Đề tài: Giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm may mặc Việt Nam trên thị trường nội địa
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIÊU THỤ SẢN PHẨM
1.1. Khái quát về hoạt động tiêu thụ sản phẩm
1.1.2. Vị trí
1.1.3. Vai trò
1.2. Nhiệm vụ
1.3. Nội dung
1.3.1. Nghiên cứu thị trường
1.3.2. Kế hoạch hoá tiêu thụ
1.3.3. Chính sách marketing-mix trong doang nghiệp công nghiệp
2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ
2.1.1 Các nhân tố về kinh tế
2.1.2 Khoa học công nghệ
2.1.3 Khách hàng
2.1.4 Chiến lược và giá bán
2.1.5 Số lượng nhà cung cấp
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM MAY MẶC VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG NỘI ĐỊA
2.1. Khái quát về tình hình sản xuất sản phẩm may mặc của Việt Nam
2.2. Thực trạng tiêu thụ sản phẩm may mặc Việt Nam trên thị trường nội địa
2.3. Đánh giá chung về hoạt động tiêu thụ sản phẩm may mặc Việt Nam trên thị trường nội địa
2.3.1. Ưu điểm
2.3.2. Hạn chế
2.3.3 .Nguyên nhân của hạn chế
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP
3.1. Giải pháp vĩ mô
3.1.1. Các chính sách kích cầu của nhà nước
3.1.2. Đẩy mạnh cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam
3.2. Giải pháp vi mô
3.2.1. Hoàn thiện nghiên cứu thị trường và đa dạng hóa mẫu mã sản phẩm
3.2.2. Phân đoạn thị trường với nhóm khách hàng có thu nhập thấp
3.2.3. Đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm
3.2.4. Đầu tư vào các dòng sản phẩm mục tiêu “trang phục may sẵn hàng hiệu Việt Nam"
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
35 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3762 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm may mặc Việt Nam trên thị trường nội địa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g, bảo hành cung cấp các dịch vụ thay thế phụ tùng, sửa chữa, cùng với việc duy trì mối quan hệ thông tin thường xuyên với khách hàng để thu nhập ý kiến phản hồi và sự thay đổi trong nhu cầu của khách hàng
2.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ
Các nhân tố về kinh tế
Tỷ giá hối đoái: Nếu tỷ giá hối đoái tăng thì tiền Việt Nam mất gía so với đồng ngoại tệ. Như vậy nhập khẩu giảm, xuất khẩu tăng, du lịch vào trong nước tăng nên rất thuận lợi cho hoạt động tiêu dùng ở trong nước.
Tốc độ tăng trưởng cao sẽ kích cầu thuận lợi cho tiêu thụ
Lãi xuất cho vay giảm đẩy mạnh hoạt động đầu tư vào các trang thiết bị, nhà xưởng nâng cao năng lực cạnh tranh, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm và ngược lại.
Khoa học công nghệ
Khoa học công nghệ càng hiện đại thì càng đảm bảo về chất lượng sản phẩm, giá thành sản phẩm giảm, chi phí sản xuất giảm như vậy giá bán sẽ giảm thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm
Khách hàng
Khách hàng là những người mua hàng của công ty đối với doanh nghiệp thương mại, khách hàng là yếu tố quan nhất quyết định đến hoạt động tiêu thụ hàng hóa cũng như sản phẩm sự sống còn của doanh nghiệp bởi vì khách hàng tạo nên thị trường. Những biến động tâm lý khác hàng thể hiện qua sự thay đổi sở thích, thij hiếu, tói quen làm cho số lượng sản phẩm tiêu thụ tăng lên hay giảm đi. Việc định hướng hoạt động kinh doanh hướng vào nhu cầu của khách hàng sẽ đem lại kết quả khả quan cho doanh nghiệp và thói quen tổ chức dịch vụ phục vụ khách hàng, đánh đúng tâm lý tiêu dùng là biện pháp hữu hiệu nâng cao hiệu quả tiêu thụ sản phẩm
Chiến lược và giá bán
Giá cả hàng hóa là một trong những nhân tố hết sức nhậy bén và chủ yếu tác động đến tiêu thụ hàng hóa. Giá cả có thể kích thích hay hạn chế cung cầu và ảnh hưởng đến tiêu thụ. Xác định giá đúng sẽ đảm bảo khả năng tiêu thụ sản phẩm và thu lợi hay chánh được ứ đọng, hạn chế thua lỗ. Giá cả cũng được sử dụng như một vũ khí trong cạnh tranh. Song song điều kiện hiện tại công cụ chủ yếu vẫn là chất lượng trong cạnh tranh. Nếu lạm dụng vũ khi giá cả nhiều trường hợp “gậy ông đập lưng ông” không những không thúc đẩy được tiêu thụ mà còn bị thiệt hại vì doanh nghiệp hạ giá bán thì đối thủ cạnh t anh cũng có thể hạ thấp (thậm chí thấp hơn) giá cả cùng loại hoặc thay thế dẫn tới không thúc đẩy được tiêu thụ mà lợi nhuận còn bị giảm xuống. Do đó phải hết sức thận trọng trong cạnh tranh qua giá và giá bán là một nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng. Người tiêu dùng đánh giá chất lượng sản phẩm thông qua giá cả của nó khi đứng trước hàng hóa cùng loại hoặc thay thế.Do đó đặt giá thấp không phải lúc nào cũng thúc đẩy được tiêu thụ. Cần đưa ra các chiến lược về giá hợp lý để thúc đẩy hoạt động tiêu thụ
Số lượng nhà cung cấp
Đối với mỗi doanh nghiệp thì cả đầu vào đầu ra đều là hàng hóa. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được gọi là đạt hiệu quả tốt khi doanh nghiệp bán hàng hóa ở múc giá xác định mà đạt hiệu quả cao nhất (chi phí thấp). Chi phí doanh nghiệp bao gồm chi phí mua hàng và các dịch vụ khác. Việc lựa chọn nhà cung cấp có ảnh hưởng đến chi phí mua hàng và việc bảo đảm nguồn hàng cung cấp một cách đều đặn đạt kết quả cao cho doanh nghiệp
Đối với doanh nghiệp để đảm bảo bán tốt trước hết phải mua tốt. Như vậy việc lựa chọn nhà cung cấp có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tiêu thụ sản xuất. Khi lựa chọn nhà cung cấp các doanh nghiệp cần phải tổng hợp các thông tin để làm sao lựa chọn nhà cung cấp đảm bảo khả năng tốt nhất về hàng hóa cho doanh nghiệp một cách thường xuyên, hàng hóa đạt chất lượng cao. Phương châm là đa dạng hóa nguồn cung cấp, thực hiện nguyên tắc “không nỏ tiền vào một ống”. Mặt khác trong quan hệ doanh nghiệp cần thiết tìm một nhà cung cấp chủ yếu có đầy đủ sự tin cậy nhưng phải luôn tránh sự lệ thuộc và chủ động xây dựng kế hoạch cung ứng cho mình
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM
MAY MẶC VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG NỘI
Khái quát về tình hình sản xuất sản phẩm may mặc của Việt Nam
Việt Nam có trên 3719 doanh nghiệp dệt may và được phân chia theo các tiêu chuẩn sau:
(Theo:
Như vậy loại hình doanh nghiệp được phân loại theo vốn thì có 5 loại hình doanh nghiệp: Nhà nước, trách nhiệm hữu hạn và cổ phần vốn nhà nước >50%, cổ phần , TNHH vốn NN<50%, tư nhân, nước ngoài, hợp tác xã. Phân loại theo địa phương thì có 3 loại hình doanh nghiệp sau: Miền bắc, miền trung, miền nam. Phân loại theo nhóm sản phẩm thì cũng có 3 loại hình doanh nghiệp: Dệt và may, may, kéo sợi . Ngoài ra Tổng công ty Dệt may cũng khuyến khích các loại hình kinh doanh như: liên doanh, đầu tư trực tiếp nước ngoài và dệt vải in ấn, sản xuất và
nhuộm, phụ kiện sản xuất. Vinatex thành lập Trung tâm kinh doanh và cung cấp
phụ kiện ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. may.
