MỞ ĐẦU
Hiện nay ở Việt Nam, loại hình du lịch sinh thái phát triển khá mạnh mẽ, không chỉ thu hút các thị trường khách quốc tế mà còn nhận được sự quan tâm, tham gia của thị trường khách du lịch nội địa. Muốn đầu tư vào du lịch sinh thái có hiệu quả phải có cơ sở lý luận cơ bản về du lịch sinh thái, nghiên cứu mô hình cơ cấu tổ chức quản lý du lịch sinh thái, nghiên cứu các đối tượng tác động và các yêu cầu nguyên tắc để phát triển du lịch sinh thái bền vững .
Không chỉ trên lĩnh vực kinh tế, thương mại mà cả trên lĩnh vực môi trường, xã hội, văn hoá du lịch sinh thái cũng đóng vai trò quan trọng. Ngoài những lợi ích về kinh tế, thẩm mỹ, còn phải chú ý đến vần đề giáo dục môi trường, giữ gìn cảnh quan thiên nhiên và phát triển bền vững.
Để giải đáp một phần vấn đề trên, em xin chọn đề tài :“Du lịch sinh thái và phát triển du lịch sinh thái tại Vườn quốc gia Xuân Sơn”, với mong muốn được tìm hiểu thêm nhiều kiến thức cả về kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường sinh thái đồng thời đề xuất một số ý kiến nhằm bảo vệ và phát triển du lịch sinh thái tại VQG Xuân Sơn. Với điều kiện có hạn, em xin được giới hạn nội dung đề tài:
Chương I: Cơ sở lý luận về du lịch sinh thái
Chương II: Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái tại VQG Xuân Sơn
2.1. Giới thiệu chung
2.2. Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái
2.3. Thực trạng phát triển du lịch
Chương III: Một số biện pháp tiếp tục phát triển du lịch sinh thái tại VQG Xuân Sơn
3.1 Định hướng và giải pháp phát triển du lịch sinh thái
3.2 Dự án do Chính phủ Đan Mạch tài trợ:
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 2
CHƯƠNG I KHÁI QUÁT VỀ DU LỊCH SINH THÁI 4
1.1. Khái quát du lịch sinh thái: 4
1.2. Tất yếu về du lịch sinh thái tại Việt Nam 7
1.3. Những yêu cầu và nguyên tắc cơ bản để phát triển du lịch sinh thái 8
1.3.1. Những yêu cầu cơ bản để phát triển du lịch sinh thái 8
1.3.2. Những nguyên tắc cơ bản để phát triển du lịch sinh thái. 11
CHƯƠNG II TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI TẠI VQG XUÂN SƠN 14
2.1. Giới thiệu chung 14
2.2. Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái: 15
2.2.1. Đa dạng sinh học 15
2.2.2. Hang động kỳ thú 17
2.2.3. Bản sắc riêng độc đáo 18
2.2. Thực trạng phát triển du lịch 19
2.1.1. Những kết quả đạt được 19
2.2.2. Những vấn đề còn hạn chế 22
CHƯƠNG III MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI Ở VQG XUÂN SƠN 25
3.1. Định hướng và giải pháp phát triển du lịch sinh thái 25
3.1.1. Định hướng phát triển du lịch sinh thái 25
3.1.2. Giải pháp phát triển du lịch sinh thái ở VQG Xuân Sơn 25
3.2. Dự án do Chính phủ Đan Mạch tài trợ 33
KẾT LUẬN 36
TÀI LIỆU THAM KHẢO 38
38 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2947 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Du lịch sinh thái và phát triển du lịch sinh thái tại Vườn quốc gia Xuân Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phát triển kinh tế thông qua du lịch sinh thái là một xu thế tất yếu. Với tư cách là một ngành kinh tế mũi nhọn - Du lịch trong đó có Du lịch sinh thái ngày càng khẳng định vị thế của mình đối với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
1.3. Những yêu cầu và nguyên tắc cơ bản để phát triển du lịch sinh thái
1.3.1. Những yêu cầu cơ bản để phát triển du lịch sinh thái
Yêu cầu đầu tiên để có thể tổ chức được du lịch sinh thái là sự tồn tại của các hệ sinh thái tự nhiên điển hình với tính đa dạng sinh thái cao. Sinh thái tự nhiên được hiểu là sự cộng sinh của các điều kiện địa lý, khí hậu và động thực vật, bao gồm: sinh thái tự nhiên (natural ecology), sinh thái động vật (animal ecology), sinh thái thực vật (plant ecology), sinh thái nông nghiệp ( agri-cultural ecology), sinh thái khí hậu ( ecoclimate) và sinh thái nhân văn (human ecology).
Đa dạng sinh thái là một bộ phận và là một dạng thứ cấp của đa dạng sinh học, ngoài thứ cấp của đa dạng di truyền và đa dạng loài. Đa dạng sinh thái thể hiện ở sự khác nhau của các kiểu cộng sinh tạo nên các cơ thể sống, mối liên hệ giữa chúng với nhau và với các yếu tố vô sinh có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp lên sự sống như : đất, nước, địa hình, khí hậu... đó là các hệ sinh thái (eco- systems) và các nơi trú ngụ, sinh sống của một hoặc nhiều loài sinh vật (habitats) (Theo công ước đa dạng sinh học được thông qua tại Hội nghị thượng đỉnh Rio de Jannero về môi trường).
Như vậy có thể nói du lịch sinh thái là một loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên (natural - based tourism) (gọi tắt là du lịch thiên nhiên), chỉ có thể tồn tại và phát triển ở những nơi có các hệ sinh thái điển hình với tính đa dạng sinh thái cao nói riêng và tính đa dạng sinh học cao nói chung. Điều này giải thích tại sao hoạt động du lịch sinh thái thường chỉ phát triển ở các khu bảo tồn thiên nhiên (natural reserve), đặc biệt ở các vườn quốc gia (national park), nơi còn tồn tại những khu rừng với tính đa dạng sinh học cao và cuộc sống hoang dã. Tuy nhiên điều này không phủ nhận sự tồn tại của một số loại hình du lịch sinh thái phát triển ở những vùng nông thôn (rural tourism) hoặc các trang trại (farm tuorism) điển hình.
Yêu cầu thứ hai có liên quan đến những nguyên tắc cơ bản của du lịch sinh thái ở 2 điểm:
- Để đảm bảo tính giáo dục, nâng cao được sự hiểu biết cho khách du lịch sinh thái, người hướng dẫn ngoài kiến thức ngoại ngữ tốt còn phải là người am hiểu cac đặc điểm sinh thái tự nhiên và văn hoá cộng đồng địa phương. Điều này rất quan trọng và có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của hoạt động du lịch sinh thái, khác với những loại hình du lịch tự nhiên khác khi du khách có thể tự mình tìm hiểu hoặc yêu cầu không cao về sự hiểu biết này ở người hướng dẫn viên. Trong nhiều trường hợp, cần thiết phải cộng tác vói người dân địa phương để có được những hiểu biết tốt nhất, lúc đó người hướng dẫn viên chỉ đóng vai trò là một người phiên dịch giỏi.
- Hoạt động du lịch sinh thái đòi hỏi phải có được người điều hành có nguyên tắc. Các nhà điều hành du lịch truyền thống tường chỉ quan tâm đến lợi nhuận và không có cam kết gì đối với việc bảo tồn hoặc quản lý các khu tự nhiên, họ chỉ đơn giản tạo cho khách du lịch một cơ hội để biết được những giá trị tự nhiên và văn hoá trước khi những cơ hội này thay đổi hoặc vĩnh viễn mất đi. Ngược lại, các nhà điều hành du lịch sinh thái phải có được sự cộng tác với các nhà quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên và cộng đồng địa phương nhằm mục đích đóng góp vào việc bảo vệ một cách lâu dai các giá trị tự nhiên và văn hoá khu vực, cải thiện cuộc sống, nâng cao sự hiểu biết chung giữa người dân địa phương và du khách.
Yêu cầu thứ ba nhằm hạn chế tới mức tối đa các tác động có thể của hoạt động du lịch sinh thái đến tự nhiên và môi trường, theo đó du lịch sinh thái cần được tổ chức với sự tuân thủ chặt chẽ các quy định về “sức chứa”. Khái niệm “sức chứa” được hiểu từ bốn khía cạnh: vật lý, sinh học, tâm lý và xã hội. Tất cả những khía cạnh này có liên quan tới lượng khách đến một địa điểm vào cùng một thời điểm.
Đứng trên góc độ vật lý, “sức chứa” ở đây được hiểu là số lượng tối đa khách du lịch mà khu vực có thể tiếp nhận. Điều này liên quan đến những tiêu chuẩn về không gian đối với mỗi du khách cũng như nhu cầu sinh hoạt của họ.
