của quan hệ đất đai hiện nay giữa các nông hộ sẽ dẫn tới tích tụ, tập trung ruộng đất; - Đề cập được kết quả bước đầu của một số mô hình DĐ, ĐT thành công và hiệu quả sử dụng đất sau DĐ, ĐT trên địa bàn tỉnh. + Mục đích, yêu cầu, nguyên tắc của DĐ, ĐT Xuất phát từ quan điểm đã nêu trên thì mục đích, yêu cầu và nguyên tắc DĐ, ĐT đất NN cần thực hiện là: - Thửa đất sau DĐ, ĐT có diện tích phải lớn hơn 400m2, đây là mức tiêu chuẩn bình quân diện tích đất NN trên một khẩu theo Nghị định 64/CP (trường hợp đặc biệt thì diện tích bằng tiêu chuẩn diện tích giao cho một khẩu); hộ nhiều nhất không quá 3 thửa, khuyến khích các hộ nhận 1 - 2 thửa; - Tập trung thực hiện triệt để DĐ, ĐT ở các xã đồng bằng, vùng trũng, những vùng có điều kiện đất đai tương đối đồng đều, bằng phẳng; Đơn vị thực hiện DĐ, ĐT là thôn, xóm, làng, bản; - Toàn bộ diện tích dôi dư trong quá trình DĐ, ĐT do khai hoang phục hoá, do giảm diện tích bờ thửa tăng diện tích ruộng, do giao thừa trước đây, do không còn người kế thừa hợp pháp đều được nhập vào quỹ đất II và giao cho UBND xã, phường, thị trấn quản lý; - Diện tích quỹ đất II do UBND xã quản lý trước đây và kể cả diện tích dôi dư như đã nêu trên nằm phân tán, rải rác ở nhiều xứ đồng, nay thực hiện DĐ, ĐT phải được tập trung về một khu vực theo từng đơn vị tham gia DĐ, ĐT. Đồng thời nên bố trí quỹ đất này gắn liền với các trục đường giao thông, gần khu dân cư, hoặc nơi dự kiến quy hoạch chuyển đổi mục đích sử dụng, chuyển thành đất thổ cư, nhằm thuận lợi cho việc thu hồi, bồi thường giải phóng mặt bằng khi cần thiết sau này; - Trong quá trình thực hiện DĐ, ĐT không được làm ảnh hưởng đến thời vụ hoặc gián đoạn sản xuất; - Quá trình thực hiện cần phải công khai, dân chủ, khách quan, đúng các quy định của pháp luật và các quy định của tỉnh. Tránh chủ quan nóng vội để xẩy ra sai phạm, tiêu cực, thất thoát quỹ đất, đảm bảo ổn định tình hình an ninh, trật tự ở địa phương; 3.3.3. Tổ chức thực hiện 3.3.3.1. Thành lập Ban chỉ đạo dồn điền, đổi thửa từ tỉnh đến cơ sở a. Cấp tỉnh + Trưởng Ban chỉ đạo: Do Phó Chủ tịch UBND tỉnh đảm nhiệm. Nhiệm vụ của Trưởng Ban chỉ đạo chịu trách nhiệm trước Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh chỉ đạo, điều phối, kiểm tra hoạt động của các thành viên Ban chỉ đạo, các Ban, Ngành cấp tỉnh và Ban chỉ đạo DĐ, ĐT cấp huyện, thị, chủ trì các cuộc họp thường kỳ và đột xuất của Ban chỉ đạo. + Phó trưởng Ban chỉ đạo: Giám đốc Sở Tài nguyên-Môi trường: Phó ban thường trực Nhiệm vụ: - Giúp Trưởng Ban giải quyết những công việc của Ban chỉ đạo, thay mặt Trưởng Ban làm việc với các ngành, các cấp có liên quan khi Trưởng Ban đi vắng hoặc được Trưởng Ban uỷ quyền; - Chủ trì dự thảo chương trình, kế hoạch công tác tháng, quý, năm, chuẩn bị nội dung báo cáo tại các buổi làm việc, hội nghị theo yêu cầu của Trưởng ban. - Giải quyết những công việc về chuyên môn nghiệp vụ trong quá trình DĐ, ĐT. Xây dựng đề cương hướng dẫn về trình tự, nội dung và phương pháp tiến hành công tác DĐ, ĐT cho cơ sở. Hướng dẫn và kiểm tra cơ sở hoàn thiện các thủ tục thu hồi và cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau DĐ, ĐT theo quy định của pháp luật. - Quản lý nguồn kinh phí hoạt động của Ban chỉ đạo theo đúng chế độ quy định; + Các thành viên Ban chỉ đạo: Gồm lãnh đạo các sở, ngành liên quan theo lĩnh vực chuyên môn của ngành được phụ trách. Cụ thể: - Sở Xây dựng chủ trì, phối hợp với sở Giao thông vận tải, Nông nghiệp - Phát triển nông thôn chịu trách nhiệm hướng dẫn, quy hoạch lại đồng ruộng, phân vùng sản xuất phù hợp với đất đai, truyền thống, tập quán canh tác của địa phương. Bố trí các công trình công cộng, hệ thống giao thông, thuỷ lợi, các công trình đầu mối quan trọng phục vụ cho sản xuất và phù hợp với quy hoạch chung của từng ngành và của cả tỉnh; - Sở Tài chính chủ trì, cùng sở Tài nguyên - Môi trường, sở Kế hoạch và Đầu tư, sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn lập dự toán kinh phí phục vụ công tác chỉ đạo cho cả 3 cấp tỉnh, huyện, xã, báo cáo UBND tỉnh xem xét quyết định; - Cục Thuế tỉnh hướng dẫn việc lập sổ bộ thuế mới sau khi DĐ, ĐT; - Sở Văn hoá - Thể thao, Đài Phát thanh- Truyền hình tỉnh, Báo Vĩnh Phúc, Cổng Thông tin điện