Đồng tiền chung Châu Âu Euro: Được và mất trong tình hình tài chính quốc tế hiện tại và khả năng hình thành đồng tiền chung ASEAN

Từ năm 2000 đến nay, kinh tế thế giới luôn trải qua nhiều biến động. Bắt đầu từ sự phá sản của WorldCom năm 2003, Mardoff với vụ lừa đảo lịch sử 65 tỷ USD năm 2005, và lớn nhất là khủng hoảng tín dụng Mỹ năm 2007. Tiếp đó là sự sụp đổ của đế chế Lehman Brothers, cùng khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2009. Trong giai đoạn này, GDP của 15 nước sử dụng đồng tiền chung EURO đạt mức âm, đánh dấu sự suy thoái đầu tiên trong lịch sử hình thành khu vực gần một thập kỷ qua. Bước sang năm 2010, tuy ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế đã tạm lắng nhưng lại trỗi lên nhiều biến động. Cuộc khủng hoảng nợ công bùng nổ vào cuối năm 2009 tại Hy Lạp đã lan sang các nước khác trong khu vực đồng tiền chung châu Âu trong năm 2010. Sau Hy Lạp và Ireland, các nước Tây Ban Nha, Bỉ, Bồ Đào Nha và Italia được dự báo có thể là những nạn nhân tiếp theo. Nhiều quốc gia châu Âu đã phải tiến hành các biện pháp thắt lưng buộc bụng, gây ra làn sóng bất bình trong dân chúng. Sự chấn động này làm cho các nhà phân tích tài chính trên toàn thế giới phải xem xét đánh giá lại tác dụng của việc cân nhắc giá trị của đồng tiền chung Euro và kiểu mẫu mô hình liên minh tiền tệ của EU. Trong bối cảnh các nước phát triển hàng đầu thế giới như Mỹ, Nhật, Châu Âu đang trên đà chững lại thì ở bên bờ Viễn Đông xa xôi, một nhóm các nước ASEAN nhỏ bé nhưng đầy năng động và tiềm lực phát triển cũng đang xem xét đặt mục tiêu tạo ra một cộng đồng theo kiểu Liên minh Châu Âu EU với đồng tiền chung vào năm 2015 để đối phó với khủng hoảng kinh tế đang lan rộng. Khu vực ASEAN luôn đóng vai trò động lực phát triển của châu Á trong nhiều năm qua, đặc biệt trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế và hậu suy thoái. Không những thế, ASEAN còn đóng vai trò tích cực vào việc duy trì hòa bình và ổn định khu vực, thể hiện vai trò là thành viên có trách nhiệm trong việc ứng phó với những thách thức toàn cầu đang nổi lên hiện nay. Tuy nhiên, sự hội nhập hoàn toàn về kinh tế bằng việc xóa bỏ rào cản thương mại, và việc ra đời một đồng tiền chung trong khu vực ASEAN cần một hành trình dài. Do đó, nhóm chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu: “Đồng tiền chung châu Âu Euro: Được và mất trong tình hình tài chính quốc tế hiện tại và khả năng hình thành đồng tiền chung ASEAN” nhằm tìm hiểu lợi ích, khó khăn và rút ra những bài học kinh nghiệm cần thiết từ EU từ đó đánh giá khả năng hình thành đồng tiền chung của khu vực ASEAN và đề xuất những giải pháp cơ bản tạo nền tảng cho sự hình thành một liên minh cấp cao ở khu vực, liên minh tiền tệ ASEAN.

doc76 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3413 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đồng tiền chung Châu Âu Euro: Được và mất trong tình hình tài chính quốc tế hiện tại và khả năng hình thành đồng tiền chung ASEAN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
như nhanh chóng tịch thu và trả về nước số tài sản đó. Trách nhiệm đoàn thể Tiến hành các biện pháp có hiệu lực nhằm nâng cao trách nhiệm đoàn thể trên cơ sở các chuẩn mực quốc tế hiện hành thông qua: Tăng cường công tác tổ chức đoàn thể hiệu quả và tạo cơ chế kiểm soát trong nội bộ công ty như một bộ quy tắc ứng xử, thiết lập các kênh liên lạc, bảo vệ những nhân viên tố giác tham nhũng và đào tạo nhân sự. Ban hành và thực thi hiệu quả các quy định ngăn chặn bất cứ hành vi hối lộ gián tiếp hay tiếp tay cho hành vi hối lộ như khấu trừ thuế trên tài sản hối lộ. Ban hành và triển khai triệt để các quy định về đảm bảo tính minh bạch, công khai sổ sách kế toán của công ty, trong đó có các hình phạt hiệu quả, tương xứng và có tác dụng răn đe đối với các trường hợp không hoàn thành nhiệm vụ hoặc làm giả tài liệu vì mục đích mua chuộc một quan chức, hay che giấu việc hối lộ. Xem xét các luật và quy định điều chỉnh các giấy phép công, các hợp đồng mua sắm của cơ quan nhà nước hoặc các dịch vụ kinh doanh công khác. Trong các giao dịch ký kết hợp đồng khu vực dịch vụ công, nếu phát hiện có hiện tượng hối lộ và nhận hối lộ, tổ chức đoàn thể có quyền huỷ bỏ các hợp đồng này. 2.2.2.3. Ủng hộ vai trò tích cực của công chúng Thảo luận rộng rãi trong dân chúng về tham nhũng Thực hiện các biện pháp hiệu quả nhằm khuyến khích các cuộc thảo luận rộng rãi trong công chúng về nạn tham nhũng thông qua: Khởi động các chiến dịch nhận thức về tham nhũng ở nhiều cấp khác nhau Ủng hộ các tổ chức phi chính phủ chống tham nhũng bằng những cách như nâng cao nhận thức về tham nhũng và hậu quả của nó, huy động sự ủng hộ của công dân đối với một chính phủ trong sạch, cung cấp tư liệu và báo cáo về các trường hợp tham nhũng. Chuẩn bị và tiến hành các chương trình giáo dục nhằm mục đích hình thành một "văn hoá chống tham nhũng". Tiếp cận thông tin Đảm bảo rằng công chúng và các phương tiện truyền thông được tự do tiếp nhận và phổ biến thông tin về các vấn đề tham nhũng một cách phù hợp với luật pháp trong nước trên cơ sở không làm hại đến tính hiệu quả của trong việc vận hành bộ máy hành chính, hay nói cách khác là không gây tổn hại lợi ích của các cơ quan chính phủ và cá nhân thông qua: Xác lập các yêu cầu báo cáo công khai đối với ngành tư pháp và các cơ quan khác, trong đó công khai nỗ lực thúc đẩy tính liêm chính, trách nhiệm và chống tham nhũng. Thực thi các biện pháp cho phép công chúng có quyền tiếp cận một cách thực chất đối với các thông tin cần thiết. Sự tham gia của công chúng Động viên sự tham gia của công chúng vào các hoạt động chống tham nhũng, đặc biệt thông qua: Các mối quan hệ hợp tác với các tổ chức xã hội như phòng thương mại, tổ chức nghề nghiệp, tổ chức phi chính phủ, công đoàn, hiệp hội nhà, cơ quan truyền thông và các tổ chức khác Bảo vệ những người tố giác Sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ trong việc giám sát các chương trình và hoạt động dịch vụ công. 2.3. Khả năng hình thành một thị trường tự do di chuyển các yếu tố Sự tự do lưu thông hàng hóa Sự hình thành Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) là một thành công rực rỡ đối với các nước trong khu vực này, đây cũng là một nền tảng cơ bản để nâng cao năng lực cạnh tranh của ASEAN với tư cách là một cơ sở sản xuất trên thế giới, đồng thời tăng cường tính hấp dẫn đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Để hình thành một thị trường tự do lưu thông hàng hóa, ASEAN đã ký kết một Hiệp định về Thuế quan Ưu đãi có Hiệu lực Chung (CEPT). Theo đó, sáu quốc gia gia nhập ASEAN trước sẽ xóa bỏ khoảng 98% tổng số dòng thuế của mình đối với các quốc gia thànhviên khác vào