Với sự đa dạng các loại hình doanh nghiệp và được phân bổ rộng khắp đất nước. Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã tạo được chỗ đứng vững chắc trên trường quốc tế với năng lực sản xuất được đánh giá là cao cụ thể như sau:
Lĩnh vực
Số Doanh nghiệp
Số máy móc
Năng lực sản xuất (theo năm)
Upstream
Cotton ginning- Bông đã cán
60,000 tấn
Spinning- Sợi
145
3,789,000 suốt
350,000 tấn
Midstream
Weaving- Dệt
401
21,800 đơn vị
1,000 triệu m2
Knitting- Dệt kim
105
3,800 đơn vị
200,000 tấn
Non- woven- Không dẹt
7
5,000 tấn
Dyeing & Finishing- Hoàn tất
94
1,109 đơn vị
700 triệu m2
Downstream
Garment- May mặc
2,424
918,700 đơn vị
2,400 triệu đơn vị
Terry towel- Khăn bông có vòng tuyết
62,000 tấn
(Theo:
Thúc đẩy sản xuất trong nước của các phụ kiện may mặc là một trong những chiến lược quan trọng nhất của dệt may của cả nước và ngành công nghiệp may mặc trong những năm tới.Nội dung nội bộ trong các sản phẩm may mặc của Việt Nam hiện nay đứng ở một số 43. Chi phí nguyên vật liệu may mặc nhập khẩu tăng 27% so với năm 6.5bil USD, nhưng tỷ lệ nguyên liệu nhập khẩu trên các vật liệu địa phương đã giảm, mà là một tín hiệu tích cực cho ngành công nghiệp.Trong tổng số nguyên liệu may mặc nhập khẩu vào, bông sợi chiếm USD 28mil. Tuy nhiên, ngành công nghiệp sẽ không tìm cách tăng cường nội dung địa phương ở mức nào, từ các nhà sản xuất may mặc không buộc phải sử dụng vật liệu địa phương và các phụ kiện, và họ có thể chọn để nhập khẩu những mặt hàng đó để duy trì khả năng cạnh tranh của họ. Nếu vật liệu địa phương có giá 10% cao hơn so với hàng nhập khẩu cùng chất lượng, các nhà sản xuất địa phương có thể lựa chọn không cho các nguồn địa phương do sự sẵn có dễ dàng và giao hàng kịp thời. Cho đến nay, các nhà sản xuất vật liệu địa phương có thể cung cấp chỉ có 20% đến 60% nhu cầu, tùy thuộc vào các loại mặt hàng. Ví dụ, vật liệu địa phương đáp ứng 20% nhu cầu sản xuất hàng dệt kim, và 60% cho các sản phẩm dệt.
Bảng 1: Tình hình sản xuất một số mặt hàng may mặc của Việt Nam trong giai đoạn 2006 – 2009. Đơn vị tính USD
Chủng loại
2006
2007
2008
2009
Áo thun
83,756,124
87,356,789
90,798,054
102,034,708
Áo sơ mi
20,134,743
23,980,720
25,798,340
29,546,726
Quần
73,672,321
77,543,821
80,721,490
90,221,973
Quần short
30,145,145
,32,421,908
34,231,980
38,145,077
Áo Jacket
87,321,902
90,170,352
92,354,109
96,386,624
Áo
5,241,800
7,245,156
8,3367,826
10,744,469
Váy
10,902,435
13,802,435
14,205,207
16,968,783
Đồ lót
5,245,185
6,029,934
7,243,901
9,174,484
Đồ bơi
790,253
823,156
925,729
1,416,780
Quần áo thể thao
7,832,541
9,026,819
10,135,770
13,990,793
Quần áo ngủ
67,245,035
68,560,268
72,378,923
79,324,134
Quần áo trẻ em
6,245,710
7,790,125
9,436,890
11,071,049
Vải
5,873,245
7,312,094
8,021,376
9,912,856
(Theo:
Dựa trên bảng số liệu trên ta thấy rằng chủng loại các mặt hàng may mặc cũng rất đa dạng về chủng loại và ty lệ sản xuất cũng tăng vọt theo từng năm. Như vậy các doanh nghiệp dệt may đã xây dựng được chiến lược hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra các bước đột phá và hiệu quả cao. Nhiều doanh nghiệp đã đầu vào việc thiết kế các sản phẩm mới có chất lượng hơn, thời trang hơn, có thương hiệu. Thị trường ngày càng khởi sắc hơn và đã có nhiều doanh nghiệp khẳng định được chỗ đứng của mình. Hưởng ứng lời kêu gọi của Bộ Chính trị “ Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” và thực hiện Chiến lược phát triển thị trường nội địa của Bộ Công thương, nhiều doanh nghiệp trong ngành đã có sự đầu tư đáng kể cho thị trường này, đặc biệt là trong giai đoạn khủng hoảng của năm 2009 như xây dựng và mua thương hiệu, phát triển và nâng cấp hệ thống siêu thị và cửa hàng chuyên doanh, đầu tư phát triển hệ thống thiết kế sản phẩm thời trang, tham gia thi, trình diễn thời trang trong và ngoài nước; tham gia vào chương trình “đưa hàng về nông thôn”, “ DN dệt may đồng hành cùng đồng bào biển đảo của Tổ quốc”. Sự chuyển hướng và đầu tư mạnh mẽ đó đã bước đầu đem lại một diện mạo mới, khởi sắc hơn cho thị trường nội địa. Người tiêu dùng cả thành thị và nông thôn đã tin tưởng vào hàng nội địa. Nhiều DN không những tăng thêm được doanh thu, lợi nhuận, ngoài ra còn thiết lập, mở rộng được mạng lưới tiêu thụ rộng khắp trong cả nước. Có thể kể tên các DN tiêu biểu như May Việt Tiến, May Nhà Bè, May Sông Hồng, May 10, Thái Tuấn, Nino Maxx, An Phước,… và kết quả họ đạt được là 58% người tiêu dùng Việt Nam quan tâm đến hàng Việt sau 1 năm thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.
Qua thời gian hoạt động tích cực và nghiêm túc đã chiếm được lòng tin của người tiêu dùng ở các đô thị vì hàng hóa bán ra đều là hàng có chất lượng với mẫu mã thiết kế và kích cỡ phù hợp người Việt Nam. Về giá cả hàng sản xuất tại Việt Nam đã có sức cạnh tranh, nếu so sánh với các sản phẩm sản xuất tại Trung Quốc với chất lượng tương đương thì giá rẻ hơn. Một yếu tố làm cho hàng may mặc Việt Nam có thế mạnh là khách hàng luôn dành cho các nhà sản xuất trong nước những tình cảm trân trọng, cổ vũ, động viên các nhà sản xuất đưa ra nhiều sản phẩm có chất lượng, giá cả phù hợp bằng việc ủng hộ trực tiếp mua hàng giúp sản xuất phát triển. Tại các siêu thị hàng hóa đa dạng phong phú, tập trung nhiều thương hiệu của các DN dệt may của Tập đoàn và các thành phần kinh tế đã mang lại nhiều sự lựa chọn cho khách hàng mỗi khi đi mua sắm, yếu tố tiện lợi này cũng có sức thu hút người mua, đồng thời cũng trực tiếp giúp đỡ các DN vừa và nhỏ, tiềm lực yếu không đủ điều kiện mở cửa hàng. Ðây cũng là chỗ dựa cho các DN dệt may trước sức ép cạnh tranh ngày càng tăng.
Hàng dệt may Việt Nam đang tìm chỗ đứng trên chính thị trường nội địa. Với một chiến lược cạnh tranh hợp lý, lấy chất lượng sản phẩm là tiêu chí cạnh tranh hàng đầu cùng với việc luôn cải tiến mẫu mã, đa dạng màu sắc sản phẩm, thương hiệu thời trang Việt Nam đã từng bước vượt qua định kiến, chiếm lĩnh thị trường nội địa. Thúc đẩy sản xuất vật liệu hữu cơ trong nước, Việt Nam nên giữ lại những ngành dệt may có doanh thu cao đồng thời xây dựng một cơ sở mạnh mẽ hơn cho tương lai. Mở rộng quy mô sản xuất, chủ động đầu tư trang thiết bị, công nghệ hiện đại nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và hạ giá thành. Trong những năm qua, các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp cổ phần và FDI đã có sự đầu tư mạnh mẽ vào lĩnh vực sản xuất sản phẩm may mặc: 2,6-2,8 tỷ sản phẩm, trong đó khoảng 70% dành cho sản xuất xuất khẩu.
