LỜI MỞ ĐẦU
Từ sau Đại hội lần thứ VI của Đảng nền kinh tế nước ta có nhiều biến đổi tích cực. Từ một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà Nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhờ chủ trương đó mà các thành phần kinh tế có điều kiện tự do phát triển trên cơ sở tôn trọng pháp luật và bình đẳng trước pháp luật.
Với định hướng phát triển như trên, cải cách thuế được kịp thời và thuế GTGT ngày càng được sửa đổi cho phù hợp với xu thế đổi mới nền kinh tế, nhằm tháo gỡ các khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện còn nhiều vấn đề bất cập, một trong những vấn đề nổi cộm hiện nay là tình trạng thất thu thuế.
Cùng với các thành phần kinh tế khác, thành phần kinh tế cá thể ngày càng phát triển đem lại nguồn thu đáng kể cho ngân sách Nhà Nước. Huyện Tứ Kỳ là một quận có tình hình kinh tế phát triển với nhiều trung tâm thương mại lớn. Số hộ kinh doanh trên địa bàn tăng khá nhanh góp phần làm cho số thu trên địa bàn ngày càng tăng lên. Tuy nhiên sự phức tạp trong quản lý thu thuế đổi với thành phần kinh tế cá thể là điều không thể tránh khỏi. Sự thất thu về thuế đối với thành phần kinh tế cá thể không những ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách Nhà Nước mà còn không đảm bảo sự công bằng về thuế. Vì vậy nhiệm vụ của ngành thuế nói chung và của chi cục thuế Hoàn Kiếm nói riêng là cần phải có biện pháp quản lý chống thất thu thuế. Trong đó chống thất thu thuế GTGT đối với hộ kinh doanh cá thể là một mảng quan trọng và khó khăn.
Nhận thức được vấn đề đó, sau một thời gian nghiên cứu lý luận và thực tế thực tập tại phòng Phòng kê khai, kế toán thuế và tin học ở Chi cục thuế quận Hoàn Kiếm, em xin mạnh dạn đi sâu tìm hiểu: “Giải pháp tăng cường công tác quản lý thu thuế GTGT đối với hộ kinh doanh cá thể tại chi cục thuế Huyện Tứ Kỳ”.
Mục đích của chuyên đề là đi sâu nghiên cứu công tác quản lý thuế GTGT đối với hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn Huyện Tứ Kỳ. Từ đó làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chưa phù hợp với thực tiễn và ngược lại. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp có tính khả thi và phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của quận, để nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế GTGT.
Toàn bộ đề tài được trình bày theo kết cấu sau:
Phần 1: Thực trạng công tác quản lý thu thuế GTGT đối với hộ kinh doanh cá thể ở chi cục thuế Huyện Tứ Kỳ
Phần 2: Giải pháp tăng cường công tác quản lý thu thuế GTGT đối với hộ kinh doanh cá thể tại chi cục thuế Huyện Tứ Kỳ.
58 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5373 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp tăng cường công tác quản lý thu thuế giá trị gia tăng đối với hộ kinh doanh cá thể tại chi cục thuế Huyện Tứ Kỳ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thuế suất cho các loại doanh thu từ các hoạt động khác nhau.
1.3.3 : Tình hình đôn đốc thu nộp thuế
Trong những năm qua cùng với sự phát triển của nền kinh tế nói chung, thành phần kinh tế cá thể đã khẳng định được vị trí trong nền kinh tế thị trường, số thu thuế của khu vực này ngày càng tăng thêm, nhưng thực trạng đang được các cấp, các ngành quan tâm là tình trạng thất thu do nợ đọng kéo dài.
Nợ đọng thuế chính là số thuế mà ĐTNT phải nộp trong kỳ tình thuế nhưng hết hạn nộp thuế vẫn còn chưa nộp cho cơ quan thuế, hoặc số thuế nộp thiếu sau khi trừ đi số thuế được miễn giảm theo quyết định số 16/2009/QĐ-TTg nhằm thực hiện chủ trương kích cầu đầu tư và tiêu dùng, ngăn chặn suy giảm kinh tế, tháo gỡ khó khăn đối với các hộ sản xuất kinh doanh. Trên quan điểm cho rằng “một đồng hôm nay có giá trị hơn một đồng ngày mai" nên ĐTNT thường tìm cách kéo dài thời hạn nộp thuế. Với số thuế chiếm dụng NSNN, ĐTNT sẽ đem lại đầu tư sản xuất kinh doanh của mình nhằm thu lợi nhuận cao hơn mà không phải đi vay và trả lãi tiền vay. Và như vậy số thuế nợ đọng của những hộ đó dồn vào cuối năm nên không đủ tiền nộp buộc phải nợ đọng thuế. Và điều đó dẫn đến hậu quả là Nhà nước thất thu thuế, không sử dụng kịp thời số thu về thuế. Công tác thu nộp thuế là khâu cuối cùng trong quá trình quản lý thuế, trách nhiệm đôn đốc thu nộp thuế thuộc về bộ phận đôn đốc thu thuế song trách nhiệm chính là do cán bộ thuế trực tiếp quản lý. Trên sổ bộ, cứ hết một tháng cán bộ tổng hợp các hộ nộp thuế, loại trừ những hộ có đơn xin nghỉ kinh doanh chuyển sang bộ phận nghiệp vụ duyệt và ra thông báo vào ngày 10 tháng sau. Trong thời gian còn lại cán bộ thuế phải đôn đốc thu nộp tiền thuế trực tiếp đối với hộ nhỏ, còn các hộ lớn tự nộp tiền vào kho bạc.