năm 2006. Thời hạn dành cho bốn quốc gia gia nhập sau (Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam) là năm 2013. Tiến trình giảm dần thuế quan xuống 0-5%, loại bỏ dần các hàng rào phi thuế quan đối với phần lớn các nhóm hàng. Theo số liệu mới nhất hiện nay, Bru-nây, In-đô-nê-xi-a, Ma-lay-xi-a, Phi-líp-pin, Xinh-ga-po và Thái Lan đã loại bỏ thuế quan đối với 99,65% dòng thuế kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2010. Còn Cam-pu-chia, Lào, Myanmar và Việt Nam đã đưa thuế quan đối với 98,86% dòng thuế xuống mức 0-5%, ASEAN sẽ đặt trọng tâm vào việc thúc đẩy thương mại giữa các quốc gia thành viên ASEAN (AMS). Về việc loại bỏ dần hàng rào phi thuế quan, các thủ tục thuế quan và hải quan đơn giản, hài hòa và tiêu chuẩn hóa giữa các quốc gia trong khu vực bằng việc thống nhất kế hoạch rà soát, phân công và lên kết hoạch loại bỏ các biện pháp phi thuế quan có tính cản trở thương mại. Bên cạnh đó là các biện pháp hài hoà các tiêu chuẩn kỹ thuật, đồng bộ hoá các thủ tục hải quan và danh bạ thuế quan Bên cạnh nỗ lực xoá bỏ thuế quan và các rào cản phi quan thuế, xuất xứ cũng là một yếu tố quan trọng được các nước ASEAN tập trung xây dựng những bộ quy tắc mới, bổ sung cho quy tắc xuất xứ chung (hàm lượng 40%) của ASEAN. Việc nới lỏng quy tắc xuất xứ được cho là biện pháp quan trọng để thúc đẩy thương mại trong nội khối ASEAN. Như vậy, các nước trong nội bộ khối ASEAN đang từng bước hình thành một thị trường hàng hóa đồng nhất, có hiệu quả và theo tiến trình này thì thị trường này sẽ được hình thành trong tương lai không xa nữa. Sự tự do di chuyển các dòng vốn và lao động Để hình thành một thị trường tự do di chuyển các yếu tố, các quốc gia trong khu vực cũng không những quan tâm đến việc thúc đẩy sự tự do lưu thông hàng hóa, đã ký kết một hiệp định liên quan đến sự tự do di chuyển dòng vốn và lao động. Liên quan đến vấn đề này, một hiệp định không thể không nhắc đến đó là Hiệp định khung về khu vực đầu tư ( AIA) với hai mục tiêu chính như sau: Một là, xây dựng một Khu vực đầu tư ASEAN có môi trường đầu tư thông thoáng và rõ ràng hơn giữa các quốc gia thành viên nhằm đẩy mạnh dòng vốn lưu thông vào ASEAN từ các nguồn cả trong và ngoài ASEAN đưa khu vực này trở thành khu vực đầu tư hấp dẫn nhất. Từng bước giảm dần hoặc loại bỏ những quy định và điều kiện đầu tư có thể cản trở các dòng đầu tư và sự hoạt động của các dự án đầu tư trong ASEAN. Hai là, đảm bảo rằng việc thực hiện những mục tiêu trên sẽ góp phần hướng tới tự do luân chuyển đầu tư vào năm 2020. Theo như hiến chương này, các nước ASEAN thực hiện các nội dung sau: - Có một chương trình hợp tác đầu tư ASEAN nhằm tạo ra đầu tư lớn hơn từ các nước ASEAN và các nước ngoài ASEAN; - Chế độ đối xử quốc gia được dành cho các nhà đầu tư ASEAN vào năm 2010, và cho tất cả các nhà đầu tư vào năm 2020; - Tất cả các ngành nghề được mở cửa cho các nhà đầu tư ASEAN vào năm 2010 và cho tất cả các nhà đầu tư vào năm 2020; - Khu vực kinh doanh có vai trò lớn hơn trong các nỗ lực hợp tác về đầu tư và các hoạt động có liên quan trong ASEAN; - Lưu chuyển tự do hơn về vốn, lao động lành nghề và chuyên gia, và công nghệ giữa các quốc gia thành viên. Theo văn phòng Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) khu vực châu Á - Thái Bình Dương, năm 2010, lao động di cư trong ASEAN chiếm 9% tổng dân số toàn cầu; 40% người di cư ASEAN di chuyển trong phạm vi ASEAN, tương đương khoảng 5,9 triệu. Trong ASEAN, luồng di chuyển tập trung vào 3 nước tiếp nhận: Malaysia, Thái Lan và Singapore. Lượng kiều hối ở các quốc gia trong khu vực tăng nhanh, cao nhất là Indonexia. Rõ ràng rằng lao động di cư mang lại nguồn thu nhập đáng kể. Hơn thế nữa sẽ tạo môi trường thuận lợi cho việc hình thành một thị trường thống nhất. Bảng 4: Kiều hối và tầm quan trọng đối với kinh tế của nước xuất cư Nước Ước tính kiều hối của lao động di cư năm 2008 (triệu USD) Tỷ lệ tăng của kiều hối (2001 – 2008) Tỷ lệ tăng của các khoản chi cho tiêu dùng (2001-2008) Phần đóng góp của kiều hối trong GDP (%) năm 2007 Việt Nam 5500 15,5 13 7,90 Thái Lan 1800 5,3 13 0,70 Lào 1 2,6 10,4 0 Ma-lai-xia 1810 12,5 14,6 1 In-đô-nê-xia 6500 29,8 18,1 1,50 Phi-lip-pin 18669 17,2 14,7 11,6 Cam-pu-chia 353 14,9 11,8 4,20 Nguồn: Ngân hàng Thế giới. Những chính sách trong việc di chuyển tự do hơn về lao động, vốn và công nghệ giữa các quốc gia là dấu hiệu cho thấy khu vực này hoàn toàn có những điều kiện cần thiết để hình thành một đồng tiền chung. 2.4. Sự khác biệt về trình độ phát triển kinh tế xã hội giữa các nước trong khu vực Khả năng ổn định kinh tế vĩ mô của khối Các nước ASEAN hầu hết là các nước đang phát triển, GDP bình quân đầu người ở mức trung bình của thế giới nhưng lại có mức tăng trưởng GDP khá cao. Giá trị thương mại giữa 10 nền kinh tế ASEAN hiện mới chỉ chiếm khoảng 25% tổng giá trị thương mại quốc tế của khối, khoảng 400 tỷ USD. Tổng kim ngạch xuất khẩu của các nước ASEAN sang các thị trường quốc tế ước đạt 1.700 tỷ USD/năm, cao hơn một chút so với tổng giá trị của các nền kinh tế khu vực. Bảng 5: Tốc độ tăng trưởng GDP của các nước trong khu vực ASEAN từ năm 2004-quý 3/2010 Nguồn: ASEANFinance and Macro-economic Surveillance Unit Database Tốc độ tăng trưởng GDP của khu vực Đông Nam Á liên tục tăng trưởng cao và khá ổn định. Tuy ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ toàn cầu khiến cho tốc độ này giảm mạnh trong năm 2008-2009 nhưng nên kinh tế đông nam á đã có một sự hồi phục nhanh chóng với tốc độ tăng trưởng trong năm 2010 theo ước tính của ADB là 5%, và có thể tăng ở mức 5,5 % trong năm 2011 và 5,7% trong năm 2012. Sự bật dậy của nền kinh tế Đông Nam Á thể hiện sức mạnh của khu vực này trước khi khủng hoảng xảy ra. Đông Nam Á đã được cải tổ một cách đúng đắn sau khi cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998. Vì vậy các chính phủ có đủ khả năng đưa ra các chính sách tiền tệ và tài khóa nhằm tăng thanh khoản và thúc đẩy nền kinh tế. Biểu đồ 13: GDP của một số nước trong khu vực ASEAN vào năm 2008 Nguồn: ASEAN Statistics Các quốc gia ASEAN có mức độ đồng đều về mặt kinh tế chưa cao. Điều này thể hiện qua bình quân thu nhập tính trên đầu người khá chênh lệch, cao nhất là Singapore với 38064$ và thấp nhất là Myanmar với 465$. Chênh lệch bình quân thu nhập giữa các nước ASEAN6(Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan) cao gấp 4 lần so với các nước CLMV( Cambodia, Lao, Myanmar, Viet Nam). Bên cạnh đó, nhóm CLMV đạt mức tăng trưởng là GDP là 6% cao hơn nhóm ASEAN6 là 4.2%. Đối với tỷ lệ thâm hụt ngân sách, nhìn chung, các nước trong khối ASEAN có tỷ lệ này thấp hơn so với các nước trên thế giới. Bảng 6: Tỷ lệ thâm hụt ngân sách các nước trong