tử của tỉnh, căn cứ chức năng, nhiệm vụ có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách của tỉnh trên hệ thống thông tin truyền thông để nhân dân hiểu và đồng tình hưởng ứng DĐ, ĐT. Kịp thời đưa tin những điển hình làm tốt vấn đề này để các địa phương tham quan học tập kinh nghiệm; - Mặt trận Tổ quốc tỉnh, Liên minh Hợp tác xã, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Cựu Chiến binh tỉnh phối hợp với các ngành, các cấp tham gia tuyên truyền, vận động hội viên tích cực, gương mẫu, tự giác tham gia DĐ, ĐT b. Cấp huyện, thị + Ban Thường vụ huyện ủy, Thị uỷ ra Nghị quyết chuyên đề về công tác DĐ, ĐT trên địa bàn; + UBND các huyện, thị trên cơ sở Kế hoạch của UBND tỉnh xây dựng kế hoạch cụ thể và giao chỉ tiêu kế hoạch thực hiện cho từng xã, thị trấn. + Thành lập Ban chỉ đạo cấp huyện, thị bao gồm: Bí thư Huyện uỷ làm Trưởng Ban chỉ đạo; Chủ tịch UBND huyện làm phó Trưởng Ban chỉ đạo; Thành viên Ban chỉ đạo là lãnh đạo các ngành: Tài nguyên - Môi trường, Nông nghiệp & Phát triển nông thôn; Tài chính - Kế hoạch; Công thương, Chi cục Thuế, Văn hoá - Thể thao, Đài Truyền thanh, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; + Giúp việc cho Ban chỉ đạo có các tiểu ban: - Tiểu Ban Chuyên môn: Chịu trách nhiệm chỉ đạo, duyệt quy hoạch lại đồng ruộng; lập dự toán kinh phí chi cho công tác chỉ đạo và hỗ trợ ngân sách cho các xã, thị trấn. Chỉ đạo chia lại ruộng đất trên sơ đồ và chia ngoài thực địa; Hướng dẫn các xã, thị trấn hoàn thiện thủ tục cấp mới giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi DĐ, ĐT trình chủ tịch UBND huyện phê duyệt. Chỉ đạo đầu tư xây dựng các công trình phục vụ sản xuất như giao thông nội đồng, hệ thống kênh mương, hệ thống điện… - Tiểu Ban tuyên truyền, vận động: DĐ, ĐT thành công hay không điều quan trọng nhất là công tác tuyên truyền, vận động nhân dân hiểu rõ lợi ích thiết thực của DĐ, ĐT. Do vậy, bằng mọi giá phải đặc biệt quan tâm đến công tác tuyên truyền, vận động, coi đây là nhiệm vụ tiên quyết. Trước hết, phải tổ chức học tập Nghị quyết của Đảng để toàn thể đảng viên trong từng chi bộ thấm nhuần và thông suốt chủ trương. Đồng thời phải vận động để gia đình các cán bộ, đảng viên tiên phong, gương mẫu thực hiện trước. Quá trình thực hiện cần nắm bắt kịp thời tư tưởng của nông dân, từ đó vận dụng các hình thức tuyên truyền, vận động cho phù hợp với từng đối tượng. Mặt khác, cần phải thông qua các tổ chức hội đoàn thể và các hội viên bằng nhiều hình thức, giúp hội viên hiểu được lợi ích của DĐ, ĐT để thực hiện được triệt để. c. Cấp xã, thị trấn: + Ban Chấp hành Đảng bộ xã, thị trấn họp bàn ra Nghị quyết chuyên đề về DĐ, ĐT; + Thành lập Ban chỉ đạo cấp xã, thị trấn: Trưởng Ban chỉ đạo: Bí thư Đảng uỷ xã, thị trấn. Phó trưởng Ban chỉ đạo là Chủ tịch UBND xã, thị trấn; Các thành viên Ban chỉ đạo là trưởng các ban, ngành, đoàn thể của xã, bí thư các chi bộ, trưởng thôn, chủ nhiệm các HTX NN. + Thành lập ở mỗi thôn một Tiểu Ban chỉ đạo do Bí thư Chi bộ làm Trưởng Tiểu ban, trưởng thôn là phó tiểu ban, các thành viên là trưởng các chi hội đoàn thể, trưởng ban công tác mặt trận của thôn, đội trưởng các đội sản xuất, đại diện một số hộ dân có tín nhiệm trong thôn; + Ban chỉ đạo cấp xã, thị trấn lập kế hoạch chi tiết ở địa phương theo từng thôn, xóm, xứ đồng, tổ chức họp dân công khai, dân chủ bàn bạc thống nhất phương án thực hiện. 3.3.3.2. Các bước tiến hành (ở cấp xã) Bước 1: Điều tra, thống kê thực trạng quản lý, sử dụng đất. + Từng đơn vị hành chính cấp xã cần tiến hành điều tra, thống kê, đánh giá tình hình quản lý và sử dụng đất NN, đi sâu phân tích, đánh giá về mức độ manh mún, phân tán trong việc giao đất cho các hộ gia đình, cá nhân trước đây, những khó khăn, cản trở đối với sản xuất. + Tiến hành đánh giá về công tác quy hoạch sử dụng đất NN, nhất là diện tích đất giành cho quỹ công ích, đất giao thông, thuỷ lợi nội đồng và đất xây dựng các cơ sở hạ tầng khác. + Đánh giá được hiệu quả trong công tác quản lý và sử dụng các quỹ đất, xây dựng kế hoạch và vận động nhân dân thực hiện công việc DĐ, ĐT sao cho nhanh, gọn và phù hợp với điều kiện cụ thể của từng thôn, đảm bảo các quy định của pháp luật, đảm bảo sự đoàn kết trong nội bộ nông thôn . Bước 2: Công khai quy hoạch sử dụng đất, thực hiện quy hoạch lại đồng ruộng: + Quy hoạch nông thôn mới, quy hoạch lại đồng ruộng, chuyển đổi cơ cấu kinh tế NN, nông thôn phải được công khai để dân biết, dân bàn và thực hiện. Qua đó mọi người dân nắm vững quy hoạch, nâng cao nhận thức và tham gia giám sát việc thực hiện, làm cho quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất mang tính khả thi cao. + Đặc biệt chú ý quy hoạch đất quỹ công ích phải tập trung theo thôn, HTX hoặc của toàn xã cho phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi để quản lý sử dụng quỹ đất này có hiệu quả cao. + Quy hoạch lại đồng ruộng để thuỷ lợi, giao thông đến mỗi thửa đất thuận tiện và chủ động nhất. Bước 3: Khoanh vùng ruộng đất, xác định hệ số quy đổi “ K”: + Việc xác định hệ số quy đổi “K” nhằm điều chỉnh diện tích giao đảm bảo công bằng trong sử dụng đất giữa các hộ gia đình, cá nhân. Người nhận ruộng xa hoặc ruộng xấu thì được nhiều diện tích hơn, người nhận ruộng gần, đất tốt hơn thì diện tích phải ít hơn, thông qua hệ số quy đổi “K” sẽ khắc phục được tâm lý trước đây muốn có ruộng cao - thấp, gần - xa, tốt - xấu, . + Trên cơ sở phương án chia, khoanh vùng đất tốt - xấu, gần - xa, cao - thấp cần dự kiến hệ số quy đổi “K” để nhân dân tham gia đóng góp ý kiến. Việc tính toán hệ số “K” chỉ mang tính chất gợi ý, quy định hệ số bằng bao nhiêu hoặc không tính hệ số do nhân dân bàn bạc, thảo luận và quyết định. Phương pháp xác định hệ số “K” cần đảm bảo nguyên tắc sau: - Phải dựa vào tính chất đất đai, vị trí địa lý, các điều kiện sản xuất từng vùng, hạng thuế để tính hệ số “K” cho cả vùng. Đảm bảo sau khi quy đổi theo hệ số “K” diện tích được DĐ, ĐT phải không thừa, không thiếu trong tổng số diện tích được đưa vào để DĐ, ĐT. - Các cấp uỷ Đảng, chính quyền và ngành chuyên môn không áp đặt mà chỉ hướng dẫn cách tính toán, quy đổi để nông dân bàn bạc và tự quyết định. Thửa đất sau khi DĐ, ĐT phải đạt diện tích tối thiểu trên 400m2 và hộ nhiều nhất tối đa không quá 3 thửa, khuyến khích các hộ chỉ nhận 1 thửa. Phương châm số thửa trên hộ càng ít càng tốt, diện tích thửa càng lớn càng tốt. Bước 4: Thực hiện chuyển đổi, dồn ghép (Lập phương án và giao đất tại thực địa): Tổ chức hướng dẫn các hộ gia đình cá nhân tiến hành thực hiện việc dồn, đổi theo phương pháp sau: + Các hộ đăng ký nội dung xin chuyển đổi để được giao đất ở địa điểm mới đáp ứng nhu cầu về sản xuất của hộ với Ban chỉ đạo dồn điền, đổi thửa DĐ, ĐT thôn, xóm hoặc HTX. + Căn cứ vào yêu cầu đăng ký của các hộ, Ban Chỉ đạo DĐ, ĐT tiến hành cân đối nhu cầu diện tích thông qua hệ số “K” cho tất cả các khu vực. Từ đó hoàn chỉnh phương án DĐ, ĐT, thông báo cho toàn thể các hộ biết để thống nhất làm cơ sở cho việc trình duyệt. Trường hợp do loại quỹ đất các vùng chuyên canh có hạn mà có nhiều hộ đăng ký, thì vận động các hộ tiếp tục điều chỉnh theo dự kiến của Ban Chỉ đạo DĐ, ĐT cho việc cân đối giữa các khu vực trong thôn; + Trên cơ sở phương án DĐ, ĐT đã được phê duyệt, Ban Chỉ đạo có trách nhiệm tổ chức cho các hộ bốc thăm theo từng khu vực đối với các hộ có chung nhu cầu ở cùng khu vực. Để đảm bảo không có sự so bì hoặc gây thắc mắc, mất đoàn kết nội bộ thì việc bốc thăm phải tiến hành 2 vòng, vòng 1 bốc thăm thứ tự được vào tham gia bốc thăm, vòng 2 các hộ sẽ bốc thăm vị trí đất theo quy hoạch. (Lưu ý: Mỗi lần bốc thăm cần phải có biên bản ký nhận của người tham gia bốc thăm). Sau đó tiến hành giao đất trên sơ đồ giải thửa mới và giao đất tại thực địa. Đồng thời làm trích lục bản đồ để các hộ ký nhận, làm cơ sở cho việc đo đạc, chỉnh lý, cập nhật hồ sơ địa chính cũng như việc cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ theo vị trí và diện tích mới. Bước 5: Chỉnh lý hoặc đo đạc mới bản đồ, cấp đổi giấy CN QSDĐ, lập hồ sơ địa chính mới: Thực hiện DĐ, ĐT tất yếu có sự thay đổi và biến động lớn về diện tích, hình thể và vị trí thửa đất của các hộ, gia đình tham gia. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ yên tâm, phấn khởi khi thực hiện DĐ, ĐT, đòi hỏi phải chỉnh lý kịp thời hoặc đo vẽ lại bản đồ địa chính theo hướng dẫn của Sở Tài nguyên- Môi trường và theo quy định của Pháp luật đất đai. Trong khi chưa có điều kiện đo, vẽ, lập bản đồ mới, cần tiến hành đo, trích thửa, sau đó chỉnh lý lại trên nền bản đồ đã có. Việc đo, vẽ, trích thửa phải được các hộ ký nhận, làm cơ sở cho việc chỉnh lý bản đồ và cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hoàn thiện hệ thống hồ sơ địa chính sau này. 3.3.3.3. Một số điểm cần lưu ý + Đối với các địa phương do có khó khăn không thực hiện DĐ, ĐT nhưng cần tiến hành bước 1 và bước 2 như trên, sau đó chỉ vận động, tuyên truyền để nhân dân tự giác thực hiện sao cho các thửa đất của mỗi hộ gia đình, cá nhân gần nhau nhất. + Ngoài huyện Yên Lạc đã cơ bản thực hiện xong công tác DĐ, ĐT, các huyện thị còn lại chọn làm điểm từ 2 đến 3 xã, từ đó rút kinh nghiệm triển khai đồng loạt ở tất cả các địa phương. Phấn đấu hoàn thành công tác DĐ, ĐT trên địa bàn toàn tỉnh trong năm 2011- 2012; + Để khắc phục tình trạng phân tán quỹ đất công ích của các địa phương trước đây đã giao vào chung một thửa với quỹ đất của hộ gia đình từ khi thực hiện Nghị định 64/CP. Trước khi tính toán hệ số quy đổi “K” và xây dựng phương án DĐ, ĐT phải để lại quỹ đất công ích thành một khu theo thôn xóm, HTX hoặc theo xã. Đồng thời, không tính phần diện tích đất dành cho thực hiện quy hoạch hạ tầng đồng ruộng (hệ thống giao thông, thuỷ lợi nội đồng mới quy hoạch lại). Sau khi tính toán và cân đối diện tích đem chia, nếu còn dư diện tích thì bổ sung vào quy đất công ích để bù lại diện tích đất công ích đã chuyển mục đích trong quy hoạch được cấp có thẩm quyền phê duyệt. + Trong quá trình thực hiện không đặt vấn đề giải quyết các tồn tại với xử lý trách nhiệm các cá nhân khi thực hiện Nghị định 64/CP, không gắn việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai với DĐ, ĐT. + Đối với quỹ đất NN đã được quy hoạch chuyển sang các mục đích phi NN như xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội và khu dân cư thì tôn trọng quy hoạch được duyệt. Trong thời gian chưa thực hiện quy hoạch, địa phương có thể cho thuê hoặc đấu thầu để sản xuất. Nhưng thời gian phải phù hợp với quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất. Các hộ gia đình, cá nhân được giao, cho thuê quỹ đất này phải tuân thủ quy định của Pháp luật về quản lý quỹ đất công. + Đối với đất của các địa phương được quy hoạch cho phát triển công nghiệp, dịch vụ, du lịch và đô thị mới tập trung, các địa phương cần khoanh định lại và không tiến hành thực hiện DĐ, ĐT ở những khu vực này. - Song song với DĐ, ĐT, các địa phương cần tích cực vận động chuyển dịch cơ cấu lao động, ngành nghề. Khuyến khích các hộ có điều kiện chuyển đổi sang ngành nghề khác, chuyển nhượng lại quyền sử dụng đất cho các hộ có nhu cầu để đẩy nhanh tích tụ ruộng đất, tạo điều kiện phát triển NN theo hướng sản xuất hàng hoá tập trung. + Căn cứ vào phương pháp chung như trên, tuỳ theo điều kiện, các địa phương cần cụ thể hoá, chi tiết từng bước đi thích hợp để áp dụng cho địa phương mình sao cho đạt được hiệu quả cao nhất. + Thời điểm giao ruộng ngoài thực địa thích hợp nhất là sau khi thu hoạch cây vụ đông, có như vậy mới không ảnh hưởng đến thời vụ hoặc làm gián đoạn sản xuất. 3.3.4. Hỗ trợ ngân sách để thực hiện dồn điền, đổi thửa Trong những năm vừa qua Đảng và Nhà nước ta có đưa ra chủ trương khuyến khích các địa phương DĐ, ĐT nhưng nhìn chung cho đến nay hầu hết các địa phương trong cả nước kết quả đạt được còn rất hạn chế. Những nguyên nhân làm cho DĐ, ĐT đạt kết quả thấp là do: + DĐ, ĐT là một việc làm khó khăn và phải mất thời gian trong khoảng 12 -18 tháng, các địa phương không có khả năng đầu tư kinh phí cho công tác này; + Do thiếu quyết tâm chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền; + Đối với người tham gia chỉ đạo DĐ, ĐT ở cơ sở vì họ là người không có lương, nên phải chi công bằng tiền cho họ. Nhưng qua tìm hiểu các địa phương đã tổ chức DĐ, ĐT hầu như không có chi phí gì hoặc nếu có chỉ rất thấp nên không ai muốn tham gia. Vì vậy để DĐ, ĐT được thành công thì dứt khoát Nhà nước phải đầu tư kinh phí cho công tác này. Mức đầu tư nên tính theo hecta dồn, đổi. Kinh phí chi cho dồn, đổi chủ yếu phục vụ các hội nghị quán triệt, tập huấn cho lãnh đạo xã thị trấn, cán bộ chuyên môn, chi công cho Ban chỉ đạo vận động, tuyên truyền