Về nhận thức, ai cũng hiểu rằng, để đảm bảo thu đúng, thu đủ và kịp thời số thuế phát sinh cho NSNN thì cán bộ chuyên quản phải làm tốt các công việc trên. Công tác đôn đốc thu nộp tiền thuế được đánh giá qua kết quả thu nộp thể hiện qua bảng 14 :
Bảng 14 : Kết quả thu nộp thuế đối với hộ kinh doanh cá thể ĐV: 1000 đồng
Chỉ tiêu
Thực thu
Thu của ghi thu
Thu nợ
Số hộ
Thuế
Tỷ lệ
Số hộ
Thuế
Tỷ lệ
Năm 2008
9.372.264
6.798
7.693.692
82,09
339
1.746.157
18,63
Năm 2009
11.245.483
7.002
7.770.629
69,1
256
3.474.854
30,9
So sánh(%)
120
113
101
65
199
Nguồn: Báo cáo tổng hợp thực thu
Thông qua bảng 14, số liệu trên ta có thể thấy công tác thu thuế nhìn chung tương đối tốt, có xu hướng tích cực hơn. Năm 2008 chi cục đã thu thuế đối với khu vực cá thể là 9.372.264 nghìn đồng, đến năm 2009 kết quả này tăng lên đạt 11.245.483 nghìn dồng tăng 120% so với năm 2008. Trong cơ cấu thu thì tỷ lệ thu của ghi thu năm 2008 khá lớn chiếm 82,09 %. Mặc dù trong năm 2009 tỷ lệ này có giảm đi nhưng nó vẫn chiếm tỷ trọng lớn 69,1%, số thu nợ thuế đối với hộ kinh tế cá thể tăng 18,63% lên 30,9%. Như vậy trong năm 2009 chi cục đã đẩy mạnh công tác thu nợ, chấm dứt tình trạng nợ đọng dây dưa kéo dài, cho thấy chi cục đã rất cố gắng trong công tác đôn đốc thu nộp thuế song thực tế con số nợ đọng thuế vẫn gia tăng.
Bảng 15: Báo cáo nợ đọng khu vực cá thể tính đến 31/12/2009
Đv: 1000 đồng
Tổng số thuế nợ luỹ kế
Nợ năm trước chuyển sang
Nợ năm 2009
Lượt hộ
Thuế
Lượt hộ
Thuế
Lượt hộ
Thuế
611
715.461
344
546.231
267
169.230
Như vậy tính đến hết năm 2009, Chi cục có 611 lượt hộ nợ thuế với số tiền thuế là 715.461 nghìn đồng- trong đó chỉ có 267 lượt hộ nợ phát sinh trong năm 2009, còn 344 lượt hộ nợ tồn đọng từ các năm trước. Hiện tượng nợ đọng thuế không những không động viên kịp thời, đầy đủ vào cho ngân sách Nhà Nước mà còn gây ra thất thu thuế.
Tóm lại: ở chi cục thuế Huyện Tứ Kỳ trong quá trình thu nộp tiền thuế tình trạng thất thu vẫn xảy ra do rất nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng có một số nguyên nhân chính sau:
- Còn nhiều hộ không thực hiện nghiêm chỉnh nộp thuế theo quy định mà cố tình trốn thuế, trốn trách nhiệm nghĩa vụ nộp thuế. Chi cục chưa có biện pháp kiên quyết trong xử phạt những trường hợp chậm nộp thuế, không nộp thuế theo quy định.
- Chưa có sự phối hợp một cách có hiệu quả với các ngành các cấp chính quyền như công an, phòng tài chính…
- Chính quyền địa phương chưa quan tâm một cách kịp thời nên còn thiếu trách nhiệm hỗ trợ cơ quan thuế trong việc thu nộp thuế và xử lý vi phạm.
- Chi cục thuế chưa kịp thời động viên khen thưởng những hộ chấp hành nộp thuế theo đúng quy định
1.3.4: Công tác kiểm tra trong công tác quản lý thu thuế đối với hộ sản xuất kinh doanh cá thể.
Mặc dù trong tình hình kinh tế phức tạp, nguồn thu nằm rải rác, phân tán không tập trung. Những năm vừa qua đội kiểm tra thuế tại chi cục thuế Huyện Tứ Kỳ đã đạt nhiều thành tích. Các vi phạm chủ yếu là chậm nộp tờ khai thuế GTGT, không đăng ký thuế, các hành vi lợi dụng sơ hở của luật thuế để trốn thuế, với sự nỗ lực của các cán bộ kiểm tra cùng các biện pháp tăng cường kiểm tra hố sơ khai thuế, tổ chức thu thập thông tin, năm 2009 đội kiểm tra thuế đã gặt hái được một số kết quả như sau :
- Đối với hoạt động cho thuê nhà đã phát hiện 15 vụ, quyết định xử phạt và truy thu thuế, với thuế GTGT là : 97.560.000 đồng.
