NSNN là khâu tài chính tập trung giữ vị trí chủ đạo trong hệ thống tài chính, là nguồn lực vật chất để Nhà nước duy trì hoạt động của bộ máy quản lý và thực thi các nhiệm vụ phát triển KT - XH của đất nước. Với bất cứ một quốc gia nào, NSNN cũng luôn giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Vì vậy, Chính phủ các nước luôn tạo lập cơ chế và có biện pháp để không ngừng tăng cường tiềm lực của NSNN và sử dụng nó một cách tiết kiệm có hiệu quả.
Trong những năm qua, cùng với quá trình đổi mới kinh tế đất nước, công tác quản lý ngân sách của huyện đã có nhiều đổi mới và đạt được tiến bộ đáng kể. Huyện Kaysone Phomvihan không ngừng thay đổi và phát triển KT - XH, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện phần nào. Xét các chỉ tiêu KT - XH của một nền kinh tế chuyển đổi, huyện Kaysone Phomvihan đều đạt được những thành tựu ấn tượng đặc biệt về quản lý chi NSNN ở Huyện không ngừng được đổi mới ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của công cuộc đổi mới hiện nay.
Tuy vậy, trong lĩnh vực quản lý chi NSNN còn nhiều bất cập cần được nhìn nhận một cách khách quan để tìm biện pháp cải thiện. Công tác quản lý ngân sách của huyện Kaysone Phomvihan hiện nay hiệu quả chưa cao. Các đơn vị dự toán ngân sách gò bó vào chính sách chế độ, tiêu chuẩn định mức nhưng lại không bị ràng buộc về hiệu quả sử dụng ngân sách được giao. Tính năng động và tích cực của đơn vị sử dụng ngân sách chưa phát huy, tâm lý ỷ lại trông chờ vào NSNN còn phổ biến. Điều đó ảnh hưởng không tốt đến việc huy động và khai thác các nguồn lực cho đầu tư nhằm đạt được các mục tiêu phát triển và giải quyết được các vấn đề xã hội. Nhận thức được vai trò cấp thiết cần phải hoàn thiện quản lý chi NSNN trong những năm tới.
Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài: “ Giải pháp hoàn thiện quản lý chi ngân sách nhà nước tại huyện Kaysone Phomvihan tỉnh Savannakhet nước CHDCND Lào ”.
KẾT LUẬN
Giống như các nước trong khu vực và trên thế giới, quản lý chi NSNN ở nước CHDCND Lào nói chung và ở huyện Kaysone Phomvihan nói riêng được xây dựng nhằm thúc đẩy một quá trình phát triển lành mạnh, bền vững, ổn định, công bằng và dân chủ. Cụ thể các chương trình liên quan đến chi tiêu NSNN nhằm mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng tổng sản phẩm quốc dân (GNP) cao, nâng cao chất lượng cuộc sống của một bộ phận lớn dân số, đặc biệt là những người nghèo nhất trong xã hội, phát triển cơ sở hạ tầng KT - XH và bảo vệ môi trường, đảm bảo ổn định KT - XH tổng thể.
Tuy nhiên hoạt động quản lý chi NSNN vừa được xây dựng và thực hiện sau khi Luật NSNN xuất hiện đã thể hiện còn nhiều bất cập. Việc xây dựng kế hoạch quy trình phân bổ NSNN còn dựa vào sự phân phối cao độ từ Trung ương. Trong khi đó dữ liệu kinh tế cơ bản thiếu thốn, khả năng dự báo khuynh hướng phát triển kinh tế còn yếu kém làm cho các chỉ tiêu đưa ra trên các cơ sở phân tích kinh tế vững chắc khiến cho quá trình quản lý thực hiện gặp nhiều khó khăn.
Hoàn thiện quy trình quản lý chi NSNN là một trong những công việc có ý nghĩa quan trọng nhằm hướng tới xây dựng một cơ chế quản lý chi công khai, minh bạch, góp phần tiết kiệm thời gian, nhân lực và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính có hạn của đất nước. Qua toàn bộ những vấn đề được trình bày, khoá luận đã giải quyết cơ bản các yêu cầu đặt ra, nó được thể hiện các nội dung sau:
- Hệ thống hoá và làm rõ thêm các vấn đề lý luận về quản lý chi NSNN từ khâu chuẩn bị ngân sách đến chấp hành ngân sách và kế toán quyết toán chi ngân sách. Đề tài cũng nghiên cứu kinh nghiệm của Việt Nam về quản lý chi NSNN từ dó rút ra các vấn đề có thể vận dụng vào điều kiện thực tế tại tỉnh Savannakhet nói chung và huyện Kaysonephomvihan nói riêng.
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá có hệ thống thực trạng quản lý chi NSNN từ khi triển khai Luật NSNN đến nay, những kết quả đạt được, những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của nó.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý chi NSNN ở huyện Kaysone Phomvihan trong giai đoạn hiện nay, cụ thể là:
+ Giải pháp hoàn thiện và đổi mới công tác chuẩn bị ngân sách bao gồm: kéo dài thời gian chuẩn bị NSNN, ban hành đồng bộ hệ thống, định mức đơn giá thanh toán, tăng cường công tác phân tích, dự báo và chấp hành thời gian phân bổ dự toán theo quy định.
+ Giải pháp hoàn thiện và đổi mới công tác chấp hành dự toán cho NSNN, bao gồm: cải tiến phương thức cấp phát NSNN và thủ tục cấp phát của cơ quan tài chính, thiết lập công tác kiểm soát trước khi chuẩn chi, hoàn thiện cơ chế, kiểm soát, thanh toán các khoản chi NSNN hiện hành, xây dựng hệ thống chỉ tiêu kiểm soát chi theo đầu ra, cải tiến thủ tục kiểm soát, thanh toán của KBNN.
+ Giải pháp hoàn thiện và đổi mới công tác kế toán và quyết toán NSNN gồm: xây dựng chế độ kế toán Nhà nước, tuân thủ nguyên tắc quyết toán từ dưới lên, thống nhất hệ thống các chỉ tiêu báo cáo quyết toán.
+ Để đảm bảo tính khả thi cao, đề tài cũng đề cập đến các điều kiện cần thiết cho việc triển khai thực hiện các giải pháp đề ra như điều kiện về cơ chế chính sách, về hệ thống cơ sở dữ liệu và thông tin về sắp xếp tổ chức bộ máy và nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý chi NSNN và kiện toán hệ thống tổ chức ngân sách./.
82 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 9402 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp hoàn thiện quản lý chi ngân sách nhà nước tại huyện Kaysone Phomvihan tỉnh Savannakhet nước CHDCND Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cấp tiền cho toàn Huyện kịp thời.
Tiếp tục sử dụng khoa học thông tin trong quản lý quý tiền mặt và ngân sách để thường xuyên có khả năng cân đối cho tỉnh, huyện và địa phương.
- Cân đối (vận chuyển khoản tiền) chi tiêu cho quý tiền của Tỉnh theo kế hoạch đồng thời cân đối tiền cho Huyện thường xuyên và không có vấn đề.
- Đóng góp thu lệ phí vào ngân sách bằng hình thức kiểm tra thủ tục chi tiêu sau đơn vị doanh nghiệp có thu nhập gắn liền với tiền ngân sách phải đóng thuế cho Nhà nước có nghĩa là trước khi trừ giữ cho ngân sách khi chi cho đơn vị kinh doanh.
Năm 2006 khả năng chi ngân sách của Huyện đạt được 8.483 triệu kíp, bằng 97,1% của kế hoạch chi ngân sách trong năm. Trong đó:
- Chi tiền lương 6.397 triệu kíp
- Chi tiền phụ cấp, ưu đãi 1.142 triệu kíp
- Chi phục vụ hành chính 500 triệu kíp
- Chi tích luỹ - khuyến khích 301 triệu kíp
- Chi đột xuất 124 triệu kíp
- Chi thuê - mua tài sản cố định 19 triệu kíp.
Biểu 2.3. Tình hình chi NSNN năm 2006 tại huyện Kaysone Phomvihan
(Đơn vị: triệu kíp)
Biểu 2.4. Phần trăm của bội chi năm 2006 ở huyện Kaysone Phomvihan
Trong năm 2006 này, tiền lương đã được chi nhiều hơn năm trước chiếm 75,4%; nhưng tiền phụ cấp, ưu đãi (chiếm 13,5%), chi phục vụ hành chính (chiếm 5,9%) và chi thuê – mua tài sản cố định (chiếm 0,2%) thì giảm xuống so với năm 2005; còn chi tích luỹ chiếm 3,5% và chi đột xuất khác chiếm 1,5% l à đã tăng lên.