chi phí cho họp dân, đo đạc khảo sát, in ấn tài liệu, bản đồ, lập sổ bộ thuế, cấp mới giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thi đua khen thưởng… Riêng đầu tư cho công trình giao thông nội đồng, cứng hoá kênh mương sẽ đầu tư theo từng dự án cụ thể. Hiện nay huyện Yên Lạc đã DĐ, ĐT xong, Thành phố Vĩnh Yên, thị xã Phúc Yên diện tích đất canh tác còn rất ít không đặt vấn đề dồn, đổi, 5 huyện còn lại phải thực hiện DĐ, ĐT. Theo thống kê, khảo sát sơ bộ hiện nay trên địa bàn Vĩnh Phúc diện tích cần dồn, đổi là: Tổng số toàn tỉnh: 23.112 ha Trong đó: 1 Huyện Vĩnh tường: 5.897 ha 2 Huyện Bình xuyên: 1.609 ha 3 Huyện Tam đảo: 4.389 ha 4 Huyện Tam dương: 3.400 ha 5 Huyện Lập thạch: 7.817 ha (gồm cả Sông Lô) Theo dự toán sơ bộ để DĐ, ĐT hoàn thành 1 ha đất NN chi phí hết khoảng 2.000.000VNĐ. Trong đó: Chi cho cấp tỉnh 150.000đ/ha; chi phí cấp huyện 250.000đ/ha; Chi cho cấp xã, thị trấn 1.600.000đ/ha. Để giúp các địa phương chủ động thực hiện DĐ, ĐT ngân sách tỉnh nên cấp ứng ngân sách cho các địa phương 50% dự toán, số còn lại sẽ cấp khi hoàn thành. Căn cứ vào số diện tích và định mức trên đây thì kinh phí toàn tỉnh dự kiến đầu tư cho DĐ, ĐT là: Tổng số tiền: (23.112 ha) x ( 2.000.000đ/ha) = 46.224.000000đ Trong đó chia ra: Ban chỉ đạo tỉnh: (23.112ha) x (150.000đ/ha) = 3.466.800.000đ Ban chỉ đạo các huyện: ( 23.112ha) x (250.000đ/ha) = 5.778.000.000đ Ban chỉ đạo các xã, thị trấn: (23.112ha) x(800.000đ/ha) = 36.979.200.000đ Với số tiền trên 46,2 tỷ đồng thì khả năng ngân sách của tỉnh Vĩnh Phúc hoàn toàn có khả năng đáp ứng được cho công tác DĐ, ĐT. Nếu được đầu tư đầy đủ chắc chắn rằng DĐ, ĐT ở Vĩnh Phúc sẽ thành công. SXNN sẽ có điều kiện phát triển theo hướng CNH,HĐH tốt hơn, hiệu quả sử dụng đất sẽ được nâng cao. KẾT LUẬN Trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước hiện nay, vấn đề hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ không thể tách rời trong sự nghiệp chung ấy. Muốn CNH,HĐH nông nghiệp thì trước hết và cốt lõi phải quan tâm đến vấn đề đất đai trong đó có nội dung DĐ, ĐT. DĐ, ĐT đất NN là một vấn đề vừa mang tính phổ biến, vừa mang tính đặc thù. Đây là vấn đề không mới nhưng cũng không hẳn dễ dàng thực hiện. Tính phổ biến thể hiện ở chỗ: Đây là vấn đề mà cả nước đều phải quan tâm giải quyết trong quá trình hiện đại hoá đất nước, nhằm chuyển biến nền NN truyền thống sang nền SXNN hiện đại theo hướng CNH,HĐH. Còn tính đặc thù thể hiện ở chỗ: Do hoàn cảnh lịch sử để lại từ khi thực hiện Nghị định 64/CP, mà hệ quả của nó chính là tính 2 mặt của việc giao ruộng đến hộ ổn định lâu dài. Ngoài mặt tích cực của việc giao ruộng đến hộ nông dân thì nước ta hiện đang phải đối mặt là tình trạng ruộng đất manh mún, phân tán không thể đáp ứng được yêu cầu của sản xuất lớn theo hướng CNH,HĐH. Tính đặc thù còn thể hiện ở chỗ mỗi địa phương, mỗi tỉnh lại có sự khác nhau về các điều kiện tự nhiên, về cách tiếp cận vấn đề và sự quyết tâm trong chỉ đạo và sự hưởng ứng của nhân dân. Vấn đề DĐ, ĐT trong điều kiện hiện nay cũng gần giống như trước đây lựa chọn việc giao đất đến hộ gia đình. Khi đất đai chưa được giao đến hộ gia đình thì NN vẫn trong vòng luẩn quẩn không phát triển được. Chỉ từ khi đất đai được giao đến hộ gia đình thì NN có sự khởi sắc, đời sống của nông dân được cải thiện và nâng cao. Ở thời điểm năm 1993, giao ruộng đến hộ gia đình là chủ trương đúng đắn. Việc làm đó đã phát huy được tác dụng, hiệu quả kinh tế của đất đai, lao động trong NN. Nhưng đến thời điểm hiện nay, trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới thì việc giao ruộng đến hộ gia đình, xét trên cả phương diện lý luận và thực tiễn là vẫn cần thiết. Song nội dung này cần phải được thay đổi về chất, nghĩa là phải khắc phục càng sớm, càng tốt tình trạng ruộng đất manh mún, phân tán mới đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH,HĐH nông nghiệp. Vì vậy vấn đề DĐ, ĐT đặt ra trong thực tiễn là một tất yếu khách quan đòi hỏi các cấp uỷ đảng chính quyền cần sớm có quyết sách mạnh dạn thay đổi về chính sách đất đai nói chung và DĐ, ĐT nói riêng mới đáp ứng được yêu cầu của sản xuất lớn. Phát triển NN là vấn đề lớn, bao trùm hầu hết khoảng 70-75% số dân. Nếu cho rằng NN của