- Xử lý các vụ nợ đọng thuế lớn, với số thuế GTGT nộp ngân sách là : 71.000.000 đồng.
- Các lĩnh vực khác : kiểm tra phát hiện 83 hộ vi phạm xử lý phạt và truy thu thuế GTGT là : 430.124.800 đồng.
Có được kết quả như vậy là do:
- Lãnh đạo chi cục rất quan tâm chỉ đạo, coi trọng công tác thanh tra, kiểm tra thuế.
- Có kế hoạch và tổ chức từng đợt kiểm tra chặt chẽ, thận trọng và quyết liệt. Luôn tìm ra những khâu còn yếu trong công tác quản lý.
- Kịp thời rút kinh nghiệm, có phương hướng khắc phục những việc chưa làm được.
Những mặt còn tồn tại trong công tác kiểm tra :
- Việc thanh tra, kiểm tra chưa thường xuyên, liên tục. Mới kiểm tra ở những địa điểm có số người nộp thuế nhiều, còn những nơi số hộ nộp thuế phân tán và kinh doanh nhỏ thì thiếu tích cực.
- Chưa tích cực thực hiện cưỡng chế đối với các hộ cố tình dây dưa trốn lậu thuế đối với Nhà nước.
- Một số cán bộ thanh tra, kiểm tra còn thiếu trách nhiệm, nể nang đối với các hộ vi phạm.
Từ những tồn tại trên của công tác thanh tra, kiểm tra thuế đã ảnh hưởng phần nào đến kết quả thu của chi cục, số hộ vi phạm tuy đã giảm nhưng vẫn tồn tại với số lượng không nhỏ, tình trạng nợ đọng thuế vẫn còn kéo dài gây thất thu cho ngân sách Nhà nước.
1.4. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH QUẢN LÝ THU THUẾ HỘ KINH DOANH CÁ THỂ
1.4.1: Những kết quả đạt được:
Thực hiện nhiệm vụ công tác thu năm 2009 trong bối cảnh suy giảm kinh tế nói chung và trên địa bàn Huyện Tứ Kỳ nói riêng, các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ, thương mại bị thu hẹp. Tăng trưởng GDP của thành phố là 6,67% (năm 2008 là 10,58%). Việc triển khai thực hiện nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11/12/2008 của Chính Phủ đã góp phần ngăn chặn suy giảm kinh tế, kích cầu đầu tư và tiêu dùng nhưng cũng tác động không nhỏ đến việc thực hiên dự toán thu ngân sách trên địa bàn Quận. Tuy nhiên, chi cục Thuế Huyện Tứ Kỳ với sự nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ viên chức trong chi cục, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sát sao, thường xuyên và liên tục của Cục thuế Hải Dương, của quận uỷ, Hội Đồng Nhân Dân (HĐND), UBND quận và các ban ngành liên quan, sự phối kết hợp chặt chẽ của UBND các phường, công an, quản lý thị trường…thời gian qua chi cục luôn hoàn thành nhiệm vụ thu đối với khu vực cá thể.
Thực hiện nhiệm vụ của cấp trên giao cho ngay từ đầu năm, để đảm bảo tiến độ công việc, Chi cục thuế Huyện Tứ Kỳ đã chủ động tham mưu với UBND Huyện Tứ Kỳ giao dự toán đến từng phường chợ, từ đó đề ra các biện pháp công tác phù hợp với từng địa bàn, từng lĩnh vực thu Ngân sách, từng giai đoạn với mục tiêu hoàn thành được nhiệm vụ thu ngân sách đã được giao. Đặc biệt trong quí IV/2009 đã áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp quản lý thu thuế có hiệu quả, khai thác tốt các nguồn thu, đôn đốc thu hồi nợ đọng và chống thất thu Ngân sách đã góp phần quyết định vào việc hoàn thành vượt mức nhiệm vụ thu Ngân sách năm 2009 (Số thu do Quận thực hiện 640 tỷ 132 triệu đồng đạt 122% dự toán pháp lệnh; 116,2 % chỉ tiêu phấn đấu).
Chi cục tiếp tục duy trì hoạt động của đội Tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế (TT- HT NNT) thường xuyên phối hợp với các phòng, ngành, chính quyền các phường, chợ trong quận đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hỗ trợ, tư vấn và giải đáp vướng mắc về pháp luật thuế cho các hộ kinh doanh trên địa bàn, theo dõi và nắm chắc tình hình biến động về giá cả, tình hình quản lý và sử dụng hoá đơn bán hàng….Đội TT- HT NNT theo dõi tình hình triển khai các luật thuế, tăng cường đối thoại với các đối tượng nộp thuế để phát hiện những khó khăn, vướng mắc, kịp thời có biện pháp xử lý.