khối ASEAN từ năm 2004-2009 Country 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Brunei Darussalam 9.7 18.7 22.0 15.0 32.7 (0.4) Cambodia (2.2) 1.1 (1.5) 0.6 0.1 2.4 Indonesia (1.3) (0.5) (1.0) (1.4) 0.7 (0.6) Lao PDR (2.6) (4.5) (3.7) (2.6) (0.4) - Malaysia (4.1) (3.6) (3.3) (3.2) (4.8) (2.8) Myanmar n.a. n.a. n.a. n.a. n.a. n.a. The Philippines (3.8) (2.7) (1.0) 0.2 (0.9) (3.9) Singapore (1.1) (0.3) 0.5 3.2 1.5 (0.3) Thailand 0.1 (0.6) 2.3 (1.7) (1.1) (4.4) Viet Nam (1.7) (1.6) (1.8) (2.2) (2.1) (4.6) Nguồn: ASEAN Statistics Tuy là khu vực phục hồi nhanh sau khủng hoảng tài chính, tăng trưởng cao, không nguy kịch quá trong cơn sốt nợ công - nhưng lại rất nhạy cảm với vấn đề lạm phát. Lạm phát ở Đông Nam Á đang leo thang từ mức khiêm tốn 4% năm 2010 lên 5,1% trong năm 2011.Trong đó, các nền kinh tế đi đầu khu vực như Indonesia, Singapore… đều có mức lạm phát đáng lo ngại. Tỷ lệ lạm phát của Indonesia dự kiến sẽ tăng ở mức hai con số trong năm nay, trong khi lạm phát của các nước ASEAN khác đang lên tới mức cao nhất trong nhiều năm qua. Việt Nam, theo dự đoán của ADB, có thể duy trì mức lạm phát cao tới hơn 13% năm nay, trước khi giảm xuống 6.8% trong năm 2012. Áp lực lạm phát đang ngày càng rõ nét hơn ở một số quốc gia. Bảng 7: Tỉ lệ lạm phát ở các quốc gia khu vực ASEAN các năm 2004-Q3/2010 Table 8 ASEAN Statistics Inflation rate, year-on-year change of the consumer price index, end of period  in percent Country Base year 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2009 2010 Q1 Q2 Q3 Q4 Q1 Q2 Q3 Q4 Brunei Darussalam 2002 1.7 0.7 (0.7) 1.3 2.6 1.9 2.4 1.9 - - - - - - Cambodia 2000 5.6 6.7 2.8 10.8 12.5 5.3 - - - - - - - - Indonesia1/ 2007 6.4 17.1 6.6 6.6 11.9 2.8 8.6 3.7 2.8 2.8 3.4 5.0 5.8 7.0 Lao PDR2/ 2006 6.2 8.8 (3.7) 5.5 8.5 - 0.7 - - - - - - - Malaysia 2005 2.1 3.5 - - 4.4 1.1 3.5 (1.4) (2.0) 1.1 1.3 1.7 1.8 2.2 Myanmar 2000 - - - - - - - - - - - - - - The Philippines 2000 8.6 6.7 4.3 3.9 8.0 4.4 6.4 1.5 0.7 4.4 4.4 3.9 3.5 2.9 Singapore3/ 2004 1.3 1.3 0.8 4.4 (5.6) (0.6) 2.6 - (0.4) (0.6) 1.6 2.7 3.6 4.6 Thailand 2002 3.0 5.8 3.5 3.2 0.4 3.5 (0.2) (4.0) (1.0) 3.5 3.4 3.3 3.0 3.0 Viet Nam4/ 2005 9.7 8.9 6.6 12.6 19.9 6.9 (2.5) (2.2) (0.5) 6.9 7.9 8.9 9.9 10.9 Nguồn: ASEAN Statistics Đây là một thách thức không nhỏ đối với phục hồi và tăng trưởng kinh tế khu vực. Tuy nhiên lạm phát ở các quốc gia thành viên hầu hết được giữ ở mức một con số. Nguyên nhân đáng chú ý nhất của lạm phát ở khu vực là việc tăng trưởng nóng và tăng trưởng dựa nhiều vào bên ngoài, nên dễ bị tác động bởi sự lên - xuống thất thường của nền kinh tế thế giới. Hiện tại, các Bộ trưởng Tài chính ASEAN đã thống nhất thúc đẩy hợp tác ở tầm vĩ mô giữa các nền kinh tế thành viên, tạo nên một cộng đồng kinh tế bền vững, dựa vào nội lực của khối. Tại Singapore, sáng kiến lập chuỗi hàng hóa chống lạm phát nhận được ngày càng nhiều sự hưởng ứng. Đây là một tín hiệu tốt đối với việc giảm áp lực lạm phát và tăng cường hợp tác phát triển trong khối. Có thể nói, tình hình kinh tế xã hội của các nước trong khối ASEAN còn chưa đồng đều. thêm vào đó, kinh tế phát triển ở mức trung bình thế giới. Do đó, một đồng tiền chung ra đời sẽ làm thúc đẩy quan hệ thương mại và đầu tư nội khối, giảm rủi ro gắn liền với sự biến động của các đồng tiền thanh toán phổ biến đang sử dụng. Ngoài ra giúp giảm chi phí giao dịch, thúc đẩy sự phát triển và khuyến khích đầu tư dự trữ vào thị trường tài chính khu vực. Qua đó có thể góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy các nước trong khối phát triển nhanh hơn nữa. Trong CC14, ASEAN tuyên bố cam kết đến năm 2015 sẽ trở thành một cộng đồng với 3 trụ cột: hợp tác chính trị và an ninh, hợp tác kinh tế, hợp tác văn hóa xã hội. như vậy, có thể thấy việc hình thành một môi trường kinh tế vĩ mô thống nhất của khu vực là một tất yếu trong tương lai. Khả năng hình thành một cơ chế ổn định và liên kết tỉ giá giữa các nước trong khối Tỷ giá hối đoái của các nước trong khu vực trong những năm gần đây được giữ tương đối ổn định. Đó là nền tảng để xây dựng một cơ chế tỷ giá thống nhất cho cả khu vực. Bảng 8: Tỉ giá hối đoái của các nước trong khối ASEAN so với đô la Mỹ từ năm 2004-2009 Exchange rate, US$ 1 in national currency, average of period Country Currency 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Brunei Darussalam Dollar (B $) 1.7 1.7 1.6 1.5 1.4 - Cambodia Riel 4,036 4,119 4,113 4,080 4,079 4,159 Indonesia Rupiah (Rp) 8,985 9,733 9,168 9,164 9,691 10,356 Lao PDR Kip 10,560 10,697 10,054 9,567 8,744 8,526 Malaysia Ringgit (RM) 3.8 3.8 3.7 3.4 3.3 3.5 Myanmar1/ Kyat 859 1,025 1,162 1,156 1,021 1,168 The Philippines Peso (PhP) 56.0 55.1 51.3 45.7 44.5 47.6 Singapore Dollar (S $) 1.7 1.7 1.6 1.5 1.4 1.4 Thailand Baht 40.2 40.2 37.9 34.5 33.3 34.3 Viet Nam Dong 15,704 15,817 15,963 16,121 16,303 17,067 Nguồn: ASEAN Statistics Để thực thi việc thống nhất tiền tệ cho cả khu vực ASEAN, các nước thành viên đã tiến hành những bước khởi đầu để xây dựng một cơ chế tỷ giá ổn định và tạo được sự liên kết tỷ giá giữa các nước trong khối thông qua sáng kiến ChiangMai (CMIM). Sáng kiến Chiang Mai ra đời năm 2000 sau khủng hoảng tài chính khu vực 1997-1998, trọng tâm là thỏa thuận hỗ trợ tài chính, tạo ra một cơ chế bao gồm các thỏa thuận hoán đổi song phương giữa các nước ASEAN và ASEAN+3, thông qua việc thành lập một quỹ tiền tệ của khu vực ASEAN có sự tham gia của các nước Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc nhằm tăng cường cơ chế hỗ trợ ổn định tỷ giá để đối phó với khủng hoảng tiền tệ. Thỏa thuận CMIM với quy mô 120 tỷ đô la sẽ cung cấp các hỗ trợ tài chính thông qua các giao dịch hoán đổi tiền tệ cho các bên tham gia khi gặp khó khăn cán cân thanh toán hoặc thanh khoản trong ngắn hạn. Việc thực thi CMIM đã tăng cường khả năng của khu vực trong việc đối phó với các rủi ro và biến động ngày càng tăng của kinh tế toàn cầu. Như vậy, khả năng hình thành cơ chế tỷ giá ổn định và liên kết tỷ giá giữa các nước trong khối không phải là một chuyện xa vời. Những sáng kiến, các chính sách và những tiến bộ của ASEAN dù còn khiêm tốn nhưng cũng đã có những đóng góp quan trọng trong nỗ lực ổn định hợp tác của khu vực. Và điều đó đã đưa đến việc ổn định tài chính, ngăn ngừa và hạn chế tác hại của khủng hoảng, là tiền đề để tiến tới việc kết tỷ giá chặt chẽ hơn trong tương lai. 3. Khả năng tồn tại và sự ảnh hưởng của đồng tiều chung ASEAN đến nền kinh tế toàn cầu 3.1. Kinh tế ASEAN đối với khả năng tồn tại của đồng tiền chung Với một hệ thống thể chế chính trị và văn hóa đa dạng, không những vậy qui mô và sức mạnh của từng nền kinh tế ASEAN cũng khác nhau và khác nhau rất nhiều, kinh tế của từng