Trong công cuộc chiếm lĩnh thị trường nội địa một số doanh nghiệp luôn đi đầu, đưa ra các chiến lược táo bạo để nâng cao năng lực cạnh tranh và tạo dựng một thương hiệu mạnh, đưa người tiêu dùng đến với may mặc Việt Nam “Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam”. Một số doanh nghiệp điển hình như sau:
Tổng công ty cổ phần may Việt Tiến (VTEX) dẫn đầu các doanh nghiệp dệt may Việt Nam trong vấn đề chiếm lĩnh thị trường nội địa. Với một chiến lược cạnh tranh hợp lý, lấy chất lượng sản phẩm là tiêu chí cạnh tranh hàng đầu cùng với việc luôn cải tiến mẫu mã, đáp ứng cho nhiều phân khúc thị trường cho người tiêu dùng có thu nhập từ trung bính, khá đến cao cấp, nâng cao năng lực cạnh tranh đã tạo nên những thương hiệu thời trang VTEX chiếm lĩnh thị trường nội địa. Những thương hiệu đã mang lại thành công cho doanh nghiệp tại thị trường nội địa, đó là thương hiệu thời trang cao cấp San Sciaro mang phong cách I-ta-li-a, và thương hiệu Manhatta mang phong cách Mỹ, sang trọng dành cho doanh nhân, nhà quản lý, người thành đạt, sành điệu. Thương hiệu Manhatta được VTEX mua bản quyền của tập đoàn Perry Ellis International và Perry Ellis International Europe của Mỹ; thương hiệu Viettien phục vụ cho phân khúc thị trường thu nhập khá, thương hiệu này trở thành thương hiệu uy tín, dẫn đầu về thời trang công sở phục vụ khách hàng nam giới tuổi từ 22 đến 55; Viettien Smartcasual là thương hiệu nhánh của thương hiệu Viettien mang phong cách thoải mái, tiện dụng, hiện đại với những sản phẩm đa dạng như sơ-mi, quần ka-ki, quần jeans, áo thun, quần short, giắc-két; dòng sản phẩm thời trang cao cấp dành cho nữ như váy, sơ-mi, quần thời trang, vét-tông mang thương hiệu T-up. Ðầu năm 2010, VTEX xây dựng một thương hiệu mới Việt Long hướng tới Ðại lễ kỷ niệm1000 năm Thăng Long - Hà Nội và hưởng ứng thiết thực cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên sử dụng hàng Việt Nam". Sản phẩm ngay khi đưa ra thị trường đã được người lao động thành thị và nông thôn lựa chọn bởi chất lượng, giá cạnh tranh, kiểu dáng và mẫu mã đa dạng với mức giá bán từ 80 nghìn đồng đến 180 nghìn đồng cho mỗi sản phẩm.
Theo Tổng Giám đốc Bùi Văn Tiến, VTEX chú trọng các yếu tố như văn hóa từng vùng, miền, thói quen ăn mặc để đưa ra những sản phẩm phù hợp nhất với thị hiếu của người tiêu dùng Việt Nam. Ðặc biệt các yếu tố kích cỡ, kiểu dáng của sản phẩm được thiết kế phù hợp với người Việt Nam. Những năm qua, VTEX đẩy mạnh thiết kế sản phẩm thời trang để nâng giá trị gia tăng của sản phẩm, xây dựng thương hiệu mạnh và tăng cường đầu tư thiết bị và nhân sự cho công tác thiết kế mang tính chuyên nghiệp cao, thu hút nhiều nhà thiết kế thời trang có tên tuổi của Việt Nam như Quốc Bình, Trọng Nguyên, Tấn Phát... chuyên môn hóa thiết kế theo từng thương hiệu, tạo ra đa dạng mẫu mã sản phẩm cho từng thương hiệu, phục vụ cho nhiều đối tượng tiêu dùng ở nhiều phân khúc khác nhau.
Những sản phẩm mang thương hiệu của VTEX hiện có mặt ở tất cả các kênh phân phối hiện đại từ cửa hàng, đại lý với thiết kế thống nhất để người tiêu dùng dễ dàng nhận diện. Tiếp tục phát triển kênh phân phối đối với thương hiệu hiện có. Chú trọng đến phát triển kênh phân phối hiện đại. Hiện nay, Việt Tiến là một trong những doanh nghiệp có hệ thống cửa hàng lớn nhất trong ngành với 1.300 cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩm trên khắp các tỉnh, thành phố trên cả nước, trong đó có riêng thương hiệu Viettien, Viettien Smartcasual được bán tại 67 cửa hàng, 1.159 đại lý; thương hiệu San Sciaro và Manhatta có mặt tại 12 cửa hàng và mười đại lý mang phong cách riêng hai dòng sản phẩm này bán hàng ở các thành phố: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Ðồng Tháp, Sóc Trăng, Thái Bình... Thương hiệu T-up có hai cửa hàng tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh; thương hiệu Việt Long mới đưa ra thị trường nhưng đã có mặt tại 50 đại lý tại nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước.
Thị trường nội địa đang được DN ngành dệt may tập trung quan tâm. Việc quan tâm đầu tư vào thị trường này đã mang lại cho DN hiệu quả kinh tế cao. Năm 2009, VTEX đạt doanh thu trong nước hơn 500 tỷ đồng, năm 2010 phấn đấu tăng trưởng 30%. Ðáp ứng nhu cầu thị trường, sản phẩm có giá bán cạnh tranh, tăng doanh thu trong nước, VTEX đầu tư trang thiết bị máy móc, kỹ thuật, mở rộng nhà xưởng sản xuất theo xu hướng chuyển dịch về các địa phương để thu hút nhân lực, tạo công ăn việc làm cho lao động địa phương.
Công ty CP Tập Đoàn Thái Tuấn cũng là một trong không nhiều DN dệt may có chiến lược phát triển sản phẩm và chiếm lĩnh thị trường nội địa từ rất sớm. Kể từ khi được thành lập vào cuối năm 1993, Thái Tuấn không ngừng nỗ lực mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh từ việc đầu tư xây dựng các nhà máy dệt, nhuộm, may, phát triển hệ thống phân phối, chi nhánh, hệ thống Showroom…trong và ngoài nước. Mức tăng trưởng doanh thu và kênh phân phối bình quân từ 15 – 20% qua mỗi năm.
Tính đến nay, tại thị trường nội địa, Thái Tuấn đã có 3 nhà máy, 3 chi nhánh Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ, 10 Showroom và trên 300 nhà phân phối, đại lý cung cấp cho hơn 3.500 điểm bán lẻ trải đều trên toàn quốc. Đặc biệt trong năm 2009, mặc dù nền kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng từ suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng công ty vẫn hoàn thành vượt chỉ tiêu.
Xác định rõ đối tượng khách hàng mà công ty hướng đến là giới nữ từ 22 – 45 tuổi, công ty đã định hình các dòng sản phẩm chủ lực như vải Jacquard, Plain, gấm, lụa, tơ tằm, Silk thun, voan... làm từ sợi polyester, spandex, visco,... với công nghệ sản xuất tiên tiến được chuyển giao từ Nhật Bản và Châu Âu. Chính vì vậy, sản phẩm vải Thái Tuấn được khách hàng trong nước ưa chuộng và đánh giá cao. Bên cạnh đó, Thái Tuấn cũng tỏ ra rất nhanh nhạy trong việc nắm bắt tâm lý khách hàng khi quyết định đưa ra các sản phẩm thời trang may sẵn với nhãn hiệu ROSSHI, nhãn hiệu cao cấp SILKI bao gồm các mẫu trang phục công sở và trang phục gia đình mang kiểu dáng thanh lịch, trang nhã . Thái Tuấn còn cung ứng cho thị trường đồng phục học sinh bộ sưu tập chất liệu áo dài cao cấp nhãn hiệu LENCII mang phong cách ấn tượng, cá tính, nổi bật và sang trọng và nhãn hiệu Hoa Áo Trắng cho tuổi học trò. Đối với nam sinh, Thái Tuấn có bộ sưu tập trang phục nam sinh Menni’s với chất liệu Kate, ashmere thoáng mát, ít nhăn mang lại sự thoải mái, năng động.
May 10, bà Nguyễn Thị Thanh Huyền, Tổng giám đốc công ty cho biết, năm nay sẽ tăng tỷ lệ tiêu thụ nội địa lên 30%, bằng việc khai trương chuỗi sáu cửa hàng lớn tại Hà Nội, Hải Phòng, Hạ Long và Thái Bình. Đồng thời, công ty này cũng đầu tư ba xưởng sản xuất Veston cao cấp với dây chuyền thiết bị hiện đại được nhập từ Nhật Bản, Italia.