chúng ta đã cơ bản được giải quyết, đảm bảo cung cấp đủ lương thực và thực phẩm cho xã hội thì chưa toàn diện. Vì hiện nay nông dân vẫn là khu vực khó khăn, yếu thế so với các khu vực khác trong xã hội, người nghèo tập trung chính vẫn ở khu vực nông thôn. Sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội đã tạo ra khoảng cách ngày càng xa trong đời sống giữa nông thôn với thành thị, giữa lao động NN với lao động phi NN. Những diễn biến trong xã hội như đã nêu, phần nào đó làm cho tư tưởng của nông dân chưa thật sự tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước trước tình hình hiện nay. Với bản tính cần cù, không cam chịu đói, nghèo nhiều hộ nông dân tự phát dồn, đổi đất NN với mong muốn vươn lên làm giàu. Và nếu như vấn đề này được quan tâm kịp thời, thoả đáng tiếp thêm sức cho họ thì người được hưởng lợi trong xã hội sẽ là số đông nông dân. Đồng thời, công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo hơn 20 năm qua được bắt đầu từ NN, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng trân trọng và tự hào. Vì vậy, đây chính là lý do quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta cần quan tâm, phải coi đó là một chiến lược trong sự nghiệp tiếp tục chấn hưng đất, nước bằng con đường “ dân giàu , nước mạnh”, thông qua DĐ, ĐT đất NN. Để làm tốt vấn đề này, trước hết phải thống nhất về mặt nhận thức, về sự cần thiết, tầm quan trọng và ý nghĩa của DĐ, ĐT. Nếu vấn đề này không được quan tâm giải quyết thì tình trạng ruộng đất manh mún như hiện nay sẽ trở thành yếu tố cản trở sự nghiệp CNH,HĐH nông nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế xã hội nói chung. Đảng, Nhà nước cần có Nghị quyết chuyên đề và văn bản pháp quy cụ thể về DĐ, ĐT từ Trung ương đế cơ sở. Về giải pháp để tổ chức, thực hiện chủ trương DĐ, ĐT, tuỳ vào điều kiện cụ thể của từng địa bàn mà lựa chọn thời điểm, quy mô thích hợp. Nhưng nhất thiết phải có sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và có sự đầu tư cho NN từ ngân sách nhà nước. Đối với Vĩnh Phúc, nếu đầu tư thoả đáng về ngân sách cho DĐ, ĐT cũng là phương châm ứng xử hoàn toàn phù hợp đúng đắn. Bởi một khi công nghiệp đã được NN dành đất cho sự phát triển, tạo ra nhiều nguồn thu cho ngân sách, nay công nghiệp phải có nghĩa vụ trở lại phục vụ cho NN phát triển. Đồng thời, cũng phải coi việc đầu tư cho DĐ, ĐT chính là sự đầu tư gián tiếp cho việc thay đổi cơ cấu sản xuất trong nội ngành NN. Từ đó tạo điều kiện chuyển đổi cơ cấu và phân công lại lao động xã hội, từng bước giảm khoảng cách về thu nhập giữa các khu vực trong xã hội. Quá trình thực hiện phải đặt việc DĐ, ĐT gắn với việc giải quyết đồng bộ các vấn đề chung về phát triển kinh tế, xã hội. DĐ, ĐT đất NN ở Việt Nam nói chung và ở Vĩnh Phúc nói riêng là vấn đề vừa cũ, vừa mới, vừa mang tính cấp thiết vừa mang tính lâu dài. DĐ, ĐT không phải là công việc riêng của ngành NN và của riêng người nông dân, mà chính là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị. Đây cũng là việc làm khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ tâm huyết, có trình độ, am hiểu về chủ trương chính sách và các quy định của pháp luật, kết hợp tốt với sự nhận thức đúng đắn và đồng tình hưởng ứng của các hộ nông dân. Chỉ khi nào đạt được sự thông suốt từ trong Đảng đến người nông dân thì DĐ, ĐT sẽ thành công. Trong quá trình học tập, nghiên cứu để xây dựng bản luận văn này không thể tránh khỏi những hạn chế, khiếm khuyết, cá nhân học viên luôn mong nhận được sự chỉ bảo, giúp đỡ của Hội đồng Khoa học Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, cùng sự tham gia, góp ý của các nhà khoa học và các nhà quản lý quan tâm đến vấn đề này. /. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Chấp hành Trung ương (2008), Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành TW khoá X đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 về nông nghiệp, nông thôn, nông dân. 2. Ban Quản lý Các khu công nghiệp và Thu hút đầu tư Vĩnh Phúc (2008), Báo cáo tổng hợp thu hút đầu tư phát triển công nghiệp Vĩnh Phúc qua các năm 1997-2008, Kế hoạch phát triển các Khu công nghiệp đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. 3. Báo Bắc Ninh ngày 18.5.2009. 