Đứng ở góc độ xã hội, sức chứa là giới hạn về lượng du khách mà tại đó bắt đầu xuất hiện những tác động tiêu cực của các hoạt động du lịch đến đời sống văn hoá - xã hội, kinh tế - xã hội của khu vực. Cuộc sống bình thường của cộng đồng địa phương có cảm giác bị phá vỡ, xâm nhập.
Đứng ở góc độ quản lý, sức chứa được hiểu là lượng khách tối đa mà khu du lịch có khả năng phục vụ. Nếu lượng khách vượt quá giới hạn này thì năng lực quản lý (lực lượng nhân viên, trình độ và phương tiện quản lý...) của khu du lịch sẽ không đáp ứng được yêu cầu của khách, làm mất khả năng quản lý và kiểm soát hoạt động của khách, kết quả là sẽ làm ảnh hưởng đến môi trường và xã hội.
Do khái niệm sức chứa bao gồm cả định tính và định lượng, vì vậy khó có thể xác định một con số chính xác cho mỗi khu vực. Mặt khác, mỗi khu vực khác nhau sẽ có chỉ số sức chứa khác nhau. Các chỉ số này chỉ có thể xác định một cách tương đối bằng phương pháp thực nghiệm.
Một điểm cần phải lưu ý trong quá trình xác định “sức chứa” là quan niệm về sự đông đúc của các nhà nghiên cứu có sự khác nhau, đặc biệt trong những điều kiện phát triển xã hội khác nhau (ví dụ giữa các nước châu Á và châu Âu, giữa các nước phát triển và đang phát triển...). Rõ ràng để đáp ứng yêu cầu này, cần phải tiến hành nghiên cứu sức chứa của các địa điểm cụ thể để căn cứ vào đó mà có các quyết định về quản lý. Điều này cần được tiến hành đối với các nhóm đối tượng khách hoặc thị trường khác nhau, phù hợp tâm lý và quan niệm của họ. Du lịch sinh thái không thể đáp ứng được các nhu cầu của tất cả cũng như mọi loại khách.
Yêu cầu thứ tư là thoả mãn nhu cầu nâng cao kiến thức và hiểu biết của khách du lịch. Việc thoả mãn mong muốn này của khách du lịch sinh thái về những kinh nghiêm, hiểu biết mới đối với tự nhiên, văn hoá bản địa thường là rất khó khăn, song lại là yêu cầu cần thiết đối với sự tồn tại lâu dài của ngành du lịch sinh thái. Vì vậy, những dịch vụ để làm hài lòng du khách có vị trí quan trọng chỉ đứng sau công tác bảo tồn những gì mà họ quan tâm.
1.3.2. Những nguyên tắc cơ bản để phát triển du lịch sinh thái.
Thị trường du lịch sinh thái hiện nay đang phát triển mạnh so với các thi trường khác. Song sự phát triển nhanh chóng này đe doạ tính bền vững của du lịch sinh thái và mở rộng ra những cái có thể đóng góp cho sự phát triển bền vững. Du lịch sinh thái bản thân nó bị giới hạn phạm vi, mức độ phát triển. Nó không thể tiếp nhận một số lượng lớn du khách mà không phải là nguyên nhân dần dần làm thay đổi dẫn đến sự phá huỷ lý do mà nó tồn tại. Vì vậy vấn đề trọng tâm trong việc phát triển du lịch sinh thái bền vững là sự kiểm soát hạn chế những nguyên tắc xử lý và thực hiện.
Du lịch sinh thái bền vững đóng góp tích cực cho sự phát triển bền vững. Điều đó không có nghĩa là luôn có sự tăng trưởng liên tục về du lịch. Đây là điểm khác biệt cần nhấn mạnh trong thời điểm mà Việt nam bắt đầu lo lắng về tốc độ tăng trưởng của du lịch .
Du lịch sinh thái được phân biệt với các loại hình du lịch thiên nhiên khác về mức độ giáo dục cao về môi trường và sinh thái thông qua những hướng dẫn viên có nghiệp vụ lành nghề. Du lịch sinh thái chứa đựng mối tác động qua lại lớn giữa con người và thiên nhiên hoang dã cộng với ý thức được giáo dục nhằm làm cho những khách du lịch thành những người đi đầu trong việc bảo vệ môi trường. Phát triển du lịch sinh thái làm giảm tối thiểu tác động của khách du lịch đến văn hoá và môi trường, đảm bảo cho địa phương được hưởng nguồn lợi tài chính do du lịch mang lại và cần trú trọng đến những đóng góp tài chính cho việc bảo tồn thiên nhiên.
Sau đây là những nguyên tắc cơ bản về du lịch sinh thái:
- Du lịch sinh thái phải phù hợp với những nguyên tắc tích cực về môi trường, tăng cường và khuyến khích trách nhiêm đạo đức đối với môi trường tự nhiên .
- Du lịch sinh thái là không được làm tổn hại đến tài nguyên, môi trường, những nguyên tắc về môi trường không những chỉ áp dụng cho những nguồn tài nguyên bên ngoài (tự nhiên và văn hoá) nhằm thu hút khách mà còn bên trong của nó.
- Du lịch sinh thái phải tập trung vào các giá trị bên trong hơn là các giá trị bên ngoài và thúc đẩy sự công nhận các giá trị này .
- Các nguyên tắc về môi trường và sinh thái cần phải đạt lên hàng đầu do đó mỗi người khách du lịch sinh thái sẽ phải chấp nhận tự nhiên theo đúng nghĩa của nó và chấp nhận sự hạn chế của nó hơn là làm biến đổi môi trường cho sự thuận tiện cá nhân.
- Du lịch sinh thái phải đảm bảo lợi ích lâu dài đối với tài nguyên, đối với địa phương và đối với ngành (lợi ích về bảo tồn hoặc lợi ích về kinh tế, văn hoá, xã hội hay khoa học ).
- Du lịch sinh thái phải đưa ra những kinh nghiệm đầu tay khi tiếp xúc với môi trường tự nhiên, đó là những kinh nghiêm được hoà đồng làm tăng sự hiểu biết hơn là đi tìm cái lạ cảm giác mạnh hay mục đích tăng cường thể trạng cơ thể.
- Ở đây những kinh nghiệm có tác động lớn và có nhận thức cao nên đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ càng của cả người hướng dẫn và các thành viên tham gia .
- Cần có sự đào tạo đối với tất cả các ban ngành chức năng: địa phương, chính quyền, tổ chức đoàn thể, các hãng lữ hành và các khách du lịch (trước, trong và sau chuyến đi).
- Thành công đó phải dựa vào sự tham gia của địa phương, tăng cường sự hiểu biết và sự phối hợp với các ban nghành chức năng.
- Các nguyên tắc về đạo đức, cách ứng sử và nguyên tắc thực hiện là rất quan trọng. Nó đòi hỏi cơ quan giám sát của ngành phải đưa ra các nguyên tắc và các tiêu chuẩn được chấp nhận và giám sát toàn bộ các hoạt động.
- Là một hoạt động mang tính chất quốc tế, cần phải thiết lập một khuôn khổ quốc tế cho ngành.
CHƯƠNG IITIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁITẠI VQG XUÂN SƠN
2.1. Giới thiệu chung
Vườn quốc gia Xuân Sơn nằm về phía Tây Nam của huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ, trên vùng tam giác ranh giới giữa 3 tỉnh: Phú Thọ, Hoà Bình, và Sơn La. Đây là khu vực núi đá vôi có hệ sinh thái rừng điển hình của miền Bắc. Năm 2002, theo QĐ số: 49/ QĐ – TTg ngày 17 tháng 4 năm 2002 của Thủ tướng chính phủ, khu Bảo tồn thiên nhiên Xuân Sơn đã được chuyển hạng thành Vườn quốc gia Xuân Sơn.
Vị trí địa lý:
Tọa độ địa lý:
21003’ đến 21012’ vĩ độ Bắc.
104051’ đến 105001’ kinh độ Đông.