Tổng công ty cổ phần May Nhà Bè có kế hoạch tăng trưởng thị trường nội địa cho năm nay dự kiến là 200%. Đây là một tỷ lệ ấn tượng trong bối cảnh sức mua của nhiều mặt hàng đều suy giảm. Mạng lưới bán hàng rộng khắp đang từng giờ mang đến cho người tiêu dùng những sản phẩm tinh tế của NBC với những nhãn hàng như Novelty, Style of Living... NBC nỗ lực để khách hàng không chỉ hài lòng với chất lượng mà còn vì sự tiện lợi trong mua sắm và thái độ tận tụy của đội ngũ bán hang.
Công ty cổ phần May Đức Giang cũng xác định tăng thị phần trong nước trong năm 2009 từ 20-25%.
Thực trạng tiêu thụ sản phẩm may mặc Việt Nam trên thị trường nội địa
. Đối với hàng may mặc người tiêu dùng sẵn sàng mua sắm từ 150.000 - 500.000 đồng/tháng, chiếm 18% tổng chi tiêu hàng tháng. Trong đó, người tiêu dùng ở độ tuổi từ 20-25 tuổi mua quần áo nhiều nhất với 46,4%, tiếp đến là độ tuổi từ 26-35 tuổi chiếm 23,8%. 70% người mua sắm thời trang hằng tháng. Con số lượng người mua sắm khoảng 2 - 3 tháng/lần cũng chiếm số đông.Hình thức khuyến mại được ưa chuộng nhất là giảm giá với 73,1% so với hình thức tặng phiếu mua hàng (16%) và tặng quà (10,9%). Như vậy đây là một thị trường tiềm năng. Các doanh nghiệp đã khai thác và thu được các kết quả cao.
Chất liệu và mẫu mã có thể đã được khách hàng chấp nhận, giá cả đôi khi cũng cạnh tranh... các mặt hàng sản xuất trong nước, đặc biệt như hàng may mặc, hiện đã thu hút được khá đông người tiêu dùng Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn những băn khoăn của người tiêu dùng mà qua đó thể hiện những hạn chế của hàng Việt, trong đó có hàng dệt may. Có rất nhiều thông tin trái chiều nhau.Có người thì cho rằng “thời gian trước, người tiêu dùng Việt Nam cũng tương đối thích hàng ngoại. Nhưng hàng ngoại thì giá cả không phù hợp, mẫu mã đôi khi cũng không phù hợp. Hàng Việt Nam thì có nhiều lợi thế: mẫu mã đa dạng, giá cả hợp lý, gần với phong cách và văn hóa người Việt Nam”… Nhưng người khác thì lại chia sẻ “Nhiều người sang nước ngoài mua quà về giở ra là “made in Vietnam”, giày dép, quần áo… Nếu là hàng made in Vietnam thì chất lượng là cực tốt. Người nước ngoài sang đây cũng thích”. Thậm chí, thời gian gần đây còn xuất hiện cả hiện tượng hàng quần áo “ngoại” chất lượng kém được nhập lậu về Việt Nam rồi gắn mác hàng “nội” – Made in Vietnam lên, để đánh lừa người tiêu dùng dễ tiêu thụ hơn. Theo chị Nguyễn Minh Yến, Quận Đống Đa, Hà Nội, hàng Việt Nam có chất lượng tốt thường chỉ được được bày bán trong các cửa hàng, còn ở ngoài chợ thì khó tìm hàng có chất lượng. Một khách hàng khác lại lo lắng vì bây giờ có nhiều cửa hàng Made in Vietnam, bày bán những sản phẩm hàng nhái. Ngoài ra, Việt Nam là một thị trường rất đặc thù. Khi vẫn còn tồn tại những con phố bán phụ liệu may mặc rất sầm uất ngay giữa thủ đô, nghĩa là khi người dân vẫn còn tập quán là nếu không mua được thì có thể tự may hoặc đặt may quần áo cho mình, hoặc có thể sử dụng những sản phẩm may gia công được tung ra từ các mô hình sản xuất nhỏ lẻ. "Hàng VN tốt thật nhưng ít, giá lại cao quá. Có những chiếc quần cũng cửa hàng ấy, vài năm trước mua rồi, năm nay ra vẫn thấy cùng chất liệu, cùng kiểu dáng thì mua sao được!" là cách giải thích của một khách hàng. Khi bạn đi mua quần áo ở chợ Ngã Tư Sở bạn sẽ không tìm nổi mặt hàng có chữ VN. "Hàng thùng" bày như rau như cỏ trên các sạp đầy bụi với giá từ vài chục tới hơn trăm nghìn đồng. Quần, áo, khăn, tất, giày, dép... mẫu mã đa dạng, màu sắc bắt mắt, đặc biệt giá ở mức chấp nhập được khiến những người có thu nhập thấp bằng lòng dù chất lượng sản phẩm bị đặt xuống thứ yếu.
Vừa qua, tại cuộc họp Ban chỉ đạo cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” TP Hà Nội do Ủy ban MTTQ Hà Nội tổ chức có nhiều ý kiến cho rằng, cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” (CVĐ) là cơ hội cho doanh nghiệp nâng cao chất lượng cũng như đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, chiếm lĩnh thị phần với các sản phẩm nhập khẩu. Theo Ban chỉ đạo CVĐ TP Hà Nội, đến nay Tổng Công ty thương mại Hà Nội và một số doanh nghiệp sản xuất công nghiệp trên địa bàn thành phố đã thực hiện được 14 chuyến hàng về nông thôn, tổ chức được 7 “Phiên chợ hàng Việt” tại 5 huyện ngoại thành. Chương trình này sẽ được đẩy mạnh trong dịp 2/9, Đại lễ 1000 năm Thăng Long-Hà Nội, Tết dương lịch... Tại các tỉnh, thành phố trong cả nước, các sở Công thương đã tổ chức được 68 đợt bán hàng về nông thôn với 857 lượt doanh nghiệp tham gia và 1.124 gian hàng, thu hút hơn 4,7 triệu lượt khách tham quan, mua sắm, đạt doanh thu lên tới 1.467 tỷ đồng. Tính đến cuối tháng 7 năm 2010, có 46 phiên chợ “Hàng Việt về nông thôn” được tổ chức tại 18 tỉnh thành trên cả nước, thu hút 132 doanh nghiệp tham gia, tổng doanh thu bán hàng đạt 31 tỷ đồng.
Theo nhận định của Bộ Công thương, hàng hóa trong nước đã tạo được dấu ấn. Điều tra mới nhất của Công ty TV Plus sau 1 năm hưởng ứng cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” thì đã có 58% người tiêu dùng Việt Nam quan tâm đến hàng Việt. Kết quả khảo sát của Công ty Nielsen Việt Nam vừa công bố thì hầu hết các doanh nghiệp kỳ vọng tăng trưởng ngành của họ cao hơn trước, ở mức khoảng 13,6% trong 12 tháng tới, mức tăng trưởng ngành được kỳ vọng sẽ cao gấp đôi mức tăng 6% của năm 2010.
Khách hàng tiêu dùng thời trang có thể tạm chia làm 3 nhóm: nhóm có thu nhập thấp thường sử dụng hàng may sẵn, rẻ tiền nhưng nhanh hỏng; nhóm có thu nhập cao sử dụng sản phẩm của các hãng thời trang cao cấp; nhóm trung lưu chiếm số lượng khá đông đảo, không chấp nhận lối mặc đại trà, hàng kém chất lượng của Trung Quốc, nhưng lại không quan tâm tới các loại hàng hiệu. Đối tượng này khá khó tính, nhưng lại có nhu cầu lớn về thời trang. Thời trang của họ phải đẹp, độc đáo, sang trọng, lại hợp túi tiền. Phục vụ nhóm khách hàng trung lưu chủ yếu vẫn là các nhà may, cửa hàng thời trang đơn lẻ. Một số DN có tên tuổi đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu nhóm này, nhưng lại chuyên về thời trang của "phái mạnh" như Việt Tiến, May 10, Thành Công, Nhà Bè... mà chưa đáp ứng được nhu cầu rất lớn của "phái đẹp" mới chỉ đáp ứng được nhu cầu của nam giới. Phân đoạn thị trường với những người trung tuổi
Mặc dù đã cố gắng rất nhiều để chiếm lĩnh thị trường nội địa nhưng với sự cạnh tranh khốc liệt thì hàng ngoại vẫn đang chiếm lĩnh thị trường. Hiện tại, các trung tâm thương mại lớn ở các thành phố lớn như Tp.HCM và Hà Nội là nơi tập trung đông đảo của hầu hết các thương hiệu thời trang nước ngòai như Valentino Rydy, Guess, Ungaro, Levis's, Gucci, Calvin Klein, Bossini, Giordano. Không ít các sản phẩm của những nhãn hiệu này có giá bán không dưới 1 triệu đồng/sản phẩm, và doanh thu bán hàng của các trung tâm mua sắm vẫn giữ được mức tăng trưởng đều đều hàng năm. So về giá cả, hàng may mặc của các thương hiệu trong nước rẻ hơn rất nhiều lần hàng ngoại, nhưng người chuộng hàng hiệu không tiếc tiền mua sắm vì họ thích kiểu dáng bắt mắt tinh xảo, chất liệu vải, màu sắc đẹp.