Kết quả và sự thành công về công tác tài chính cấp Huyện và cấp Làng trong toàn Huyện Kaysone Phomvihan đã giành được nói chung cũng như Văn phòng tài chính Huyện nói riêng, trong khoảng 1 năm niên khoá ngân sách 2006, uỷ viên Đảng, cán bộ - công chức trong văn phòng tài chính Huyện đã đoàn kết theo sự chỉ đạo - lãnh đạo của uỷ viên Đảng bộ - Chủ tịch Huyện Kaysone Phomvihan và sự đóng góp tích cực của các Văn phòng, ngành, Trưởng Làng, tài chính Làng, cơ quan tổ chức khác và kể cả bà con nông dân, nhà kinh doanh, những người buôn bán trong toàn Huyện.
Trong năm 2007, việc tổ chức thực hiện chi ngân sách đi theo kế hoạch chi mà tỉnh phê duyện là 11.343 triệu kíp, nhưng thực tế thưc hiện được 11.311 triệu kíp bằng 99,7% của kế hoạch năm. Trong đó có:
- Chi kho tiền lương là 9.257 triệu kíp
- Chi tiền phụ cấp ưu đãi là 1.089 triệu kíp
- Chi bộ máy hành chính là 579 triệu kíp
- Chi tích luỹ - khuyến khích là 225 triệu kíp
- Chi đột xuất khác là 136 triệu kíp
- Chi thuê, mua tài sản là 25 triệu kíp
Biểu 2.5. Tình hình chi NSNN năm 2007 tại huyện Kaysone Phomvihan
(Đơn vị: triệu kíp)
Biểu 2.6. Phần trăm của bội chi năm 2007 ở huyện Kaysone Phomvihan
Trong năm 2007 so với năm 2006 như chi tiền lương tăng lên rất nhiều là chiếm 81,8%; chi tiền phụ cấp, ưu đãi đã giảm nhiều chiếm 9,6%; phục vụ hành chính chiếm 5,1%; chi đột xuất khác tăng lên 1,2%; và chi thuê - mua tài sản cố định chiếm 0,2%; còn chi tích luỹ, khuyến khích thì đã giảm xuống chiếm 2%;
Việc thực hiện chi ngân sách nói chung là đi theo số tiền mà tỉnh phê duyệt chi, vì tình trạng thu ngân sách năm nay là thực hiện theo kế hoạch và hơn kế hoạch đồng thời cũng được nhận sự cân đối của tỉnh. Trong khoảng tháng 3 - 4 năm 2008 mới làm cho tình hình tài chính nhanh chóng kịp thời và thuận lợi, nhanh chóng kịp thời trong việc chi tiền lương.
Đến năm 2008, với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước Lào và các cơ quan ở địa phương, công tác quản lý chi NSNN của huyện Kaysone Phomvihan đã đạt kết quả tốt hơn so với những năm vừa qua: việc tổng kết chi ngân sách một cách thường xuyên, kiểm tra qua các thủ tục chi; việc phê chuẩn chi trả đúng pháp luật, đúng quy chế; quan tâm kiểm tra thanh toán chi, phê chuẩn chi nhanh và đầy đủ kịp thời; quan tâm kiểm tra các thủ tục cho tốt, bảo đảm giữ gìn tiền mặt an toàn; thực hiện chi trả theo điều kiện thực tế; phối hợp kiểm tra với các bộ phần khác, đôn đốc thu thập vào kho cho đầy đủ kịp thời.
Trong năm 2008 huyện Kaysone Phomvihan đã thực hiện công tác quản lý chi ngân sách đạt được kết quả như sau: tổng số chi trong năm nay là 12.975 triệu kíp, trong đó:
- Chi tiền lương là 10.739 triệu kíp
- Chi phụ cấp, ưu dãi là 1.340 triệu kíp
- Chi phục vụ hành chính là 585 triệu kíp
- Chi tích luỹ, khuyến khích là 205 triệu kíp
- Chi đột xuất khác là 70 triệu kíp
- Chi thuê - mua tài sản cố định là 35 triệu kíp
Biểu 2.7. Tình hình chi NSNN năm 2008 ở huyện Kaysone Phomvihan
(Đơn vị: triệu kíp)
Biểu 2.8. Phần trăm của bội chi năm 2008 ở huyện Kaysone Phomvihan
Trong năm 2008, chi tiền lương vẫn tăng lên hơn nữa là chiếm % của tổng số chi trong năm; tiền phụ cấp, ưu đãi cũng tăng lên rất nhiều chiếm %; chi cho phục vụ hành chính đã tăng lên một ít là chiếm %; chi tích luỹ, khuyến khích là giảm xuống chiếm %; với sự quản lý quan tâm về công tác chi NSNN đã làm cho phần chi đột xuất khác đã giảm xuống rất nhiều so với những năm trước là chiếm %; nhưng chi thuê – mua tài sản cố định thì tăng lên chiếm %.
Việc quản lý chi NSNN:
- Kiểm tra và quản lý chi ngân sách theo vòng tiền Tỉnh đã giao cho cụ thể là: tiền lương, tiền phụ cấp…để đảm bảo được chi thường xuyên và không nợ nần. Đồng thời cũng đảm bảo chi nhanh chóng kịp thời, đúng theo luật pháp.
- Việc chi ngân sách phải hoàn thành không quá ngày 20/06/2008 và gửi thủ tục cho kho tiền theo dõi chi cho hoàn thành ngay trong ngày 30/09/2008.
- Xuống giám sát, kiểm tra và thúc đẩy tổ chức ở các Làng để dự đoán của việc tổ chức thực hiện kế hoạch năm 2008.
- Chú ý phối hợp với ngành, cơ quan tài chính chặt chẽ để khai thác nguồn thu và quản lý chi nghiêm chỉnh hơn.
Chi tiền lương, tiền phụ cấp kể từ quý I trong năm 2007 là thực hiện chính sách tăng hệ số tiền lương từ 2000 kíp lên 2.500 kíp với 1 hệ số. Đồng thời, phải ưu đãi chi tiền lương, tiền phụ cấp để bảo đảm cán bộ, công chức, cảnh sát, giáo viên, y tá được hưởng lương thường xuyên kịp thời theo tổng số được phê chuẩn từ Cục văn phòng hành chính và quản công chức. Kiểm tra lại tổng số cơ quan Nhà nước của các Vụ, cơ quan xung quanh Tỉnh và các ngành của Huyện còn phù hợp với quy chế mà Vụ hành chính và quản lý công chức đề ra. Việc nhận cán bộ vào làm việc mới phải được nhận chỉ tiêu biên chế từ Vụ hành chính và quản lý công chức mới được thanh toán tiền lương. Cấm nhận các bộ vào làm việc và cán bộ thuê hợp đồng mà không có chỉ tiêu biên chế sễ dẫn đến tăng chi ngân sách.
Để đảm bảo cho biên chế của Đảng và Nhà nước và tổ chức quần chúng có khả năng thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình theo kế hoạch đề ra, mọi cơ quan, các Sở, các Huyện phải chi tiêu ngân sách của mình bằng hình thức tiết kiệm, trong quý I phải trả nợ trước mới phân bổ khoản tiền vào phục vụ hội nghị quan trọng, chi phí công việc chi xuống cơ sở, chi trả nợ điện lực, nước sạch, điện thoại… để phê chuẩn và giảm nợ nần mới, chú ý trả nợ của dự án đã kéo dài nhiều năm, khẩn trương thực hiện dự án đã được phê duyệt cho hoàn thành sớm kịp thời.
Bảng 2.9. Tình hình thực hiện chi NSNN giai đoạn năm 2005 - 2008 ở huyện Kaysone Phomvihan
STT
Nội dung
2005
2006
2007
2008
1
Tiền lương
5.434
6.397
9.257
10.739
-
% so với tổng số chi
72,59%
75,41%
81,84%
82,77%
2
Tiền phụ cấp, ưu dãi
1.205
1.142
1.089
1.340
-
% so với tổng số chi
16,1%
13,46%
9,63%
10,33%
3
Phục vụ hành chính
447
500
579
585
4
Tích luỹ, khuyến khích
258
301
225
205
5
Đột xuất khác
118
124
136
70
6
Thuê – mua tài sản
24
19
25
35
Tổng số chi
7.486
8.483
11.311
12.974
(Nguồn: Phòng Tài chính huyện Kaysone Phomvihan)
2.2.3. Những ưu, nhược điểm và nguyên nhân trong hoạt động quản lý chi NSNN tại huyện Kaysone Phomvihan
Ưu điểm và nguyên nhân
+ Ưu điểm
- Giải quyết được những tiêu cực trong ngành tài chính, thực hiện giải quyết bằng nhiều hình thức như: củng cố phương thức làm việc, quan tâm kiểm tra giám sát từng thời gian nếu thấy có vấn đề phải lập tức giải quyết kịp thời, thăm dò ý kiến của cán bộ các cấp của sở, ban, ngành, để làm cơ sở cho việc kiểm toán Nhà nước.