Bên cạnh đó, chi cục cũng phát huy mạnh mẽ vai trò của Ban chỉ đạo chống tham nhũng và Ban chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ trong cơ quan. Ban chỉ đạo đã kiểm tra đôn đốc các tổ, đội trong chi cục phải thực hiện nghiêm túc 2 pháp lệnh: Pháp lệnh tiết kiệm chống lãng phí, Pháp lệnh chống tham nhũng và thực hiện kế hoạch số 38 của UBND Thành phố Hải Dương về triển khai thực hiện quy chế dân chủ. Cụ thể: Chấn chỉnh việc tiếp dân, xử lý dứt điểm các vụ vi phạm xảy ra qua kết luận thanh tra chi cục hoặc xử lý dứt điểm các đơn tố cáo nội bộ; xem xét giải quyết kịp thời các vụ khiếu nại thuộc thẩm quyền của pháp luật quy định; đôn đốc các bộ phận hành thu thực hiện đúng quy trình quản lý thu thuế của ngành.
Công tác kiểm tra hộ nghỉ, phối hợp kiểm tra hộ mới ra kinh doanh được tiến hành thường xuyên liên tục nhằm tránh sót hộ, nhất là vào dịp Tết nguyên đán, kiên quyết xử lý truy thu và phạt đối với những hộ lợi dụng xin nghỉ để kinh doanh trốn lậu thuế.
Hàng tháng chi cục thường xuyên rà soát, kiểm tra tất cả các hộ có sản xuất kinh doanh trên địa bàn, đặc biệt là các khu nhà tập thể, chợ tạm, ngõ xóm…đối chiếu các hộ đang có mã số thuế (MST), khắc phục tình trạng chênh lệch về số hộ thu môn bài và số hộ cấp MST.
Thực hiện thông tư 42 về việc ổn định mức thuế đối với hộ thu khoán, Chi cục phối hợp với Hội đồng tư vấn thuế các phường tiến hành rà soát doanh thu, chống thất thu về doanh số (chú trọng với những hộ thực hiện chế độ kế toán) để tiến hành ổn định thuế 6 tháng – 1 năm cho các hộ kinh doanh.
Công tác UNT cũng được chi cục tiếp tục triển khai trên địa bàn cho 18 phường và 3 chợ. Đến nay công tác UNT đã đi vào nề nếp, các cán bộ UNT đã quen với việc thanh toán qua biên lai và nộp thuế qua kho bạc đúng hạn.
Công tác khai thác nguồn thu trên địa bàn, Chi cục đã phối hợp với Kho bạc Nhà nước quận và Ngân hàng đầu tư và phát triển Hải Dương, triển khai thực hiện thành công công tác hiện đại hoá thu nộp ngân sách. Từ đó giám sát kịp thời các khoản thu, sắc thuế, phục vụ tốt công tác dự báo thu nộp để có biện pháp chỉ đạo kịp thời. Phối hợp với các phòng, ban, ngành, UBND các phường, ban quản lý các chợ trong việc triển khai các biện pháp thu thuế trên địa bàn, xác định địa bàn kinh doanh và tình trạng hoạt động của các doanh nghiệp và hộ kinh doanh để có biện pháp quản lý phù hợp đồng thời tuyên truyền các hộ kinh doanh thực hiên tốt luật quản lý thuế.
Về công tác kế toán hộ kinh doanh, hàng tháng Chi cục đều tiến hành kiểm tra sổ sách kế toán và việc sử dụng hoá đơn; vận đơn, khuyến khích các hộ kinh doanh thực hiện chế độ sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ, nộp thuế theo kê khai.
Hàng tháng, Chi cục đều chú trọng công tác thu hồi nợ đọng, xử lý kiên quyết những trường hợp dây dưa chây ỳ tiền thuế, tham mưu và tập trung lực lượng giúp cho ban chỉ đạo thu hồi nợ đọng thuế của Quận. Tập trung đôn đốc các đối tượng kinh doanh nộp đúng, nộp đủ, nộp kịp thời số thuế đã phát hành thông báo vào kho bạc, không để nợ thuế.
Thực hiện chỉ thị về công tác chống thất thu thuế của Bộ Tài chính, Chi cục đã thành lập các tổ công tác chống thất thu. Căn cứ vào đặc thù của từng địa bàn, các tổ công tác đã có biện pháp trọng tâm thiết thực: kiểm tra việc chấp hành chế độ sổ sách kế toán, kiểm tra chống sót hộ, rà soát doanh thu, đôn đốc thu nợ….
Nhìn chung, công tác quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh cá thể ở chi cục thuế Huyện Tứ Kỳ đã có nhiều chuyển biến trong thời gian qua. Góp phần tích cực vào việc nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật thuế của hộ kinh doanh, hạn chế thất thu, tăng thu cho Ngân Sách Nhà Nước.