nước trong khối cũng có sự phát triển ở nhiều cấp độ khác nhau. Hiện nay với tình trạng lạm phát đang ở mức cao, việc hình thành một đồng tiền chung là khó có thể thành hiện thực. Bởi có khả năng đẩy lạm phát lên cao hơn hiện tại ở một số nước. Tình trạng chênh lệch về kinh tế giữa các nước thành viên trong khu vực cũng sẽ khiến việc hình thành một đồng tiền chung gặp trở ngại lớn. Bởi nếu xảy ra ngang bằng giá cả sẽ đem lại thiệt hại không nhỏ cho một số nước thành viên khi mà hàng hóa từ bên ngoài có thể hủy hoại nền sản xuất nội địa. Xu thế chung trong sự phát triển của nhân loại là việc hình thành các liên kết kinh tế. Chỉ có khác nhau là về thời gian và đáp ứng đủ các điều kiện hình thành cho mỗi khu vực. Tuy nhiên, một quá trình như vậy đòi hỏi rất nhiều nỗ lực của các nước thành viên và có thể kéo dài hàng chục năm. Trong trường hợp của Liên minh tiền tệ châu Âu, những gì các nước châu Âu làm được hôm nay đã là kết quả của hơn 40 năm củng cố và thúc đẩy các mối liên kết kinh tế, tài chính, tiền tệ và thậm chí là cả chính trị. Với ASEAN, nếu để tiến trình liên kết kinh tế diễn ra một cách tự nhiên thì có thể phải mất một khoảng thời gian dài như hoặc thậm chí dài hơn châu Âu. Nhưng nếu nhận thức được xu hướng khách quan và lợi ích của việc hình thành đồng tiền chung, các nước ASEN sẽ tự đề ra được những bước đi nhanh chóng và phù hợp nhằm thúc đẩy sự ra đời của một đồng tiền chung cho khu vực. 3.2. Đồng tiền chung ASEAN trong sự tác động đến kinh tế thế giới 3.2.1. Trên thị trường tài chính Hệ thống tiền tệ thế giới sẽ xuất hiện thêm đồng tiền chung ASEAN và các nước sẽ yết giá theo đồng tiền chung ASEAN, thay cho các đồng tiền riêng của mỗi nước trong khu vực. Việc hình thành một đồng tiền chung tất nhiên sẽ mang lại nhiều bất cập và toàn khu vực có thể sẽ phải đối mặt với những gì mà liên minh Châu Âu đã đối mặt. Tuy vậy cũng phải kể đến những ích lợi mà nó sẽ mang lại đối với các hoạt động giao dịch và đầu tư. Đó là việc giảm thiểu chi phí giao dịch và tạo môi trường đầu tư thuận lợi. Trong giao dịch chứng khoán, các nhà đầu tư sẽ hướng về thị trường Đông Nam Á và tăng cường giao dịch nhiều hơn, đầu tư nhiều hơn. Chứng khoán được yết giá bằng đồng tiền chung sẽ khiến cho thị trường tài chính phát triển hơn và nhộn nhịp hơn. Bởi đồng tiền chung sẽ làm giảm rủi ro tỷ giá, nghĩa là giảm thiểu rủi ro đối với các nhà đầu tư. 3.2.2. Về ngoại thương Hiện nay tình trạng USD hóa trong nền kinh tế đã gây ra những tác động không nhỏ đối với hệ thống ngân hàng một số nước thành viên, làm tăng nguy cơ rủi ro tín dụng. Nếu đồng tiền chung khu vực ra đời, trao đổi trong nội bộ khối trước đây dùng nhiều USD nay chuyển sang thanh toán bằng đồng tiền chung ASEAN sẽ làm cho kim ngạch thanh toán bằng đồng đô la Mỹ bị giảm sút. Trong buôn bán với Mỹ và các nước khác, các nước ASEAN cũng có thể yêu cầu phải sử dụng đồng tiền chung ASEAN để thanh toán thay vì dùng USD, sẽ làm giảm nhu cầu sử dụng USD trong thương mại thế giới. Do đó trong tương lai không xa, nhu cầu sử dụng USD giảm bắt buộc sẽ dẫn đến việc giảm giá của USD, và như vậy việc ra đời của đồng tiền chung ASEAN không chỉ tác động đến lĩnh vực tiền tệ mà sẽ tác động cả đến lĩnh vực kinh tế và chính sách kinh tế của các quốc gia. Hơn nữa, việc hình thành đồng tiền chung châu Âu đồng nghĩa là Đông Nam Á đã trở thành thị trường thống nhất, không còn rào cản thuế quan chu chuyển giữa các nước. Điều đó tạo nên một thị trường tiêu thụ rộng lớn đồng nhất hấp dẫn các nhà xuất khẩu bên ngoài. Các nhà kinh doanh nước ngoài sẽ mạnh tay bỏ vốn đầu tư vào thị trường này bởi tiềm năng nguồn lao động rẻ, dồi dào và tự do luân chuyển giữa các nước, nguồn tài nguyên phong phú khai thác giá rẻ, dân số đông sẽ là nguồn tiêu thụ mạnh sản phẩm, đem lại lợi nhuận lớn. Do đó có thể thấy trước được là một phần vốn đầu tư của thế giới sẽ dồn vào các nước ASEAN sau khi đồng tiền chung ra đời 3.2.3. Thúc đẩy việc hình thành các đồng tiền chung khu vực Nếu đồng tiền chung ASEAN ra đời sẽ tạo động lực cho các khu vực khác tiếp bước hình thành nên các đồng tiền chung khác. Thế giới sẽ bớt đi việc mỗi nước một đồng tiền, trao đổi sẽ nhanh hơn, dễ dàng hơn, tiết kiệm được đáng kể thời gian và chi phí chuyển đổi ngoại hối, chi phí di chuyển tiền mặt… CHƯƠNG IV: GIẢI PHÁP HÌNH THÀNH ĐỒNG TIỀN CHUNG ASEAN VÀ CÁC VẤN ĐỀ CỦA VIỆT NAM 1. Các giải pháp hình thành đồng tiền chung ASEAN 1.1. Những giải pháp để hình thành thị trường thống nhất Xúc tiến lộ trình thực hiện AFTA Trong lộ trình chiến lược thực hiện cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) với các biện pháp chi tiết và một thể chế thực thi chặc chẽ, đồng thời đẩy nhanh mục tiêu hoàn thành thiết lập AEC vào năm 2015. Và việc hoàn thành Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT/AFTA) để thực hiện Khu vực Thương mại tự do ASEAN là một cột mốc quan trọng nhất kể từ năm 2002. Thứ nhất, bốn quốc gia gia nhập sau trong Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (Việt Nam, Campuchia, Lào, Myanma) cần phải xúc tiến hoạt động cắt giảm thuế quan như dự kiến đến năm 2013 hoàn thành xong. Thứ hai, các nước thành viên cần duy trì ổn định chính trị, quyết tâm thực hiện liên kết kinh tế khu vực. Vài năm gần đây, hầu hết các nước thành viên ASEAN vẫn coi trọng quan hệ với các nước lớn ngoài khu vực hơn là các nước láng giềng. Tình hình chính trị bất ổn ở nhiều nước như Thái Lan hiện nay là mối lo ngại với các nước trong khu vực. Do đó, một số nhà lãnh đạo phải chú trọng đến yếu tố đối nội nhiều hơn. Thứ ba, các nước cần tăng cường thương mại nội bộ khu vực. Đẩy mạnh xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ, lao động, đầu tư hơn nữa. Tuy nhiên cũng cần phải hài hòa trong thương mại giữa các nước đang phát triển, kém phát triển và những nước phát triển. Trước thực trạng hiện hay thương mại của từng nước thành viên với Singapore chiếm hơn 70% tổng khối lượng thương mại nội bộ. Để sự liên kết kinh tế bền vững trong ASEAN, ngoài liên kết về mặt kinh tế, chính trị thì ASEAN cần phải mở rộng ra ngoài phạm vi hợp tác về văn hóa, du lịch, giáo dục và đặc biệt là vấn đề môi trường. 1.1.2. Thúc đẩy tiến trình hình thành khu vực đầu tư ASEAN và xúc tiến mở cửa thị trường lao động Hiện nay, chênh lệch trình độ phát triển và mức sống của các nước trong khu vực là một vấn đề đáng lo ngại, gây cản trở trong việc hình thành một thị trường đồng nhất và có hiệu quả. Theo số liệu thống kê mới đây, thu nhập bình quân đầu người của Singapore – quốc gia phát triển nhất ASEAN gấp xấp xỉ 300 lần so với thu nhập bình quân đầu người của Myanma – quốc gia kém phát triển nhất trong khu vực. Đây là một con số chênh lệch rất lớn khiến cho các nước trong khối cần phải có biện pháp tích cực để cải thiện tình hình này. Trong đó, việc di chuyển vốn và lao động là một yếu tố khá quan trọng mà các nước ASEAN đã, đang và sẽ nỗ lực thực hiện. Qua Hiến chương về Khu vực đầu tư ASEAN (AIA), các nước đã thể hiện sự nỗ lực chung nhằm đạt tới mục tiêu này. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều bất cập cần được giải quyết: Thứ nhất, nguồn vốn đầu tư chu chuyển giữa các nước thành viên phải được công bằng và bình đẳng với một hệ thống chính sách để cải thiện môi trường đầu tư theo hướng tạo thuận lợi cho việc thu hút đầu tư nước ngoài như quy định về thủ tục cấp phép, về tỷ lệ góp vốn trong các liên doanh. Thứ hai, chính sách bảo hộ các ngành sản xuất trong nước là không thể cản trở. Tuy nhiên cần phải thực hiện chính sách bảo hộ có điều kiên, tránh bảo hộ tràn lan. Có thể dùng các biện pháp để bảo hộ cho một số ngành mà nước đó có khả năng tự lực phát triển. 1.2 Các giải pháp về tài chính, ngân hàng 1.2.1. Tiếp tục cải cách hệ thống tài chính, ngân hàng của các nước trong khu vực để tiến tới hội nhập Cần xây dựng hệ thống ngân hàng các nước ASEAN thật vững mạnh và ổn định. Vì đây là yếu tố quan trọng đảm bảo tính bền vững của đồng tiền chung. Về vấn đề cải cách hệ thống tài chính ngân hàng, các nước ASEAN cần đưa ra các quy định đòi hỏi các ngân hàng thận trọng hơn trong việc cho vay vốn, giảm các khoản nợ khó đòi của ngân hàng, tăng cường hiệu quả của hệ thống giám sát trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Chính phủ cần tăng cường giám sát chặt chẽ và can thiệp kịp thời vào hệ thống tài chính-ngân hàng để tránh sự đổ vỡ thị trường tài chính gây ra tác hại vô cùng to lớn cho nền kinh tế. Ta dễ thấy tình trạng khủng hoảng nợ công của Ireland bắt nguồn từ việc chính phủ đã không kịp thời khống chế hành vi cho vay thiếu trách nhiệm của một số ngân hàng khi nền kinh tế tăng trưởng nóng và nhà đất tạo thành bong bóng, và cuối cùng buộc phải chọn lựa bao cấp các ngân hàng này khi họ thua lỗ, và chấp nhận bội chi ngân sách càng lớn, khiến niềm tin của nhà đầu tư vào trái phiếu chính phủ và nội tệ giảm dần. Điều này rất giống với nhiều nước ASEAN hiện nay, với tình trạng tăng trưởng nóng quá mức tạo thành bong bóng bất động sản và chứng khoán. Luôn tạo niềm tin cho thị trường, không thể chờ khi tổn thất xảy ra mới tìm cách tháo gỡ, vì khi niềm tin bị mất thì rất khó tạo dựng lại, và nền kinh tế sẽ suy thoái kéo dài. Ví dụ điển hình là trường hợp của Hy Lạp: Chi phí của một hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng của Hy Lạp trước khi được cứu trợ là khoảng 12%, sau đó giảm xuống xung quanh 7% sau khi được cứu trợ vào đầu năm, và bây giờ nó lại tăng trở lại lên trên 10% (nghĩa là phải tốn khoảng 1 triệu euro để bảo hiểm cho một khoản nợ 10 triệu euro). Cần quan tâm đến các chỉ tiêu an toàn hệ thống, không chạy theo tăng trưởng, không dung túng những ngân hàng có quy mô quá lớn nhưng tiềm ẩn nhiều khủng hoảng. Vì nó tiềm ẩn rủi ro khủng hoảng tài khoá và nợ công sẽ ngày một tăng lên. Đối với việc mở cửa thị trường tài chính, nhà nước luôn phải giữ vững vai trò điều tiết của mình, đảm bảo tốc độ mở cửa hợp lý và khả năng thanh toán các khoản nợ nước ngoài. Các nước trong khu vực cũng cần xây dựng thị trường vốn cân bằng hơn, tránh dựa quá nhiều vào cổ phiếu như hiện nay. Do hệ thống ngân hàng của các nước trong khu vực có nhiều vấn đề giống nhau nên việc cải cách hệ thống tài chính, ngân hàng có thể nên được phối hợp tiến hành giữa các nước. Điều này sẽ giúp các nước không những học tập kinh nghiệm của nhau, tiết kiệm được nguồn lực đầu tư vào quá trình cải cách, mà còn là một tiền đề để các nước ASEAN hội nhập trong lĩnh vực tài chính ngân hàng sau này. 1.2.2. Phối hợp chính sách tiền tệ giữa các nước ASEAN và thiết lập một thiết chế tiền tệ khu vực Phối hợp chính sách tiền tệ giữa các nước trong khối là tiền đề để tiến tới xoá bỏ ranh giới giữa các đồng tiền và ranh giới chính sách tiền tệ giữa các quốc gia. Về vấn đề này, khu vực Đông Á đã có một bước tiến quan trọng được thực hiện ở Chiang Mai vào ngày 6/5/2000 nhằm xây dựng một thoả thuận tài chính khu vực để bổ sung cho các hạn mức tín dụng quốc tế hiện có. Thêm vào đó, nhằm tăng cường tính ổn định tài chính trong khu vực, các Bộ trưởng tài chính cũng cam kết hợp tác chặt chẽ hơn nữa trong việc kiểm soát các dòng vốn và tăng cường cơ chế giám sát khu vực. Cơ chế giám sát này nên tập trung vào việc thiết lập một hệ thống cảnh báo để ngăn chặn từ sớm các cuộc khủng hoảng. Thời gian để cho ra đời một đồng tiền chung ASEAN có thể phải rất lâu, do các quốc gia thành viên có những đặc điểm kinh tế chính trị khác nhau và sự cách biệt nhau lớn giữa các nước đang phát triển và các nền kinh tế đã công nghiệp hoá. Tuy nhiên, để hình thành một liên minh tiền tệ ở ASEAN, ngay từ lúc này đã cần phải tiến hành các bước đi đầu tiên, trước hết là xây dựng một khung chính sách tiền tệ chung, thống nhất. Mục đích chính của một chính sách tiền tệ chung trong khu vực sẽ là duy trì sự ổn định giá cả, vì chỉ khi giá cả được duy trì ổn định trong giới hạn cho phép thì khu vực mới có thể thi hành một chính sách kinh tế chung. Chính sách tiền tệ áp dụng cho khu vực phải là một chính sách có khả năng đóng góp vào chính sách kinh tế và giảm được thất nghiệp thông qua mục tiêu chính là ổn định giá cả. Trong môi trường một chính sách tiền tệ thống nhất, sự linh hoạt của thị trường sẽ góp phần làm giảm sự mất cân đối giữa các quốc gia và khu vực. Chính sách tiền tệ sẽ được thực thi thống nhất trên toàn khu vực đồng tiền chung chứ không áp dụng riêng cho một quốc gia hay một nhóm các quốc gia nào. Tuy nhiên, do các trạng thái chu kỳ giữa các nước thành viên sẽ không hoàn toàn cùng pha ở thời kỳ đầu của giai đoạn thực hiện chính sách tiền tệ chung nên những khác biệt giữa các quốc gia sẽ được khắc phục sau một thời gian nhất định. Những sự mất cân đối giữa các quốc gia thường được xử lý thông qua yếu tố tỷ giá. Trong môi trường đồng tiền chung Châu Âu mà đặc trưng là một chính sách tiền tệ thống nhất với mục đích là duy trì sự ổn định giá cả trong toàn khu vực đồng Euro thì yêu cầu điều chỉnh là chính sách ngân sách, mặt bằng giá quốc gia, chính sách tiền lương và việc huy động sức lao động và tư bản. Một điều quan trọng là cần phải có một tổ chức chỉ đạo, hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ chung. Đó phải là một Ngân hàng Trung ương, tương tự như Ngân hàng trung ương Châu Âu, gồm ngân hàng trung ương ASEAN và ngân hàng trung ương quốc gia của các nước thành viên tham gia đồng tiền chung khu vực. Một nhiệm vụ quan trọng khác không thể thiếu khi hoạch định chính sách tiền