- Về chi tiêu phải quản lý chi theo đúng quy định của ngân sách chi tiền lương, tiền phụ cấp là thực hiện thường xuyên và coi đó là chi ưu đãi của chế độ chi trả, ngoài ra còn chi cho hành chính, tích luỹ khuyến kích theo kế hoạch ngày tháng, nhiệm kỳ mà các ngành có lien quan kiến nghị. Còn chi cho đầu tư là thực hiện theo phê duyệt và chi trả theo kết quả thành công của từng công việc cụ thể. Nói chung không có vấn đề gì đối với chi trả tiền lương, tiền phụ cấp…
- Nâng cao kiến thức - kỹ năng cho cán bộ công chức bằng bồi dưỡng chính trị, chuyên môn và pháp luật về tài chính. Việc thực hiện chi ngân sách nói chung đã đi theo vòng tiền mà Nhà nước phê duyệt.
+ Nguyên nhân
- Sự chỉ đạo hướng dẫn thường xuyên từ ban lãnh đạo của Huyện và Tỉnh. Chính quyền hành chính Huyện, các sở, Ban, cũng được tăng cường lãnh đạo hợp tác và tham gia vào quản lý chi tiêu. Các cấp lãnh đạo quan tâm chỉ đạo hướng dẫn các ngành tài chính giám sát thường xuyên nhất là: Đảng bộ, chính quyền địa phương, Tỉnh và Huyện đã tổ chức Ban lãnh đạo, quy định quy chế làm việc, việc báo cáo kế hoạch chi ngân sách từng thời gian.
- Đội ngũ cán bộ tài chính trong Huyện thực hiện nghiêm chỉnh đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chủ động thực hiện nhiệm vụ được giao, các nhà kinh doanh, nhà buôn bán, nhân dân tự giác thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước.
- Các Luật về tài chính được củng cố như: Luật Hải quan, Luật thuế, quy chế cho phép nhập vào thiết bị phương tiện, Thiết chế giá trị của xăng dầu nhập vào đã được bổ xung cho phù hợp với thực tế.
- Nâng cao về nhận thức chính trị và chuyên môn, thúc đẩy, theo dõi thường xuyên của các phòng ban quản lý, văn phòng Huyện và kết hợp với cán bộ tài chính đôn đốc trong việc quản lý chi tiêu đúng mức.
Nhược điểm và nguyên nhân
+ Nhược điểm:
- Việc tuyên truyền phổ biến pháp luật về chi NSNN chưa thường xuyên, không rộng rãi.
- Quản lý chi NSNN trong các Làng xóm chưa thực hiện tốt như: việc ghi chép sổ sách chưa chi tiết việc chi tiêu quý phát triển Làng không đúng mục đích , việc huấn luyện nâng cao trình độ chuyên môn cho Làng chưa kịp thời, việc quản lý giữ gìn quý phát triển của một số việc chưa đạt kết quả. Có tình trạng lợi dụng cho cá nhân và các tổ chức khác vay mượn mà không báo cáo cấp trên.
- Chi ngân sách tuy đã làm tốt nhưng một số Làng vẫn ở tình trạng chậm chủ yếu chi tiền lương của giáo viên, y tá, chưa thực hiện nghiêm, còn nhiều bất cập xảy ra, chi tiêu nhiều hơn so với thu nhập.
+ Nguyên nhân:
- Cán bộ tài chính trong Huyện thiếu còn thiếu cả về số lượng và chất lượng. Trình độ chuyên môn cấp cao đẳng chiếm tỷ lệ lớn, một số cán bộ có kiến thức và kỹ năng còn hạn chế, lập trường chính trị chưa vững vàng, sự phấn đấu thực hiện nhiệm vụ chính trị đã giao chưa cao, mặc dù đã cố gắng kiểm chế những tiêu cực bằng nhiều hình thức nhiều phương thức, nhưng vẫn có ý kiến phản đối từ bên ngoài với công việc tài chính.
- Chưa sử dụng công cụ hiện đại vào việc kiểm tra thu nhập, phê duyệt chi tiêu ngân sách và vào công việc kiểm tra giám sát.
- Kế hoạch chi ngân sách của các ngành và địa phương chưa dựa vào thông tin và quy định mục tiêu một cách chính xác. Việc bố trí mua – thuê trong dự án Nhà nước với quy mô lớn nhưng chưa thống nhất.
- Việc phối hợp giữa các Sở, Ban, ngành của tỉnh và huyện chưa rõ ràng trong việc phân cấp và quản lý chi NSNN.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TẠI HUYỆN KAYSONE PHOMVIHAN TỈNH SAVANNAKHET NƯỚC CHDCND LÀO
3.1. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG CHI NSNN TẠI HUYỆN KAYSONE PHOMVIHAN TỈNH SAVANNAKHET NƯỚC CHDCND LÀO
3.1.1. Phương hướng hoàn thiện
Phương hướng và mục tiêu kế hoạch ngân sách năm 2008 là phải tiếp tục tổ chức triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII của Trung ương Đảng. Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Ban hành chính Huyện. Kế hoạch phát triển KT - XH và chiến lược tài chính 5 năm lần thứ VI (2006 - 2010). Vì vậy, phải phấn đấu tổ chức thực hiện kế hoạch ngân sách năm 2008 bước sang điểm mới và có hiệu quả hơn, bằng khai thác mọi tiềm năng tiềm ẩn của thu nhập và thực hiện chi tiêu tiết kiệm, chi tiêu theo kế hoạch và chống lãng phí.
Chính sách tài chính của Huyện năm 2008 là:
`- Tích cực khai thác tìm những nguồn thu tiềm ẩn nội bộ theo chính sách mới của chính phủ đề ra như: Luật ngân sách mới, Luật hải quan, Nghị định về thuế đất đai, nghị định về giấy thu tiền, Luật lệ phí, về thu nhập chuyên môn, Luật sổ sách mới.
- Việc phân bổ ngân sách năm 2008 thu nhập của Huyện gồm: thu nhập từ hải quan, đất đai và tài sản Nhà nước, còn thu từ thuế là thu nhập của địa phương, cơ chế thu là tất cả nguồn thu phải nộp ngay vào NSNN tại Huyện, mà Huyện được chi tiêu theo kế hoạch của chính phủ quy định và không chi tiêu ứng trước.
- Về chi tiêu ngân sách ưu đãi phải theo nguyên tắc tiết kiệm, chống chi tiêu lãng phí, giữ mức mua mới với mức độ năm cũ. Nhưng phải tăng thêm tiền lương, tiền phụ cấp Trưởng Làng, bí thư Làng, bí thư cụm Làng,…
- Tiếp tục coi ưu đãi số một là chi trả tiền lương, chi nhanh kịp thời và cho tiền lương đủ mọi tháng. Chi tiêu hoá theo ngành dọc như: các chi tiêu cho an ninh quốc phòng, giáo dục, y tế là do trung ương phân bổ.
- Mọi hoạt động chi phải qua Sở kế hoạch - đầu tư Tỉnh và Sở tài chính Tỉnh, nếu không qua ngân sách được coi là chi tiêu ngoài kế hoạch.
- Tập trung củng cố và bố trí cán bộ tài chính toàn Huyện, đồng thời quan tâm huấn luyện tư tưởng chính trị cho đảng viên, cán bộ tài chính trong Huyện nâng cao lập trường đạo đức cách mạng, đổi mới phương thức làm việc, nâng cao tư tưởng yêu nước, an tâm hăng hái thực hiện trách nhiệm trong việc khai thác thu nhập và quản lý chi tiêu theo kế hoạch đạt mục tiêu mà cấp trên giao, tăng cường kiểm tra giám sát trong ngành tài chính nhằm chống tham nhũng, hạn chế các tiêu cực trong khu vực tài chính.
- Cấp Huyện phải nắm vững kế hoạch chiến lược chung tốt để tạo thành kế hoạch chỉ đạo trong tổ chức thực hiện chi tiết hơn, thúc đẩy kiểm tra việc chuyên môn cho thường xuyên.
3.1.2. Mục tiêu hoàn thiện quản lý chi NSNN
Quá trình thực hiện quản lý chi NSNN là nhằm đạt được những mục tiêu sau đây:
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả điều hành vĩ mô của Chính phủ và Bộ Tài chính. Trên cơ sở đổi mới quản lý chi NSNN, một hệ thống thông tin quản lý ngân sách và kho bạc khuôn khổ tài khoá.
- Đổi mới và xây dựng tác phong công nghiệp trong quản lý chi NSNN. Phương pháp quản lý NSNN thống nhất, hiện đại, kết hợp với một chế độ kế toán Nhà nước thống nhất, một hệ thống thông tin hiện đại, thông suốt và đẩy đủ sẽ góp phần đổi mới tư duy quản lý và sử dụng công cụ chi ngân sách.
- Nâng cao chất lượng kế hoạch dự toán ngân sách, cải thiện việc phân bổ, sử dụng ngân sách tại các ngành, các đơn vị, các địa phương. Nâng cao hiệu quả hoạt động của chi NSNN.
- Cải thiện tính minh bạch trong quản lý chi NSNN, góp phần ngăn ngừa lãng phí, chống tham nhũng.
- Đổi mới quản lý chi NSNN, đảm bảo các nguồn lực được sử dụng tốt, gắn chi NSNN với các mục tiêu tăng trưởng, phát triển và xoá đói giảm nghèo.