1.4.2 : Những hạn chế cần khắc phục:
Năm 2009 công tác quản lý thu thuế đạt được nhiều kết quả. Việc triển khai đồng bộ và có hiệu quả các biện pháp quản lý thu thuế (nhất là những tháng cuối năm) đã góp phần vào việc khai thác các nguồn thu bù đắp cho nguồn thu giảm, đảm bảo cho việc thực hiện nhiệm vụ thu Ngân sách được giao, tuy nhiên công tác thuế vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần khắc phục như sau:
Thất thu từ đối tượng nộp thuế:
Thất thu về hộ kinh doanh xuất phát từ việc không thực hiện chế độ đăng ký MST nhất là ở lĩnh vực vận tải tư nhân, hộ cho thuế nhà, xây dựng tư nhân, hộ kinh doanh sáng tối, hộ kinh doanh thời vụ, vãng lai… Có những hộ kinh doanh hàng tháng không nộp tờ kê khai thuế.
Đối tượng nộp thuế kê khai không trung thực, hiện tượng phổ biến là: kê khai không đúng doanh thu thực tế, khai thấp giá bán và số lượng hàng bán để ngoài sổ sách kế toán những khoản thu đáng kể phải đánh thuế, ghi sai thuế suất những mặt hàng, hoạt động phải chịu thuế suất cao khai sang loại chịu thuế suất thấp để được nộp thuế thấp hơn số thuế phải nộp theo đúng luật.
Chậm hoặc kéo dài thời gian nộp thuế theo thông báo của cơ quan thuế nhằm chiếm dụng tiền thuế vào hoạt động kinh doanh của đơn vị, tiền thuế không được tập trung đầy đủ, kịp thời vào ngân sách Nhà Nước.
Tóm lại thất thu thuế về đối tượng nộp thuế ở hộ kinh doanh cá thể chủ yếu là thất thu ở những hộ không đăng ký kinh doanh, những hộ này không thu được thuế. Hoạt động của những hộ này chủ yếu ở trong ngành thương nghiệp, buôn bán vỉa hè, buôn bán trao tay, người bán rong, người sửa chữa lặt vặt…và một phần là những hộ có quy mô kinh doanh lớn, những hộ kinh doanh chưa có đăng ký kinh doanh, những hộ xin nghỉ thôi không kinh doanh nữa nhưng vẫn nấn ná hoạt động thêm hoặc những hộ xin nghỉ kinh doanh một thời gian sau đó mới ra kinh doanh không thông báo với cơ quan thuế.
Thất thu từ cán bộ thuế và cơ quan thuế:
Chưa đưa hết các hộ có thực tế kinh doanh vào diện quản lý thu thuế, chưa thu thuế đầy đủ về số lượng cũng như giá cả hàng hoá tiêu thụ, áp dụng sai thuế suất quy định cho từng ngành nghề mặt hàng và thường là áp dụng với thuế suất thấp hơn.
Cán bộ thuế thoả hiệp với đối tượng nộp thuế để giảm bớt số thuế phải nộp nhất là trong trường hợp xác định doanh thu, mức thuế khoán xem xét miễn giảm thuế.
Chưa kiểm tra, thanh tra phát hiện sai sót trong kê khai nộp thuế và ghi chép sổ sách kế toán.
Cán bộ thuế chưa đi sâu sát nắm vững tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ cá thể trên địa bàn, diễn biến của các hộ, công tác kiểm tra còn lỏng lẻo chưa có sự phân nhiệm, quy trách nhiệm cho từng người. Công tác phối hợp với các cơ quan ban ngành còn mang tính chất định kỳ chưa thường xuyên.
Công tác UNT tuy đã đạt kết quả tốt, tuy nhiên ở một số phường, hội đồng tư vấn thuế chưa thực sự quan tâm đến công tác quản lý thuế vì vậy việc thực hiện đôn đốc thu nộp, báo cáo thuế của UNT chưa đầy đủ kịp thời.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong chi cục còn gặp nhiều khó khăn, mới chỉ tập trung ở một số bộ phận, một vài bộ phận cán bộ chưa khai thác được thông tin phục vụ công tác quản lý thuế, trình độ cán bộ về tin học còn yếu và khả năng đáp ứng khai thác tin học trong quản lý chưa được nâng cao.
Về phía chính sách thuế còn mang tính áp đặt, mang tính chủ quan, thiếu tính đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu, không cụ thể và sâu sát, thay đổi thưởng xuyên khiến cho cán bộ thuế và NNT nắm bắt khó khăn. Việc áp dụng tỷ lệ GTGT trên doanh thu còn chưa sát với thực tế khiến cho số thuế tiềm năng thất thu nhiều. Cụ thể: quy định bán buôn bán lẻ các mặt hàng của các hộ khoán đều chịu ấn định tỷ lệ GTGT là 9%, mà hộ bán buôn khác với hộ bán lẻ, bán điện tử khác với bán tạp hoá. GTGT ở mỗi ngành nghề khác nhau, ví dụ quán ăn cao cấp, đặc sản GTGT khác với quán ăn bình dân nhưng tất cả đưa vào diện chịu ấn định tỷ lệ là 35% trên doanh thu. Vì vậy nên có sự quy định rõ ràng hơn để đảm bảo công bằng và nguy cơ thất thu thuế ít xảy ra.
Quy định về các biện pháp xử lý vi phạm, cưỡng chế thuế trong luật quản lý thuế chưa thực sự mang lại hiệu quả cao.