Hàng Trung Quốc đang "đánh" mạnh ở khu vực bán buôn ở các chợ, hệ thống của hàng thời trang, đây lại là kênh thu hút phần lớn người tiêu dùng. Gần đây lại có thông tin về nhiều mặt hàng quần áo và đồ dùng cho trẻ em sản xuất ở Quảng Đông (Trung Quốc) chứa các hóa chất độc hại đang khiến các doanh nghiệp rất lo lắng.
Trên thực tế, tại các chợ, siêu thị hàng Trung Quốc rất được người tiêu dùng ưa chuộng do mẫu mã đẹp, màu sắc phong phú, nhất là những sản phẩm giá từ 150.000 đồng trở lên. Người bán giới thiệu đó là hàng Hong Kong, Thái Lan, Hàn Quốc... nhưng thật ra 80% là của Trung Quốc. Các họat động bán buôn của thị trường vẫn dồn vào dòng hàng giá thấp và chất lượng trung bình, sức tiêu thụ dòng hàng giá cao chậm lại. Vì tần suất mua sắm của người dân giảm lại từ tác động của diễn biến của nền kinh tế.Đồng tiền thì trượt giá, lạm phát tăng cao. Nhưng dưới đánh giá của các nhà nghiên cứu thị trường với tác động của khó khăn nền kinh tế nhu cầu mua sắm mặt hàng quần áo sẽ giảm trong 6 tháng tới đây.
Tóm lại, qua thời gian hoạt động nỗ lực của tập đoàn dệt may việt nam cũng thu được những thành quả có giá trị: Tổng doanh thu nội địa của cả hệ thống phân phối của Tập đoàn Dệt - May Việt Nam bao gồm Vinatex Mart và các DN sản xuất tự tiêu thụ mỗi năm khoảng 2.500 tỷ đồng, mức tăng trưởng hằng năm từ 10 đến 15%/năm, đây là con số khẳng định sự vươn lên chiếm lĩnh thị trường dệt may trong nước. Lãnh đạo Tập đoàn Dệt - May cũng khẳng định việc mở rộng tiêu thụ nội địa là hướng đi mang tính lâu dài để tăng trưởng bền vững.Và điều vui mừng đối với các DN tại thị trường nội địa là người tiêu dùng trong nước bắt đầu ưa thích hàng nội vì chất lượng tốt, giá cả phù hợp với nhu cầu của các tầng lớp trong xã hội. Đặc biệt, thời gian qua do có những cảnh báo về hàng Trung Quốc nên rất nhiều người tiêu dùng đã quay lại mua hàng sản xuất trong nước.
Đánh giá chung về hoạt động tiêu thụ sản phẩm may mặc Việt Nam trên thị trường nội địa
2.3.1. Ưu điểm
Với dân số 86 triệu người và thu nhập ngày càng tăng lên, mức sống và chi tiêu của người dân đã có sự cải thiện đáng kể. Theo đánh giá, mức tiêu dùng đối với hàng dệt may hiện nay chiếm khoảng 5-6% chi tiêu của người dân và thị trường tiêu dùng dệt may Việt Nam vào khoảng 3 tỷ USD,. Đây là thị trường hết sức tiềm năng cho các doanh nghiệp trong ngành. Lực lượng lao động tương đối đông, chi phí lao động còn “tương đối thấp” so với 1 số nước sản xuất khác. Lao động dễ đào tạo, tay nghề khéo, có khả năng làm được các sản phẩm có độ phức tạp cao. Phần lớn trang thiết bị may đã được đổi mới, hiện đại. Một số DN Việt Nam và FDI có quy mô sản xuất lớn, quản lý hiệu quả, có quan hệ chặt chẽ với nhiều nhà nhập khẩu, bán lẻ nước ngoài, đã bước đầu tham gia vào các chuỗi cung ứng. Nhiều DN được cấp các chứng chỉ về quản lý, môi trường, đáp ứng các tiêu chuẩn lao động thế giới
Việt Nam gần nguồn nguyên phụ liệu dệt may thế giới (Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan), có khả năng giao hàng nhanh. Có thị trường nội địa rộng lớn. Việt Nam vẫn được coi là điểm đến an toàn của giới đầu tư, làm ăn quốc tế.
Chính sách hỗ trợ của chính phủ ví dụ như miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu thô nếu những nguyên liệu này được tái xuất dưới dạng thành phẩm trong vòng từ 90 đến 120 ngày. Ngành may mặc Việt Nam phản ứng nhanh nhạy và linh hoạt khi có đơn đặt hàng mới.
Hạn chế
Hầu hết các doanh nghiệp dệt may là vừa và nhỏ, khả năng huy động vốn đầu tư thấp, hạn chế khả năng đổi mới công nghệ, trang thiết bị. Chính quy mô nhỏ đã khiến các doanh nghiệp chưa đạt được hiệu quả kinh tế nhờ quy mô, và chỉ có thể cung ứng cho một thị trường nhất định. Do đó, khi thị trường gặp vấn đề, các doanh nghiệp dệt may sẽ gặp khó khăn trong việc điều chỉnh phương thức thâm nhập thị trường và/hoặc chuyển đổi sang thị trường khác. Những khó khăn, ít nhất là ban đầu, trong việc chuyển đổi định hướng sang thị trường nội địa trong thời điểm các thị trường xuất khẩu chính như Hoa Kỳ, EU đều gặp suy thoái kinh tế chính là những dẫn chứng tiêu biểu.
Kỹ năng quản lý sản xuất và kỹ thuật còn kém, đào tạo chưa bài bản, năng suất thấp, mặt hàng còn phổ thông, chưa đa dạng. Năng lực tiếp thị còn hạn chế, phần lớn các doanh nghiệp dệt may chưa xây dựng được thương hiệu của mình, chưa xây dựng được chiến lược dài hạn cho doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp sản xuất đồ may mặc Việt Nam phải nhập khẩu khoảng 70% vải dệt trong khi đó Trung Quốc lại có thể tự sản xuất đến 90% loại vải này làm giảm tính chủ động, tính cạnh tranh và phụ thuộc nhiều hơn vào biến động giá trên thị trường thế giới.
Sự khác biệt đáng kể giữa thành thị và nông thôn nó ảnh hưởng đến mẫu mã và giá cả quá xa tạo sự khác biệt lớn. Các nhà sản xuất cần phải nghiên cứu thị trường rất cẩn thận.Sản phẩm phải có sự khác biệt về chất liệu, kiểu dáng, phong cách, giá cả, dịch vụ trước, trong và sau khi bán.
Tình trạng hàng giả, hàng Trung Quốc nhái các thương hiệu nổi tiếng nước ngoài được mua bán qua con đường tiểu ngạch về buôn lậu bày bán khá phổ biến tại các shop thời trang hiện nay. Không có sự quản lý của nhà nước dẫn đến thương hiệu của Việt Nam khó được xây dựng. Đặc biệt làm mất lòng tin của khách hàng
Thiếu nhân lực về quản lý, công nghệ phù hợp, chưa có cơ chế đủ sức hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài vào, dẫn đến việc ngành phải tiếp tục nhập khẩu tới trên 4 tỷ USD vải/năm
Khi thưc hiện chương trình “Người Việt Nam ưu tiên dung hàng Việt Nam đã rút ra được những hạn chế. Các sản phẩm trong nước đã có mẫu mã đẹp, giá cả hợp lý. Tuy nhiên, xét ở tầm vĩ mô, nhiều chuyên gia kinh tế và nhà quản lý cho rằng, để cuộc vận động này có hiệu quả và sức lan tỏa mạnh mẽ hơn nữa thì chính Nhà nước phải trở thành “người tiêu dùng thông thái” trong chính việc ưu tiên và lựa chọn sử dụng hàng trong nước sản xuất. Thực tế cho thấy, công tác đấu thầu các dự án đầu tư vốn nhà nước sử dụng vật tư, hàng hóa sản xuất trong nước chưa được quan tâm đúng mức khiến sản phẩm nước ngoài thường thắng thầu.