Phía Bắc giáp xã Thu Cúc
Phía Nam giáp với huyện Đà Bắc tỉnh Hoà Bình
Phía Tây giáp huyện Phù Yên tỉnh Sơn La
Phía Đông giáp các xã: Tân Phú, Mỹ Thuận, Long Cốc và Vinh Tiền
Phía Tây Nam giáp khu Bảo tồn thiên nhiên Phu Canh và Hồ thuỷ điện Hoà Bình
Phía Tây Bắc giáp khu Bảo tồn thiên nhiên Tà Xùa và Hồ Thuỷ điện Sơn La
Cách Khu di tích lịch sử Đền Hùng – TP Việt Trì : 90 Km
Cánh TP Hà Nội: 120Km
Địa hình:
Vườn quốc gia Xuân Sơn nằm trên hệ thống núi đá vôi có độ cao từ 700 đến 1.300 m. Trong khu vực có rất nhiều hang đá kết hợp với hệ thống hang động, sông suối và rừng tự nhiên tạo cho VQG Xuân Sơn có cảnh quan đẹp, hùng vĩ và hấp dẫn.
Diện tích
Vườn quốc gia Xuân Sơn có diện tích vùng đệm 18.369 ha, trong đó diện tích vùng lõi là 15.048 ha khu vực bảo vệ nghiêm ngặt là 11.148 ha, phân khu phục hồi sinh thái kết hợp bảo tồn di tích lịch sử: 3.000 ha phân khu hành chính, dịch vụ: 900 ha. Điểm đặc trưng của Xuân Sơn là vườn quốc gia duy nhất có rừng nguyên sinh trên núi đá vôi (2.432 ha). Xuân Sơn được đánh giá là rừng có đa dạng sinh thái phong phú, đa dạng sinh học cao, đa dạng địa hình kiến tạo tạo nên đa dạng cảnh quan.
Diện tích vùng đệm của Vườn quốc gia Xuân Sơn là 18.639 ha, bao gồm các xã: Kiệt Sơn, Lai Đồng, Minh Đài và một phần các xã: Đồng Sơn, Tân Sơn, Kim Thượng, Xuân Đài, đều cùng huyện.
2.2. Tiềm năng phát triển du lịch sinh thái:
2.2.1. Đa dạng sinh học
VQG Xuân Sơn có hệ động thực vật phong phú bao, nhiều sinh cảnh quan độc đáo bao gồm rừng nhiệt đới vẫn mang tính nguyên sinh, phân bố trên núi đất và núi đá vôi vùng thấp; với 7 hệ sinh thái chính: rừng trên núi đá vôi; rừng trên núi đất; trảng cỏ cây bụi, tre nứa; nông nghiệp; khu dân cư; rừng trồng và hệ sinh thái các thủy vực. Đặc biệt, hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi có nhiều nét độc đáo, tuy có bị tác động nhưng vẫn giữ được dáng vẻ nguyên sinh, với diện tích khoảng 1.661ha.
Với độ cao tối đa so với mặt biển là 1.386m (đỉnh núi Voi), vùng núi đá vôi Xuân Sơn ở độ cao dưới 700m được che phủ bởi kiểu thảm thực vật rừng kín thường xanh cây lá rộng, ẩm, nhiệt đới, cấu trúc 5 tầng, trong đó tầng vượt tán gồm những cây gỗ lớn, đường kính hàng mét, cao tới 30-35m như: sâng, trai, nghiến… Nhiều cây quý hiếm có giá trị bảo tồn và có giá trị kinh tế cao như: lát, kim giao, chò chỉ, nghiến, củ dòm... Ở độ cao từ 700m trở lên, là kiểu thảm thực vật rừng kín thường xanh, cây lá rộng á nhiệt đới. Ngoài một số loại thường xanh hay rụng lá thuộc các họ long não, dẻ, hồ đào v.v.. còn gặp một số loại thuộc ngành hạt trần như dẻ tùng sọc trắng hẹp, kim giao núi đá, thông tre lá dài. Cấu trúc của kiểu rừng này có 4 tầng, không có tầng vượt tán, tầng ưu thế sinh thái cao tối đa không vượt quá 25m. Cả hai kiểu thảm thực vật vừa nêu hiện không có nhiều ở nước ta.
Hệ thực vật ở đây thống kê được là 1.179 loài, 650 chi, 175 họ của 5 ngành thực vật bậc cao, chiếm 11% tổng số loài, 28% tổng số chi và 57% tổng số họ của hệ thực vật Việt Nam. Trong đó có 46 loài được ghi trong Sách đỏ, Danh lục đỏ Việt Nam và Nghị định 32/CP của Chính phủ, trong đó, 14 loài thuộc nhóm EN (nguy cấp), 30 loài thuộc nhóm VU (sẽ nguy cấp), 1 loài thuộc nhóm LR (ít nguy cấp) và 1 loài thuộc nhóm IIA (hạn chế khai thác và sử dụng). Ngoài giá trị về mặt khoa học, hệ thực vật Xuân Sơn còn là nguồn tài nguyên có ý nghĩa kinh tế, trong đó có 541 loài (chiếm 44,5% tổng số loài của hệ thực vật) là cây thuốc; 249 loài cho gỗ; 145 loài làm thức ăn; 95 loài làm cây cảnh,…
Sự đa dạng của các hệ sinh thái làm nền tảng cho sự hình thành các kiểu thảm thực vật khác nhau, không chỉ tạo ra sự phong phú về thành phần loài của hệ thực vật mà cho cả hệ động vật vì các hệ sinh thái là nơi cư trú, cung cấp thức ăn cho các loài động vật. Kết quả điều tra, khảo sát động vật có xương sống đã thống kê được 76 loài thú thuộc 24 họ, 8 bộ, 241 loài chim thuộc 50 họ, 16 bộ; 75 loài bò sát, ếch nhái thuộc 20 họ, 5 bộ và 91 loài cá thuộc 23 họ, 7 bộ. Hệ động vật có nhiều loài được ghi vào Sách Đỏ Việt Nam (2007), Danh lục đỏ Việt Nam (2007) và Nghị định 32/CP, trong đó thú có 29 loài, chim 188 loài, bò sát ếch nhái có 22 loài và cá 5 loại. Về chim hiện có một quần thể công khoảng 30-40 cá thể. Đây là quần thể công duy nhất còn tồn tại ở Vườn quốc gia Xuân Sơn. Ngoài ra còn có nhiều loài động vật đặc hữu được ghi nhận như: vượn đen tuyền, voọc xám, vượn đen má trắng, sóc bay lớn, các loài khỉ, cú lợn rừng... Nhiều loài động vật có giá trị bảo tồn cao như: hổ, báo hươu, nai, báo gấm, gấu ngựa, sơn dương, vượn đen... Có 32 loài thực vật, 64 loài động vật quý hiếm được ghi trong sách Đỏ Việt Nam và sách Đỏ thế giới.
Kết hợp với các hệ sinh thái nêu trên đã tạo cho VQG Xuân Sơn một cảnh quan đẹp hùng vĩ và hấp dẫn. Có thể nói, đây là mẫu rừng nguyên sinh độc đáo còn lại hiếm hoi của rừng miền Bắc cũng như của Việt Nam. Đồng thời, đây cũng nguồn tài nguyên quý để phát triển loại hình du lịch sinh thái của VQG Xuân Sơn – Phú Thọ nói riêng và Du lịch Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, để biến tiềm năng thành hiện thực, cần biết liên kết hài hòa giữa tri thức với các nguồn tài nguyên thiên nhiên hiện có.
2.2.2. Hang động kỳ thú
Đáng chú ý là trong hệ thống núi đá vôi đã phát hiện được một hệ thống hang động phong phú, đa dạng và độc đáo do thiên nhiên ban tặng, đó là nhiều hang động đẹp có nét hấp dẫn riêng và độc đáo như: hang Lun, hang Lạng. Tại hang Lun có nhiều nhũ thạch đẹp, hang Lạng cao trung bình tới 10m, có nơi cao tới 20-30m, rộng trung bình khoảng 10 - 15m, hang này còn có suối chảy qua với chiều dài trên 7.000m. Ngoài ra, ở khu vực xóm Lấp, xóm Cỏi còn có khoảng 30 hang động khác nằm trong những núi đá thiên tạo, được tô điểm bởi các loài thực vật có hoa, có âm thanh dấu vết của các loài chim, thú, côn trùng... hoàn toàn tạo cảm giác khám phá mới mẻ cho khách du lịch và có ý nghĩa sinh học như: hang Dơi, hang Cửa Đất, hang Lấp, hang Ông Lão, động Thử Thần. Đặc biệt, động Thử Thần là một hang động có lối xuống nhỏ hẹp, thẳng đứng, chỉ đủ một người xuống nhưng khi vào trong rất rộng, có sức chứa hàng trăm người, trong hang có nhiều nhũ thạch đẹp lộng lẫy, có nhũ thạch cao tới 10m, khi gõ tiếng kêu vang lớn như tiếng chuông với nhiều âm thanh khác nhau, đặc biệt là các hang động này ở gần khu dân cư rất dễ tiếp cận.
