Giải pháp đẩy mạnh tự do hóa tài chính và một số công cụ phòng ngừa rủi ro trong quá trình đó ở Việt Nam

MUÏC LUÏC CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH 1.1 TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH 1 1.2 CÁC LỢI ÍCH TRONG QUÁ TRÌNH TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN .3 1.3 CÁC RỦI RO TRONG QUÁ TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN .6 1.3.1 Dòng vốn chảy vào ồ ạt .8 1.3.2 Sự đảo ngược của dòng vốn 9 1.3.3 Tính biến động và xu hướng bầy đàn 10 1.4 TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH - NỘI DUNG CHỦ YẾU LÀ TỰ DO HOÁ DỊCH VỤ TÀI CHÍNH 12 1.4.1 Cơ hội từ quá trình tự do hoá dịch vụ tài chính 12 1.4.2 Thách thức của quá trình tự do hoá đối với các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính 17 1.5 NHỮNG KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH 19 1.5.1 Một số đặc điểm cơ bản về thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam và mức độ mở cửa đối với các nhà đầu tư nước ngoài 19 1.5.2 Những bài học kinh nghiệm của các nước đối với việt Nam trong quá trình tự do hóa tài chính .22 KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM 2.1 THỰC TRẠNG KINH TẾ VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY .25 2.1.1 Tăng trưởng kinh tế 25 2.1.2 Chỉ số giá tiêu dùng .26 2.1.3 Lao động và việc làm 26 2.1.4 Thu chi ngân sách Nhà nước .27 2.1.5 Tiết kiệm và đầu tư 28 2.2 DIỄN BIẾN QUÁ TRÌNH ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ .30 2.2.1 Những yếu tố chủ yếu để lựa chọn chính sách tỷ giá hối đoái 30 2.2.2 Diễn biến quá trình điều hành chính sách tỷ giá ở Việt Nam .31 2.3 QUÁ TRÌNH TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT .34 2.4 THỰC TRẠNG VỀ TỰ DO HOÁ DỊCH VỤ TÀI CHÍNH .36 2.4.1 Các dịch vụ bảo hiểm 36 2.4.2 Các dịch vụ ngân hàng 38 2.4.3 Dịch vụ tài chính khác .41 2.4.4 Thực trạng về các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính .41 2.5 NHỮNG KẾT QUẢ, HẠN CHẾ TRONG THỰC THI TỰ DO HOÁ DỊCH VỤ TÀI CHÍNH TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY 54 2.5.1 Kết quả 54 2.5.2 Hạn chế 56 KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH VÀ MỘT SỐ CÔNG CỤ PHÒNG NGỪA RỦI RO TRONG QUÁ TRÌNH ĐÓ Ở VIỆT NAM 3.1 CÁC QUAN ĐIỂM CẦN NHẤT QUÁN TRONG VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH 57 3.1.1 Các nước đang phát triển cần theo đuổi một cách mạnh mẽ những chính sách cho phép nước mình thu lợi từ dòng vốn toàn cầu và tránh được những nguy hiểm tự do hoá 57 3.1.2 Đối phó với dòng chảy vốn ồ ạt trong thời kỳ đầu tự do hoá 58 3.1.3 Quản lý vấn đề bùng nổ cho vay song song với việc chỉnh đốn tình trạng yếu kém của hệ thống ngân hàng 59 3.1.4 Đẩy mạnh phát triển thị trường vốn vận hành tốt sẽ giảm được rủi ro của sự bất ổn cũng như thu hút được đầu tư gián tiếp 60 3.1.5 Cần xây dựng những thiết bị giảm sốc tốt hơn và triển khai cơ chế để đối phó với những bất ổn vì những nước này có thể bị tổn thương cao độ do sự rối loạn kinh tế 61 3.1.6 Kết hợp mang tính quốc tế giữa khuôn khổ pháp lý với việc công khai thông tin để đảm bảo cho thị trường được an toàn và hiệu quả 62 3.2 CÁC GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH 62 3.2.1 Nhóm các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế từ phía Chính phủ 62 3.2.1.1 Chính sách quản lý tài chính công 64 3.2.1.2 Chính sách tiền tệ và tỷ giá 65 3.2.1.3 Hoàn thiện chính sách điều hành tỷ giá hối đoái nhằm khuyến khích xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài 66 3.2.2 Nhóm các giải pháp nhằm thúc đẩy và hoàn thiện thị trường tài chính và lành mạnh hệ thống ngân hàng 69 3.2.2.1 Hoàn thiện thị trường tài chính 69 3.2.2.2 Lành mạnh hệ thống ngân hàng 72 3.2.2.3 Nâng cao năng lực cạnh tranh hệ thống ngân hàng 75 3.2.2.4 Khuyến khích và hỗ trợ các NHTM hiện đại hoá công nghệ ngân hàng nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới nền kinh tế đất nước 78 3.2.2.5 Hoàn thiện khung pháp lý, tăng cường tính minh bạch thông tin thị trường và tạo dựng môi trường đầu tư thân thiện 79 3.3 MỘT SỐ CÔNG CỤ PHÒNG NGỪA RỦI RO TRONG QUÁ TRÌNH TIẾN HÀNH TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH 80 3.3.1 Phòng ngừa rủi ro tỷ giá 80 3.3.2 Các biện pháp phòng ngừa rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính 81 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 KẾT LUẬN CHUNG DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

pdf87 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2693 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp đẩy mạnh tự do hóa tài chính và một số công cụ phòng ngừa rủi ro trong quá trình đó ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc đối với hoạt động tự bảo hiểm của nhà đầu tư nước ngoài. Sự hiện diện của các nhà đầu tư trong nước cũng làm cho các nhà đầu tư nước ngoài an tâm hơn về sự tôn trọng của quốc gia đối với quyền quản lý và sở hữu tài sản. Từ phân tích trên, theo quản điểm của chúng tôi Việt Nam nên hợp nhất giữa luật đầu tư trong nước và luật đầu tư nước ngoài thành một luật duy nhất . Tất cả những chính sách này là nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài và hạn chế những tác động xấu của tự do hoá tài chính lên tính biến động của thị trường vốn. Điếu này sẽ ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của thị trường vốn trong nước. Đến lượt nó, một thị trường vốn vận hành tốt sẽ góp phần quan trọng vào tiến trình tăng trưởng của hội nhập. 3.1.5.Cần xây dựng những “thiết bị giảm sốc” tốt hơn và triển khai cơ chế để đối phó với những bất ổn vì những nước này có thể bị tổn thương cao độ do sự rối loạn kinh tế Sự tăng trưởng của tự do hoá tài chính đòi hỏi 3 loại “thiết bị giảm sốc” sau: Một là mức độ dự trữ quốc tế cần được thiết lập trong mối quan hệ với sự thay đổi của tài khoản vốn vì tổng luồng vốn vào sẽ cao hơn sau khi tự do hoá. Những nước có xếp hạng tín nhiệm thấp cần phải có mức dự trữ lớn hơn. Hai là tự do hoá tài chính đòi hỏi phải tăng tính linh hoạt về tài khoá. Đến lượt nó, tính linh hoạt này phụ thuộc vào tỷ trọng nợ chính phủ so với các khoản nợ khác. Ba là khuyến khích xây dựng những bước đệm trong hệ thống ngân hàng. Các cơ quan chức năng lợi dụng sự mở rộng tín dụng do dòng vốn vào gia tăng từ tự do hoá để đẩy mạnh hoạt động ngân hàng và tăng tính đàn hồi trong hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại. Ngay cả khi có những “thiết bị giảm sốc”này, các nước cũng cần thiết phải thiết lập những cơ chế quản lý cho phép các nhà hoạch định chính sách và chính phủ có thể điều tiết linh hoạt với những xáo trộn tạm thời của thị trường hoặc lớn hơn là khả năng dẫn đến khủng hoảng một cách nhanh chóng và hiệu quả. 66 3.1.6 Kết hợp mang tính quốc tế giữa khuôn khổ pháp lý với việc công khai thông tin để đảm bảo cho thị trường an toàn và hiệu quả Việc toàn cầu hoá thị trường tài chính, cùng với những hình thức đấu tư mới