Tình trạng thất thu thuế đã làm giảm số thu vào Ngân sách Nhà nước, không thực hiện được yêu cầu công bằng bình đẳng giữa các hộ kinh doanh trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế hơn nữa sẽ làm giảm kỷ cương phép nước.
1.4.3 : Nguyên nhân
Từ đối tượng nộp thuế:
Bản chất của các hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường là tư lợi. các hộ kinh doanh nói riêng và các tầng lớp nhân dân nói chung thường đòi hỏi được hưởng nhiều quyền lợi nhưng lại không muốn thực hiện đầy đủ các chính sách động viên của Nhà Nước, trong đó có thuế. Với trình độ dân trí có hạn, họ chưa hiểu được những lợi ích mà họ được hưởng về an ninh quốc phòng, kinh tế- xã hội, về phúc lợi công cộng, chủ yếu được đáp ứng từ nguồn thu về thuế. Đây là chủ thể trực tiếp thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, nếu không tự giác thì họ sẽ tìm đủ mọi cách để trốn lậu thuế, chính vì vậy, việc nộp thuế được quy định thành nghĩa vụ công dân trong Hiến pháp, là những nguyên tắc, chế độ trong luật thuế.
Từ cán bộ và cơ quan thuế:
Trình độ chuyên môn của cán bộ trực tiếp quản lý thu thuế nói chung còn chưa cao, chưa đáp được yêu cầu nhiệm vụ được giao. Có cán bộ chưa đề cao tinh thần trách nhiệm, chưa chịu khó tìm hiểu học hỏi nên khả năng công tác chưa tiến kịp với sự thay đổi và phát triển của nền kinh tế. Một số cán bộ chưa sâu sát cơ sở, chỉ làm việc theo kiểu bàn giấy nên không kịp thời kiểm tra, thanh tra phát hiện và xử lý trốn lậu thuế. Một số cán bộ cố tình vi phạm pháp luật, chưa tự giác thực hiện nghiêm chỉnh các quy trình, biện pháp về quản lý thu thuế.
Tuy công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật đã được quan tâm hơn trước nhưng còn nặng về hình thức, chưa thường xuyên và đi sâu để giải đáp cụ thể vương mắc để chính sách, chế độ thuế được thông suốt trong các tầng lớp dân cư.
PHẦN 2 GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ THU THUẾ GTGT ĐỐI VỚI HỘ KINH DOANH CÁ THỂ TẠI CHI CỤC THUẾ HOÀN KIẾM
2.1. PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ CỦA QUẢN LÝ THU THUẾ HỘ CÁ THỂ THỜI GIAN TỚI
Năm 2010 dự toán thu ngân sách giao cho Huyện Tứ Kỳ: 2.080 tỷ 960 triệu đồng, trong đó dự toán giao cho chi cục thuế Hoàn Kiếm đảm nhận là: 719 tỷ 930 triệu đồng. Riêng chỉ tiêu thu thuế công thương nghiệp- dịch vụ ngoài quốc doanh (CTN- DV NQD) chi cục được giao: 460 tỷ tăng 40% so thực hiện năm 2009. Để thực hiện được nhiệm vụ nặng nề được giao, đưa công tác quản lý thu thuế hộ kinh doanh cá thể đi vào nề nếp và có chất lượng trong thời gian tới cần tập trung thực hiện các nội dung sau:
Đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền giáo dục, phổ biến pháp luật thuế, đa dạng hoá công tác tuyên truyền, chú trọng đến giáo dục nghĩa vụ của công dân trong việc nộp thuế. Tranh thủ phối hợp với các cơ quan thông tin tuyên truyền đại chúng để định hướng dư luận một cách kịp thời, triệt để. Phấn đấu mỗi cán bộ thuế đều là người tuyên truyền, giáo dục tích cực nhất đối với đối tượng nộp thuế và mọi người dân.
Phối hợp chặt chẽ với UBND phường, Hội đồng tư vấn thuế các phường, các ban ngành có liên quan trong việc quản lý thu thuế. Tiếp tục thực hiện kiểm tra rà soát trên địa bàn phường, quận; quản lý chặt chẽ các đối tượng sản xuất kinh doanh chống sót hộ.
Tăng cường hơn nữa việc kiểm tra rà soát lại các ngành hàng, các hộ lớn để đảm bảo thu sát thực tế về doanh thu, để qua đó chuẩn bị cho công tác ổn định thuế 6 tháng- 1năm cho các hộ kinh doanh.
Tăng cường kiểm tra việc thực hiện chế độ kế toán thống kê và sử dụng hoá đơn tài chính để hạn chế việc trốn lậu thuế.
Tiếp tục đẩy mạnh khai thác các nguồn thu mà các hộ cá thể chưa kê khai nộp thuế như thuê nhà làm văn phòng, trụ sở giao dịch, cửa hàng, thu xây dựng, các điểm trông giữ xe…
Tiếp tục đẩy mạnh các biện pháp thu nợ, rà soát lại các hộ trong địa bàn quản lý.