tệ chung là quy định mức dự trữ tối thiểu đối với các tổ chức tín dụng trong khu vực đồng tiền chung nhằm ổn định lãi suất thị trường và kiểm soát lượng cung tiền. Bước đầu để tiến tới một ngân hàng trung ương khu vực là tiến tới một thoả thuận tài chính khu vực và hình thành một quỹ tiền tệ cho ASEAN theo đó, các nước sẽ đóng góp một tỷ lệ nào đó dự trữ ngoại tệ của mình vào một quỹ chung. Tỷ lệ này sẽ được quyết định dựa trên tổng hợp các biến số kinh tế vĩ mô như GDP trên đầu người, quy mô so sánh của các nền kinh tế, tỷ trọng thương mại trong khu vực,... Mô hình cho một quỹ tiền tệ như vậy sẽ là Quỹ hợp tác tiền tệ châu Âu (EMFC), tiền thân của Viện tiền tệ châu Âu và Ngân hàng trung ương châu Âu. Các nước thành viên sẽ có thể nhận được các khoản tín dụng từ quỹ chung này, dựa trên tỷ lệ đóng góp của mình và với những điều kiện đã được tất cả các bên thống nhất. Một dấu hiệu thực tế đáng mừng là ASEAN đã thành lập Ngân hàng ASEAN. Trước mắt, ngân hàng mới chỉ có vai trò giúp đỡ người nghèo ở các nước ASEAN với các khoản vay nhỏ, nhưng đây cũng là một tín hiệu cho thấy rằng các thiết chế khu vực đang dần hình thành ở ASEAN. 1.3. Các giải pháp khác 1.3.1. Đề ra các tiêu chí gia nhập và một lịch trình cụ thể cho tiến trình hình thành đồng tiền chung Kinh nghiệm của EMU cho thấy rằng để hội nhập thành công trên lĩnh vực tiền tệ, cần phải đề ra những tiêu chí gia nhập cụ thể như tỷ lệ lạm phát, lãi suất, chính sách tài khoá.... Ngoài ra cần có cơ chế bắt buộc chấp hành các điều kiện, quy định của khu vực tiền tệ chung một cách chặt chẽ, và đề ra những khung xử phạt rõ ràng đối với trường hợp sai phạm. Không để lợi ích chính trị xen vào, cần phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định chung Cũng cần có thỏa thuận chung đồng ý các phương thức xử lý khi gặp khó khăn, sự thống nhất và đoàn kết giải quyết vấn đề. Rút kinh nghiệm từ việc Đức chần chừ trong việc cứu trợ Hy Lạp trong cuộc khủng hoảng nợ công đã đẩy lòng tin của nhà đầu tư đi xuống và gây nhiều khó khăn cho Hy Lạp hơn. Các nước ASEAN nhìn chung vẫn còn nhiều nước nghèo, trình độ phát triển không đồng đều. Vì thế, quá trình hội nhập cũng cần phải có một lịch trình cụ thể, có tính đến trình độ phát triển khác nhau của tất cả các nước thành viên tương lai, được tất cả các bên chấp thuận và cam kết thực hiện. Bên cạnh chính sách tiền tệ chung, nên có một giới hạn linh hoạt cho các nước tham gia liên minh tiền tệ để có thể giải quyết vấn đề của nước đó, và dần dần đáp ứng các tiêu chí gia nhập như sự phát triển kinh tế, tỉ lệ lạm phát, nợ /GDP… trong một khoảng thời gian nào đó. Ví dụ, để đẩy nhanh quá trình hội nhập, có thể quy định một mốc thời gian gia nhập sớm hơn cho các nước phát triển hơn, các nước khác sẽ tham gia vào một thời điểm muộn hơn sau khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện đã đề ra. Cần xây dựng một hệ thống giám sát độc lập để kiểm soát các hoạt động ngân hàng, hoạt động tài chính ở các nước ASEAN, nhanh chóng phát hiện các sai sót để khống chế kịp thời, không để khủng hoảng tràn lan nhanh như ở châu Âu. 1.3.2. Chuẩn bị cho giai đoạn chuyển đổi và đưa đồng tiền chung vào lưu thông Nếu muốn hình thành một liên minh tiền tệ thành công, một điều quan trọng là phải chuẩn bị cho sự ra đời của một đồng tiền chung cùng với tất cả những vấn đề phức tạp có thể xảy ra trong giai đoạn chuyển đổi. Các nước EMU đã phải có một thời kỳ 3 năm đồng tiền chung tồn tại song song với các đồng tiền quốc gia để chuẩn bị các điều kiện về cơ sở vật chất, về luật pháp, thể chế và để phổ biến rộng rãi về đồng tiền chung cho dân chúng. Một liên minh tiền tệ ở ASEAN nếu muốn thành công cũng không thể bỏ qua những vấn đề như vậy. 2. Các vấn đề của Việt Nam trong tiến trình hội nhập ASEAN - hướng tới hình thành một đồng tiền chung Điều chỉnh và hoàn thành chính sách thương mại Tăng trưởng về hội nhập thương mại chính là tiền đề quan trọng cho quá trình hội nhập tài chính ở khu vực này trong tương lai. Vì thế xây dựng một chính sách thương mại phù hợp với cơ chế thị trường và các cam kết quốc tế là một việc làm cần thiết. Việc liên kết các vùng trong khu vực bằng chế độ giá cả cố định là có lợi cho toàn bộ khu vực vì điều này thúc đẩy tính hữu dụng của tiền tệ nhờ giảm bớt chi phí giao dịch, loại bỏ rủi ro tỷ giá, tiết kiệm chi phí phòng ngừa rủi ro tiền tệ. Khi giá cả và tiền lương không linh hoạt thì sự điều chỉnh về vị trí cần bằng có thể gây ra thất nghiệp ở một vùng hoặc lạm phát ở vùng khác. Sự linh hoạt tuyệt đối của giá cả và tiền lương sẽ làm cho thị trường luôn cân bằng. Khu vực tiền tệ thành công phải hội nhập chặt chẽ trong lĩnh vực tài chính nghĩa là dở bỏ mọi rào cản đối với việc luân chuyển vốn. Một khu vực tiền tệ thành công phải có “độ mở” bên trong cao, nghĩa là phải buôn bán rộng rãi trong nội bộ khu vực. Thỏa thuận tiền tệ tối ưu của một nền kinh tế tương đối đóng cửa với bên ngoài và mở cửa với bên trong sẽ là neo đồng tiền của mình vào một cơ chế tỷ giá của khu vực để ổn định giá cả bên trong và áp dụng một chế độ tỷ giá linh hoạt với bên ngoài để cân bằng bên ngoài. Trong trường hợp này, việc áp dụng chính sách tỷ giá thả nổi hay tham gia vào một khu vực tiền tệ quá lớn đều ko có lợi. Thực hiện tự do hóa thương mại, tự do hóa dịch vụ, bảo hộ đầu tư, thúc đẩy thương mại điện tử, tự do di chuyển các yếu tố. Sự tư do di chuyển các yếu tố ( đặc biệt là lao động) sẽ làm giảm nhẹ áp lực thay đổi giá cả thực tế của các yếu tố để đối phó với các cú sốc về cung cầu, do đó, nhu cầu điều chỉnh tỷ giá hối đoái nhằm điều chỉnh giá thực tế của các yếu tố sẽ được giảm nhẹ. Điều này cho thấy sự tự do di chuyển các yếu tố phần nào đóng vai trò là một sự thay thế cho tính linh hoạt của giá cả tiền lương. Do lương thấp trong ngắn hạn nên sự tự do di chuyển các yếu tố giúp giải quyết sự mất cân bằng cán cân thanh toán thường xuyên trong dài hạn tốt hơn là giải quyết sự mất cân đối cán cân thanh toán trong tạm thời. Sự hội nhập thị trường các yếu tố sẽ tạo điều kiện để các nước không phải điều chỉnh tỷ giá hối đoái nhằm duy trì tình hình cán cân thanh toán ổn định giữa các vùng trong khu vực. Sửa đổi và hoàn thiện hệ thống thuế Một cú sốc toàn khu vực có thể có tác động với các mức độ khác nhau đến các nước khác nhau. Khi đó việc di chuyển các nguồn lực tài chính từ các nước ít bị ảnh hưởng sang các nước bị ảnh hưởng nặng nề sẽ làm giảm nhẹ gánh nặng điều chỉnh thực tế hoặc thậm chí còn giải quyết được cú sốc đó. Do đó, một khu vực tiền tệ thành công phải có một hệ thống thuế đồng bộ để tránh các tác động tiêu cực tiến hành lợi dụng sự chênh lệch về mức thuế. Việc ra đời một đồng tiền chung đồng nghĩa với việc ra đời một thị trường