và sự phát triển của các công ty tài chính đã làm gia tăng các kênh truyền dẫn những cú sốc có hệ thống xuyên biên giới và xuyên khu vực. Bên cạnh đó, những nhân tố này còn làm tăng tốc độ lan truyền của những cú sốc là làm giảm đi những yếu tố lành mạnh của thị trường. Mặc dù tự do hoá tài chính xảy ra trên tầm quốc tế, nhưng sức cưỡng chế của những quy định vẫn còn được duy trì trong phạm vi một quốc gia. Trên thương trường toàn cầu, việc đánh giá những tổn thất của những định chế trung gian là rất khó và những hình thức phức tạp như buôn bán những sản phẩm phát sinh đã làm cho việc đánh giá rủi ro càng không chắc chắn. Để giải quyết vần đề này, các cơ quan quản lý ở những nước công nghiệp đã gia tăng hợp tác với nhau. Thêm vào đó, để tăng cường kỷ luật thị trường, các quy định này cần nhấn mạnh đến việc giám sát chất lượng quản lý rủi ro của các công ty tài chính. Từ kinh nghiệm ở các nước phát triển, bài học cho Việt Nam và các nước đang phát triển là việc xây dựng một hệ thống cơ chế giám sát tài chính trong nước và khu vực một cách thích hợp nhằm cung cấp thông tin cần thiết và kịp thời về các giao dịch phức tạp và ở trình độ cao của các công ty đa quốc gia cũng như những biến động kinh tế tài chính từng nước có khả năng lây lan sang cả hệ thống. 3.2 CÁC GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH 3.2.1 Nhóm các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế từ phía Chính phủ Chính phủ cần đẩy mạnh tiến trình cải cách kinh tế nhằm đạt tốc độ tăng trưởng nhanh hơn, tạo khả năng cạnh tranh cho nền kinh tế. Trong thời gian tới quá trình cải cách kinh tế cần được tiếp tục đẩy mạnh thông qua việc thực hiện các chương trình sau: ƒ Chương trình cải cách khu vực tư nhân: cần phải tạo môi trường và điều kiện kinh doanh thuận lợi cho các thành phần kinh tế thông qua việc bãi bỏ hoặc sửa đổi những hạn chế còn lại trong việc cấp phép đăng kí kinh doanh với các ngành công nghiệp,thương mại và dịch vụ theo hướng doanh nghiệp được phép kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm; cho phép doanh nghiệp được mở rộng và đăng kí kinh doanh tại các tỉnh khác; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ dàng 67 tiếp cận với nguồn lực đất đai và tín dụng; triển khai thành lập các văn phòng giao dịch đảm bảo và xây dựng 1 hệ thống dữ liệu quốc gia về giao dịch đảm bảo, cho phép đăng kí tài sản thế chấp bằng quyền sử dụng đất và nhà cửa; sửa đổi tiến tới xoá chế độ 2 giá… ƒ Chương trình cải cách DNNN: Triển khai thực hiện chương trình hành động chính phủ thực hiện nghị quyết Hội nghị trung ương 3 (khoá IX) về sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN đã nêu tại quyết định số 183/2001/QĐ-TTg ngày 20/11/2001; hoàn thành việc kiểm toán 30 DNNN lớn; đổi mới việc cung cấp thông tin của các doanh nghiệp theo hướng yêu cầu các DNNN cung cấp các báo cáo tài chính và kiểm toán kịp thời, củng cố và mở rộng hệ thống thông tin quản lý về số liệu kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DNNN tại Bộ tài chính; nâng cao hiệu quả của quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước theo hướng đơn giản hoá quy trình và thủ tục nhằm thu hút những nhà đầu tư có nhiều vốn, có kỹ năng quản lý tốt tham gia; xoá bỏ dần hạn mức về về tỉ lệ sở hữu trong các doanh nghiệp cổ phần hoá mà Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần chi phối, có chính sách khuyến khích nhiều hơn đối với các DNNN cổ phần hoá đang niêm yết trên thị trường chứng khoán. ƒ Chương trình cải cách khu vực ngân hàng: tách biệt việc cho vay theo chính sách ra khỏi hoạt động của các Ngân hàng Thương mại Quốc doanh (NHTMQD); bổ sung vốn điều lệ theo kế hoạch và mục tiêu, tiến độ cơ cấu lại của từng NHTMQD; giải quyết dứt điểm các khoản nợ không sinh lời thông qua việc triển khai hoạt động của các công ty quản lý tài sản và mua bán nợ của các NHTM; tiến hành kiểm toán hàng năm theo chuẩn mực kiểm toán đối với các NHTMQD; cơ cấu sắp xếp và tiến hành sáp nhập các NHTMCP yếu kém, đảm bảo các NHTMCP còn lại phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định hiện hành. Ngoài 3 chương trình trên, còn một số chương trình cải cách khác như: cải cách chi tiêu công, cải cách trong khu vực dịch vụ tài chính (cho thuê tài chính, bảo hiểm, thị trường vốn, tư vấn…) cũng cần phải triển khai. Trong xu thế chung, Bộ Tài Chính cũng đặt ra chương trình cải cách cơ chế quản lý tài chính được triển khai trên 5 lĩnh vực :quản lý ngân sách, quản lý nguồn thu, quản lý nợ, quản lý công sản và quản lý tài chính DNNN. 68 3.2.1.1 Chính sách quản lý tài chính công Để tăng các khoản thu Để lành mạnh môi trường kinh tế vĩ mô, điều quan trọng là phải thực hiện một chính sách tài chính tích cực, linh hoạt và thận trọng, đẩy mạnh cải cách tài chính, tiền tệ, tăng dự trữ quốc gia về tài chính, ngoại tệ. NSNN cần tiếp tục giữ tỷ lệ động viên ở mức19-20% GDP, điều chỉnh dần cơ cấu thu cho phù hợp với tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế. Cần chấn chỉnh và đổi mới để nâng cao hiệu quả quản lý NSNN, khắc phục tình trạng tham ô, lãng phí. Đổi mới cơ chế theo hướng chính thức hoá, công khai hoá Năm 2005 ,chính phủ đã đặt ra mục tiêu thực hiện kế hoạch vốn đầu tư phát triển toàn xã hội là bằng khoảng 36,2% GDP. Cần tập trung vốn đầu tư của Nhà nước đồng thời huy động các nguồn vốn khác để đẩy mạnh việc xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Xây dựng quy chế thu hút khu vực tư nhân tham gia đầu tư công cộng và cung ứng một số dịch vụ công. Nhà nước bảo đảm kinh phí cho khu vực dịch vụ công cộng nhưng phải đổi mới cơ chế theo hướng chính thức hoá, công khai hoá việc thu phí từ người hưởng dịch vụ. Nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải được giải quyết thông qua tín dụng và thị trường vốn. Sửa đổi, bổ sung Luật NSNN Theo hướng phân định rõ hơn thẩm quyền và trách nhiệm của từng cấp ngân sách, giao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính nhiều hơn cho chính quyền địa phương, nhất là cấp tỉnh,xã, bảo đảm thực quyền trong HĐND trong việc phân bổ ngân sách ở địa phương mình. Ngân sách ở mỗi cấp phải đảm bảo chi thường xuyên, trả nợ, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội và thực hiện chính sách trợ giúp đối với một số đối tượng cần thiết. Cần nới lỏng chính sách tài khoá hơn nữa Qua việc “kích cầu” đầu tư, để xúc tiến xây dựng các công trình trọng điểm quốc gia, đẩy nhanh tiến độ các công trình đang xây dựng , thực hiện các dự án phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng các khu định cư tại khu vực thường xuyên xảy ra lũ bão, tạo thêm nhiều việc làm cho các thành phần nông thôn và thành thị. 69 3.2.1.2 Chính sách tiền tệ và tỷ giá a) Hoàn thiện chính sách lãi suất đi đến tự do hoá lãi suất ƒ Nhà nước quản lý trực tiếp lãi suất bằng cách công bố tất cả các loại lãi suất. Cơ chế này được gọi là cơ chế ấn định lãi suất. Trong đó