2.2.3. Bản sắc riêng độc đáo
Ở Xuân Sơn, với sự ẩn chứa trong mình một vùng du lịch sinh thái có tiềm năng lớn cần được khai thác, du khách còn được khám phá những nét văn hóa độc đáo của người Mường, người Dao là những dân tộc đại diện của vùng trung tâm Bắc bộ. Với tục cạy cửa độc đáo của người Dao, thưởng thức món rau sắng ngọt, thịt chua, để tin sính lễ Sơn Tinh: gà chín cựa – một vật quý của người Dao từ thượng cổ là con gia cầm có thật. VQG Xuân Sơn ở độ cao 1.244m, trong rừng đỗ quyên, trúc và trà my còn có cá cóc được đặc biệt coi là quý hiếm. Các nhà khoa học đang nghiên cứu nhằm tìm ra hoạt chất khiến nó có khả năng liền tay, chân và liền đuôi sau một thời gian bị đứt rời.
VQG Xuân Sơn còn có chuối cô đơn, đây cũng lại là một loại cây lạ mới chỉ được phát hiện ở Hòa Bình và Khu bảo tồn Tà Cú, Bình Thuận. Chuối cô đơn, hay còn gọi là chuối bạc hà thường sống đơn độc giữa rừng già. Nó trồng bằng hạt chứ không có chuối con ấp mẹ như chuối thường. Cây cao tới 3m, đường kính thân chỗ to 0,60m, thon vót lên ngọn; bản lá có kích thước 0,60m x 3m. Cây thân kép, màu xanh nhạt có phủ lớp sáp trắng. Rất ít khi ra hoa nhưng đã ra hoa thì cực kỳ lạ: hoa chuối màu xanh cốm, rất to, đậu ít quả nhưng nhiều hạt.
Tiềm năng du lịch của VQG Xuân Sơn hết sức độc đáo, đa dạng và hấp dẫn đang rất cần có sự quan tâm đầu tư của các cấp, các ngành trong chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội cũng như khai thác tiềm năng du lịch nói chung và phát triển du lịch sinh thái nói riêng.
2.2. Thực trạng phát triển du lịch
Tuy có tiềm năng to lớn, nhưng du lịch sinh thái trong phạm vi cả nước nói chung và trong VQG Xuân Sơn nói riêng còn đang trong giai đoạn đầu của sự phát triển. Các hoạt động đa số mang tính tự phát, chưa có sản phẩm và đối tượng phục vụ rõ ràng, chưa có sự đầu tư quảng bá, nghiên cứu thị trường và công nghệ phuc vụ cho du lịch sinh thái, chưa có sự quan tâm, quản lý chặt chẽ của các cấp các ngành do vậy mà thực tế là sự đa dạng sinh học đang bị đe doạ. Vì vậy nên còn phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức và nhiều vấn đề cần được đưa ra xem xét, tìm hiểu để có hướng giải quyết với xu thế phát triển bền vững. Sự phát triển hiện nay vẫn đứng trước những thực trạng lớn là mối quan tâm chính của các tổ chức, các nhà đầu tư và các cấp quản lý.
2.1.1. Những kết quả đạt được
Để biến nguồn tiềm năng du lịch thành hiện thực phải bám sát mục tiêu và phương hướng mà đề án phát triển du lịch đã đề ra. Phát huy nội lực, ưu tiên phát triển kinh tế phục vụ du lịch, từng bước đưa kinh tế phục vụ du lịch trở thành ngành kinh tế có thế mạnh, chiếm tỷ trọng cao trên cơ sở phát huy các lợi thế về địa lý, tài nguyên, sản phẩm truyền thống của địa phương giúp chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế của huyện. Huy động các thành phần kinh tế, chính trị và cộng đồng tham gia sản xuất hàng hóa phục vụ du lịch dưới sự chỉ đạo, quản lý của cấp ủy, chính quyền các cấp vừa thu hút nguồn lực vừa giải quyết việc làm trên địa bàn huyện.
Phát triển kinh tế phục vụ du lịch theo hướng bền vững đi đôi với phát triển văn hóa, giữ gìn bản săc văn hóa truyền thống, tăng cường giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, tài nguyên thiên nhiên. Nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân. Từ đó góp phần đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý theo hướng dịch vụ - nông, lâm nghiệp - công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp vào năm 2015 - 2020. Tạo việc làm cho trên 8.000 lao động trong phát triển kinh tế phục vụ du lịch, tăng sự hấp dẫn, thu hút khách du lịch đến với các điểm du lịch của huyện đã được quy hoạch, từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Để đạt được mục tiêu đó huyện sẽ chỉ đạo triển khai các chương trình chủ yếu đó là: Sản xuất các sản phẩm phục vụ du lịch từ trồng trọt gồm: Phát triển giống lúa chất lượng cao - nếp đặc sản; trồng ngô địa phương (ngô nếp); trồng khoai tầng; trồng chuối phấn vàng; thâm canh chè chất lượng cao (chè PT95, Hùng Đỉnh Bạch, Phúc Vân Tiên, Keo Am Tích) chè Bát Tiên, chè Núi Thiếp; trồng và khai thác cây rau bản địa (rau chuôi, rau sắng, rau dớn, cải nương, hoa chuối rừng, măng đắng, vừng đen); trồng, khai thác, chế biến các loại cây thuốc, dược liệu quý.
Phát triển các sản phẩm phục vụ du lịch từ chăn nuôi gồm có: Chương trình nuôi gà nhiều cựa, gà ri, gà tre, chăn nuôi vịt suối, nuôi lợn lửng, lợn rừng lai, nuôi ong lấy mật, phát triển đàn dê. Đồng thời cũng tập trung cho chương trình sản xuất các sản phẩm ẩm thực, sản xuất các sản phẩm đặc trưng mang bản sắc dân tộc, bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống.
Mấy năm gần đây khi UBND tỉnh Phú Thọ đặt một trong năm mũi nhọn phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh là phát triển du lịch sinh thái ở Xuân Sơn. Chính điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển tiềm năng du lịch nơi đây. Tỉnh đã đầu tư hàng chục tỷ đồng để mở đường vào khu rừng quốc gia. Cán bộ và nhân dân Xuân Sơn ngày càng có ý thức sâu sắc bảo vệ, nuôi dưỡng cảnh đẹp và những gì quý giá mà thiên nhiên ban tặng để tạo ra môi trường du lịch thật tốt. Việc quan trọng đầu tiên là phải bảo vệ rừng. Để ngăn chặn những kẻ phá rừng, hai hạt kiểm lâm: Thanh Sơn và Xuân Sơn đã đặt hai trạm gác rừng ở thế hiểm yếu của đường bộ, đường sông là: trạm Co - Minh Đài ở phía nam, trạm Vèo - Kiệt Sơn ở phía bắc, tuy chỉ là nhà tạm (tranh tre, nứa lá) song với tinh thần trách nhiệm làm việc hết mình của anh em ở trạm gác, nạn khai thác và vận chuyển gỗ trái phép được ngăn chặn. Các trạm sau này xây dựng theo sơ đồ hệ sinh thái khép kín nhiều tác dụng với hai chức năng chính là bảo vệ rừng và xây dựng vốn rừng đã phát huy tác dụng. Bên cạnh đó, cán bộ, nhân viên của vườn còn làm nhiều việc khác như khuyến lâm, chuyển giao công nghệ cho nhân dân địa phương, hướng dẫn khách tham quan, nghiên cứu khoa học... Các trạm đã được xây dựng kiên cố và có những vườn ương giống cây rất rộng để cung cấp cây giống đặc sản cho bà con các dân tộc trong vùng như: rau sắng, chè đắng, vầu đắng, dổi... Các nhân viên của trạm đến các xóm người Dao, người Mường như về nhà, vận động tuyên truyền bảo vệ Vườn quốc gia, hướng dẫn bà con trồng và khai thác lâm sản thành hàng hóa hợp lý,... Họ thật sự sống trong lòng dân được dân yêu mến, tin cậy; trong Vườn quốc gia Xuân Sơn hiện nay có mười xóm hầu hết là người Mường, Dao giữ được bản sắc dân tộc độc đáo qua trang phục, những điệu hát xoan, ghẹo và múa xòe. Người dân ở đây còn phát huy tốt các mặt hàng thủ công và dệt thổ cẩm... Việc giao đất lâm nghiệp đến hộ gia đình, phát triển kinh tế trang trại vừa và nhỏ, thực hiện các dự án trồng rừng... đã khuyến khích nhân dân tích cực tham gia bảo vệ, nuôi dưỡng vườn quốc gia, hiện tượng phá rừng không còn nữa. Nhất là từ khi có chủ trương phát triển du lịch ở đây thì nhân dân càng có ý thức hơn về vấn đề này.