3.2. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ CHI NSNN TẠI HUYỆN KAYSONE PHOMVIHAN TỈNH SAVANNAKHET NƯỚC CHDCND LÀO
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp lý về quản lý chi NSNN
Hiện nay, trước yêu cầu pháp luật hoá các hoạt động của đời sống KT – XH, các văn bản pháp luật trở thành nền tảng pháp lý của đời sống KT – XH, do đó đặt ra yêu cầu rất cao với công tác ban hành cơ chế chính sách quản lý kinh tế nói chung và công tác quản lý tài chính, tiền tệ, NSNN nói riêng đó là: đầy đủ, đồng bộ, cụ thể và rõ ràng. Trong lĩnh vực quản lý chi NSNN, chúng ta đã có một khung pháp lý khá hoàn chỉnh bao gồm Luật NSNN và hệ thống các văn bản dưới luật (Nghị định, thông tư). Tuy nhiên, để thực hiện tốt công tác quản lý chi NSNN, đòi hỏi Luật NSNN phải được thi hành đồng bộ với các Luật khác. Trước mặt cần nghiên cứu sớm ban hành Luật Hành chính, Luật Kiểm toán; để cùng tạo hành lang pháp lý đồng bộ trong quá trình thực thi Luật NSNN.
Hệ thống các văn bản dưới Luật cũng cần phải tiếp tục hoàn thiện, trước mặt là các văn bản hướng dẫn thi hành Luật NSNN (sửa đổi) có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách. Một số các văn bản khác cần xem xét, ban hành kịp thời, bao gồm: hệ thống định mức, đơn giá, tiêu chuẩn chi tiêu của Nhà nước; hệ thống các tiêu chuẩn quản lý ngân sách theo đầu ra; chế độ quản lý, cấp phát thanh toán các khoản chi NSNN theo dự toán; cơ chế quản lý và điều hành quý NSNN trong trường hợp thiếu hụt tạm thời; cơ chế thanh toán bằng tiền mặt đối với các đơn vị sử dụng NSNN; chế độ kế toán và thống kê NSNN…
Thể chế hoá và công khai hoá việc đổi mới quy trình ngân sách, bao gồm quy trình lập, phân bổ và phê chuẩn dự toán ngân sách, quy trình thực hiện cấp phát, thanh toán, quy trình quyết toán NSNN.
Hoàn thiện hệ thống định mức phân bổ ngân sách phù hợp với định hướng đổi mới quản lý chi NSNN, tiến tới tăng quyền hạn gắn chặt trách nhiệm tự chủ tài chính của các địa phương, các đơn vị sử dụng ngân sách và các nguồn lực quốc gia.
Thiết lập hệ thống cơ chế lập kế hoạch ngân sách theo khuôn khổ trung hạn và lập dự toán chi ngân sách trên cơ sở khuôn khổ chi tiêu trung hạn; thay đổi tư duy xây dựng dự toán ngân sách trên cơ sở nguồn lực hiện có bằng phương thức quản lý chi ngân sách dựa trên kết quả đầu ra.
Hoàn thiện hệ thống cơ chế trao quyền tự chủ tài chính cho các đơn vị sử dụng kinh phí ngân sách, nhất là các đơn vị sự nghiệp có thu như giáo dục, y tế, truyền hình, phát thanh, văn hoá, thể thao…Hoàn thiện cơ chế quản lý chi ngân sách trong các đơn vị quản lý hành chính, bảo đảm số lượng và chất lượng các dịch vụ hành chính Nhà nước luông được cải thiện, đáp ứng nhu cầu của người dân - người nộp thuế.
Thiết lập hệ thống thông tin tài chính thống nhất, thông suốt toàn quốc, từ Trung ương đến các cấp chính quyền địa phương, nối liền giữa các bộ quản lý (Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư) và các bộ, ngành sử dụng các nguồn lực tài chính.
3.2.2. Đổi mới cơ chế, chính sách quản lý
Mục tiêu đổi mới cơ chế quản lý tài chính đối với các đơn vị sử dụng ngân sách, mà đặc trưng là cơ quan hành chính và các đơn vị sự nghiệp trao quyền tự chủ thật sự cho các cơ quan, đơn vị trong việc tổ chức công việc, sử dụng biên chế lao động, tăng cường huy động và quản lý thống nhất các nguồn thu, đồng thời sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn tài chính nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng công tác quan lý hành chính, hoạt động sự nghiệp, khuyến khích và tạo điều kiện cho các đơn vị sử nghiệp đảm bảo trang trải kinh phí hoạt động, nâng cao thu nhập và hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ công chức, viên chức.
Nội dung đổi mới cơ chế đối với các cơ quan hành chính Nhà nước là khoán biên chế đồng thời với khoán kinh phí hành chính đối với các đơn vị sự nghiệp là trao quyền tự chủ tài chính, thực hiện cơ chế quản lý tài chính mới có ý nghĩa về nhiều mặt.
Các cơ chế chính sách là các công cụ mà thông qua đó cơ quan quản lý có thể kiểm tra, giám sát việc chi tiêu của các đơn vị. Chúng có thể bao gồm các công cụ kiểm soát trực tiếp (quy định hướng dẫn quy trình kiểm soát thanh toán) lẫn các cơ chế bổ sung, phụ trợ, tạo môi trường cho việc kiểm soát chi tiêu, quy định các điều kiện, yêu cầu chi tiêu, chế độ định mức tiêu chuẩn chi tiêu, quy trình lập và phân bổ dự toán ngân sách chi tiết, quy chế trách nhiệm của các đơn vị trước pháp luật đối với việc chi tiêu của họ. Để nhằm hoàn thiện hơn cơ chế chính sách kiểm soát chi ngân sách qua KBNN thì cần:
Thứ nhất, sửa đổi bổ sung cơ chế kiểm soát chi NSNN hiện hành.
- Xây dựng một cơ chế kiểm soát chi thống nhất: Cần phải sửa đổi, bổ sung cơ chế này để vừa kịp thời tháo gỡ các khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện, mặt khác, nâng cao một bước chất lượng của công tác kiểm soát chi NSNN. Quá trình này phải đồng thời với việc rà soát lại các cơ chế kiểm soát chi NSNN hiện tại, đặc biệt là cơ chế kiểm soát thanh toán đối với các loại vốn sự nghiệp kinh tế có nội dung tính chất giống nhau nhưng đang vận hành theo các cơ chế khác nhau, từ đó thống nhất phương thức, nội dung kiểm soát chi NSNN qua KBNN đảm bảo tính chặt chẽ và đồng bộ của việc kiểm soát thanh toán các khoản chi từ NSNN.
- Hoàn thiện quy trình, thủ tục kiểm soát chi: Do yêu cầu về điều kiện chi ngân sách đã quy định tương đối chặt chẽ trong Luật cũng như các văn bản hướng dẫn dưới Luật, quy trình kiểm soát tại kho bạc tương đối phức tạp, nhiều thủ tục. Chẳng hạn, nhiều khoản chi đều phải qua hai bước: cấp tạm ứng và thanh toán (số thực chi), chỉ có rất ít khoản chi được cấp thanh toán ngay một lần. Đối với mỗi khoản chi, khi đơn vị muốn được thanh toán để phải xuất trình nhiều loại tài liệu, chứng từ liên quan.
Thứ hai, hoàn thiện các chế độ khác liên quan đến công tác kiểm soát chi.
- Các quy trình mua sắm, thanh toán phải được chuẩn hoá và được các bên liên quan tiếp cận để phục vụ cho việc kiểm soát, thanh toán.
- Có hệ thống định mức, đơn giá chuẩn về các hàng hoá dịch vụ tiêu dùng trên từng địa phương, trong thời gian trước mắt, nếu chưa có được một hệ thống hoàn chỉnh thì cũng phải có được hệ thống giá của các hàng hoá dịch vụ thông dụng, phổ biến do Sở Tài chính công bố hàng quý, hàng năm.
3.2.3. Đổi mới chấp hành chi NSNN
3.2.3.1. Cải tiến phương thức cấp phát chi NSNN và thủ tục cấp phát của cơ quan tài chính.
Mục tiêu của việc cải tiến phương thức cấp phát NSNN là nhằm tăng cường tính chủ động cho các đơn vị sử dụng NSNN trong quá trình thực hiện dự toán NSNN đã được phê duyệt; hạn chế tối đa sự can thiệp không cần thiết của cơ quan tài chính vào quá trình chi tiêu của đơn vị.
Nội dung của việc cải tiến phương thức cấp phát NSNN là chuyển đổi việc quản lý, điều hành NSNN theo hạn mức kinh phí sang điều hành theo dự toán. Trong điều kiện cụ thể ở nước CHDCND Lào hiện nay, do trình độ kế hoạch hoá của nền kinh tế chưa cao và khả năng đáp ứng đầy đủ các nhu cầu chi tiêu tại mọi thời điểm còn hạn chế thì việc cấp phát theo dự toán cần được thực hiện theo các bước đi phù hợp. Cụ thể:
- Trước hết chuyển phần lớn các khoản chi NSNN (chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển) sang cấp phát theo dự toán; chỉ duy trì việc cấp phát theo hạn mức kinh phí họăc lệnh chi tiền đối với một số khoản chi đặc biệt chưa đủ điều kiện để thực hiện theo phương thức này (chi quốc phòng, an ninh, chi đột xuất, bất thường để khắc phục thiên tài, hoả hoạn, bão lụt, dịch bệnh…).