các ngân hàng và các tổ chức tín dụng đều thực hiện một cách tuyệt đối. ƒ Nhà nước không ấn định các mức lãi suất mà chỉ quy định các mức lãi suất tối đa (lãi suất trần) và mức lãi suất tối thiểu (lãi suất sàn) tạo thành một khung giới hạn để trong đó các ngân hàng và các tổ chức tín dụng xác định lãi suất kinh doanh. Cơ chế này gọi là cơ chế khống chế lãi suất. ƒ Nhà nước không ấn định các mức lãi suất, đồng thời cũng không khống chế lãi suất, mà để cho lãi suất hình thành theo cơ chế thị trường, các ngân hàng được quyền xác định và công bố lãi suất kinh doanh để đem áp dụng trong việc huy động vốn và cho vay . Cơ chế này được gọi là cơ chế tự do hoá lãi suất. Như vậy, tự do hoá lãi suất là để lãi suất hình thành trên thị trường dựa vào cơ sở cung cầu vốn, mức tiết kiệm, thu nhập, chi tiêu cá nhân và những nhân tố khác. Trong cơ chế tự do hoá lãi suất nếu Nhà nước hoàn toàn không can thiệp đến hệ thống lãi suất thì thị trường đó là cơ chế tự do hoá lãi suất hoàn toàn. Nếu Nhà nước có tham gia can thiệp gián tiếp theo một định hướng xác định thì đó là cơ chế tự do hoá lãi suất có quản lý. Tự do hoá lãi suất là hạt nhân của tự do hoá tài chính, nó đòi hỏi chúng ta bãi bỏ hoặc làm giảm bớt sự kiểm soát của Nhà nước về hạn mức tín dụng và lãi suất. b) Thay đổi chính sách điều hành lãi suất nhằm kích cầu và tăng đầu tư, mở rộng tín dụng Thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay ngoại tệ theo hướng tự do hoá lãi suất tạo điều kiện mở rộng tín dụng ngoaị tệ của các tổ chức cho vay. Đây chỉ là biện pháp tạo điều kiện thôi. Còn việc có mở rộng được tín dụng ngoại tệ hay không thì còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố nữa. Yếu tố chủ yếu nhất là dự án có tính khả thi không, còn lãi suất chỉ là tạo điều kiện, là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Cần tức là doanh nghiệp và ngân hàng có thể thoả thuận với nhau được lãi suất cho vay theo cơ chế thị trường, theo cung cầu và lượng vốn ngoại tệ trong từng thời kỳ, nhất là đối với các trường hợp mà 70 lãi suất vay trong nước ngang bằng với lãi suất cho vay ở nước ngoài thì các doanh nghiệp sẽ mạnh dạn vay trong nước hơn. Còn vấn đề chủ yếu nhất là người cho vay vẫn phải xem xét dự án có tính khả thi hay không, nếu không thì dù lãi suất bằng không cũng không dám cho vay. Với biện pháp này có thể giúp cho các ngân hàng có thể mở rộng phạm vi hoạt động của mình. “Mở rộng việc cho vay” của các ngân hàng thì mới là việc dự báo, dự đoán và là công việc tạo điều kiện cho các ngân hàng. Còn vấn đề thực hiện cụ thể đến đâu lại phụ thuộc nhiều yếu tố khác như đã trình bày, chẳng hạn vấn đề chất lượng dự án, vấn đề các doanh nghiệp có thích vay ngoại tệ hay không cũng như nhiều yếu tố khác.Tóm lại lãi suất chỉ là 1 yếu tố kích cầu đầu tư, mở rộng tín dụng. Khi tiến đến tự do hoá lãi suất thì rất có thể sẽ xảy ra việc bất ổn định tỷ giá, đây cũng là một khía cạnh quan trọng mà các ngân hàng trung ương cần lưu ý. Trong điều kiện hiện nay ta đang có thuận lơị để tiến một bước tự do hoá lãi suất, tạo cơ hội cho các ngân hàng Việt Nam tiếp cận với thị trường quốc tế, tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại mở rộng phạm vi hoạt động của mình. c) Thu hẹp biên độ quy định lãi vay Do thực hiện các giải pháp đồng bộ, việc thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản đã đi vào nề nếp, mặt bằng lãi suất đã đi vào hình thành một cách hợp lý theo xu hướng có lợi cho đồng VND, tăng tốc độ chu chuyển vốn giữa các vùng và các lĩnh vực, tới hình thành lãi suất bình quân trong nền kinh tế, hạn chế dòng chu chuyển vốn từ VND sang ngoại tệ; lãi suất cho vay được hình thành theo hướng tích cực, đáp ứng chủ trương kích cầu của chính phủ. Song trong trong thực tế cho thấy, việc NHNN điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam ít có tác động đến việc giảm lãi suất của các NHTM, đó là tín hiệu tốt để NHTM chuyển sang thực hiện cơ chế tự do hoá lãi suất nội tệ, nhưng trước mắt cần thu hẹp quy định lãi suất cho vay, sau đó bỏ biên độ này. 3.2.1.3 Hoàn thiện chính sách điều hành tỷ giá hối đoái nhằm khuyến khích xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài Nội dung cơ bản nhất của tự do hóa tài chính là chính sách tỷ giá, do đó để góp thêm một cách nhìn vào các tranh luận trên, chúng ta thử nêu ra một số giải pháp về việc điều hành chính sách tỷ giá trong mối quan hệ với dữ trự ngoại hối, thâm hụt cán cân thanh toán, chính sách tài khóa và tiền tệ. 71 a) Hoàn thiện một số chính sách kinh tế vĩ mô Để điều hành cơ chế tỷ giá nói trên cần phải tập trung hòan thiện các vấn đề có tính then chốt sau: ƒ Củng cố và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng với đầy đủ các nghiệp vụ hoạt động của nó để tạo điều kiện cho NHNN phối hợp, điều hòa giữa hai khu vực thị trường ngoại tệ, nội tệ một cách thông suốt. ƒ Có chính sách khuyến khích các công ty xuất nhập khẩu đa dạng hóa cơ cấu tiền tệ trong giao dịch thương mại quốc tế để nâng cao sự cân đối giữa luồng cung và cầu ngoại tệ. ƒ Chuẩn xác hóa vào các chỉ số kinh tế vĩ mô như: lạm phát, lãi suất, thực trạng cán cân thanh toán, nợ nước ngoài để giúp cho Nhà nước lựa chọn phương án điều chỉnh tỷ giá có hiệu quả hơn. ƒ Thực hiện có hiệu quả chính sách quản lý ngoại hối. ƒ Tiếp tục khép dần chênh lệch giữa lãi suất cho vay đồng ngoại tệ với lãi suất cho vay đồng nội tệ. b) Về việc xây dựng chính sách tỷ giá Chính sách tỷ giá phải được xây dựng trên các quan điểm: ƒ Chính sách tỷ giá phải hướng vào xử lý và điều hành tỷ giá theo đúng bản chất vốn có của nó – là một cơ chế giá thị trường. Để tuân thủ quy luật này, về dài hạn các công cụ mang tính kinh tế nhằm để can thiệp, điều chỉnh tỷ giá phải dần dần được coi trọng hơn so với các công cụ mang tính hành chính. ƒ Chính sách tỷ giá phải hỗ trợ tốt nhất cho chính sách khuyến khích xuất khẩu để cải thiện cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại tệ. ƒ Chính sách tỷ giá không được tách rời sự quản lý của Nhà nước. c) NHNN nắm vai trò chủ đạo trong việc điều hành chính sách tỷ giá Thứ nhất, NHNN luôn phải xác định mình là một thành phần chủ chốt, thường trực của các giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. 