Rà soát xong toàn bộ danh sách nợ đọng, triển khai tốt công việc đôn đốc thu nợ đọng của các hộ đang kinh doanh, phối hợp với các lực lượng để đòi nợ dây dưa của các hộ sản xuất kinh doanh.
Đẩy mạnh tiến trình cải cách thủ tục hành chính thuế, đảm bảo việc giải quyết các thủ tục hành chính thuế nhanh gọn, đơn giản, không gây phiền hà cho người nộp thuế.
Tăng cường kỷ cương, kỷ luật, đổi mới phương pháp làm việc, cải cách nâng cao chất lượng cán bộ và năng lực lãnh đạo, chỉ đạo điều hành. Tăng cường tính minh bạch, trách nhiệm trong việc thực thi công vụ, tạo sự chuyển biến thực sự về kỷ luật, kỷ cương trong toàn đơn vị.
Củng cố tổ chức kiện toàn bộ máy cán bộ, sắp xếp lực lượng cho phù hợp với năng lực công tác, phát động phong trào thi đua đoàn kết, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ thu của cấp trên giao.
2.2. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG
2.2.1 : Tập trung rà soát đối tượng kinh doanh đưa tất cả đối tượng có thực tế kinh doanh, số đã được cấp MST vào diện quản lý thu thuế GTGT.
Những công việc cần làm :
Tổ chức kiểm tra điển hình quản lý hộ kinh doanh trên một số địa bàn, qua đó đánh giá mức độ thất thu về hộ kinh doanh, rút kinh nghiệm và giao chỉ tiêu cụ thể cho từng đội thuế số hộ đưa thêm vào quản lý. Căn cứ chỉ tiêu đã giao hàng tháng có kiểm điểm, đánh giá phân tích những tồn tại, tìm biện pháp khắc phục ngay trong tháng sau. Kiên quyết chống thất thu triệt để về đối tượng kinh doanh.
Tổ chức đối chiếu giữa số lượng đối tượng đã được cấp MST với số lượng đối tượng được phản ánh trên sổ bộ thuế GTGT, bổ sung ngay những đối tượng đã được cấp MST nhưng chưa được phản ánh trên sổ bộ, chấm dứt tình trạng hộ quản lý trên bộ thuế thấp hơn số hộ đã được cấp mã số.
Từng đội thuế phải tự phối hợp với các ngành cấp đăng ký kinh doanh, quản lý thị trường, thống kê, hội đồng tư vấn thuế để điều tra, nắm lại số đối tượng thực tế kinh doanh trên địa bàn do mình quản lý, đối chiếu với số đối tượng chưa có MST, chưa quản lý thuế hướng dẫn họ lập tờ khai xin cấp MST và đưa ngay vào sổ bộ để quản lý. Căn cứ vào kết quả tự điều tra, từng đội thuế phải lên sơ đồ các cơ sở kinh doanh theo đường phố, số nhà, số quầy hàng (ở các chợ), xác định chính xác hộ kinh doanh do đội quản lý, chú ý địa bàn giáp ranh giữa các phường và các quận khác. Thông báo cho chi cục thuế những cơ sở kinh doanh trên địa bàn ngoài phạm vi phân công quản lý của đội thuế. Tăng cường các biện pháp quản lý thu, quản lý chặt chẽ và khai thác mọi nguồn thu, đảm bảo 100 % hộ kinh doanh có địa điểm kinh doanh cố định, được quản lý thuế, được cấp MST. Với hộ kinh doanh lưu động, kinh doanh tranh thủ sáng tối, kinh doanh vãng lai, kinh doanh vận tải, xây dựng tư nhân…phải quản lý được từ 95%. Nếu không đạt được yêu cầu trên thì cán bộ quản lý, đội trưởng đội thuế và lãnh đạo chi cục thuế phụ trách địa bàn phải chịu trách nhiệm.
Riêng đối với hộ kinh doanh vận tải, đội thuế phải phối hợp với Hội đồng tư vấn thuế nắm lại số hộ có phương tiện vận tải, phân loại hộ đang kinh doanh nhưng không nộp thuế. Với những hộ cho thuê nhà, cho thuê cửa hàng, cửa hiệu phối hợp với Hội đồng tư vấn thuế và tổ trưởng dân phố để xác định trường hợp nào thực chất là cho thuê nhưng núp dưới danh nghĩa cho người nhà ở nhờ, lợi dụng trốn thuế.
Đẩy mạnh việc kiểm tra hộ xin nghỉ kinh doanh đã miễn giảm thuế theo quy định. Các cán bộ quản lý thu thuế trên địa bàn phải có trách nhiệm phối hợp với các ngành như công an, phòng tài chính, phòng kế hoạch…cùng với hội đồng tư vấn thuế phường kiểm tra thực tế xác định những hộ kinh doanh nhưng không đăng ký kinh doanh, có kinh doanh nhưng không đăng ký thuế, thay đổi địa chỉ, thay đổi tên, các trường hợp báo ngừng nghỉ nhưng thực tế vẫn hoạt động kinh doanh mà không kê khai nộp thuế, các trường hợp kê khai sai để được miến thuế. Cán bộ thuế phải tích cực phối hợp chặt chẽ với các cơ quan cấp giấy phép đăng ký kinh doanh, cùng với công an xuống tận địa bàn kinh doanh của từng hộ để kiểm tra xác minh. Những hộ nào xin nghỉ kinh doanh phải trình bày lý do, cán bộ thuế kiểm tra đúng thực mới được xét miễn giảm thuế.