Mặc dù Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 494/CT-TT ngày 20/4/2010 về việc sử dụng vật tư, hàng hóa sản xuất trong nước trong công tác đấu thấu các dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước đính kèm nhưng lại chưa quy định rõ về các trường hợp đấu thầu mua sắm vật tư của các bộ, ngành và các địa phương; các cơ quan hành chính hay các tổ chức trực thuộc theo chủ trương “Ưu tiên dùng hàng Việt Nam” nên việc các nhà thầu không mấy mặn mà với hàng trong nước sản xuất vẫn còn rất phổ biến.
Bên cạnh đó, có ý kiến cho rằng phải quyết liệt giảm nhập siêu mới mong đẩy mạnh tiêu thụ hàng Việt. Theo ông Vũ Vinh Phú - Chủ tịch Hiệp hội Siêu thị Hà Nội, một trong các điểm yếu của doanh nghiệp Việt Nam trong việc đẩy mạnh tiêu thụ hàng nội địa trên sân nhà là thiếu tính liên kết. Việc liên kết giữa nhà sản xuất và nhà phân phối sẽ đem lại những phản hồi tích cực trong việc cải tiến mẫu mã, chất lượng, giá cả sản phẩm, từ đó tiêu thụ hàng hóa tốt hơn. Giữa các doanh nghiệp phân phối với nhau cũng cần phải liên kết.
2.3.3 .Nguyên nhân của hạn chế
Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới cũng tạo điều kiện tiếp cận thị trường tốt hơn cho hàng dệt may. Việt Nam hiện đã là thành viên của WTO, đồng thời cũng đã tham gia ký kết và thực thi nhiều hiệp định thương mại tự do
Hàng rào bảo hộ dệt may trong nước không còn. Nếu như hiện nay, thuế nhập khẩu hàng may mặc vào Việt Nam là 50%, thuế nhập khẩu vải là 40%, thuế nhập khẩu sợi là 20% thì khi vào WTO, Việt Nam sẽ phải thực hiện đúng cam kết theo Hiệp định Dệt may (với mức giảm thuế lớn, ví dụ thuế suất đối với vải giảm từ 40% xuống 12%, quần áo may sẵn giảm từ 50% xuống 20% và sợi giảm từ 2% xuống 5%). Do vậy vải Trung Quốc sẽ tràn vào nước ta vì lúc nước sẽ phải cạnh tranh với vải Trung Quốc nhập khẩu.Sẽ có rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực này, do vậy, sức ép cạnh tranh đối với các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tăng lên. Mặc dù, một số ưu đãi đầu tư nhằm khuyến khích xuất khẩu dù vẫn được duy trì nhưng sẽ phải chấm dứt trước ngày 11/1/2012 (chỉ áp dụng đối với các ưu đãi đầu tư đã dành cho các dự án đã được cấp phép và đi vào hoạt động trước ngày 11/1/2007).Với cam kết xóa bỏ các hình thức trợ cấp không được phép, ngành dệt may không còn được hưởng một số loại hỗ trợ như trước đây như các hình thức hỗ trợ XK và thưởng XK từ Quỹ hỗ trợ XK; các biện pháp miễn giảm thuế hoặc tiền thuê đất gắn với điều kiện XK; các ưu đãi tín dụng đầu tư phát triển...
Bảng 3: Thuế nhập khẩu cam kết (trung bình) khi gia nhập WTO
Đơn vị tính: %
Chương HS
Trần thuế suất khi gia nhập
Trần thuế suất cuối cùng
50
9,77
9,77
51
7,73
7,73
52
9,50
9,50
53
5,66
5,66
54
9,05
9,05
55
8,77
8,77
56
10,32
10,32
57
12,00
12,00
58
12,00
12,00
59
11,15
10,89
60
12,00
12,00
61
19,92
19,92
62
19,80
19,80
63
14,70
14,60
(Theo:
Các sản phẩm chủ yếu là thực hiện các hợp đồng gia công, chưa tạo dựng được thương hiệu và tên tuổi trên thị trường trong nước và quốc tế.
Sản xuất may mặc của Việt Nam còn quá phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu. Ngành dệt may hiện vẫn phụ thuộc đến 70% vào nguyên liệu nhập khẩu. Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas), 30% nguyên phụ liệu mà trong nước đáp ứng được tập trung vào một số sản phẩm như bông (10%), xơ sợi tổng hợp (60%), sợi (70%), vải (50%), phụ liệu (70%). Đặc biệt, theo ước tính, bông nguyên liệu nhập khẩu chiếm tới 80% giá trị sản phẩm may mặc xuất khẩu
Ngày càng có nhiều cơ hội việc làm khác dễ thở mà lương cao hơn, trong khi lao động ngành may vất vả mà lương không tương xứng là nguyên nhân chính khiến nhiều công nhân nữ bỏ việc. Mặc dù mức lương so với mặt bằng chung hiện nay không phải thấp (khoảng 1,5 triệu đồng/tháng), nhưng do giá các mặt hàng tiêu dùng đang có chiều hướng tăng, khiến cho người lao động chưa thực sự chuyên tâm vào công việc. Điều này khiến cho thời gian qua trên 10% lao động của các doanh nghiệp này đã chuyển sang làm những công việc khác
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP
Giải pháp vĩ mô
Các chính sách kích cầu của nhà nước
Nhìn chung, chính sách kích cầu bao gồm hai nhóm chính sách lớn. Thứ nhất là nhóm chính sách tiền tệ, mà công cụ chủ yếu là hạ lãi suất và tăng trưởng tín dụng. Thứ hai là nhóm chính sách tài khoá, thông qua tăng chi tiêu của Chính phủ (như tăng đầu tư công, tăng mua sắm dịch vụ của Chính phủ) hoặc giảm thuế hoặc các gánh nặng nộp ngân sách từ nền kinh tế.
Với điều kiện Việt Nam, trong thời gian ngắn vừa qua, chính sách tiền tệ đã được sử dụng với liều lượng mạnh thông qua cắt giảm nhanh lãi suất và khuynh hướng nới lỏng tín dụng. Nhà nươc cần phải miễn giảm thuế thu nhập doanh và miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc thiết bị; phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây truyền công nghệ . Khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển ngành may, nhất là ở các vùng đông dân cư, nhiều lao động. đối với các dự án quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu, trồng bông, trồng dâu, nuôi tằm; đầu tư các công trình xử lý nước thải; quy hoạch các cụm công nghiệp dệt; xây dựng cơ sở hạ tầng đối với các cụm công nghiệp mới; đào tạo và nghiên cứu của các viện, trường và trung tâm nghiên cứu chuyên ngành dệt - may. Đưa ra các chính sách bù lãi suất cho các công ty thuộc ngành dệt may. Hỗ trợ vốn để đầu tư. Song song các chính sách nhà nước cần phải quản lý chặt chẽ khâu thực hiện tạo sự công bằng cho các doanh nghiệp. Các chính sách đều phải được thông báo đến từng cơ quan. Chính phủ cần tiếp tục chỉ đạo việc đơn giản hóa các thủ tục hải quan, giảm phiên hà cho doanh nghiệp trong việc nhập khẩu nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất nhất.
Thứ hai là nhóm chính sách tài khóa: việc giảm thuế và các khoản thu từ Nhà nước sẽ kích thích các thành phần kinh tế bình đẳng hơn, do đó, khu vực tư nhân đỡ bị thiệt thòi tương đối so với khu vực Nhà nước. Thêm vào đó, khu vực tư nhân là khu vực tạo ra nhiều việc làm nhất hiện nay. Nếu khu vực này được ưu tiên, các vấn đề xã hội được hỗ trợ nhiều và hiệu quả hơn. Thứ hai, khuynh hướng hạ thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian tới để tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên trường quốc tế, cũng như tạo ra môi trường kinh doanh hấp dẫn hơn, là một khuynh hướng khó tránh trong khu vực Đông Nam Á và Trung Quốc, mà Việt Nam là một nước có vị trí trung tâm. Việc hạ thuế thu nhập doanh nghiệp, sớm hay muộn sẽ xảy ra (kể cả ở Trung Quốc, Việt Nam và một số nước lân cận). Nhưng đây là thời điểm thích hợp hơn cả vì nó có tác dụng chống lại chu kỳ suy thoái. Nếu hạ thuế khi nền kinh tế đã phục hồi hoặc đang tăng trưởng nhanh, sẽ làm tăng trưởng càng nóng thêm, như thế là không hợp về thời điểm.