72 Thứ hai, trong công tác điều hành hệ thống tỷ giá hối đoái nói chung và thị trường ngoại hối nói riêng, NHNN phải có sự phân tách rõ ràng giữa hai chức năng: chức năng ngân hàng đại diện cho Nhà nước với chức năng can thiệp thị trường. Trong đó, chức năng ngân hàng đại diện cho Nhà nước là để thực hiện các chức năng giao dịch nhằm thanh toán các khoản thu chi của Nhà nước (như trả hộ Nhà nước các khỏan mua hàng hóa và dịch vụ nước ngoài) và giao dịch tăng tích lũy ngoại tệ theo mục tiêu. Còn chức năng can thiệp thị trường là nhằm điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường. Thứ ba, NHNN phải không ngừng chú trọng việc xây dựng và tăng cướng bộ khung của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bằng việc tăng số lượng thành viên thị trường. Thứ tư, NHNN và các bộ ngành phải có kế hoạch dự tính trước các giao dịch của mình một cách cụ thể và không để các thành phần kinh tế khác bật ra khỏi thị trường chính thức bằng cách giao dịch của Nhà nước không chỉ được thực hiện trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mà còn phải mở rộng giao dịch trên khu vực tự do hơn của thị trường. Thứ năm, chú trọng đến việc hòan thiện và phát triển các côn cụ của thị trường ngoại tệ mà trước mắt là các nghiệp vụ đang hiện tồn tại như mua bán có kỳ hạn ngoại tệ, hoán đổi... bằng các biện pháp cụ thể như: NHNN, cơ quan có tách nhiệm tổ chức báo cáo, bồi dưỡng nghiệp vụ ngân hàng, nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ ngân hàng, nên gấp rút tổ chức các lớp bồi dưỡng về bản chất và kỹ thuật của các nghiệp vụ hối đoái nói riêng và nghiệp vụ nào đó nói chung khi mới được đưa vào sử dụng, để đảm bảo một sự nhận thức đúng về bản chất cũng như kỹ thuật nghiệp vụ khi thực hiện. Thứ sáu, việc can thiệp của NHNN là nhằm mục đích điều phối các quan hệ cung cầu trên thị trường chứ không nên có những can thiệp sâu vào các nghiệp vụ mang tính kỹ thuật của thị trường. Thứ bảy, nâng cao năng lực cho các tác nhân tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng thông qua một số biện pháp cụ thể như: đặt mạnh trọng tâm vào việc không ngừng đổi mới hệ thống thanh toán của các ngân hàng, các tổ chức tín dụng và quan trọng hơn là NHNN cả về cơ chế thanh toán và trang thiết bị kỹ thuật để hạn chế việc 73 thanh toán qua nhiều trung gian mà trước hết là hệ thống thanh toán nội bộ của chính các ngân hàng, các tổ chức tín dụng. d) Nâng cao dự trữ ngoại tệ của Nhà nước – đa dạng hóa cơ cấu dự trữ ngoại tệ Nâng cao dự trữ ngoịa tệ của Nhà nước tương xứng nhịp độ tăng kim ngạch xuất nhập khẩu và khối lượng ngoại tệ đang có trên thị trường ở nước ta. Tập trung quản lý dự trữ ngoại tệ vào một đầu mối trung tâm là NHNN. Xác định được một cơ cấu dự trữ ngoại tệ hợp lý trên cơ sở đa dạng hóa rổ ngoại tệ mạnh để làm căn cứ cho việc ấn định tỷ giá đồng Việt Nam chứ không nên chú trọng neo giữ đồng việt Nam vào một đồng ngoại tệ duy nhất. e) Đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá theo hướng tự do hóa dần Trong chặng đường 10 năm tới Nhà nước cần phải đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá một cách linh hoạt và hiệu quả hơn. Việc tự do hóa dần cơ chế điều hành tỷ giá cần phải có những bước đi thích hợp. Khi mà nền kinh tế tăng trưởng chưa ổn định, thị trường hối đoái mới đang hướng tới hòan thiện, thị trường nội tệ chưa thực sự phát triển, thị trường chứng khoán mới ra đời do đó tiếp tục duy trì cơ chế Nhà nước công bố tỷ giá và quy định biên độ giao dịch trong điều hành tỷ giá là sự hết sức cần thiết. Để cho cơ chế tỷ giá được linh hoạt hơn Nhà nước cần thực hiện công bố tỷ giá hàng ngày dựa vào tỷ giá trung bình của tỷ giá mua, bán ngày hôm trước trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. 3.2.2 Nhóm các giải pháp nhằm thúc đẩy để hoàn thiện thị trường tài chính và lành mạnh hệ thống ngân hàng 3.2.2.1 Hoàn thiện thị trường tài chính. a) Thị trường chứng khoán Là thể chế tài chính bậc cao và là sản phẩm tinh tuý của nền kinh tế thị trường, hoạt động với những thiết chế phức tạp và riêng biệt, với những quy luật chi phối khắc nghiệt, sâu sắc và ảnh hưởng toàn diện đến tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Việc đưa ra vận hành thị trường chứng khoán ở nước ta vừa đưa ra cơ hội, vừa là thử thách lớn đối với các doanh nghiệp, các nhà đầu tư, đòi hỏi các chủ thể tham gia phải tự mình đổi mới trong một hệ thống luật pháp ngày càng hoàn chỉnh, đồng bộ, 74 đảm bảo lợi ích chính đáng cho những đối tượng tham gia và an toàn cho phát triển kinh tế- xã hội. Sau một năm hoạt động tuy quy mô thị trường còn nhỏ bé, vai trò tác động đến nền kinh tế chưa lớn, nhưng có thể nói đây là bước thí điểm, tập dượt ban đầu cần thiết đối với các cơ quan quản lý điều hành, các tổ chức tham gia thị trường và công chúng làm quen với một lĩnh vực đầu tư mới, tạo điều kiện tiền đề vững chắc cho việc xây dựng và phát triển ổn định thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Một vài điểm nổi bật của thị trường chứng khoán trong thời gian hoạt động vừa qua: giá cổ phiếu biến động mạnh, tính thanh khoản của cổ phiếu còn quá yếu, kế hoạch tạo hành hoá còn thiếu cân đối…trước tình hình này uỷ ban chứng khoán Nhà nước nên tập trung giải quyết các vấn đề cấp bách sau: ƒ Lựa chọn và tạo “hàng hóa có chất lượng cao” cho thị trường chứng khoán. Muốn vậy cần có sự phối hợp đồng bộ với công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và cải tiến cơ chế quản trị công ty sau khi cổ phần hoá. ƒ Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia giao dịch trên thị trường cổ phiếu. ƒ Tạo sân chơi bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế tham gia vào TTCK Việt Nam , đặc biệt là công ty có vốn đầu tư 100% vốn nước ngoài. Nên khuyến khích thành lập và phát triển các công ty chứng khoán là các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, công ty tư vấn đầu tư…tạo ra một hệ thống trung gian thị trường mạnh và hiệu quả đáp ứng tốt các nhu cầu phát triển và hội nhập. ƒ Nâng cao năng lực hoạt động nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp của các tổ chức kinh doanh,dịch vụ chứng khoán, mở rộng phạm vi phục vụ các nhà đầu tư. ƒ Xây dựng hệ thống giao dịch mới, hiện đại, đáp ứng được các nhu cầu giao dịch. Phù hợp với tốc độ phát triển của thị trường, tạo một thị trường chứng khoán đồng bộ và thống nhất cho cả nước. ƒ Rà soát, chỉnh sửa, hoàn thiện văn bản pháp quy cho hoạt động của thị trường chứng khoán, tạo cho các đối tượng tham gia một hành lang pháp lý để hoạt động hiệu quả. 75 ƒ Thiết lập hệ thống thông tin cung cấp dữ liệu an toàn tin cậy cho các nhà đầu tư, đây là điểm hết sức quan trọng. ƒ Thiết lập môi trường pháp lý chuẩn cho hoạt động kế toán-kiểm toán, bên cạnh đó hình thành các tổ chức định mức tín nhiệm để các nhà đầu tư an tâm và tin tưởng khi đầu tư vào thị trường chứng khoán. b) Thị trường bảo hiểm Việt Nam Trong năm 2004, tuy bối cảnh ở trong nước thuận lợi, tình hình kinh tế xã hội Việt Nam tương đối ổn định với mức tăng GDP 7,69%; thêm nữa Việt Nam được đánh giá là nước có môi trường đầu tư an toàn nhất trong khu vực, song tình hình an ninh quốc tế, đặc biệt là vụ khủng bố vào trung tâm thương mại thế giới và lầu năm góc ngày 11/9/2001 lại làm tổn thất nghiêm trọng cho ngành bảo hiểm trên toàn cầu và sự ảnh hưởng đó không ngoại trừ các công ty bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, bởi lẽ hầu hết các hợp đồng bảo hiểm về tài sản và trách nhiệm các công ty bảo hiểm Việt Nam đều phải tái bảo hiểm. Trước những thuận lợi và khó khăn phải đối mặt, các doanh