2.2.2. Những vấn đề còn hạn chế
Đi liền với nét nguyên sơ của rừng của một vùng tự nhiên mang đậm chất hoang dã thì văn hoá văn minh của vùng đất này cũng mang những yếu tố như vậy. Với chủ yếu là người dân tộc thiểu số với tập quán đời sống còn lạc hậu. Khu vực chính và vùng đệm của vườn có tám xã thì bảy xã thuộc diện đặc biệt khó khăn, tập quán của đồng bào sống dựa vào tự nhiên, canh tác trên đất dốc bằng phát, đốt cây cỏ, chọc lỗ gieo hạt, thả rông gia súc, vào rừng. Với tập quán trên thì chuyện chặt phá rừng và săn bắt bừa bãi là đương nhiên. Đi cùng với chúng là sự đói nghèo và dân trí thấp. Đời sống của các hộ dân ở đây là đặc biệt khó khăn, cơ sở vật chất thiếu thốn và nhận thức còn hạn chế vì vậy để phát triển du lịch thì cần khắc phục yếu tố về đời sống, dân trí và kết cấu hạ tầng tại chính điểm du lịch này nhằm mang lại hiệu quả cao nhất.
Công tác bảo vệ rừng, xây dựng ý thức của người dân và trồng rừng cũng là một trong những vấn đề đặt ra hiện nay. Trước đây ở trong Vườn cũng có Hạt kiểm lâm là đơn vị thuộc ngành kiểm lâm của tỉnh có nhiệm vụ bảo vệ rừng nhưng cuối năm 2007 đã giải thể. UBND tỉnh giao cho Vườn quốc gia quản lý, bảo vệ, phát triển và sử dụng vườn. Trong điều kiện biên chế mỏng (có 30 biên chế) kinh phí eo hẹp như một đơn vị sự nghiệp công lập mà nhiệm vụ bảo vệ rừng thì khá nặng nề, hơn nữa pháp lý bảo vệ rừng từ trước đến nay thuộc về ngành kiểm lâm. Vậy là trong hệ thống gần 30 vườn quốc gia, chỉ có Xuân Sơn là không có hạt kiểm lâm. Mà quản lý và bảo vệ rừng cần phải có tổ chức, quy định và đúng pháp luật. Vậy giữ rừng bằng cách nào? Bây giờ tuy đã có Hạt kiểm lâm đã có công tác tổ chức quản lý nhưng vấn đề đặt ra là cần có sự quan tâm thoả đáng của các cấp, ban ngành để có một đội ngũ bảo vệ rừng, trồng rừng và là người đi đầu trong công tác hướng dẫn, quản lý dân trồng rừng và bảo vệ rừng, nuôi dưỡng duy trì nó.
Tiếp đến là cơ sở vật chất kĩ thuật kém. Điện, đường, trường trạm không có đi liền với văn hoá thấp. Chưa được đầu tư đúng mức, có quy hoạch và liền mạch. Với kinh phí nhà nước thì rất eo hẹp và các ban ngành của địa phương hay các cấp thì chưa thực sự nhận thấy tầm quan trọng của điểm du lịch này để quan tâm và rót kinh phí phù hợp. Mà đây là một trong những yếu tố nền tảng để phát triển du lịch, thu hút du lịch và khách du lịch. Dù hiện nay đã có đẩu tư nước ngoài với dự án viện trợ không hoàn lại của Đan Mạch nhưng cũng trong giai đoạn đầu và vẫn cần phải có sự hỗ trợ của chính cơ sở tại địa phương, cấp tỉnh, trung ương.
Huyện Tân Sơn có nhiều điều kiện để phát triển các cơ sở kinh tế phục vụ cho khách du lịch mang bản sắc riêng nhưng hiện nay chỉ đáp ứng yêu cầu phục vụ tại chỗ, tự cung, tự cấp, nhiều sản phẩm của địa phương đã được đánh giá cao và thị trường ưa thích như: Gà nhiều cựa, gà ri, gà tre, vịt suối, lợn rừng, lợn rừng lai, lợn lửng, dê, cá suối, lúa nếp, rau sắng, rau chuôi, khoai tầng, chuối phấn vàng, dệt thổ cẩm…
Hoạt động kinh doanh du lịch, dịch vụ du lịch đã bắt đầu xuất hiện khi Xuân Sơn được công nhận là Vườn quốc gia và bắt đầu hình ảnh là một điểm đến tiềm năng thu hút khách du lịch Xuân Sơn có nhiều điều kiện để phát triển các cơ sở kinh tế phục vụ cho khách du lịch mang bản sắc riêng nhưng hiện nay chỉ đáp ứng yêu cầu phục vụ tại chỗ, tự cung, tự cấp, nhiều sản phẩm của địa phương đã được đánh giá cao và thị trường ưa thích như: Gà nhiều cựa, gà ri, gà tre, vịt suối, lợn rừng, lợn rừng lai, lợn lửng, dê, cá suối, lúa nếp, rau sắng, rau chuôi, khoai tầng, chuối phấn vàng, dệt thổ cẩm…cũng chỉ mang tính nhỏ lẻ, không có tổ chức quy mô rõ ràn hay sự thống nhất chung của các cơ sở kinh doanh để tạo một hình ảnh quảng bá đặc trưng cho du lịch nơi đây.
Cơ cấu lao động với trình độ gần như không có bởi chủ yếu là dân bản địa tự phát không được đào tạo và có nghiệp vụ cũng như chuyên môn trong nghành. Chưa biết cách hoạt động trong kinh doanh và phục vụ du lịch nên khả năng thu hút khách rất thấp đặc biệt là khách quay trở lại.
Trên đây là một số thực trạng mà chúng tôi khai thác được trên một số khía cạnh nổi bật còn tồn tại trong quy hoạch phát triển của Vườn quốc gia xuân Sơn. Cần phải có biện pháp khắc phục và thay đổi, đổi mới để vườn quốc gia trở thành điểm đến du lịch xứng đáng với tiềm năng của nó.
CHƯƠNG IIIMỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI Ở VQG XUÂN SƠN
3.1. Định hướng và giải pháp phát triển du lịch sinh thái
3.1.1. Định hướng phát triển du lịch sinh thái
Phát triển du lịch sinh thái phải hướng tới và đạt được sự phát triển bền vững của chính loại hình du lịch sinh thái và phải trở thành nhân tố tích cực đảm bảo, phục vụ cho phát triển du lịch bền vững. Đưa du lịch sinh thái ngày càng trở thành một nhân tố quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội tạo môi trường thuận lợi để thu hút khách du lịch trong nước và trên trường quốc tế, xây dựng những chứng chỉ sinh thái tạo ra việc quản lý nguồn tài nguyên một cách hợp lý, giảm chi phí và tăng tính cạnh tranh, hấp dẫn du khách mà không gây ra tác động xấu lên môi trường đang ngày trở lên cần thiết.
Phát triển du lịch sinh thái là một xu thế tất yếu. Du lịch sinh thái phát triển nhằm thoả mãn nhu cầu ngày một tăng của khách du lịch, của cộng đồng. Nhu cầu này liên quan chặt chẽ đến sự phát triển không ngừng của xã hội, đảm bảo về tổng thể một tương lai phát triển lâu dài của du lịch,với tư cách là một ngành kinh tế.
3.1.2. Giải pháp phát triển du lịch sinh thái ở VQG Xuân Sơn
Những giải pháp cần thiết để phát triển du lịch sinh thái ở nước ta nói chung là cần có những văn bản pháp quy tạo hành lang môi trường pháp lý cho hoạt động du lịch sinh thái có cơ hội phát triển, có những cơ chế, chính sách ưu đãi dành riêng cho loại hình du lịch mới mẻ này. Đồng thời cần có sự phối hợp tốt giữa các cơ quan quản lý và du lịch với các bộ, các ngành, các địa phương quản lý có hiệu quả. Việc sử dụng, khai thác tài nguyên thiên nhiên môi trường sinh thái vào mục đích du lịch theo những mục tiêu, định hướng đã đề ra.
Cụ thể tại VQG Xuân Sơn là:
Giáo dục - đào tạo và tuyên truyền về du lịch sinh thái:
Giải pháp thiết yếu nhất chính là tuyên truyền, giáo dục về du lịch sinh thái cho một loạt các đối tượng liên quan đến du lịch sinh thái. Đối tượng giáo dục bao gồm: các nhà quản lý VQG, các hướng dẫn viên, các nhà hoạch định chính sách liên quan đến bảo tồn và du lịch, cộng đồng địa phương, khách du lịch trong và ngoài nước.