chung với sự tự do di chuyển các yếu tố. Vì vậy, sự di chuyển của hàng hóa từ nước này sang nước khác hoàn toàn không có rào cản. Đó sẽ là thách thức đối với sản xuất trong nước và hàng hóa nội địa. Sự luân chuyển tự do của các yếu tố sẽ có tác động không nhỏ đối với kinh tế trong nước. Trong thời gian sắp tới, việc cải cách hệ thống thuế phù hợp với điều kiện hội nhập hiện tại là cần thiết nhằm một mặt thúc đẩy kinh tế trong nước, mặt khác hòa nhập vào sự phát triển của kinh tế khu vực. Do đó trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam cần tiếp tục lộ trình cắt giảm tiến tới xóa bỏ hàng rào thuế quan về số lượng hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu. Việc xóa bỏ các hàng rào phi thuế như các tiêu chuẩn về y tế, vệ sinh, an toàn, kĩ thuật sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Do đó, Việt Nam cần điều chỉnh và phối hợp nhiều chính sách và luật lệ với các nước còn lại trong khu vực để đạt được mục tiêu này. 2.3. Điều chỉnh chính sách đầu tư nước ngoài Để tận dụng được cơ hội tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài không chỉ từ các nước ASEAN mà còn nhiều quốc gia khác khi tham gia thực hiện AFTA, Việt Nam phải tích cực điều chỉnh chính sách đầu tư nước ngoài, tạo môi trường đầu tư thông thoáng. Chính sách đầu tư của Việt Nam trong thời gian tới nên điều chỉnh theo các hướng sau: - Mở rộng, đa dạng hoá các lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, mở thêm kênh thu hút vốn (bao gồm cả việc mở dần thị trường chứng khoán) phù hợp với những cam kết trong quá trình hội nhập. Khuyến khích mạnh đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, chế biến, công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, các dự án ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, điện tử, vật liệu mới, viễn thông, phát triển hạ tầng... - Thiết lập một mặt bằng pháp lý chung để tạo dựng môi trường kinh doanh ổn định, bình đẳng giữa các loại hình đầu tư, tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư, tiến tới áp dụng một giá thống nhất cho cả hình thức đầu tư trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài, cải cách hệ thống thuế theo hướng đơn giản hoá... Bên cạnh đó, cần loại bỏ dần và cam kết không đặt ra bất kỳ hạn chế nào khác đối với việc thành lập và hoạt động của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (về hình thức đầu tư, phương thức góp vốn, thị trường tiêu thụ, chính sách ngoại hối, tỷ lệ nội địa hoá, tỷ lệ xuất khẩu, công nghệ, lao động...). - Đơn giản hoá thủ tục đầu tư, mở rộng diện các dự án đầu tư được đăng ký cấp phép, bãi bỏ các giấy phép không cần thiết gây cản trở, ách tắc đối với hoạt động đầu tư và công khai hoá các chính sách, quy định đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, đảm bảo nhất quán về chính sách đầu tư từ Trung ương đến các địa phương. Thủ tục sau khi cấp phép, đặc biệt trong vấn đề giải phóng mặt bằng, thu đổi ngoại tệ phải được đơn giản hoá rõ rệt. - Cung cấp thông tin kinh doanh cũng như nhanh chóng hoàn thiện công tác hành chính, đảm bảo các yếu tố trong sạch, trách nhiệm, giải thích rõ ràng và khả năng có thể dự đoán trước. Việt Nam phải phát triển hệ thống khuyến khích đầu tư, cung cấp thông tin ra các nước về cơ hội và môi trường đầu tư ở Việt Nam. Cho đến nay, các nhà đầu tư vẫn chưa có đủ thông tin thông qua Internet hoặc các websites. - Về vấn đề chuyển giao công nghệ, Chính phủ xem xét bãi bỏ các quy định hạn chế việc chuyển giao công nghệ của nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, như bãi bỏ quy định khống chế giá trị công nghệ chuyển giao dùng để góp vốn không được vượt quá 20% vốn pháp định. Việc bãi bỏ giới hạn về tỷ lệ góp vốn bằng giá trị công nghệ sẽ tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, đồng thời thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ hiện đại từ nước ngoài vào trong nước. 2.4. Điều chỉnh chính sách tài chính - tiền tệ Chính sách tài chính - tiền tệ, đặc biệt là chính sách tỷ giá hối đoái có vị trí quan trọng hàng đầu trong các chính sách thương mại. Trong quá trình hội nhập AFTA hướng tới hình thành đồng tiền chung, nền kinh tế nước ta đang gặp nhiều khó khăn nghiêm trọng: trong hầu hết mọi lĩnh vực kinh tế, chi phí sản xuất đều rất cao, làm cho giá hàng Việt Nam cao hơn, khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam thấp so với các nước trong khu vực. Theo ý kiến của nhiều chuyên gia kinh tế, để thoát khỏi tình trạng hiện nay, tự do hoá kinh tế nhanh và quyết liệt hơn kết hợp với phá giá vừa phải tỷ giá danh nghĩa là giải pháp phù hợp nhất. Tuy nhiên, việc phá giá tiền tệ là một trong những quyết định hết sức khó khăn và nhạy cảm vì nó liên quan đến rất nhiều khía cạnh của hoạt động kinh tế, xã hội và đời sống của dân chúng. Do đó, cần phải nghiên cứu thận trọng trước khi quyết định có phá giá nội tệ hay không. Phá giá nội tệ sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực đến các khoản nợ Chính phủ bằng ngoại tệ, đến thu nhập cố định của người lao động và sự ổn định xã hội. Đây là những yếu tố Việt Nam cần xem xét khi quyết định phá giá trong giai đoạn hiện nay. Nhìn một cách tổng thể, chúng ta sẽ được lợi nhiều hơn khi phá giá thêm đồng tiền Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Trong điều kiện Việt Nam tham gia AFTA , hướng tới hình thành đồng tiền chung, vấn đề chúng ta quan tâm nhất là phá giá tiền tệ làm nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế đều khẳng định phá giá tiền tệ chủ động, đủ tầm trong bối cảnh chưa phát sinh những mất cân bằng kinh tế trầm trọng sẽ có tác dụng rất lớn tới tăng cường sức cạnh tranh của nền kinh tế, tăng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu vì phá giá tiền tệ làm cho chi phí sản xuất trong nước thấp hơn giá cả quốc tế. 2.5. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động xúc tiến thương mại Xúc tiến thương mại là hoạt động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội buôn bán hàng hóa và dịch vụ thương mại, bao gồm các hoạt động chủ yếu như: thông tin thương mại, hội chợ, triễn lãm, quảng cáo, trưng bày giới thiệu hàng hoá, tư vấn và môi giới thương mại, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ để nâng cao năng lực kinh doanh,...