nghiệp bảo hiểm hiện đang hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam đều có những nỗ lực đáng kể trong cải tiến phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng phục vụ. Đi liền với những thách thức, thì cơ hội đối với các công ty bảo hiểm do phí bảo hiểm sẽ tăng lên và khả năng tăng trưởng cao đối với mỗi công ty bảo hiểm là rất lớn. Do phí bảo hiểm tăng, mức độ cạnh tranh giữa các công ty bảo hiểm có thể gay gắt hơn nhiều. Tăng cường kiểm tra, giám sát Tất cả những nhân tố trên đòi hỏi vai trò của cơ quan quản lý Nhà nước trong việc định hướng thị trường bảo hiểm, cũng như kiểm tra và giám sát thi hành luật kinh doanh bảo hiểm cần được tăng cường. Ngoài yêu cầu bổ sung vốn điều lệ, việc kiểm tra kỹ thuật trích lập và sử dụng quỹ dự phòng nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của các công ty bảo hiểm là tối cần thiết. Theo điều 4.2 luật kinh doanh bảo hiểm, Nhà nước cần có những giải pháp cụ thể đối với các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, nếu Nhà nước muốn loại hình doanh nghiệp này giữ được vai trò chủ đạo trên thị trường bảo hiểm. 76 Khẩn trương ban hành đồng bộ các văn bản pháp quy về hướng dẫn và tổ chức thực hiện Luật kinh doanh bảo hiểm đã được ban hành ngày 9/12/2000, do đó trước mắt cần khẩn trương ban hành đồng bộ các văn bản pháp quy về hướng dẫn và tổ chức thực hiện kèm theo. Trong đó đặc biệt nên lưu ý: những quy định về cấp phép, quản lý cần xác định sao cho các thủ tục hành chính thật đơn giản; cần thể chế hoá các quy định khuyến khích và bảo đảm cạnh tranh lành mạnh giữa các loại hình trên thị trường bảo hiểm, nên cho phép thành lập các mô hình công ty hoặc quỹ đầu tư của các công ty bảo hiểm. Đây là yếu tố tất yếu để góp phần vào sự thành công trong tiến trình tự do hoá thị trường tài chính ở nước ta. c) Lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia . Là một trong những mục tiêu chiến lược hàng đầu phát triển tài chính-tiền tệ giai đoạn 2001-2005. Văn kiện Đại hội IX của Đảng khẳng định phải “tạo lập môi trường tài chính lành mạnh,thông thoáng nhằm giải phóng và phát triển các nguồn lực tài chính và tiềm năng sản xuất của các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư; bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của thị trường tài chính- tiền tệ trong toàn bộ nền kinh tế”. Trên quan điểm đó, tôi xin đề cập đến một số khía cạnh them chốt nhằm hướng đến lành mạnh nền tài chính nước nhà: ƒ Chống thất thu ngân sách là cốt lõi của thu ngân sách Nhà nước lành mạnh. ƒ Chi ngân sách Nhà nước lành mạnh đòi hỏi cơ cấu chi phí hợp lý và hiệu quả. ƒ Một nền tài chính lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn vốn trong nước, vào việc phát huy nội lực chứ không thể phụ thuộc quá nhiều vào các nguồn vốn bên ngoài, tuy các nguồn vốn này là rất quan trọng. Do vậy chính sách vay nợ quốc gia cần phải hết sức thận trọng, giữ các tỷ lệ nợ so với GDP, với kim ngạch xuất khẩu ở mức an toàn,và phải có các khoản dự trữ ngoại tệ sẵn sàng đối phó với những biến động của các dòng vốn. ƒ Phải duy trì các cân đối lớn của nền kinh tế: sự thâm hụt quá mức của các cán cân thương mại, tài khoản vãng lai tài khoản vốn và cán cân thanh toán làm suy giảm tính lành mạnh của nền tài chính quốc gia, nhất là khi diễn ra khủng hoảng các cân đối trên. Biện pháp đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế là thúc đẩy 77 xuất khẩu, giảm nhập khẩu, đặc biệt là nhập khẩu hàng tiêu dùng, khuyến khích các hoạt động sản xuất kinh doanh ngoại tệ, chuyển ngoại tệ về nước, hạn chế chuyển ngoại tệ ra nước ngoài, kiểm soát chặt chẽ các luồng vốn nhằm ngăn chặn tình trạng rút vốn ồ ạt, tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài cả trực tiếp lẫn gián tiếp…mục tiêu là giảm thâm hụt, tiến tới cân bằng và thặng dư nếu có điều kiện . 3.2.2.2 Lành mạnh hệ thống ngân hàng. Đã có thời, ở nước ta trong lĩnh vực ngân hàng, các ngân hàng thương mại (NHTM) quốc doanh được “một mình một chợ”. Sau khi các loại hình ngân hàng khác như NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài lần lượt ra đời và cho đến nay, tình trạng độc quyền tuyệt đối của các NHTM quốc doanh về mặt pháp lý coi như đã chấm dứt. Tuy nhiên, biểu hiện độc quyền cộng với hành vi cạnh tranh thiếu lành mạnh trong lĩnh vực này chưa hẳn đã hết. Chính vì vậy, nhiều chuyên gia cho rằng, cần phải có các biện pháp hữu hiệu chống độc quyền, cạnh tranh thiếu lành mạnh. Mặc dù tình trạng độc quyền đã chính thức bị “khai tử” vào năm 1990, khi Nhà nước ban hành pháp lệnh ngân hàng, song trên thực tế hệ thống ngân hàng ở nước ta vẫn bị chi phối bởi các NHTM quốc doanh với tỷ lệ thị phần trên 75% ( cả về huy động vốn cho vay). Một số NHTM quốc doanh có thể liên kết với nhau để định giá độc quyền mức lãi suất cho vay hoặc lãi suất huy động trên thị trường chung. Nếu chiếu theo luật pháp của nhiều nước trên thế giới, đây thực chất là một thoả thuận khống chế giá hay nói khác đi là thoả thuận hạn chế cạnh tranh nhằm phục vụ lợi ích riêng của các ngân hàng này. Vì vậy, phải coi đó là biểu hiện của hành vi cạnh tranh không lành mạnh, gây thiệt hại cho khách hành vay và cần được điều chỉnh bởi pháp luật về cạnh tranh và chống độc quyền. Một biểu hiện cạnh tranh thiếu lành mạnh khác cũng đang khiến nhiều NHTM có nguy cơ bị thu hẹp thị phần và mất khách là hiện tượng một số ngân hàng bất chấp hiệu quả tín dụng, vừa nâng lãi suất tiền gửi lại vừa hạ lãi suất cho vay quá mức trần hoặc sàn quy định, nhằm lôi kéo khách hàng vay và chiếm thị phần của các ngân hàng khác. Việc hạ lãi suất cho vay theo kiểu bán phá giá “liều mạng” sẽ làm giảm giá vốn của “hàng hoá tiền tệ” là lãi suất, từ đó không chỉ làm giảm lợi nhuận của bản thân ngân 78 hàng mà còn tạo ra tình trạng bất bình đẳng trong kinh doanh, gây biến động xấu trên thị trường tiền tệ và tác động tiêu cực tới hoạt động chung của cả hệ thống ngân hàng. Mặt khác, cạnh tranh về lãi suất cho dù có lợi trước mắt cho khách hàng vay vốn, nhưng lại tạo ra tâm lý ỷ lại, trông chờ vào lãi suất thấp của người vay vốn, dẫn đến làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Đó là còn chưa kể tới nhiều hành vi cạnh tranh thiếu lành mạnh khác như để giành giật khách hàng,1 số ngân hàng sẵn sàng bỏ qua hoặc bất chấp các điều kiện cho vay, nới lỏng điều kiện đảm bảo tiền vay, coi nhẹ quy trình thẩm định vay vốn…mà không hề tính tới những hậu quả tai hại sau này. Sự cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng đang trở nên thực sự quyết liệt. Song, điều đáng lo ngại là các quy định pháp lý về cạnh tranh trong lĩnh vực này còn rất sơ khai, chung chung và không cụ thể, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của ngành. Đây là một điểm yếu cần sớm được khắc phục nhằm hoàn thiện và tạo môi trường lành mạnh cho hoạt động của hệ thống ngân hàng, 1 bộ phận hết sức quan trọng của nền kinh tế. a) Xử lý nợ tồn