Bằng cách tuyên truyền, giáo dục các vấn đề khúc mắc khác có thể được dễ dàng tháo gỡ. Chẳng hạn như giáo dục tuyên truyền đối với các nhà hoạch định chính sách và các nhà quản lý khu bảo tồn thiên nhiên có thể làm cho họ quan tâm hơn đến việc quy hoạch cho du lịch sinh thái. Đối với họ cần phải không chỉ chú trọng tới lợi ích bảo tồn của du lịch sinh thái mà nên nhấn mạnh đến tiềm lực kinh tế mà du lịch sinh thái có thể mang lại cho bảo tồn. Cũng cần phải lưu ý họ về tầm quan trọng của sự tham gia của cộng đồng địa phương vào các hoạt động của khu bảo tồn.
Đào tạo hướng dẫn viên du lịch nên được tiến hành chính quy trong các trường địa học, cao đẳng và trung cấp du lịch. Nên ưu tiên đào tạo các hướng dẫn viên địa phương. Tuy nhiên trước mắt nếu người dân địa phương chưa có điều kiện tham dự khoá đào tạo chính quy thì các điểm du lịch sinh thái nên tổ chức đào tạo ngắn hạn cho họ tại địa phương.
Khách thăm quan là một đối tượng giáo dục hiển nhiên. Bản thân giáo dục tại hiện trường cho du khách cũng nằm trong dịnh nghĩa của du lịch sinh thái. Hay nói cách khác giáo dục về thiên nhiên là một phần tạo nên du lịch sinh thái. Những nội dung giáo dục phải phù hợp, giúp du khách liên hệ trực tiếp những điều họ đã từng nghe, từng đọc với những điều mắt thấy tai nghe khi họ đến thăm khu bảo tồn thiên nhiên. Nếu làm được việc này du khách sẽ ý thức hơn trong khi tiếp xúc với động vật hoang dã, và họ sẽ thấy chuyến đi của mình bổ ích hơn và sẽ mong muốn trở lại hoặc đến một khu thiên nhiên khác để học được những điều tương tự.
Đối với cộng đồng địa phương, chương trình giáo dục phải dựa trên nhiều hình thức, không thể tập trung họ lại, dạy cho họ một mớ lý thuyết về bảo tồn và sự cần thiết của bảo tồn. Nên sử dụng những hình thức dễ hiểu, dễ nhớ chẳng hạn như băng hình, slide, tranh, ảnh, các chương trình biểu diễn văn nghệ,… Giáo dục cộng đồng địa phương trước hết tập trung vào đối tượng chủ chốt là những nhà lãnh đạo địa phương (huyện, xã), những người có uy tín trong cộng đồng chẳng hạn như những người lớn tuổi, những người có trình độ học vấn như thầy giáo, những người đứng đầu các tổ chức đoàn thể quần chúng như đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân…
Không chỉ giáo dục đối với cộng đồng địa phương nơi có khu bảo tồn thiên nhiên, mà nên có những chương trình giáo dục đối với cộng đồng người Việt Nam nói chung, vì họ là những du khách tương lai của các điểm du lịch sinh thái. Chương trình giáo dục phải khuyến khích họ và làm cho họ có mong muốn được đi du lịch theo hình thức du lịch sinh thái. Đối tượng chủ yếu của Việt Nam có lẽ là học sinh, sinh viên trong các nhà trường. Họ là những người thường xuyên tổ chức các chuyến đi thăm quan thiên nhiên, nhưng nhiều khi chưa ý thức hết được vai trò quan trọng của thiên nhiên. Hậu quả những chuyến đi dã ngoại của họ trong các khu thiên nhiên thường là những bãi rác sau khi họ ăn trưa và nhiều tác động tiêu cực khác. Tuy nhiên, thay đổi hành vi, thói quen của họ cũng không phải là việc dễ dàng làm trong ngày một ngày hai.
Kết hợp sự tham gia của cộng đồng địa phương:
Tại khu vực VQG Xuân Sơn hiện có đồng bào của 2 dân tộc chính là Dao và Mường. Họ sống trong những thôn bản nằm rải rác trong cả vùng đệm và vùng lõi của VQG. Đồng bào ở đây có tập quán sống dựa vào tự nhiên, canh tác trên đất dốc bằng cách phát, đốt cây cỏ, chọc lỗ gieo hạt, thả rông gia súc, vào rừng. Đời sống của bà con nhân dân ở VQG Xuân Sơn còn ở diện đặc biệt khó khăn. Phát triển du lịch bền vững là phương thức xóa đói giảm nghèo hiệu quả, bảo tồn được hệ sinh thái của VQG Xuân Sơn. Mô hình này đã được áp dụng thành công ở nhiều vườn quốc gia, địa phương trong cả nước. Chuyến khảo sát VQG do UBND tỉnh Phú Thọ và Tổng cục Du lịch tổ chức vừa qua đã cho thấy những hướng phát triển du lịch cho VQG Xuân Sơn. Tận dụng thế mạnh sinh thái của mình cùng với quy hoạch cụ thể theo hướng phát triển bền vững để bảo đảm cả về mặt kinh tế và giữ được sự hoang sơ vốn có của hệ sinh thái nơi đây, Xuân Sơn hoàn toàn có thể là điểm đến ưa thích của du khách trong và ngoài nước. Dựa vào đặc điểm của VQG Xuân Sơn, có thể tập trung khai thác một số loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du lịch mạo hiểm, khám phá rừng, núi, hang động, các loài động thực vật, du lịch nghỉ dưỡng, nghiên cứu...; du lịch cộng đồng tìm hiểu nét độc đáo trong đời sống sinh hoạt của cư dân bản địa, du khách có thể cùng sinh hoạt với người dân địa phương, tham gia các lễ hội truyền thống, các khâu sản xuất trong làng nghề...
Hiện tại các dự án phát triển du lịch đang được triển khai ở VQG Xuân Sơn nhưng hiệu quả của các hoạt động du lịch tới đời sống cư dân và bảo tồn chưa được nhiều. Người ta cho rằng du lịch sinh thái thường là phương tiện để đạt được hai mục tiêu là phát triển cộng đồng và bảo tồn thiên nhiên. Nhưng thực tế công đồng địa phương thường bị đứng ngoài các dự án du lịch. Trong lĩnh vực du lịch nếu thiếu sự tham gia của công đồng địa phương thì du lịch đồng nghĩa với tác động tiêu cực đối với kinh tế xã hội. Một thực tế đang diễn ra hàng ngày là những người dân sống ở vùng đệm và trong vườn quốc gia vẫn đang khai thác các tài nguyên, lâm sản. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là đời sống của họ vẫn còn nhiều khó khăn thiếu thốn .
Để thu hút cộng đồng địa phương vào các dự án du lịch sinh thái, Ban quản lý VQG Xuân Sơn cần phải phối hợp với các bên liên quan triển khai các công việc sau:
- Nghiên cứu phát triển các ngành nghề sản xuất nông lâm nghiệp, nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống, bản sắc văn hoá, phong tục tập quán, lễ hội và nâng cao trình độ dân trí của địa phương.
- Tổ chức giáo dục cho nhân dân địa phương để nâng cao nhận thức bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ môi trường bằng các phương tiện thông tin đại chúng, tài liệu, tờ rơi, hay mở các lớp tập huấn, câu lạc bộ.
- Mở các lớp tập huấn về du lịch sinh thái, nghiệp vụ du lịch, ngoại ngữ, đào tạo hướng dẫn viên du lịch cho địa phương.
- Chuyển giao các kỹ thuật thích hợp về nông lâm ngư nghiệp, làm VAC…
- Xây dựng quy hoạch du lịch với sự tham gia của cộng đồng ngay từ đầu. Hình thành các phân khu cung cấp dịch vụ, các tuyến thăm quan với các sản phẩm văn hoá địa phương.
Quy hoạch tổng thể các điểm, khu du lich sinh thái:
Theo chức năng được nêu ở phần trên thì các vườn quốc gia có nhiệm vụ tổ chức những họat động du lịch tham quan, thăm quan, nghiên cứu khoa học. Đối với các khu dự trữ thiên nhiên thì những hoạt động tham quan, du lịch không được khuyến khích, nơi đây chủ yếu dành cho nghiên cứu khoa học .
Các khu bảo tồn thiên nhiên nên có những quy hoạch, chỉ rõ phân vùng cho du lịch sinh thái nếu có. Để có được quy hoạch tốt cần phải tính đến nghiên cứu, điều tra tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn của khu bảo tồn và các khu lân cận liên quan . Cần có sự kết hợp nỗ lực của nhiều ngành, nhiều thành phần.