- Đơn vị sử dụng NSNN phải đăng ký kế hoạch chi quý với cơ quan tài chính và KBNN để tạo điều kiện chủ động trong việc sắp xếp nguồn kinh phí đáp ứng nhu cầu chi tiêu của các đơn vị.
- Trong các trường hợp đặc biệt, khi khả năng NSNN không đáp ứng được (sau khi đã tìm kiếm các biện pháp bù đắp tạm thời), cơ quan tài chính được quyền cắt giảm bớt nhu cầu chi tiêu của đơn vị để đảm bảo cân đối ngân sách. Trong trường hợp này, cơ quan tài chính phải thông báo đơn vị biết để điều chỉnh dự toán chi quý cho phù hợp.
Sau một thời gian triển khai thực hiện, khi hội đủ các điều kiện cần thiết, thực hiện xoá bỏ dần sự can thiệp của cơ quan tài chính vào quá trình chi của đơn vị và thực hiện việc quản lý, điều hành NSNN hoàn toàn theo dự toán.
Về thủ tục hành chính trong khâu cấp phát của cơ quan tài chính cũng cần phải cải tiến nhằm đảm bảo yêu cầu đơn giản, gọn nhẹ. Khi phần lớn các khoản chi NSNN đã được cấp phát theo dự toán; số lượng các khoản chi bằng hạn mức kinh phí và lệnh chi tiền không còn nhiều thì bộ máy quản lý của cơ quan tài chính cần được xem xét, sắp xếp lại cho phù hợp.
3.2.3.2. Thiết lập công tác kiểm soát trước khi chuẩn chi
Cơ chế kiểm soát thanh toán các khoản chi NSNN đang áp dụng là cơ chế kiểm soát trước khi thanh toán chi trả, nhưng lại được thực hiện sau khi Thủ trưởng đơn vị sử dụng NSNN đã ký lệnh chuẩn chi. Vào thời điểm này thường đã tồn tại một cam kết pháp lý giữa một bên là đơn vị thụ hưởng NSNN (đại diện cho Nhà nước) và một bên là người cung cấp hàng hoá dịch vụ. Nếu tại thời điểm này, KBNN ngăn chặn không thực hiện thanh toán chi trả do phát hiện một sai sót nào đó thì sẽ dẫn đến thiệt hại cho người cung cấp hàng hoá dịch vụ, đồng thời việc thực hiện các nhiệm vụ của đơn vị sử dụng NSNN này thông qua một cơ chế kiểm soát trước khi chuẩn chi.
Hiện nay, ở nước CHDCND Lào, mặc dù về danh nghĩa kế toán trưởng đơn vị sử dụng ngân sách là những kiểm soát viên tài chính đơn vị, đảm nhiệm nhiệm vụ kiểm soát trước khi chi, nhưng thực chất họ không thể thực hiện được chức năng của một kiểm soát chi ngân sách một cách thực thụ, bởi lẽ họ hưởng lương ngạch bậc của ngành chuyên môn của đơn vị sử dụng ngân sách và chịu sự quản lý trực tiếp của đơn vị sử dụng ngân sách, hay nói cách khác là họ chưa có sự độc lập cần thiết đối với người chuẩn chi.
Để thực hiện việc kiểm soát trước khi chuẩn chi, tác giả đề xuất cơ chế triển khai thực hiện như sau:
Trước hết, do điều kiện hiện nay về tổ chức và nhân lực chưa cho phép thực hiện được kiểm soát trước đối với tất cả các khoản chi, nhất là việc mua sắm, hàng hoá, dịch vụ có giá trị nhỏ, Vì vậy, đề nghị thực hiện kiểm soát trước đối với các khoản chi có thực hiện đấu thầu (chi sửa chữa lớn, chi đầu tư xây dựng cơ bản). Công việc kiểm soát trước khi chi giao cho cơ quan tài chính đảm nhiệm. Cơ quan tài chính sẽ trực tiệp tham gia vào hội đồng đấu thầu, chịu trách nhiệm tư vấn, giám sát về việc chấp hành dự toán, giá cả, tính pháp lý và công khai minh bạch của việc đấu thầu.
Về lâu dài, công tác kiểm soát trước khi chi nên tổ chức phân tán tại các đơn vị sử dụng NSNN. Theo đó, kế toán trưởng tại các đơn vị sẽ là người đảm nhiệm chức năng kiểm soát trước khi chuẩn chi. Để thực hiện được tốt chức năng này, cần có sự điều chỉnh về mặt tổ chức và ngạch, bậc của chức danh kế toán trưởng. Kế toán trưởng của đơn vị sẽ chịu sự quản lý trực tiếp của cơ quan tài chính, hưởng ngách, bậc của công chức tài chính, do cơ quan tài chính bổ nhiệm, miễn nhiệm. Khi đó, kế toán trưởng sẽ có được sự độc lập cần thiết với Thủ trưởng đơn vị sử dụng NSNN và việc kiểm soát trước khi chi mới đạt được hiệu quả như mong muốn.
Việc lựa chọn kế toán trưởng thực hiện chức năng kiểm soát trước khi chi trong nước sẽ có các thuận lợi: (1) Tiết kiệm về nhân lực, không làm tăng biên chế do sử dụng chính lực lượng cán bộ hiện có; giải pháp này phù hợp với chủ trương về cải cách hành chính và tinh giản biên chế hiện nay của Nhà nước; (2) Kế toán trưởng các đơn vị sử dụng ngân sách đã có một trình độ chuyên môn nhất định về kế toán – tài chính nên Nhà nước hạn chế được chi phí để đào tạo lại; (3) Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách đã quen với sự hiện diện của kế toán trưởng tại đơn vị, nên việc tách họ ra trực thuộc cơ quan tài chính dễ làm việc hơn việc cử một kiểm soát viên mới vào đơn vị để thực hiện việc kiểm soát lại Thủ trưởng của đơn vị.
3.2.3.3. Hoàn thiện cơ chế kiểm soát, thanh toán các khoản chi NSNN hiện hành
Xuất phát từ những hạn chế, tồn tại của cơ chế kiểm soát, thanh toán NSNN hiện hành, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế hiện tại như sau:
Một là, nghiên cứu, hoàn thiện các chế độ về kiểm soát chi NSNN hiện có theo nguyên tắc thống nhất về cơ chế và đầu mối kiểm tra, kiểm soát các khoản chi của NSNN. Hạnh chế tối đa việc ban hành quá nhiều cơ chế kiểm soát, thanh toán dẫn đến tình trạng chồng chéo về nội dung cũng như tạo ra các đặc thù không cần thiết đối với từng khoản chi làm phá vỡ các nguyên tắc chung trong quản lý. Theo nguyên tắc này, các cơ chế kiểm soát thanh toán phân tán đối với các khoản chi sự nghiệp kinh tế như sự nghiệp kinh tế nông, lâm nghiệp thủy lợi, giao thông, điều tra cơ bản,…cần được quy định thống nhất chung trong một cơ chế kiểm soát thanh toán các khoản chi NSNN. Mọi khoản chi NSNN đều phải được chi trực tiếp từ KBNN và do KBNN kiểm tra, kiểm soát trước khi thanh toán, chi trả.
Hai là, xoá bỏ chế độ kiểm soát, thanh toán dựa trên bảng kê chứng từ của đơn vị sử dụng NSNN; thực hiện kiểm tra, kiểm soát đối với tất cả các chứng từ chi tiêu của đơn vị. Cơ chế thanh toán theo bảng kê hoạch như hiện nay dẫn đến tình trạng nhiều đơn vị sử dụng NSNN cố tình không kê khai đúng thực tế chi tiêu của đơn vị nhằm hợp pháp hoá chứng từ để thanh toán với KBNN. Đi đôi với việc phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn của Thủ trưởng các đơn vị sử dụng NSNN với KBNN thì cơ chế này cũng cần phải xem xét, sửa đổi lại cho phù hợp. Cần xác định rõ phạm vi kiểm soát của KBNN là kiểm tra, kiểm soát trên những căn cứ pháp lý hiện có như dự toán, tính hợp pháp, hợp lệ của chứng từ và các số liệu có liên quan đến tính toán số học trong việc chi tiêu. Như vậy, việc kiểm soát của KBNN một mặt giúp Nhà nước đảm bảo việc chi NSNN được thực hiện theo đúng dự toán được duyệt; mặt khác, giúp chính Thủ trưởng các đơn vị sử dụng kinh phí sử dụng đảm bảo rằng việc sử dụng kinh phí của đơn vị mình đã tuân thủ đúng các chế độ quản lý tài chính của Nhà nước. Kể cả đối với các đơn vị thực hiện khoán chi hành chính hoặc các đơn vị sự nghiệp có thu thì cơ chế kiểm soát này của KBNN vẫn là cần thiết.