đọng: Ngân hàng Nhà nước cần khẩn trương hoàn thiện đề án chi tiết, xử lý nợ tồn đọng của NTHM. Trong đó cần phân tích rõ nguyên nhân dẫn tới các khoản nợ tồn đọng. Từ đó xử lý theo nguyên tắc những khoản nợ do chủ quan của ngân hàng gây ra thì ngân hàng phải chịu trách nhiệm xử lý bằng cách tận thu triệt để các khoản nợ mà khách hàng còn tồn tại và có khả năng trả nợ, xử lý bằng nguồn dự phòng rủi ro của tổ chức tín dụng. Những ngân hàng có nợ tồn đọng lớn thì cho thành lập công ty mua bán nợ tồn đọng để làm nhiệm vụ quản lý khai thác tài sản xiết nợ và thực hiện mua bán nợ. Những khoản nợ do khách quan sẽ được chính phủ xem xét hỗ trợ hoặc xử lý nếu cho vay theo chỉ định của chính phủ.Nhà nước hỗ trợ có tính chất tháo gỡ vướng mắc về cơ chế, pháp luật; đồng thời phải đi liền với những tiến bộ trong lộ trình cơ cấu lại của từng NHTM. b) Nâng cao hiệu quả thanh tra, kiểm soát, kiểm toán Môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng sau khi có luật NHNN và luật các TCTD, tuy có nhiều thuận lợi nhưng vẫn còn không ít quy định chưa phù hợp với thực tiễn, thiếu tính khả thi. Nhiều khó khăn vướng mắc trong thực tiễn mà chưa có cơ chế giải quyết, tháo gỡ. Một số quy định chưa tạo 79 được sự thống nhất về nhận thức và hoạt động thực tiễn. Bởi vậy việc thanh tra, kiểm tra, kiểm soát đối với các TCTD có vai trò quan trọng trong việc phát hiện và kiến nghị chỉnh sửa, bổ sung cơ chế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc chấp hành pháp luật của các TCTD. Thanh tra, kiểm tra, kiểm soát là để kịp thời phát hiện các sai sót, vi phạm trong hoạt động và kiến nghị giải pháp khắc phục, ngăn ngừa tái phạm. Vai trò của thanh tra ngân hàng Nhà nước được xác định rõ trong quyền hạn, trách nhiệm và phạm vi hoạt động của đoàn thanh tra theo các quy định của NHNN. Cụ thể là thanh tra NHNN tiến hành giám sát thường xuyên hoạt động ngân hàng nhằm xác định và ngăn chặn các hành vi vi phạm của TCTD. Qua đó tìm ra các giải pháp hiệu quả để thiết lập 1 chính sách tiền tệ thích hợp cũng như tăng cường sự giám sát hệ thống của NHNN. Phạm vi hoạt động của thanh tra được xác định một cách rõ ràng và cụ thể nhằm tiến hành công tác thanh tra có hiệu quả. Trong những năm gần đây, thanh tra NHNN đã góp phần cải thiện hệ thống ngân hàng cũng như trợ giúp các TCTD xác định những yếu kém của mình nhằm cải thiện chất lượng hoạt động của các tổ chức. Ở một số quốc gia, thanh tra ngân hàng sử dụng kiểm toán độc lập là một công cụ quan trọng để phục vụ công tác giám sát thanh tra hoạt động của các TCTD. Đối với các TCTD, kiểm toán độc lập không những thực hiện kiểm toán các báo cáo tài chính mà còn chú trọng đến kiểm toán hoạt động, kiểm toán việc tuân thủ các quy định về hoạt động tín dụng, bảo lãnh, liên doanh, liên kết, góp vốn, kinh doanh ngoại hối, tiền tệ thanh toán. Đây là một loạt vấn đề khó và phức tạp. Do đó đòi hỏi tổ chức kiểm toán độc lập phải có kỹ năng, có chuyên môn về các hoạt động của TCTD mới đủ khả năng kiểm toán TCTD. Thanh tra ngân hàng có quyền chấp thuận hoặc không chấp thuận việc TCTD lựa chọn và đề nghị tổ chức kiểm toánvào kiểm toán. Thanh tra ngân hàng có quyền chỉ định một tổ chức kiểm toán khác để kiểm toán TCTD trong trường hợp tổ chức đó lựa chọn một tổ chức kiểm toán không đủ điều kiện , không đủ uy tín. Thành lập Cục thông tin tín dụng Thành lập Cục quản lý thông tin cho phép các ngân hàng chia sẻ thông tin về khả năng trả nợ cũng như ghi danh sổ đen những khách hàng không trả được nợ. Điều này sẽ mở đường cho các ngân hàng không chỉ để tính khả năng rủi ro của khách hàng một cách tốt hơn mà còn khuyến khích kịp thời những khách hàng nào có thành tích tốt, gương mẫu trong hàon trả nợ đúng hạn. Ngược lại, những khách hàng nào được xếp 80 vào diện có rủi ro cao thì nhiều khả năng sẽ bị tính lãi suất và phí cao hơn căn cứ trên mức độ rủi ro của khách hàng đó. 3.2.2.3 Nâng cao năng lực cạnh tranh hệ thống ngân hàng Hệ thống ngân hàng lành mạnh là một trong những điều kiện vô cùng quan trọng trong quá trình tự do hoá tài chính. Yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động trong quá trình hội nhập đang đòi hỏi hệ thống và mỗi NHTM phải khẩn trương thực hiện đổi mới một cách mạnh mẽ và sâu sắc để phù hợp với tình hình mới. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đã phát sinh nhiều vấn đề bức xúc đòi hỏi phải được làm rõ để có cơ sở xác định đúng mục tiêu, giải pháp và bước đi thích hợp để đạt được hiệu quả cao nhất. Trên cơ sở nhận thức những vấn đề bức xúc của hệ thống ngân hàng hiện nay, xin đưa ra một số ý kiến về các định hướng và giải pháp nhằm góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và lành mạnh hoá hệ thống ngân hàng ở nước ta. Tăng vốn điều lệ NHTM Vấn đề tăng vốn tự có và phát triển hệ thống luôn là những vấn đề hàng đầu của các NHTM Việt Nam trong quá trình đổi mới và phát triển. Quy mô vốn tự có của một ngân hàng là một trong những tiêu chí đánh giá về năng lực tài chính và khả năng đảm bảo tỷ lệ an toàn của ngân hàng. Quy mô quá nhỏ về vốn là một trong những yếu điểm lớn, đang cản trở sự phát triển của NHTM Việt Nam. Để khắc phục điểm yếu trên trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập quốc tế, NHTM cần nỗ lực và khẩn trương đẩy nhanh tiến độ và thực hiện nhiều biện pháp như: ƒ Đối với NHTM quốc doanh, cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện đề án cơ cấu lại đã được Chính phủ phê duyệt để được cấp thêm vốn điều lệ, nâng cao chất lượng tín dụng và hiệu quả các hoạt động đầu tư để nâng cao chất lượng và giá trị tài sản có... ƒ Đối với các NHTM cổ phần, cần có các chương trình và hình thức tích cực để huy động thêm vốn cổ phần từ cổ đông hiện có hoặc phát hành cổ phần ra công chúng, hay liên doanh, tăng tỷ lệ tích lũy vốn từ lợi nhuận sau thuế... ƒ Hợp nhất hay sáp nhập các NHTM với nhau. Hiện nay trên thế giới phương thức này đang diễn ra mạnh nhằm tăng tiềm lực cho các NHTM lớn. Ví dụ như Bank of Tokyo và Mitsubishi Bank ở Nhật; Vereinsbank và Hypobank ở Đức; Bank of America và National Bank ở Mỹ...Việc hợp nhất tạo ra các ngân hàng mạnh, có 81 khối lượng vốn khổng lồ, tiềm lực tài chính to lớn, mở rộng hoạt động và tăng cướng tính cạnh tranh và phát triển. ƒ Cho phép NHTM lớn cả quốc doanh lẫn cổ phần mua lại các NHTM nhỏ dưới hình thức thôn tính. Phương thức này cũng được áp dụng khá phổ biến trên thế giới như ngân hàng ING (Hà Lan) mua ngân hàng Baring (Anh); HSBC (Anh) mua lại ngân hàng CCF (Pháp); United Overseas Bank (Singapore) mua lại Radanasin Bank (Thái Lan)...