Cần phải có bản đồ du lịch sinh thái của VQG. Bản đồ du lịch sinh thái vừa là phương tiện hướng dẫn khách du lịch vừa là một công cụ bảo tồn đảm bảo du khách đi đúng chỗ đúng hướng và cung cấp cho họ những thông tin thú vị về VQG.
Nên có hệ thống thu lệ phí vào cổng và các lệ phí khác như lệ phí thuê dụng cụ, lệ phí sử dụng bến bãi. Việc quy định mức lệ phí cũng cần phải cân nhắc kỹ càng. Nên đặt mục tiêu rõ ràng cho việc thu lệ phí: cần thu lệ phí để bù đắp cho chi phí du lịch của địa điểm, để tăng tối đa lợi nhuận, hay một mục đích nào khác. Mức lệ phí phải được xác định dựa vào mục tiêu của việc thu lệ phí, có thể dược xác định theo nhiều cách khác nhau như đánh giá thị trường, điều tra nhu cầu du khách, phân tích đường cầu, hoặc quản lý là đấu giá dựa trên cơ sở thị trường.
Tiếp thị du lịch sinh thái cho VQG Xuân Sơn:
Mặc dù với những sản phẩm tốt nhất mà không được đối tượng nó phục vụ biết đến thì không thể bán được sản phẩm đó. Điều này cũng đúng với sản phẩm du lịch sinh thái ở Việt Nam. Tiềm năng là vây nhưng nếu không tiếp thị quảng cáo du lịch sinh thái thì không ai có thể biết được rằng Việt Nam có những địa điểm du lịch sinh thái lý tưởng nói chung và VQG Xuân Sơn nói riêng. Đó là đối với người nước ngoài, còn đối với du lịch trong nước những người đã biết quá rõ hoặc dã được nghe kể về các điểm thiên nhiên nổi tiếng của nước mình, thì nên chú trọng hơn vào việc tiếp thị, quảng cáo mang tính giáo dục.
Các nguyên tắc chỉ đạo:
VQG nên có những nguyên tắc chỉ đạo đối với các hoạt động du lịch sinh thái vừa có thể quảng cáo cho du lịch sinh thái, vừa phổ biến những diều nên hay không nên làm ở khu thiên nhiên cũng như trong quá trình tổ chức du lịch sinh thái. Nên có những nguyên tắc chỉ đạo cho các đối tượng khác nhau: chẳng hạn như du khách, cộng đồng địa phương, các tổ chức điều hành du lịch, các lãnh đạo địa phương, các công ty du lịch .
Nguyên tắc lãnh đạo còn được coi là một trong những công cụ đánh giá, giám sát và quản lý điểm du lịch sinh thái. Nguyên tắc chỉ đạo không tốn thời gian và nguồn lực như những công cụ có hiệu lực tương tự khác như: đánh giá tác động môi trường, quản lý tác động du khách, giới hạn của thay đổi có thể chấp nhận, và khả năng tải. Vì vậy trong khi cố gắng thiết lập hệ thống để sử dụng các công cụ khác, phương pháp quản lý du khách hữu hiệu nhất là sử dụng nguyên tắc chỉ đạo .
Nguyên tắc chỉ đạo có thể do các tổ chức/nhóm khác nhau soạn thảo: các nhà quản lý, nghành du lịch, các nhà điều hành du lịch, các nhóm hướng dẫn viên, cộng đồng dịa phương. Các tổ chức/nhóm có thể kết hợp với nhau để làm việc này.
Tăng cường công tác điều tra nghiên cứu tài nguyên và xây dựng chương trình giáo dục môi trường:
Chúng ta thường nhắc đến sự phong phú về tài nguyên hay sự đa dạng sinh học cao của nhiều vườn quốc gia, nhưng khi cần sưu tầm các tài liệu, báo cáo khoa học thì quả là khó khăn. Các kết quả điều tra nghiên cứu tài nguyên ngoài việc phuc vụ cho công tác quản lý bảo tồn cồn được sử dụng để soạn thảo các văn bản thuyết minh du lịch. Hiện nay các chương trình giáo dục, diễn giải môi trường còn ngèo nàn vì còn thiếu nhiều thông tin khoa học chính xác của các khu bảo tồn thiên nhiên. Cần phải có chính sách khuyến khích, huy động sự tham gia của các viên nghiên cứu, các trường đại học vào công tác nghiên cứu diều tra tài nguyên khu bảo tồn thiên nhiên.
Phát triển cơ sở hạ tầng:
Trước hết, trung tâm huyện lỵ Tân Sơn đang được quy hoạch và xây dựng với quy mô hiện đại kết hợp với truyền thống bản sắc dân tộc riêng. Hệ thống cơ sở hạ tầng và các thiết chế đang được quy hoạch xây dựng mở rộng có khả năng thu hút khách du lịch trong và ngoài nước. Hệ thống đường giao thông của huyện được hình thành ngày càng được mở rộng và nâng cấp, đảm bảo các yếu tố giao thông đối nội và đối ngoại. Hệ thống dịch vụ về thông tin liên lạc trên địa bàn như: Vinaphone, Viettel, Mobiphone, trạm BTS, điện lưới quốc gia đang đến tới các khu dân cư. Hệ thống ngân hàng thương mại làm nhiệm vụ dịch vụ tài chính, chợ trung tâm đầu mối ở xã Tân Phú đã được quy hoạch, hệ thống chợ, trung tâm các xã ngày càng phát triển mở rộng.
Các ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng bao gồm :
- Thiết kế và xây dựng nơi ăn nghỉ cho khách theo kiểu nhà nghỉ sinh thái.
- Xây dựng các tuyến đường nội bộ, đường mòn thiên nhiên với hệ thống chỉ dẫn/chỉ báo đầy đủ cả về số lượng và nội dung .
- Xây dựng trung tâm đón khách, trung tâm giáo dục môi trường.
Huy động vốn đầu tư và chính sách đầu tư:
Nhà nước và UBND tỉnh Phú Thọ nên có một chính sách khuyến khích đầu tư vào VQG. Nếu đầu tư tốt du lịch sinh thái có thể đem lại nguồn lợi lớn bổ sung cho ngân sách quốc gia và cộng đồng địa phương. Giá trị kinh tế của du lịch sinh thái theo ước tính của nhiều chuyên gia là rất đáng kể mặc dù họ cho rằng việc xác định nó là không đơn giản . Tuy nhiên du lịch sinh thái không cần đầu tư nhiều trên phương diện tiền vốn, vì đa số khách du lịch sinh thái đều có xu hướng muốn sống hoà đồng với thiên nhiên hơn là sống trong những khách sạn đắt tiền. Tuy nhiên việc thiết kế cho du lịch sinh thái lại cần đầu tư nhiều về thời gian và nỗ lực của nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau. Vì thế nếu muốn phát triển được du lịch sinh thái Nhà nước cần phải có đầu tư thích đáng.
Cần có chính sách khuyến khích cho việc đầu tư vào cộng đồng địa phương để họ phát triển các dịch vụ du lịch sinh thái, bằng cách này du lịch sinh thái sẽ mang lại lợi ích kinh tế cho cộng đồng địa phương. Tuy nhiên cũng nên huy động nguồn vốn địa phương nếu có thể.
3.2. Dự án do Chính phủ Đan Mạch tài trợ
Để có ngành du lịch sinh thái phát triển bền vững cần phải có một chiến lược du lịch sinh thái quốc gia được xây dựng với sự tham gia của đầy đủ các thành phần liên quan. Chiến lược này nên nằm trong khuôn khổ Chiến lược phát triển du lịch Việt nam . Mục đích của chiến lược bao gồm: xác định các vấn đề chủ chốt ảnh hưởng đến việc quy hoạch, phát triển và quản lý du lịch sinh thái của đất nước; phát triển một mô hình quốc gia để hướng để hướng các nhà điều hành du lịch sinh thái, các nhà quản lý các khu thiên nhiên, các nhà quy hoạch và tất cả các cấp chính quyền vào mục tiêu phát triển bền vững du lịch sinh thái, tạo chính sách và các chương trính hỗ trợ cho các bên liên quan trong hoạt động du lịch sinh thái để đạt được mục đích chung. Bên cạnh đó còn phải quan tâm đến việc hỗ trợ công đồng, nhất là cộng đồng dân tộc thiểu số rất cần sự giúp đỡ. Điều quan trong nhất là chiến lược phát triển du lịch sinh thái phải nhấn mạnh và tạo điều kiện cho sự kết hợp cộng tác giữa các ngành, các cấp khác nhau, phải nêu rõ sự cộng tác này có ý nghĩa sống còn đối với ngành du lịch sinh thái quốc gia.