Nhà nước cũng cần tăng cường công tác quản lý, phát hiện xử phạt hàng giả, hàng nhái, nâng mức xử phạt để răn đe, đẩy mạnh XTTM, nâng cao thương hiệu hàng Việt. Thực trạng hàng nhá, hàng kém chất lượng đang nhan nhả bầy bán tự do trên thị trường. Vấn đề này vẫn chưa được các cơ quan chức năng lên tiếng. Đồng thời đưa ra các rào cản kỹ thuật khi cho nhập khẩu bằng các quy định về an toàn...gây khó khăn cho các nước xuất khẩu vào Việt Nam bằng các thủ tục hải quan
Đẩy mạnh cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu CVĐ “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” không đơn giản. Có nhiều nguyên nhân, nhưng trước hết phải nói đến chiến lược cung ứng hàng Việt, cơ chế khuyến khích các DN đưa hàng về nông thôn, vấn đề quy hoạch mạng lưới bán lẻ là những vấn đề quan trọng. Sẽ thật khó với người kinh doanh, khi biết lỗ mà vẫn phải kinh doanh. Vì vậy, để DN “mặn mà” với thị trường này, để người dân nông thôn có điều kiện tiếp cận với hàng hóa, dịch vụ một cách thuận lợi, từ đó tạo niềm tin đối với các mặt hàng trong nước, ngoài sự nỗ lực từ phía các DN, Ban Dân tộc và các ngành chức năng như Công thương, Tài chính, Thuế,v.v... cần có sự nghiên cứu, tham mưu cho UBND tỉnh điều chỉnh một số cơ chế chính sách. Trước mắt, cần tham mưu cho UBND tỉnh xây dựng chiến lược tổng thể về phát triển và khai thác thị trường nông thôn; quy hoạch mạng lưới bán lẻ hàng hóa trên thị trường nông thôn, gắn với tham mưu các chính sách ưu đãi về đất đai, tài chính, để xây dựng, duy trì và phát triển mạng lưới theo hướng ổn định, lâu dài. . Có chính sách hỗ trợ di dời các cơ sở sản xuất ô nhiễm ra khỏi thành phố vào các khu công nghiệp tập trung, hỗ trợ xây dựng hệ thống xử lý nước thải để đủ sức hấp dẫn và thu hút các DN nước ngoài tăng cường đầu tư vào lĩnh vực dệt, nhuộm hoàn tất. Nhà nước cần quản lý chặt chẽ trong khâu thực hiện ở từng địa phương để chánh khỏi những việc gian lận trong khi thực hiện cuộc vận động
Ngoài ra để thực hiện thắng lợi mục tiêu CVĐ “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” không đơn giản. Có nhiều nguyên nhân, nhưng trước hết phải nói đến chiến lược cung ứng hàng Việt, cơ chế khuyến khích các DN đưa hàng về nông thôn, vấn đề quy hoạch mạng lưới bán lẻ là những vấn đề quan trọng. Sẽ thật khó với người kinh doanh, khi biết lỗ mà vẫn phải kinh doanh. Vì vậy, để DN “mặn mà” với thị trường này, để người dân nông thôn có điều kiện tiếp cận với hàng hóa, dịch vụ một cách thuận lợi, từ đó tạo niềm tin đối với các mặt hàng trong nước, ngoài sự nỗ lực từ phía các DN, Ban Dân tộc và các ngành chức năng như Công thương, Tài chính, Thuế,v.v... cần có sự nghiên cứu, tham mưu cho UBND tỉnh điều chỉnh một số cơ chế chính sách. Trước mắt, cần tham mưu cho UBND tỉnh xây dựng chiến lược tổng thể về phát triển và khai thác thị trường nông thôn; quy hoạch mạng lưới bán lẻ hàng hóa trên thị trường nông thôn, gắn với tham mưu các chính sách ưu đãi về đất đai, tài chính, để xây dựng, duy trì và phát triển mạng lưới theo hướng ổn định, lâu dài. . Có chính sách hỗ trợ di dời các cơ sở sản xuất ô nhiễm ra khỏi thành phố vào các khu công nghiệp tập trung, hỗ trợ xây dựng hệ thống xử lý nước thải để đủ sức hấp dẫn và thu hút các DN nước ngoài tăng cường đầu tư vào lĩnh vực dệt, nhuộm hoàn tất.
Giải pháp vi mô
Hoàn thiện nghiên cứu thị trường và đa dạng hóa mẫu mã sản phẩm
Trong cơ chế thị trường khách hàng là "thượng đế", họ có quyền lựa chọn trong hàng trăm sản phẩm để mua một sản phẩm tốt nhất. Vì vậy chất lượng sản phẩm phải luôn đáp ứng nhu cầu thị hiếu của khách hàng. Hàng hoá chất lượng tốt sẽ tiêu thụ nhanh, thu được lợi nhuận cao. Hàng hoá chất lượng kém sẽ bị ứ đọng, ế ẩm làm cho doanh nghiệp thua lỗ, phá sản. Có thể nói: "Chỉ có chất lượng mới là lời quảng cáo tốt nhất cho sản phẩm của doanh nghiệp" .Các doanh nghiệp cần phát triển công nghiệp dệt may theo hướng “Chất lượng, thời trang, trách nhiệm xã hội và thân thiện với môi trường”. Tái cơ cấu về chất lượng và đẳng cấp sản phẩm. Đẩy mạnh chương trình Thời trang hoá ngành dệt may đi đôi với xây dựng thương hiệu thời trang.Xã hội càng phát triển thì nhu cầu con người ngày càng cao hơn. Nếu nhu cầu về một loại hàng hoá hay dịch vụ nào đó là cao thì doanh nghiệp sẻ có cơ hội mở rộng và phát triển thị trường của mình và ngược lại. Các doanh nghiệp cần phải đầu tư mạnh hơn vào nghiên cứu thị trường, thị hiếu, tăng cường công tác thiết kế thời trang và sản phẩm mới, chú trọng đầu tư mới nâng cao năng lực sản xuất của ngành và đổi mới công nghệ, trang thiết bị, đẩy mạnh các hoạt động tiếp thị tại các thành phố lớn kết hợp với chương trình đưa hàng về nông thôn và tăng uy tín thương hiệu.Tạo dựng uy tín, chiếm được lòng tin của khách hàng. Thực hiện tốt vấn đề về đạo đức trong kinh doanh, tiếp thu, giải quyết các ý kiến vướng mắc của khách.
Phân đoạn thị trường với nhóm khách hàng có thu nhập thấp
Khai thác tối đa thị trường trong nước, nhất là đối với phân đoạn thị trường người tiêu dùng có thu nhập thấp.Có chiến lược về giá hợp lý vì giá cả được xác định một cách hợp lý và đúng đắn thì nó đem lại cho doanh nghiệp nhiều tác dụng to lớn. Đặc biệt là giá cả thực hiện chức năng gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm trên từng loại thị trường trong và ngoài nước. Nó là đòn bẩy kinh tế quan trọng đối với doanh nghiệp và thị trường. Vì giá cả cao hay thấp có ảnh hưởng quyết định tới khối lượng sản phẩm tiêu thụ và lợi nhuận mà doanh nghiệp sẽ đạt được. Mà muốn giá cả thấp chất lượng tốt thì các doanh nghiệp cầnq uan tâm xử lý tốt vấn đề lao động bằng các giải pháp đồng bộ, linh hoạt như : xây dựng bộ quy tắc ứng xử của doanh nghiệp phù hợp các qui định quốc tế và pháp luật Việt Nam nhằm thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, ký và thực hiện thoả ước lao động tập thể, đảm bảo phúc lợi cho người lao động đi đôi với việc áp dụng các giải pháp công nghệ, quản lý, đầu tư máy móc chuyên dùng, từng bước nghiên cứu áp dụng “tự động hoá” trong dây chuyền may, giảm số lao động trong từng chuyền nhằm nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh, đảm bảo sự phát triển bền vững, lâu dài. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực cấp trung và cao cấp theo các chuyên ngành công nghệ, quản lý sản xuất, thiết kế sản phẩm và tiếp thị thời trang. Phân tích và dự báo được các loại chi phí đầu vào, chi phí cố định cũng như chi phí biến đổi sao cho hoạt động sản xuất sản phẩm với mức chi phí thấp nhất và hiệu quả nhất tạo nên chi phí đầu vào tương đối thấp cho sản phẩm . Và quy trình sản xuất phải được bố trí tổ chức thực hiện một cách khoa học, đảm bảo vệ sinh an toàn lao động và thực thẩm.Tăng cường xúc tiến kêu gọi đầu tư vào sản xuất nguyên liệu, in nhuộm hoàn tất vải nhằm từng bước nâng cao tỷ lệ nội địa hoá và khả năng chủ động về nguyên liệu cho DN, chuyển dịch phương thức sản xuất từ gia công CMT sang FOB và ODM, từng bước hình thành và phát triển các chuỗi cung ứng dệt may. Thường xuyên quan tâm tới các bạn hàng truyền thống, khách hàng lâu năm và cả những khách hàng ở thị trường mới thâm nhập qua các hình thức: Tổ chức các buổi toạ đàm, thi tìm hiểu về Công ty…
Đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm.