Đối với các NHTM cổ phần, các ngân hàng cổ phần lớn hơn, có vốn mạnh hơn sẽ có quyền chi phối. Bộ máy quản trị điều hành của ngân hàng mới cũng không phức tạp lắm vì tuân theo nguyên tắc cổ phần, cổ đông góp vốn. Đối với NHTM quốc doanh, việc mua lại vốn góp của ngân hàng cổ phần nhỏ có thể coi là bước đầu để cổ phần hóa các NHTM quốc doanh, đồng thời làm tăng khả năng tài chính của NHTM quốc doanh. Xúc tiến việc CPH các NHTM của Nhà nước Việc CPH các NHTM Nhà nước nhằm nâng cao chất lượng quản lý, nâng cao năng lực hoạt động, nâng cao chất lượng các dịch vụ của các NHTM Nhà nước, chủ động đương đầu với những thách thức của quá trình hội nhập. Thực hiện CPH các NHTM Nhà nước cần lưu ý: ƒ Thứ nhất, cần phải tránh việc bơm thêm vốn cho các NHTM Nhà nước hoạt động kém hiệu quả trước khi CPH. Các ngân hàng có thực trạng kém hiệu quả, khi rót thêm vốn vào thì số vốn này sẽ dễ bị chi tiêu hoang phí và không có hiệu quả. mặt khác, việc rót vốn cho các ngân hàng hoạt động kém hiệu quả sẽ gây khó khăn trong việc quyết định có nên CPH ngân hàng này nữa hay không vì khi đó lại thấy rằng các ngân hàng có vẻ “làm ăn đang trên đà khởi sắc”, trong khi chủ trương của CPH là thực hiện đối với các ngân hàng kém hiệu quả. ƒ Thứ hai, không phải chỉ đợi đến khi khủng hoảng hệ thống ngân hàng thì mới CPH. Việc CPH các NHTM Nhà nuớc cần phải tính toán kỹ lưỡng và chủ động trong việc CPH. Việc CPH không được xây dựng một cách sơ sài vì điều này sẽ làm tăng thêm nhiều chi phí cho quá trình chuyển đổi hệ thống. Nếu như kế hoạch chiến lược CPH không phù hợp có thể đưa đến hậu quả rất nghiêm trọng đó là làm cho hệ thống ngân hàng khủng hoảng thật sự. Trong thời gian đầu khi mới thực hiện CPH, Nhà 82 nước nên nắm giữ một tỷ lệ sở hữu cao. Tuy nhiên, Nhà nước cũng cần phải chủ động trong việc giảm dần quyền sở hữu đó trong một thời gian thích hợp. Thực hiện đa dạng hoá nghiệp vụ Hoạch định và lựa chọn chiến lược thực hiện đa dạng hoá cho phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi ngân hàng. Việc mở rộng đa dạng hoá nghiệp vụ ngân hàng không thể coi là vấn đề ngắn hạn, nhất thời, vì nó trước hết là mục tiêu phát triển xã hội lâu dài. Hơn nữa nghiệp vụ ngân hàng, nhất là dịch vụ hiện đại đòi hỏi lượng đầu tư ban đầu rất lớn. Vì vậy mỗi ngân hàng phải dựa vào lợi thế và khả năng của mình để hoạch định phát triển nghiệp vụ một cách phù hợp, chính xác. Trên cơ sở đó, mức đầu tư và lựa chọn công nghệ cho hợp lý. Khai thác triệt để ưu thế cạnh tranh của mỗi ngân hàng, của từng chi nhánh trong từng vùng, từng địa phương. Trước hết là hoàn thiện phát triển nâng cao chất lượng các nghiệp vụ hiện có, đồng thời triển khai thực hiện các nghiệp vụ, dịch vụ mà xã hội, nền kinh tế đang cần và ngân hàng mình có điều kiện thực hiện ngay. Tiếp đến là mở ra những nghiệp vụ, dịch vụ mang tính định hướng thị trường. Nghiên cứu và áp dụng những sản phẩm ngân hàng mới, trong đó chú trọng vào việc xây dựng hệ thống thanh toán qua ngân hàng, phục vụ tốt cho việc mua bán, thương mại điện tử, sử dụng séc thanh toán cả nội địa lẫn quốc tế, áp dụng các hình thức cấp tín dụng mới bao thanh toán, thấu chi, cầm cố giấy tờ có giá… tham gia tích cực vào thị trường tài chính, nhằm làm biến đổi về chất các hoạt động kinh doanh hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay. Thực hiện các biện pháp thu hút khách hàng để mở rộng và phát triển nghiệp vụ ngân hàng như: đẩy mạnh tiếp thị, quảng cáo, triển khai ứng dụng marketing để phát triển nghiệp vụ ngân hàng, đổi mới phong cách giao tiếp, phục vụ văn minh lịch sự, tận tình và nhanh chóng. Đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt Cần có những chính sách đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, phát triển bưu chính viễn thông và Internet, tạo điều kiện cho các NHTM thực hiện đa dạng hoá nghiệp vụ: quy định trả lương cho cán bộ công nhân viên thông qua tài khoản của họ ở ngân hàng hay ban hành những bộ luật đảm bảo quyền lợi người dân khi gửi và nở tài 83 khoản tại ngân hàng…Chính phủ cần cho phép phát hành tiền kim khí để có thể sử dụng được qua các máy tự động (khi sử dụng máy tự động khách hàng muốn nạp tiền vào tài khoản qua máy thì tiền phải in lại để máy có thể nhận dạng được) nhằm đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế, nhất là trong dân cư. Sự phát triển của Bưu chính Viễn thông, Internet là tiền đề, là cơ sở để NHTM hiện đại hoá công nghệ và phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Nhưng hiện nay các NHTM đang phải thuê bao đường truyền với mức phí quá cao lại chưa thật nhanh, chuẩn xac và an toàn. Trong khi vốn pháp định và nguồn vốn đầu tư đổi mới công nghệ của các ngân hàng còn nhỏ, nên các NHTM còn rất khó khăn trong việc hiện đại hoá công nghệ và phát triển dịch vụ mới. Mặt khác phí thuê bao và sử dụng Internet của Việt Nam hiện nay còn tương đối đắt nên chưa khuyến khích các doanh nghiệp và cá nhân sử dụng. Tình trạng này khiến cho việc cung cấp dịch vụ ngân hàng qua Internet của các NHTM trở nên khó khăn. Do vậy, phát triển Bưu chính Viễn thông và Internet không chỉ là vấn đề của riêng ngành Bưu chính Viễn thông, mà còn là nội dung quan trọng cần được Nhà nước đặc biệt quan tâm trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước. 3.2.2.4 Khuyến khích và hỗ trợ các NHTM hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới nền kinh tế đất nước Chính phủ cần cho phép các NHTM được hưởng chính sách ưu đãi đầu tư trong nước như các doanh nghiệp khác (trong việc đầu tư hiện đại hoá kỹ thuật công nghệ để phát triển các dịch vụ ngân hàng quan trọng và thiết yếu). Ngoài việc dùng vốn tự có để đầu tư, cho phép các NHTM vay vốn dài hạn như các doanh nghiệp khác. Tăng vốn điều lệ và cấp vốn cho NHTM đầu tư công nghệ hiện đại. Cho phép NHNN Việt Nam chủ trì, phối hợp với Bộ Tài Chính thành lập “Quỹ hiện đại hoá ngân hàng” để tập trung nguồn tài chính tập trung cho việ hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Các nguồn hình thành quỹ có thể một phần do ngân sách Nhà nước bố trí riêng; một phần từ kinh phí có nguồn gốc ngân sách như: kinh phí hiện đại hoá và phát triển công nghệ tin học, kinh phí đào tạo trong, ngoài nước; một phần trích từ lợi nhuận trước thuế của các NHTM; một phần từ phát hành trái phiếu trung, dài hạn có khả năng chuyển đổi và cấp trở lại cho hiện đại hoá. 84 3.2.2.5 Hoàn thiện khung pháp lý, tăng cường tính minh bạch thông tin thị trường và tạo dựng môi trường đầu tư thân thiện. a) Hoàn thiện khung pháp lý. ƒ Quản lý tài chính cần được điều tiết bởi các luật và nguyên tắc hành chính toàn diện áp dụng cho các hoạt động trong và ngoài ngân sách. Bất kỳ một cam kết hay chi phí về vốn của chính phủ đều phải do một cơ quan pháp lý thực hiện. ƒ Các khoản thuế, phí và lệ phí cần phải có cơ sở pháp lý rõ ràng. Luật và các quy định về thuế cần phải dễ tiếp cận, dễ hiểu và cần có các tiêu chuẩn rõ ràng để hướng dẫn các thẩm quyền hành chính khi triển khai. ƒ Các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp: cần quy định rõ ràng và công bố rộng rãi các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của các công chức. ƒ Cần thực hiện đồng bộ các quy định của Nhà nước trên phạm vi cả nước, tránh tình trạng như hiện nay có