Đương nhiên hoạt động xúc tiến thương mại gắn liền với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời là trách nhiệm của chính doanh nghiệp. Song không chỉ ở nước ta mà nhiều doanh nghiệp của các nước khác cũng không có khả năng đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm tìm kiếm thị trường và bạn hàng do thiếu kinh nghiệm nghiệp vụ, thiếu vốn. Do đó, Nhà nước không những cần chia sẻ, gánh vác mà còn quản lý và định hướng cho hoạt động quan trọng này. Để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả các hoạt động xúc tiến thương mại trong thời gian tới, Nhà nước và các tổ chức xúc tiến thương mại cần chú ý một số điểm sau: Thứ nhất, quán triệt đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xúc tiến thương mại ở tất cả các cấp nhằm mục đích hỗ trợ cho doanh nghiệp đón nhận được những cơ hội kinh doanh, giành phần thắng trong cuộc cạnh tranh thương mại trong khu vực. Thứ hai, Nhà nước sớm thống nhất, hoàn chỉnh thể chế và năng lực hành động của hệ thống xúc tiến thương mại trên cơ sở chiến lược xuất khẩu của cả nước, của từng ngành, từng địa phương ở những cung độ ngắn, trung, dài hạn. Thứ ba, xây dựng cơ sở hạ tầng cho hoạt động xúc tiến thương mại. Hiện nay ở trong nước, kể cả Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh rất thiếu địa điểm có trang thiết bị, phương tiện và tiện nghi để có thể tổ chức những cuộc triển lãm thương mại tầm cỡ khu vực và quốc tế. Thứ tư, đào tạo đội ngũ xúc tiến thương mại cho các doanh nghiệp từ ngoại ngữ, kiến thức luật pháp thương mại quốc tế, nghệ thuật đàm phán,... 2.6. Phát triển kinh tế - xã hội tạo việc làm để giải quyết thất nghiệp Chính phủ đã có những giải pháp chống suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng và bảo đảm an sinh xã hội; giải pháp kích cầu đầu tư, tiêu dùng… để thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo việc làm cho người lao động. Trong đó, phát triển kinh tế xã hội tạo việc làm là giải pháp cơ bản nhất, quan trọng nhất. Nhà nước cần tập trung một số chương trình phát triển kinh tế trọng điểm tạo việc làm, thu hút nhiều lao động gồm: Thứ nhất, các chương trình phát triển nông nghiệp và nông thôn - Tập trung thâm canh hơn 8 triệu ha đất nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, đặc biệt là những vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp hàng hoá, chú trọng đầu tư phát triển kinh tế trang trại. - Đầu tư, khai thác tiềm năng của các tỉnh đồng bằng để phát triển nuôi trồng thuỷ sản, khai thác tiềm năng biển, mở rộng nghề đánh bắt ngoài khơi, tạo việc làm và tăng kim ngạch xuất khẩu. - Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn như thuỷ lợi, kiên cố hoá kênh mương, giao thông nông thôn, các công trình phúc lợi nhằm tăng thời gian sử dụng lao động. Thứ hai, các chương trình phát triển công nghiệp và dịch vụ Phát triển công nghiệp và dịch vụ đóng vai trò quyết định đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, nâng cao chất lượng lao động và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Do đó, trong lĩnh vực việc làm cần chú trọng các chương trình: - Chương trình xây dựng và phát triển các khu công nghệ cao, chủ yếu ở các vùng kinh tế động lực, các đô thị lớn, thu hút lao động có trình độ cao để tăng sức cạnh tranh. - Chương trình xây dựng và phát triển các trung tâm văn hoá, thể thao, các khu du lịch. - Các công trình kinh tế-xã hội trọng điểm của Nhà nước: đường Hồ Chí Minh, thuỷ điện Sơn La, hoá dầu Dung Quất, sân bay, bến cảng,... thu hút nhiều lao động. Thứ ba, các chương trình mở rộng, phát triển làng nghề, xã nghề, phố nghề, các doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo việc làm mới và việc làm thêm cho người lao động, từng bước rút dần lao động nông thôn ra khỏi khu vực nông nghiệp. Năm 2008, riêng kim ngạch của làng nghề ước đạt 850 triệu USD (năm 2007, cả nước có 2.017 làng, đầu năm 2009 đã phát triển thành 2.790 làng nghề), giải quyết việc làm cho khoảng 11 triệu lao động. Khó khăn của các làng nghề ngày càng rõ do ảnh hưởng của suy giảm kinh tế toàn cầu, đó là hạn chế trong tiếp cận nguồn vốn, thị trường chưa phát triển, mẫu mã chậm cải tiến, công nghệ lạc hậu, diện tích sản xuất nhỏ, thiếu nhân lực có trình độ cao và ô nhiễm môi trường từ quá trình sản xuất…Theo thống kê, hiện có 60% doanh nghiệp làng nghề đang cầm cự, 20% bên bờ phá sản. Với tình trạng hiện nay, nhiều doanh nghiệp làng làng nghề có nguy cơ phá sản, nếu không có sự hỗ trợ kịp thời từ các ngành chức năng. Thứ tư, cùng với việc tăng cường giám sát thực hiện các giải pháp, Chính phủ và các ngành chức năng cần chú trọng hơn nữa đến chính sách đào tạo việc làm thích hợp cho người lao động, nhất là lao động nông thôn để họ có thể bắt kịp với sự biến đổi nhanh về nhu cầu lao động của nền kinh tế. Con số 73% lao động thất nghiệp, thiếu việc làm hiện nay là những người không qua đào tạo vẫn là điều các cơ quan chức năng cần quan tâm giải quyết. KẾT LUẬN Xu hướng liên kết với nhau ở một tập thể các nước lân cận, có chung điều kiện địa lý, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội đang là một xu hướng được nhiều khu vực nhắm đến, nhất là khu vực Đông Nam Á của chúng ta. Một đồng tiền chung của khu vực rõ ràng sẽ đóng góp rất lớn vào việc thúc đẩy kinh tế phát triển và củng cố thêm quá trình liên kết kinh tế của khu vực đó, phù hợp với trào lưu toàn cầu hóa. Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, các quốc gia Đông Nam Á đã quan tâm nhiều hơn đến hỗ trợ, hợp tác tài chính và tiền tệ trong khu vực. Gần đây nhiều quốc gia đã chú ý tới sự thay đổi bất thường của đồng USD để đánh giá hoạt động của đồng Yên Nhật Bản và EUR và từ đó ý tưởng về một đồng tiền chung của khu vực càng được quan tâm nhiều hơn nữa. Trong vấn đề này, ASEAN được lợi nhờ tham khảo kinh nghiệm từ đồng Euro. Theo đánh giá của các chuyên gia tài chính châu Á, việc ra đời của đồng tiền chung ASEAN sẽ nhanh hơn đồng Euro. ASEAN hiện đang có một viễn cảnh tốt khi các nước đều có kim ngạch thương mại lớn. Tuy nhiên quá trình hình thành và đưa vào sử dụng đồng tiền chung ở Đông Nam Á cũng sẽ gặp một số khó khăn. So với châu Âu, trình độ phát triển kinh tế các nước ASEAN chênh lệch sâu hơn. Việc đưa đồng tiền nội khối ASEAN vào hoạt động cần đòi hỏi sự cân nhắc, xem xét nhiều yếu tố như điều kiện kinh tế vĩ mô, hạ tầng thanh toán, khuôn khổ pháp lý về quản lý ngoại hối, tính chuyển đổi của đồng tiền… Trong thời gian tới các nước sẽ tiếp tục nghiên cứu, trao đổi về những mô hình nói trên để đưa ra một mô hình có tính khả thi cao nhất, đảm bảo mục tiêu hình thành cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015. Vì thế chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin tưởng vào sự hình thành một mô hình liên kết kinh tế chặt chẽ nhất sẽ được hình thành trong khu vực Đông Nam Á ở một tương lai không còn xa nữa. Và Việt Nam sẽ bước đến một vị trí mới trên bản đồ kinh tế thế giới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐồng tiền chung châu Âu Euro- Được và mất trong tình hình tài chính quốc tế hiện tại và khả năng hình thành đồng tiền chung ASEAN.doc
Luận văn liên quan