4. Nguyễn Văn Bích và Chu Tiến Quang (1996), Chính sách kinh tế và vai trò của nó đối với phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 5. Bộ Chính trị (1988), Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 5/4/1988 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế NN (gọi tắt là Khoán 10). 6. Bộ Chính trị (1988), Chỉ thị số 47/CT-TW, ngày 31/08/1988 về việc giải quyết một số vấn đề cấp bách về ruộng đất. 7. Bộ Tư Pháp (2005), Những điều cần biết về Luật Đất đai, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 8. Chính phủ (2004), Nghị định số 64/CP, ngày 27/9/2003 của Chính phủ quy định về việc giao đất nông nghiệp đến hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào sản xuất nông nghiệp. 9. Cục Thống kê Vĩnh Phúc (1997), Niên giám thống kê 1990-1996 tỉnh Vĩnh Phúc. 10. Cục Thống kê Vĩnh Phúc (1999). Niên giám thống kê 1998 tỉnh Vĩnh Phúc. 11. Cục thống kê Vĩnh Phúc (2001), Niên giám thống kê 2000 tỉnh Vĩnh Phúc. 12. Cục thống kê Vĩnh Phúc (2008), Niên giám thống kê 2007 tỉnh Vĩnh Phúc. 13. Cục thống kê Vĩnh Phúc (2009), Niên giám thống kê 2008 tỉnh Vĩnh Phúc. 14. Trần Tử Cường (2006), Tăng cường vai trò quản lý đất đai của nhà nước trong quá trình đô thị hoá ở Thành phố Hà Nội, Luận án tiến sỹ, Trường Đại học KTQD Hà Nội. 15. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc (2005), Văn kiện Đại hội lần thứ XIV nhiệm kỳ 2005-2010. 16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 20. Hội đồng Bộ trưởng (1988), Chỉ thị số 67/HĐBT ngày 20/4/1988 của Hội đồng Bộ trưởng về việc triển khai thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp. 21. Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam (1998), Phát triển nông thôn theo hướng CNH- HĐH, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 22. Nguyễn Đình Kháng - Nguyễn Văn Phúc (2000), Một số vấn đề lý luận của Các Mác và Lênin về địa tô ruộng đất, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 23. Nguyễn Đình Kháng (2008), Cơ sở lý luận và thực tiễn tiếp tục hoàn thiện chính sách đất đai ở Việt Nam hiện nay, Nxb Lao động, Hà Nội. 24. C.Mác và Ph.Ăngghen (2002), Toàn tập, tập 25, phần II, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 25. Nguyễn Xuân Nguyên (1995), Khuynh hướng phân hoá hộ nông dân trong phát triển hàng hoá, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 26. Vũ Oanh (1998), Nông nghiệp, nông thôn trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, dân chủ hoá, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 27. Phùng Hữu Phú - Nguyễn Viết Thông - Bùi Văn Hưng (2008), Vấn đề nông nghiệp - nông dân- nông thôn- kinh nghiệm Việt Nam, kinh nghiệm Trung Quốc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 28. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1995), Luật Đất đai 1993, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 29. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2001), Luật Đất đai sửa đổi, bổ sung năm 1998 và năm 2001, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 30. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Luật Đất đai năm 2003, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 31. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2005), Luật Đầu tư 2005, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 32. Trần Trọng Sâm (2008), Vấn đề tam nông ở Trung Quốc, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội. 33. Sở Kế hoạch và Đầu tư Vĩnh Phúc (2006), Kế hoạch tổng thể phát triển Kinh tế xã hội tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 1997 đến 2010, từ 2011 đến 2015 và tầm nhìn đến 2025. 34. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Vĩnh Phúc (2008), Báo cáo tổng hợp kết quả sản xuất nông nghiệp giai đoạn 1998-2008 và kế hoạch phát triển nông nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2015. 35. Sở Tài nguyên - Môi trường Vĩnh Phúc (2006), Kết quả kiểm kê đất đai năm 2005 tỉnh Vĩnh Phúc. 36. Sở Tài nguyên - Môi trường Vĩnh Phúc (2008), Báo cáo tổng hợp kết quả dồn điền đổi thửa tỉnh Vĩnh Phúc đến 2007. 