Ba là, quy định cụ thể việc cấp tạm ứng, hạn chế đến mức tối đa việc cấp tạm ứng bằng tiền mặt cho đơn vị sử dụng ngân sách mang về để ở quý đơn vị. Không cho phép đơn vị sử dụng ngân sách tạm ứng toàn bộ kinh phí được thông báo để tự chi tiêu khi chưa chứng minh được sự vụ đã hoàn thành (vì như vậy sẽ tạo sự phân tán của quý NSNN, tạo ra các khâu trung gian, có thể dẫn đến tiêu cực, thất thoát công quý). Nhà nước (Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước) cần có cơ chế khuyến khích việc mở tài khoản của các tổ chức, cá nhân để thực hiện thanh toán, chi trả. Trước hết, việc mở tài khoản cần được thực hiện đối với cán bộ, công chức và các đối tượng thụ hưởng kinh phí NSNN. Có như vậy, việc thực hiện nguyên tắc thanh toán trực tiếp cho đối tượng thụ hưởng mới đạt được hiệu quả như mong muốn.
3.2.3.4. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động đối với các đơn vị khoán chi hành chính và các đơn vị sự nghiệp có thu
Thực chất việc khoán chi hành chính và việc ban hành một cơ chế quản lý tài chính riêng cho các đơn vị sự nghiệp có thu là từng bước thực hiện phương thức quản lý chi NSNN theo đầu ra. Hiện nay, chúng ta đã có cơ chế để kiểm soát, thanh toán riêng cho các đơn vị này. Công tác kiểm soát, thanh toán của KBNN cho các khoản chi thực hiện khoán có một số điểm khác với cơ chế kiểm soát các khoản chi khác, cụ thể: (1) Không yêu cầu đơn vị phải sử dụng kinh phí theo đúng mục lục NSNN do cơ quan tài chính thông báo vì hạn mức kinh phí cơ quan tài chính cấp chung. Chỉ khi nào đơn vị chi tiêu mới thực hiện hạch toán ra các mục chi khác theo mục lục NSNN; (2) Định mức, đơn giá được thực hiện theo định mức chi tiêu của đơn vị xây dựng; định mức này có thể cao hơn hoặc thấp hơn định mức do Nhà nước quy định.
Như vậy, về cơ bản việc sử dụng kinh phí NSNN được giao cho Thủ trưởng đơn vị sử dụng quyết định và tự chịu trách nhiệm về các quyết định của mình. Để thực hiện được vấn đề này, đòi hỏi cần phải có hệ thống các chỉ tiêu đánh giá số lượng, chất lượng các sản phẩm mà các đơn vị đã thực hiện hoặc cung cấp.
Trước hết cần phải phân loại các công việc khoán theo 2 loại là: (1) Các công việc có thể lượng hoá được và sử dụng chỉ tiếu số lượng để đo lường hiệu quả hoạt động của các đơn vị; (2) Các công việc không thể lượng hoá được phải sử dụng tổng hợp nhiều chỉ tiêu để đánh giá, trong đó sử dụng chỉ tiêu về chất lượng là chủ yếu. Trên cơ sở phân loại như vậy, cần tiến hành xây dựng hệ thống các chỉ tiêu chủ yếu để đánh giá hoạt động của các đơn vị, bao gồm: (1) Chỉ số về hiệu quả tài chính; (2) Số lượng công việc cần tạo ra; (3) Chất lượng dịch vụ được cung cấp; (4) Chỉ số về hiệu quả (chi phí để tạo ra kết quả đầu ra); (5) Chỉ số tác động của hiệu quả công việc đạt được.
Các chỉ tiêu này được xác định từ khi lập dự toán chi tiêu, đồng thời được ghi rõ trong quyết định giao dự toán chi của đơn vị để làm căn cứ cho cơ quan tài chính, KBNN kiểm soát, đánh giá hiệu quả hoạt động của các đơn vị. Về lâu dài, phải xây dựng hệ thống chuẩn mực để đánh giá các sản phẩm, dịch vụ do các đơn vị tạo ra, ví dụ như hệ thống tiêu chuẩn ISO áp dụng cho các đơn vị cung cấp dịch vụ công, làm cơ sở cho việc đánh giá hiệu quả chi tiêu của các đơn vị sử dụng NSNN.
3.2.3.5. Cải tiến thủ tục hành chính trong kiểm soát thanh toán các khoản chi NSNN của KBNN.
Hiện nay công tác kiểm soát, thanh toán các khoản chi NSNN của KBNN còn đang tổ chức phân tán; vì vậy, làm ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả của các công tác quản lý. Để khắc phục tình trạng này, tác giả đề nghị:
Một là, tiến hành rà soát lại nhiệm vụ của từng bộ phận trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc, mỗi công việc, mỗi khoản chi NSNN có một đầu mối kiểm soát, thanh toán. Theo nguyên tắc đó, một số khoản chi cho các chương trình mục tiêu, chi vốn sự nghiệp kinh tế hiện đang do bộ phận kế hoạch đảm nhiệm sẽ được chuyển sang bộ phận thanh toán vốn đầu tư thực hiện. Về lâu dài, nên xem xét việc thành lập bộ phận kiểm soát chi chung (tại KBNN Trung ương là Vụ kiểm soát chi: tại KBNN các tỉnh là phòng kiểm soát chi) để đảm nhiệm việc kiểm soát, thanh toán chi trả tất cả các khoản chi NSNN (bao gồm cả chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển).
Hai là, đơn giản hoá các thủ tục hành chính, chuẩn hoá lại hệ thống các mẫu biểu kế toán; thực hiện công khai hoá quy trình kiểm soát thanh toán của KBNN cho các đơn vị sử dụng NSNN nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao dịch của các đơn vị, đồng thời cũng là cơ sở chính cho các đơn vị sử dụng ngân sách giám sát các hoạt động của KBNN. Thực hiện đánh giá, tổng kết lại kết quả thí điểm thực hiện mô hình “KBNN mẫu” tại một số KBNN để rút kinh nghiệm và nhân rộng ra toàn hệ thống. Mở rộng thực hiện giao dịch theo phương thức “một cửa, một dấu”.
3.2.4. Đổi mới công tác kế toán và quyết toán chi NSNN
3.2.4.1. Về công tác kế toán chi NSNN
Trước hết cần đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện đề án hợp nhất kế toán NSNN với kế toán KBNN để thiết lập một chế độ kế toán thống nhất về quản lý quý NSNN bao gồm hệ thống tài khoản, phương pháp hạch toán và hệ thống mẫu biểu chứng từ kế toán NSNN. Chế độ kế toán NSNN phải đảm bảo các yêu cầu của công tác quản lý và nên xây dựng theo hướng mở để đảm bảo đáp ứng được các yêu cầu phát sinh tại các đơn vị cơ sở và sự phát triển trong tương lai.
Chế độ kế toán NSNN sau khi được xây dựng sẽ được coi là hạt nhân cho việc xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán Nhà nước (bao gồm kế toán NSNN và kế toán của các đơn vị hành chính sự nghiệp) phục vụ cho công tác quản lý NSNN. Khi đó việc kế toán các khoản chi NSNN có thể thống nhất giao cho hệ thống KBNN đảm nhiệm, các số liệu về kế toán của KBNN sẽ được sử dụng làm căn cứ để quyết toán NSNN.
3.2.4.2. Về công tác quyết toán chi NSNN
Công tác quyết toán NSNN của nước CHDCND Lào hiện nay còn mang tính hình thức, số liệu quyết toán tổng NSNN chỉ là sự tổng hợp báo cáo từ cơ sở, vài trò của kiểm toán còn hạn chế. Do vậy cần phải xây dựng quy trình quyết toán NSNN theo hướng:
Một là, quyết toán NSNN phải tuân thủ nguyên tắc quyết toán từ dưới lên. Đối với từng cấp phải có một cơ quan nhất chịu trách nhiệm về phê duyệt quyết toán chi tiết theo từng mục chi của mục lục NSNN và quyết toán đến từng chứng từ chi tiêu của đơn vị. Trong công tác quyết toán và kiểm tra quyết toán nhất thiết phải có sự phối hợp thông tin giữa cơ quan quản lý và cơ quan cấp phát. Thực trạng theo số thực chi được chấp nhận theo quy định, không quyết toán theo số chuẩn chi hoặc số cấp phát. Kiên quyết xuất toán các khoản chi sai chế độ, tiêu chuẩn định mức chi tiêu.
Hai là, phải thống nhất các chỉ tiêu thống kê, báo biểu quyết toán thống nhất từ dưới lên, các chỉ tiêu, báo biểu này phải phù hợp với quá trình lập và chấp hành ngân sách, nhất là theo mục lục ngân sách.