Mỗi doanh nghiệp cần có phương thức thanh toán sao cho đôi bên cùng có lợi, sản phẩm của doanh nghiệp sẽ tiêu thụ được nhiều hơn khi doanh nghiệp có những phương thức thanh toán tiện lợi, nhanh chóng. Doanh nghiệp cần đơn giản hoá thủ tục, điều kiện thanh toán tạo thuận lợi cho khách hàng để thúc đẩy việc tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời cần mở rộng hệ thống phân phối sản phẩm của doanh nghiệp, với mạng lưới phân bố trên các đại bàn, các vùng thị trường doanh nghiệp tham gia kinh doanh.. Tiếp tục chuyển dịch sản xuất các dự án may về các vùng nông thôn, thị tứ nhằm tận dụng nguồn lao động tại chỗ và ổn định nguồn lao động. Chú trọng liên kết và từng bước nâng cấp các doanh nghiệp vệ tinh nhằm nâng cao năng lực và đảm bảo linh hoạt trong sản xuất cho doanh nghiệp. Đặc biệt để cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” thắng lợi, để người tiêu dùng khu vực nông thôn có được niềm tin và sự trung thành với hàng Việt Nam, vấn đề quan trọng bậc nhất, không ai khác, các doanh nghiệp phải là “bà nội trợ” trung thành, cung ứng đầy đủ, kịp thời những mặt hàng bảo đảm chất lượng, có thương hiệu, giá cả phù hợp với mức thu nhập của người dân nông thôn. Doanh nghiệp tham gia kinh doanh ở địa bàn nông thôn, nhất là nông thôn miền núi phải lấy vấn đề xã hội làm đầu, lợi nhuận là cần thiết, đấy mới là doanh nghiệp có trách nhiệm trong CVĐ “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.
Các doanh nghiệp phải quan tâm đúng mức nhằm từng bước chiếm lĩnh, tạo bàn đạp phát triển và đảm bảo sự phát triển cân đối giữa thị trường xuất khẩu và trong nước. Đặc biệt phải phấn đấu quyết liệt hơn nữa nhằm từng bước chiếm lĩnh được thị trường này bằng các hoạt động hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm như: Tăng cường các hoạt động khuếch chương, quảng cáo, maketing.. Đồng thời Nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng là yêu cầu bắt buộc đối với bất kỳ một doanh nghiệp khi kinh doanh hàng hoá và dịch vụ nào. cũng cần nhấn mạnh rằng sự thành công của công tác phát triển thị trường còn phải bao gồm cả những dịch vụ bổ sung gắn liền với sản phẩm trong chính sách sản phẩm của công ty. Do tính mong đợi của khách hàng và tính toàn vẹn của sản phẩm công nghiệp nên có sự nhấn mạnh tới việc bán hàng, dịch vụ và các hộ trỡ kỹ thuật là những yêu cầu đầu tiên cho một chiến lược phát triển thị trường hiệu quả. Hỗ trợ sản phẩm có thể giúp tối đa sự thoả mãn của khách hàng
Đầu tư vào các dòng sản phẩm mục tiêu “trang phục may sẵn hàng hiệu Việt Nam”.
Dựa trên ưu thế là nhà sản xuất hàng may công nghiệp có những thiết bị hiện đại, nguồn cung cấp nguyên phụ liệu nổi tiếng thế giới…Các doanh nghiệp sản xuất tạo ra các sản phẩm mới và khác lạ với và chăm chút tới từng chi tiết nhỏ.
Sản phẩm mới và khác lạ: Chất lượng vải tốt với những hoa văn lạ mắt hơn; kiểu may thời trang và chăm chút đến từng chi tiết nhỏ trên sản phẩm; dịch vụ bán hàng lịch sự và chu đáo… những sản phẩm có nhiều mẫu lạ, không trùng lắp với thời trang của các shop hoặc chợ và lần đầu tiên xuất hiện trên thị trường.
Chăm chút tới từng chi tiết: Có 3 yếu tố tạo nên sự khác biệt cho các sản phẩm cao cấp là loại vải, kiểu mẫu và kỹ thuật may, tính thời trang. Cũng là chất liệu cotton, sợi tổng hợp nhưng lên các sản phẩm cao cấp phải tuyển chọn loại vải được sản xuất từ công nghệ dệt và hoàn tất hiện đại. Kiểu mẫu và kỹ thuật may của những sản phẩm cao cấp được chăm chút từng đường kim mũi chỉ, từng đường may lộn, từng lớp vải lót.
Tóm lại , muốn kinh doanh bất kỳ loại hàng hoá nào dạt hiệu quả trước tiên cần phải nghĩ tới tìm cho được thị trường tiêu thụ hàng hoá đó , đưa ra các giải pháp để ngày càng mở rộng và phát triển thị trường hàng hoá . Như vậy mở rộng và phát triển thị trường có vai trò quan trọng đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào. Bà nêu rõ những nguyên nhân chủ yếu khiến thị trường trường nội địa của ngành dệt may chưa xứng tầm phạm vi, quy mô của ngành, đó là các vấn đề về quảng bá hình ảnh, hệ thống phân phối, năng lực thiết kế, nguồn cung ứng nguyên liệu, hàng giả, hàng ngoại nhập kém chất lượng, tâm lý người tiêu dùng… Từ đó bà chỉ ra những giải pháp để khắc phục những vấn đề trên như là xây dựng, mua thương hiệu nổi tiếng, phát triển hệ thống sáng tạo, thiết kế mẫu, xây dựng các khu trung tâm thương mại, thực hiện chương trình xúc tiến thương mại nội địa như đưa hàng về nông thôn, chương trình Đồng hành cùng Doanh nghiệp Dệt may vì đồng bào biển đảo của Tổ Quốc… Bà hy vọng sau hội thảo này, ngành dệt may sẽ nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các đơn vị, cá nhân để thị trường nội địa của ngành ngày càng mở rộng, phát triển.
KẾT LUẬN
Hoạt động tiêu thụ ngày càng được đánh giá cao, nó có vai trò quan trọng đối với sự tồn tạ và phát triển của mỗi doanh nghiệp, quyết định sự phồn thịnh của mỗi quốc gia.
Trong những năm qua, mặc dù tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động, đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính thế giới trong 2 năm 2008-2009 đã đẩy ngành dệt may của nhiều nước vào hoàn cảnh khó khăn, nhiều nhà máy bị đóng cửa, hàng triệu lao động bị thất nghiệp, kinh doanh đình đốn, kim ngạch xuất khẩu giảm sút mạnh. Mặc dù cũng gặp nhiều khó khăn, chao đảo trong thời kỳ đầu khủng hoảng nhưng nhìn chung, ngành dệt may Việt nam đã đứng vững trong thử thách và tiếp tục phát triển và dần dần chiếm lĩnh thị trường nội địa. Tạo dựng được thương hiệu, lòng tin đối với người tiêu dùng trong nước.
Do thời gian có hạn và trình độ bản than còn nhiều hạn chế nên trong bài viết thầy ( cô ) để em rút kinh nghiệm cho lần sau.
Bài viết này được hoàn thành dưới sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của cô giáo TH.S Nguyễn Thị Phương Lan. Qua đây cho em gửi lời cảm ơn chân thành tới cô đã giúp em hoàn thành đề án này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm may mặc Việt Nam trên thị trường nội địa.doc