37. Tạp chí Địa chính và Thanh tra Tổng cục địa chính (1997), Các văn bản pháp quy về quản lý đất đai ban hành ở Việt Nam từ 1945 đến năm 1979, Tập I, Nxb Bản đồ, Hà Nội. 38. Tạp chí Địa chính và Thanh tra Tổng cục Địa chính (1997), Các văn bản pháp quy về quản lý đất đai ban hành ở Việt Nam từ 1980 đến năm 1997, tập II, Nxb Bản đồ, Hà Nội. 39. Tạp chí Địa chính (2002), Các văn bản pháp quy về quản lý đất đai ban hành ở Việt Nam từ 1998 đến năm 2001, tập III, Nxb Bản đồ, Hà Nội. 40. Thủ tướng Chính phủ (2002), Quyết định số 94/2002/QĐ-TTg, ngày 17/7/2002 về chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX. 41. Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2001-2005. 42. Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2005-2010. 43. Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc (2006), Nghị quyết số 03-NQ/TU, ngày 27/12/2006 về phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống nông dân. 44. Trạm Nông hoá Vĩnh Phúc (2005), Báo cáo tổng hợp tài nguyên đất tỉnh Vĩnh Phúc. 45. Hồng Vinh (chủ biên) (1998), Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 46. Website: Cục Hợp tác xã & PTNT: www.dcrd.gov.vn; 47. Website: www.kinhtenong thon.com.vn: Báo Điện tử Kinh tế Nông thôn. 48. Website: www.laocai.egov.vn: Cổng Thông tin điện tử tỉnh Lao Cai. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DỒN ĐIỀN, ĐỔI THỬA ĐẤT NÔNG NGHIỆP 9 1.1 Đất nông nghiệp và vai trò của đất nông nghiệp đối với quá trình sản xuất. 9 1.2 Sự cần thiết phải dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng. 18 1.3 Cơ sở lý luận và vai trò của dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp. 29 Chương 2: THỰC TRẠNG DỒN ĐIỀN, ĐỔI THỬA ĐẤT NÔNG NGHIỆP Ở VĨNH PHÚC NHỮNG NĂM QUA 35 2.1. Đặc điểm tự nhiên; kinh tế - xã hội tỉnh Vĩnh Phúc 35 2.2. Tình hình sử dụng đất nông nghiệp và kết quả sản xuất nông nghiệp ở Vĩnh Phúc những năm qua 43 2.3. Những chủ trương, biện pháp của Đảng, Nhà nước và một số kết quả thực hiện dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp trong thời gian qua 56 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP THỰC HIỆN TỐT VIỆC DỒN ĐIỀN, ĐỔI THỬA ĐẤT NÔNG NGHIỆP Ở VĨNH PHÚC 74 3.1. Những quan điểm cơ bản 74 3.2. Yêu cầu cần đạt được của việc dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp 78 3.3. Những giải pháp chính để dồn điền, đổi thửa đất nông nghiệp ở Vĩnh Phúc 82 KẾT LUẬN 96 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99 PHỤ LỤC 102 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN CNH, HĐH : Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CNXH : Chủ nghĩa xã hội DĐ, ĐT : Dồn điền, đổi thửa HĐND : Hội đồng nhân dân HTX : Hợp tác xã NN : Nông nghiệp QHSX : Quan hệ sản xuất SXNN : Sản xuất nông nghiệp TLSX : Tư liệu sản xuất TW : Trung ương UBND : Uỷ ban nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN Bảng 2.1: Tỷ lệ hộ nghèo trên địa bàn Vĩnh Phúc từ 2002-2008 38 Bảng 2.2: Cơ cấu kinh tế tỉnh Vĩnh Phúc qua các năm kể từ sau tái lập tỉnh 1997 38 Bảng 2.3: Tổng hợp tốc độ tăng GDP, thu chi ngân sách, thu nhập bình quân đầu người một số năm sau tái lập tỉnh 1997 39 Bảng: 2.4: Giá trị công nghiệp theo giá thực tế phân theo thành phần kinh tế từ 2004-2008 trên địa bàn Vĩnh Phúc 39 Bảng 2.5: Tổng hợp số thu ngân sách 5 năm (2004-2008) từ nguồn thu thuế xuất, nhập khẩu trên địa bàn Vĩnh Phúc 42 Bảng 2.6: Tổng hợp diện, tích cơ cấu loại các đất trên địa bàn Vĩnh Phúc 46 Bảng 2.7: Thống kê biến động đất sản xuất nông nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc 1998 2008 47 Bảng 2.8: Tổng hợp phân bố đất sản xuất nông nghiệp các huyện, thị trong tỉnh Vĩnh Phúc 48 Bảng 2.9: Giá trị sản xuất nội ngành nông nghiệp theo giá thực tế qua các năm ở tỉnh Vĩnh Phúc 49 Bảng 2.10: Cơ cấu giả trị sản xuất nội ngành nông nghiệp theo giá thực tế qua các năm 49 Bảng 2.11: Tốc độ phát triển nội ngành nông nghiệp qua các năm 50 Bảng 2.12: Tổng hợp diện tích gieo trồng hàng năm từ 2004-2008 51 Bảng 2.13: Diện tích, năng suất, sản lượng lúa một số năm từ khi tái lập tỉnh 51 Bảng 2.14: Diện tích, năng suất, sản lượng ngô một số năm từ khi tái lập tỉnh 52 Bảng 2.15: Số lượng gia súc, gia cầm toàn tỉnh qua các năm 53 Bảng 2.16: Sản lượng sản phẩm chăn nuôi cung cấp cho thị trường 53

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf3_2904.pdf
Luận văn liên quan