Năm 2008 Vườn quốc gia Xuân Sơn xây dựng dự án “Cải thiện đời sống cho người dân địa phương ở trong và ngoài VQG Xuân Sơn - tỉnh Phú Thọ góp phần quản lý rừng bền vững” do nguồn vốn Đan Mạch tài trợ. Thời gian thực hiện cuối năm 2008 - năm 2010, Địa điểm thực hiện một xã vùng lõi 2 xã vùng đệm. Vườn quốc gia Xuân Sơn phối kết hợp với các trường Đại học, Viện nghiên cứu khoa học áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật triển khai, phát triển và bảo tồn một số loài cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao ở vùng đồng bào tiểu số, được thực hiện thông qua xây dựng các mô hình trình diễn : “Mô hình canh tác trên đất dốc, mô hình lâm sản ngoài gỗ, mô hình nông lâm kết hợp, mô hình chăn nuôi, mô hình phát triển kinh tế hộ và mô hình quản lý rừng cộng đồng”. Với tổng số 22 mô hình được xây dựng. Các mô hình được đầu tư giống, phân bón và người dân còn được tập huấn các biện pháp chuyển giao kỹ thuật trong sản xuất và chăn nuôi.
Bước đầu năm 2008 dự án đã và đang thực hiện một số mô hình như “Mô hình chăn nuôi lợn địa phương lai lợn rừng, mô hình canh tác trên đất dốc, mô hình lâm sản ngoài gỗ, mô hình nông lâm kết hợp” trong quá trình thực hiện xây dựng các mô hình cho ta thấy không những cấp chính quyền địa phương rất nhiệt tình ủng hộ mà người dân thực hiện dự án rất phấn khởi và nhiệt tình tiếp thu, hưởng ứng.
Thông qua việc xây dựng các mô hình khuyến lâm, hiệu quả của dự án được đánh giá thông qua kết quả các mô hình. Sau một năm thực hiện mộ hình nông lâm kết hợp. Sản lượng bước đầu thu được từ những cây ngắn ngày được bố trí trồng xen canh cây lâm nghiệp và cây công nghiệp cho tổng thu nhập một (ha) từ 18.000.000,0 đến 19.000.000,0 đồng trong một năm. Trong đó năng xuất cây sắn đạt được 1.600 kg/ha x 1.000đ/ kg = 16.000.000 đồng, bên cạnh đó mỗi (ha) được trồng từ 500 – 600 cây chuối cho thu nhập mỗi 01(ha) từ 2.000.000,0 – 2.400.000,0 đồng. Diện tích cây ngắn ngày được bối trí 1/3 diện tích mỗi mô hình.
Vậy công tác khuyến lâm đóng một vai trò hết sức quan trọng, không chỉ nâng cao năng xuất và hiệu quả canh tác mà còn góp phần chuyển đổi cung cách sản xuất cho đồng bào dân tộc vùng cao nói riêng mà còn hướng tới các thôn, bản đồng bào dân tộc thiểu số huyện Tân Sơn đều được tiếp cận và có cơ hội ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Dự án còn góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi tăng thu nhập trên một diện tích đất, bảo đảm tăng trưởng kinh tế trong vùng hàng năm, góp phần xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống cho đồng bào ở khu vực vùng lõi và vùng đệm Vườn quốc gia Xuân Sơn, từ đó giảm thiểu sức ép đối với việc bảo tồn và phát triển tài nguyên Vườn quốc gia Xuân Sơn, đồng thời bảo tồn và phát triển nguồn gen động, thực vật của vùng.
KẾT LUẬN
Du lịch sinh thái, là một mắt xích của phát triển bền vững, yêu cầu một cách tiếp cận tổng hợp đa lĩnh vực, quy hoạch cẩn thận(cả trên phương diện vật chất và quản lý) và hướng dẫn chỉ đạo và luật lệ nghiêm túc để có thể đảm bảo cho sự vận hành bền vững. Chỉ thông qua sự tham gia của nhiều thành phần thì du lịch sinh thái mới đạt được mục tiêu của mình. Chính quyền, doanh nghiệp tư nhân, cộng đồng địa phương và các tổ chức phi chính phủ đầu có vai trò quan trọng. Đối với mỗi quốc gia phải có một quy hoạch du lịch toàn quốc, với tư cách của một phần của quy hoạch tổng thể, bao gồm các thành phần môi trường và hướng dẫn chỉ đạo về du lịch sinh thái.
Các vấn đề nan giải, chẳng hạn như thiếu kinh phí và nhân lực tại nhiều khu bảo tồn thiên nhiên, đặc biệt ở các nước đang phát triển, có thể bắt đầu được tháo gỡ nếu các cơ cấu thích hợp để phân bổ lợi nhuận thu được từ du lịch vào hệ thống các khu bảo tồn thiên nhiên được thiết lập. Cũng như vậy, sự đói nghèo ở nhiều khu nông thôn trên thế giới cũng có thể được giảm đi nếu có các công phương thích hợp để cộng đồng địa phương tham gia vào quá trình du lịch.
Công việc tập huấn là một vấn đề sống còn. Các khoá học và hội thảo nhằm vào các đối tượng khác nhau(các nhà điều hành du lịch, hướng dẫn viên, chủ khách sạn, các cán bộ quản lý khu bảo tồn thiên nhiên, các nhóm cộng đồng địa phương, và các nhà quản lý hành chính ) là những yêu cầu bức xúc. Các chương trình tập huấn phải mang tính thực hành, kết hợp các hoạt động trong lớp học với thực tập trên dịa bàn.
Phương tiện vật chất đầy đủ trong và gần các khu bảo tồn thiên nhiên rất cần thiết cho việc phát triển bền vững của du lịch sinh thái. Phải áp dụng các tiêu chuẩn quy hoạch, thiết kế và xây dựng, giảm thiểu tác động lên môi trường, cung cấp cho các cơ quan chức năng tự hoạt động ở mức độ nhất định và hỗ trợ chất lượng thăm quan cho du khách .
Trên đây là khái quát các vấn đề về du lịch sinh thái cả về vai trò và những vấn đề còn vướng mắc trong công cuộc phát triển du lịch sinh thái của nước ta nói chung và VQG Xuân Sơn nói riêng. Qua đó ta càng nhận thức một cách rõ ràng về quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ phát triển du lịch sinh thái không phải của riêng ai bởi nó luôn gắn liền với môi trường sinh thái, với điều kiện tự nhiên mà con người chúng ta luôn phải sống và hoạt động trong đó. Nhất là trong hoàn cảnh nước ta đang trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và du lịch được coi là một trong 6 ngành công nghiệp mũi nhọn . Với vị trí là một cử nhân kinh tế tương lai phải luôn đầu tư nghiên cứu và tiến hành các chiến lược phát triển kinh tế cho đất nước, hơn nữa lại là nhà kinh doanh trong lĩnh vực du lịch thì ngoài trách nhiệm trên còn phải có trách nhiệm tuyên truyền về du lịch sinh thái, về môi trường cho mọi người.
Để có tri thức về du lịch trong thực hiện các yêu cầu trong kinh doanh cũng như trong tuyên truyền thực tế cần có sự bổ xung liên tục kiến thức về du lịch sinh thái do vậy sinh viên du lịch chúng em luôn mong muốn có được sự giúp đỡ của các thầy cô trong việc cung cấp các kiến thức thực tế (các chuyến đi giã ngoại), các nghiệp vụ về kinh doanh và tuyên truyền du lịch sinh thái, và đặc biệt là có một môn học, giáo trình về du lịch sinh thái.
Bài viết của em xin được kết thúc ở đây và không tránh khỏi những khuyếm khuyết cả về nội dung lẫn hình thức. Vậy nên em mong có được những ý kiến nhận xét và đóng góp của cô để bài viết của em thành công hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS. TS Nguyễn Văn Đính, TS. Trần Thị Minh Hoà, Giáo trình kinh tế du lịch, NXB Lao Động - Xã Hội Hà Nội, 2004.
2. Thế Đạt, Du lịch và du lịch sinh thái, NXB Lao Động Hà Nội, 2003
3. Hội khoa học kỹ thuật Lâm nghiệp, Vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, 1995.
4. Phạm Trung Lương, Du lịch sinh thái, những vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển ở Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2002.
5. Tạp chí Du lịch Việt Nam
6. Tạp chí Tài nguyên và Môi trường
7.
8.
9.
10.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Du lịch sinh thái và phát triển du lịch sinh thái tại Vườn quốc gia Xuân Sơn.DOC