3.2.5. Cải thiện tính công khai minh bạch trong chi NSNN
Các biện pháp chính để tiếp tục cải tiến tính công khai minh bạch trong chi NSNN bao gồm:
- Phân định rõ vai trò và trách nhiệm giữa các bộ, ngành và giữa các cấp chính quyền khác nhau nhằm tạo cơ sở cho sự minh bạch trong báo cáo về chi NSNN và trách nhiệm giải trình của các cơ quan.
- Công khai việc chấp hành và báo cáo ngân sách. Nguyên tắc này đòi hỏi phải áp dụng các chuẩn mực truyền thống liên quan đến phạm vị, mực độ tiếp cận và độ trung thực của các thông tin ngân sách trong quy trình ngân sách hàng năm và hệ thống kế toán của Chính phủ.
- Tiếp tục công khai toàn bộ quy trình ngân sách, từ khâu soạn lập, thẩm tra quyết định, điều hành, giám sát đến báo cáo. Công khai hoá ngân sách sẽ là một quá trình liên tục và không chỉ dừng lại ở việc công bố số liệu ngân sách dự toán và quyết toán mỗi năm một lần như hiện nay.
- Tiến tới xây dựng một ngân sách toàn diện, ngoài các khoản thu chi như hiện nay còn bao gồm cả các quý bên cạnh ngân sách, các khoản cho vay lại ODA,…Hệ thống ngân sách toàn diện như vậy cho phép phản ánh đúng thực trạng của ngân sách và sẽ tạo điều kiện phân bổ ngân sách công bằng hơn, hiệu quả hơn. Công tác theo dõi chi ngân sách cũng sẽ trở nên dễ dàng và thuận lợi.
- Kết hợp các hệ thống kế toán hiện đang rất khác nhau thành một hệ thống chung, sửa đổi để hệ thống đó phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và phát triển hệ thống kế toán diện tin cậy cũng là một biện pháp phải tiến hành. Điều này sẽ giúp cho các số liệu kế toán nhất quán, có thể so sánh và dễ hiểu hơn đối với những người có nhu cầu tiếp cận thông tin ngân sách. Độ tin cậy của số liệu cũng sẽ được cải thiện đáng kể. Hệ thống chuẩn mực kế toán thống nhất còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân tích ảnh hưởng của hoạt động chi ngân sách.
- Tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc phổ biến rộng rãi các thông tin về ngaâ sách, đặc biệt là chi ngân sách. Trong thời gian tới, công khai thông tin về ngân sách cần chú trọng đến những vấn đề như: dự toán NSNN cần được công bố kịp thời, số liệu ngân sách cần được chi tiết, cụ thể hơn và tương thích với các chuẩn mực quốc tế, chất lượng và độ tin cậy của số liệu ngân sách và các thông tin liên quan cần tiếp tục được cải thiện. Ngoài ra, cần phải nghiêm chỉnh thực hiện các biện pháp chế tài nhằm đảm bảo các huyện niêm yết công khai dự toán và quyết toán ngân sách ở cấp này, thu chi các loại quý và lệ phí theo quy định của Nhà nước.
- Cần đẩy mạnh việc xây dựng và đưa vào hoạt động hệ thống thông tin quản lý ngân sách và kho bạc ở tất cả các cấp ngân sách để tạo ra một hệ thống số liệu điện tử hợp nhất trên cả nước thay thế các báo cáo và ghi chép sổ sách theo kiểu thủ công hiện nay. Hệ thống thông tin này sẽ cho phép cung cấp thông tin quản lý ngân sách cấp nhất, chi tiết, nhanh chóng, thuận tiện, đáp ứng được các yêu cầu đa dạng của các nhà hoạch định chính sách, cán bộ quản lý, cán bộ nghiên cứu cũng như người dân về số liệu ngân sách.
- Sự tham gia của quần chúng nhân dân. Để có thể phát huy tối đa tác dụng của việc công khai hoá ngân sách nhằm mục đích cuối cùng là thực sự phục vụ cho việc cải thiện hiệu quả chi ngân sách, chỉ riêng nỗ lực của các cơ quan Nhà nước trong việc công khai hoá ngân sách chưa đủ, mà điều không kém phần quan trọng là những người sử dụng thông tin về quản lý ngân sách, nhất là đội ngũ cán bộ Nhà nước và người dân phải nhận thức và tận dụng được kết quả các biện pháp này. Đối với người dân, cần tăng cường thu hút sự tham gia của người dân vào các quá trình lập ngân sách và triển khai các hoạt động để phổ cập thông tin tới họ và thu nhận được các thông tin phản hồi.
- Giải pháp có tính chất dài hạn là cần nâng cao năng lực của cả hệ thống bộ máy quản lý Nhà nước cũng như trình độ cán bộ ở tất cả các cấp kể cả việc nhận thức về tầm quan trọng của minh bạch ngân sách là nhằm quản lý ngân sách tốt hơn, chống chi tiêu lãng phí, chống tham nhũng.
3.2.6. Đổi mới tư duy và nâng cao năng lực hoạch định và thực thi chính sách chi NSNN một cách bền vững
Việc đổi mới tư duy và nâng cao năng lực hoạch định và thực thi chính sách chi ngân sách một cách bền vững là cần thiết và vô cùng cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Để làm được điều này đòi hỏi các cấp, các ngành, các đơn vị sử dụng ngân sách phải có một tầm nhìn mới, một tư duy sánh tạo hơn để công việc hoạch định và thực thi chính sách về chi ngân sách được hiệu quả hơn cụ thể.
- Tăng cường công tác dự báo chi NSNN, trong đó chú trọng lượng hoá tác động của những thay đổi chính sách và biến động giá cả trên thị trường thế giới tới chi NSNN.
- Chú trọng tăng cường tiềm lực tài chính của Nhà nước, tăng dự phòng ngân sách và dự trữ tài chính tới mức đủ chủ động đối phó với các tình huống bất thường, hạn chế việc phát hành trái phiếu ngoài cân đối ngân sách, tiên liệu được các khoản vay trong tương lai của Chính phủ và ngân sách.
- Tăng cường tính ổn định và hiệu quả của NSNN, chuyển đổi cơ cấu chi NSNN theo hướng tích cực, giảm chi trực tiếp tài trợ hoạt động kinh tế, triệt để cắt bỏ chi bao cấp, hạn chế bảo lãnh, thực hiện bảo lãnh đúng đối tượng, có chọn lọc.
- Tiếp tục thực hiện các nguyên tắc thận trọng trong quản lý vay và trả nợ vay, chỉ vay để đảm bảo các khoản chi đầu tư phát triển, tiếp tục kiểm soát và duy trì mức thâm hụt ngân sách…
- Kiên quyết đổi mới phương pháp phân bổ ngân sách đầu tư, chống thất thoát, lãng phí trong xây dựng cơ bản. Mặt khác tiếp tục tập trung đẩy mạnh quản lý và giải ngân vốn đầu tư từ NSNN theo hướng Nhà nước Trung ương và địa phương, chỉ tập trung đầu tư cho một số công trình quan trọng mà những công trình đó có khả năng kích thích tăng trưởng kinh tế và tạo cơ sở cho phát triển bền vững (thuỷ điện, giao thông huyệt mạch, bệnh viện, trường học…).
3.2.7. Kiện toàn tổ chức bộ máy và tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác quản lý chi NSNN
Trên cơ sở rà soát lại chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị, cơ quan tài chính các cấp, KBNN cần tiến hành sắp xếp lại bộ máy tổ chức hiện có đảm bảo nguyên tắc gọn nhẹ, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị, bộ phận trong quá trình thực thi nhiệm vụ được giao; hạn chế thấp nhất các thủ tục hành chính không cần thiết. Thành lập Vụ phân tích và Dự báo thuộc Bộ Tài chính để thực hiện nhiệm vụ phân tích và dự báo sự biến động của các chỉ số kinh tế phục vụ cho công tác quản lý và điều hành NSNN.
Hướng đổi mới là sát nhập các bộ phận quản lý tài chính chuyên ngành với bộ phận quan lý ngân sách thành một bộ phận chung thống nhất (tại Bộ Tài chính gọi là Vụ Dự toán; tại các Sở Tài chính - Vật giá là Phòng Dự toán). Nhiệm vụ chủ yếu của bộ phận này là thực hiện hướng dẫn, xây dựng, tổng hợp dự toán; phối hợp với KBNN trong việc quản lý, điều hành NSNN và giám sát, kiểm tra việc chấp hành dự toán chi tiêu của các đơn vị sử dụng NSNN. Việc sắp xếp lại tổ chức như vậy sẽ cho phép thu gọn đầu mối quản lý, đơn giản hoá thủ tục hành chính và rút ngắn thời gian luận chuyển chứng từ trong quá trình quản lý, cấp phát NSNN.
Bên cạnh đó cần không ngừng đào tạo, ngân cao trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý NSNN để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ được giao, đặc biệt là việc ứng dụng công nghệ thông tin và các thiết bị hiện đại trong quản lý kinh tế.