rất nhiều trường hợp thực tế xảy ra “phép vua thua lệ làng”. b) Tăng cường tính minh bạch thông tin thị trường. ƒ Một trong các yếu tố tạo nên sự thành công của tự do hoá tài chính là nước ta cần phải thiết lập hệ thống cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư. Thông tin phải chính xác ,cập nhật. Muốn vậy, trong thời điểm hiện nay, với lợi thế từ sự tiến bộ của công nghệ thông tin, chúng ta có thể lập mạng lưới thông tin cho các ngân hàng, tổ chức tín dụng, công chúng và cho cả các nhà đầu tư trong hay ngoài nước. ƒ Sụ kết hợp mang tính quốc tế giữa khuôn khổ pháp lý và việc công khai thông tin là rất quan trọng để đảm bảo cho thị trường được an toàn và hiệu quả. c) Tạo dựng môi trường đầu tư thân thiện. Thu hút đầu tư tạo sự phát triển cho nền kinh tế là điều tất yếu, đầu tư cũng là một trong những yếu tố tác động không nhỏ đến nền kinh tế, là yếu tố góp phần vào công cuộc hội nhập kinh tế thế giới và khu vực, cụ thể hơn, đầu tư ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình hội nhập tài chính của nước ta. Mặc dù tình hình đầu tư nước ngoài vào nước ta có phần khả quan vào cuối năm 2001, nhưng nhìn chung vẫn còn những hạn chế mà nếu chúng ta bỏ qua sẽ làm cho 85 luồng vốn FDI chuyển hướng sang các thị trường khác trong khu vực đang dần lấy lại thế mạnh về kinh tế như: Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Indonesia, Malaysia… Chính phủ cần tạo ra một sân chơi công bằng và lành mạnh cho các thành phần kinh tế trong cả nước, cho tất cả các ngành: hàng không, dược phẩm, bưu điện, truyền hình… duy trì sự kiểm duyệt của Nhà nước là cần thiết, nhưng để phát triển chúng ta cần phải có cạnh tranh lành mạnh. Phải có một hệ thống văn bản pháp quy rõ ràng, logic, dễ hiểu giúp các nhà đầu tư tuân thủ ngay từ giai đoạn tiền đầu tư. Và phải mang tính đồng bộ giữa các bộ, các ngành, các địa phương. 3.3 CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG NGỪA RỦI RO TRONG QUÁ TRÌNH TIẾN HÀNH TỰ DO HÓA DỊCH VỤ TÀI CHÍNH 3.3.1. Phòng ngừa rủi ro tỷ giá Khi biên độ tỷ giá được nới lỏng, có khả năng dẫn đến rủi ro tỷ giá cho các doanh nghiệp Việt Nam có các hoạt động kinh doanh quốc tế. Hệ thống tỷ giá này có thể làm cho các doanh nghiệp Việt Nam lo lắng trong khi hoạch định các chiến lược xuất khẩu vì nỗi e ngại VND sẽ mất giá dẫn đến làm giảm lợi nhuận; nghĩa là rủi ro kinh doanh trong quá trình tự do hóa cũng sẽ lớn hơn đi kèm với cải cách trong điều hành chính sách tỷ giá. Các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động thuần túy nội địa cũng phải chịu tác động gián tiếp đối với hệ thống tỷ giá mới theo cách gọi là “độ nhạy cảm”. Theo đó, mỗi khi tỷ giá VND biến động đều tác động đến sức cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam và có thể làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nội địa. Nếu VND định giá cao do dải băng mở rộng, có khả năng làm cho hàng hóa nhập khẩu tính bằng VND trở nên rẻ hơn và làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường nội địa. Vấn đề đặt ra là, do có phải gặp những rủi ro tỷ giá hoặc độ nhạy cảm đối với rủi ro tỷ giá mà chúng ta không thể áp dụng chế độ tỷ giá dải băng theo ngang giá trung tâm? Đương nhiên là không. Vấn đề là làm thế nào để giảm thiểu rủi ro tỷ giá cho các doanh nghiệp nhà nước mà thôi. Khi đề xuất cho việc điều hành chính sách tỷ giá bằng cách mở rộng biên độ tỷ giá, đã hàm ý rằng thị trường tài chính Việt Nam cần phải gấp rút triển khai các công 86 cụ phòng ngừa rủi ro. Chính phủ nên khẩn trương chỉ đạo NHTW sớm nghiên cứu ban hành các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá. (1) Trước mắt là các hợp đồng kỳ hạn, loại công cụ này hiện có mặt trên thị trường tiền tệ Việt Nam nhưng mang nặng tính áp đặt, không phản ánh đúng quan hệ cung cầu và chênh lệch lãi suất quốc tế trong tỷ giá kỳ hạn cho nên hầu như rất ít các doanh nghiệp Việt Nam quan tâm đến. Để cho thị trường quyết định việc hình thành tỷ giá kỳ hạn theo chênh lệch lãi suất quốc tế là việc mà hệ thống ngân hàng của nước ta phải thực hiện trước mắt. (2) Các công cụ phòng ngừa rủi ro khác, đặc biệt là các quyền chọn tiền tệ (currency option) cũng nên được triển khai sớm. Sự kết hợp các chiến lược phòng ngừa rủi ro trong các quyền chọn tiền tệ rất phong phú, nó cho phép các doanh nghiệp Việt Nam kết hợp vừa phòng thủ (tỷ giá) vừa tiến công khi có cơ hội (đặc biệt là đối với các định chế tài chính muốn tìm kiếm lợi nhuận). Dĩ nhiên là cũng có mặt trái của phòng ngừa rủi ro bằng các quyền chọn do khả năng đầu cơ rất cao. Các nhà đầu cơ có thể đầu cơ giá lên hoặc đầu cơ giá xuống bằng các quyền chọn tiền tệ dẫn đến một sự sụp đổ hoặc khủng hoảng tỷ giá ở các nước trên thế giới. Chế độ tỷ giá chỉ phụ thuộc chủ yếu vào ổn định kinh tế vĩ mô của các quốc gia. Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã được các tổ chức quốc tế đánh giá rất cao về chỉ số ổn định kinh tế vĩ mô, do đó nỗi lo về tính bất ổn của tỷ giá khi mở rộng biên độ sẽ giảm đi đáng kể. Mặc dù vậy, theo chúng tôi bước đầu chúng ta có thể triển khai các quyền chọn có điều kiện phù hợp với điều kiện của Việt Nam cũng như các nước đang phát triển đã từng áp dụng thành công. Quyền chọn có điều kiện là một dạng quyền chọn lai tạp giữa các quyền chọn phức tạp ở các nước đang phát triển nhưng nó làm giảm nhẹ đi tính đầu cơ để tránh thua lỗ tối đa cho các nhà đầu tư và thậm chí các nhà đầu cơ có ham muốn sử dụng quyền chọn tiền tệ để kiếm lời. Các quyền chọn tiền tệ có điều kiện đưa ra những quy định về các mức tỷ giá trần (tối đa) và sàn (tối thiểu). Nếu tỷ giá vượt qua các mức này thì quyền chọn sẽ không còn giá trị. Những rào cản này sẽ làm nản lòng các nhà đầu cơ và do đó giảm đi đáng kể tính bất ổn do NHNN mở rộng biên độ dao động tỷ giá. 3.3.2 Các biện pháp phòng ngừa rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính Chúng ta cũng cần phải triển khai mạnh mẽ các công cụ phòng ngừa rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính cho các doanh nghiệp và các nhà đầu tư trong các giao dịch tài 87 chính và các hoạt động sản xuất kinh doanh hằng ngày. Hiện nay hầu như thiếu vắng toàn bộ các công cụ phòng ngừa rủi ro kinh doanh hiện đại trên thị trường tài chính Việt Nam. Một điều đáng ngạc nhiên là chúng ta đã triển khai quyền chọn tiền tệ để phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam nhưng lại chưa triển khai nghiệp vụ này trên các biến động giá chứng khoán, tức là các Option chứng khoán. Đây là điều không thể chấp nhận được. Thị trường chứng khoán Việt Nam trong cảnh “chợ chiều” là một trong những kết cục của việc các nhà đầu tư không còn mặn mà đến các giao dịch chứng khoán do không có các công cụ phòng ngừa rủi ro kèm theo.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfGiải pháp đẩy mạnh tự do hóa tài chính và một số công cụ phòng ngừa rủi ro trong quá trình đó ở việt nam.pdf
Luận văn liên quan