3.2.8. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan trong quản lý, điều hành NSNN
Tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan tài chính, thuế, hải quan, KBNN nhằm đẩy nhanh việc tập trung các khoản thu NSNN, để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu của các đơn vị sử dụng NSNN. Cơ quan tài chính, KBNN thường xuyên trao đổi thông tin để nắm bắt kịp thời các số liệu về thu, chi, tồn quý NSNN để có biện pháp điều hành linh hoạt trong từng tình huống cụ thể. Tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan tài chính, KBNN với ngân hàng trong việc tổ chức thanh toán, chi trả các khoản chi của NSNN và bố trí nguồn đáp ứng các nhu cầu chi tiêu khi tồn quý NSNN bị thiếu hụt tạm thời.
3.3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN QUẢN LÝ CHI NSNN TẠI HUYỆN KAYSONE PHOMVIHAN TỈNH SAVANNAKHET NƯỚC CHDCND LÀO
- Tiếp tục củng cố ngành tài chính và bố trí cán bộ trong Huyện, tăng cường giáo dục tư tưởng, đạo đức cách mạng, có trách nhiệm với nhiệm vụ công tác, có quan điểm phục vụ nhân dân và hạn chế những mặt tiêu cực của cán bộ, lấy việc kiểm tra trong Văn phòng chuyên môn là trọng tâm và không được thiếu. Đồng thời, cũng phải phối hợp với ngành chuyên môn của Bộ Tài chính trong việc nâng cao về chuyên môn cho cán bộ.
- Tiếp tục lấy việc Tài chính là của cả dân, cho quần chúng tham gia rộng rãi trong quản lý và kiểm tra thực hiện kế hoạch ngân sách của Nhà nước.
- Các Sở, các ngành và huyện có trách nhiệm trong thực hiện kế hoạch ngân sách mà Chính phủ cũng như tỉnh giao cho chủ yếu là: phải phấn đấu thực hiện chi theo kế hoạch và coi kế hoạch ngân sách là trách nhiệm về chính trị của các Sở, ngành và Huyện.
- Tăng cường theo dõi kiểm tra thực hiện nhiệm vụ của cán bộ phụ trách quản lý chi ngân sách trực tiếp của các Sở, ngành và huyện, đồng thời để hạn chế vi phạm pháp luật và sự xảy ra mặt tiêu cực trong lĩnh vực công tác đó.
- Cán bộ, chuyên nghiệp, chuyên môn phải nắm vững đường lối chính sách triển khai thực hiện vào công việc của mình, hướng tới cơ sở hoá, tập trung kiến thức, kỹ năng nhân lực, ý chí sáng tạo và trách nhiệm cao trong thực hiện công việc thực tế, kiên trì nguyên tắc tập trung dân chủ theo tập thể, giao việc cho mọi người phụ trách một cách thích hợp theo khả năng, đúng chuyên môn nghiệp vụ, biết đề ra kế hoạch, biết tổ chức thực hiện, biết kiểm tra tổng kết về ưu - nhược điểm và rút kinh nghiệp cái nào đã làm tốt rồi thì phải tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa, cái gì vẫn yếu kém thì phải được củng cố giải quyết; đồng thời cũng phải báo cáo cho cấp trên mọi cấp biết để lấy làm báo cáo và xin ý kiến.
- Cấp Huyện cũng nắm được kế hoạch chiến lược chung cho tốt để có kế hoạch chỉ đạo hướng dẫn trong việc tổ chức thực hiện một các chi tiết, thúc đẩy kiểm tra việc chuyên môn cho thường xuyên.
Một vấn đề quan trọng là phải chú ý giữ tiền mặt không làm mất mát, khi thu được thì phải mang nộp ngay cho Huyện và không cho phép chi tiêu hoặc cho người khác vay dứt khoát (không cho phép giữ tiền ở Làng hơn 100.000 kíp).
KẾT LUẬN
Giống như các nước trong khu vực và trên thế giới, quản lý chi NSNN ở nước CHDCND Lào nói chung và ở huyện Kaysone Phomvihan nói riêng được xây dựng nhằm thúc đẩy một quá trình phát triển lành mạnh, bền vững, ổn định, công bằng và dân chủ. Cụ thể các chương trình liên quan đến chi tiêu NSNN nhằm mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng tổng sản phẩm quốc dân (GNP) cao, nâng cao chất lượng cuộc sống của một bộ phận lớn dân số, đặc biệt là những người nghèo nhất trong xã hội, phát triển cơ sở hạ tầng KT - XH và bảo vệ môi trường, đảm bảo ổn định KT - XH tổng thể.
Tuy nhiên hoạt động quản lý chi NSNN vừa được xây dựng và thực hiện sau khi Luật NSNN xuất hiện đã thể hiện còn nhiều bất cập. Việc xây dựng kế hoạch quy trình phân bổ NSNN còn dựa vào sự phân phối cao độ từ Trung ương. Trong khi đó dữ liệu kinh tế cơ bản thiếu thốn, khả năng dự báo khuynh hướng phát triển kinh tế còn yếu kém làm cho các chỉ tiêu đưa ra trên các cơ sở phân tích kinh tế vững chắc khiến cho quá trình quản lý thực hiện gặp nhiều khó khăn.
Hoàn thiện quy trình quản lý chi NSNN là một trong những công việc có ý nghĩa quan trọng nhằm hướng tới xây dựng một cơ chế quản lý chi công khai, minh bạch, góp phần tiết kiệm thời gian, nhân lực và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính có hạn của đất nước. Qua toàn bộ những vấn đề được trình bày, khoá luận đã giải quyết cơ bản các yêu cầu đặt ra, nó được thể hiện các nội dung sau:
- Hệ thống hoá và làm rõ thêm các vấn đề lý luận về quản lý chi NSNN từ khâu chuẩn bị ngân sách đến chấp hành ngân sách và kế toán quyết toán chi ngân sách. Đề tài cũng nghiên cứu kinh nghiệm của Việt Nam về quản lý chi NSNN từ dó rút ra các vấn đề có thể vận dụng vào điều kiện thực tế tại tỉnh Savannakhet nói chung và huyện Kaysonephomvihan nói riêng.
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá có hệ thống thực trạng quản lý chi NSNN từ khi triển khai Luật NSNN đến nay, những kết quả đạt được, những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của nó.
- Đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý chi NSNN ở huyện Kaysone Phomvihan trong giai đoạn hiện nay, cụ thể là:
+ Giải pháp hoàn thiện và đổi mới công tác chuẩn bị ngân sách bao gồm: kéo dài thời gian chuẩn bị NSNN, ban hành đồng bộ hệ thống, định mức đơn giá thanh toán, tăng cường công tác phân tích, dự báo và chấp hành thời gian phân bổ dự toán theo quy định.
+ Giải pháp hoàn thiện và đổi mới công tác chấp hành dự toán cho NSNN, bao gồm: cải tiến phương thức cấp phát NSNN và thủ tục cấp phát của cơ quan tài chính, thiết lập công tác kiểm soát trước khi chuẩn chi, hoàn thiện cơ chế, kiểm soát, thanh toán các khoản chi NSNN hiện hành, xây dựng hệ thống chỉ tiêu kiểm soát chi theo đầu ra, cải tiến thủ tục kiểm soát, thanh toán của KBNN.
+ Giải pháp hoàn thiện và đổi mới công tác kế toán và quyết toán NSNN gồm: xây dựng chế độ kế toán Nhà nước, tuân thủ nguyên tắc quyết toán từ dưới lên, thống nhất hệ thống các chỉ tiêu báo cáo quyết toán.
+ Để đảm bảo tính khả thi cao, đề tài cũng đề cập đến các điều kiện cần thiết cho việc triển khai thực hiện các giải pháp đề ra như điều kiện về cơ chế chính sách, về hệ thống cơ sở dữ liệu và thông tin về sắp xếp tổ chức bộ máy và nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý chi NSNN và kiện toán hệ thống tổ chức ngân sách./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật ngân sách (2007).
2. Giáo trình QLNN về Tài chính của Học viện Hành chính, nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật, Hà Nội năm 2008.
3. Luật chi ngân sách hành chính của Nhà nước (sửa đổi bổ sung năm 2008).
4. Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII của Đảng nhân dân cách mạng Lào.
5. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội năm 2006 - 2010.
6. Luật ngân sách nhà nước (sửa đổi bổ sung năm 2007).
7. Báo cáo thổng kết về ngân sách nhà nước năm 2008 của Phòng tài chính ngân sách huyện Kaysone Phomvihan.
8. Báo cáo tổng kết hoạt động thực hiện công tác tài chính - ngân sách niên khoá 2006 - 2007 của Phòng tài chính huyện Kaysone Phomvihan ngày 13/11/2007.
9. Báo cáo tổng kết thực trạng tổ chức thực hiện công tác tài chính - ngân sách niên khoá 2007 - 2008 của Phòng tài chính huyện Kaysone Phomvihan ngày 17/11/2008.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp hoàn thiện quản lý chi ngân sách nhà nước tại huyện Kaysone Phomvihan tỉnh Savannakhet nước CHDCND Lào.doc