Các đội thuế phường lập hồ sơ quản lý thuế theo từng số nhà, đường phố, ngành nghề kinh doanh đảm bảo ghi đầy đủ các chỉ tiêu, các cửa hàng, cửa hiệu. Nếu trực thuộc doanh nghiệp phải xác định rõ và ghi rõ tên doanh nghiệp, tên cơ quan quản lý, để kết hợp với cơ quan quản lý xác định rõ ràng hơn tình hình thực tế của các hộ này, tránh tình trạng giả mạo là chi nhánh của một số doanh nghiệp không thực hiện kê khai thuế.
Để quản lý chặt chẽ đối tượng nộp thuế, chống thất thu về hộ. Chi cục cần chỉ đạo tổ kiểm tra tập trung kiểm tra đối tượng kinh doanh trên từng địa bàn phát hiện hộ mới ra kinh doanh chưa kê khai nộp thuế, các hộ kinh doanh sáng tối, kinh doanh không có cửa hàng …kết quả kiểm tra phải được thông báo cho lãnh đạo chi cục để đưa ngay vào diện quản lý thu thuế và có chỉ đạo xử lý kịp thời.
Đối với hộ sản xuất kinh doanh đang được theo dõi trên sổ bộ phải được sắp xếp lại mã số thuế theo từng khu vực, theo ngành nghề, theo vị trí và khu vực. Thực hiện rà soát và đối chiếu, cấp MST đối với các hộ chưa được cấp mã, đồng thời đóng MST đối với những hộ kinh doanh ngừng hoạt động. Xác định cụ thể bao nhiêu hộ kê khai được cấp MST, bao nhiêu hộ khoán, hộ ổn định có MST để theo dõi theo từng tháng.
Thường xuyên phát động phong trào thi đua giữa các đội. Thực hiện phân công, phân nhiệm giữa các cán bộ thuế. Mỗi cán bộ thuế chịu trách nhiệm quản lý một khu vực của một địa bàn để tìm hiểu nắm rõ tình hình của từng hộ cá thể. Tránh tình trạng cán bộ quản lý nhiều năm trên một địa bàn, cần linh hoạt luân phiên thay đổi giữa các cán bộ.
2.2.2 : Tập trung xác định lại doanh thu kinh doanh của các hộ kinh doanh cá thể :
Căn cứ vào tình hình tăng trưởng kinh tế trên địa bàn, chi cục tiến hành xem xét lại doanh thu kinh doanh cho phù hợp, đòi hỏi doanh thu kinh doanh phải là doanh thu thực tế. Nếu phát hiện doanh thu, mức thuế quản lý mới chỉ bằng hoặc dưới 70% doanh thu thực tế thì cán bộ quản lý, đội trưởng đội thuế và lãnh đạo chi cục Thuế phụ trách địa bàn phải chịu trách nhiệm.
Hộ kinh doanh nộp thuế khoán ổn định:
Chi cục thuế chỉ đạo đội thuế phối hợp với hội đồng tư vấn thuế điều tra doanh thu thực tế kinh doanh, đặc biệt là ở các ngành hàng tăng giá ở mức độ cao để xác định doanh thu ấn định cho phù hợp. Thông qua ý kiến thăm dò của ban cộng tác viên, trực tiếp quan sát số lượt khách hàng ra vào. Đặc biệt là những hộ kinh doanh các mặt hàng bán chạy theo mùa như bia, nước giải khát thường doanh thu sẽ lớn hơn vào mùa hè sẽ ấn định doanh thu lớn hơn.
Điều chỉnh thuế kịp thời: cán bộ thuế phân tích tình hình thị trường giá cả của từng mặt hàng và mức độ tiêu thụ của từng khu vực để điều chỉnh thuế cho kịp thời. Khi điều chỉnh phải thông báo kịp thời cho bộ phận ra thông báo thuế, đồng thời phải giải thích cụ thể về lý do điều chỉnh. Với những hộ kinh doanh có quy mô như nhau, ngành hàng như nhau, ở cùng một khu vực nên thực hiện điều chỉnh đồng loạt, tránh sự thắc mắc, kêu ca, phàn nàn của các hộ.
Danh sách các hộ ấn định và số thuế ấn định được niêm yết tại trụ sở UBND phường, tại trụ sở của chi cục thuế, để tăng cường sự công khai minh bạch và sự tự kiểm tra lẫn nhau giữa các hộ kinh doanh, hàng ngày lấy ý kiến của người dân sẽ đảm bảo việc ấn định thuế có hiệu quả hơn. Cần tăng cường phối hợp giữa cán bộ thuế với chính quyền phường, ban quản lý chợ để tổ chức quản lý thu thuế 100% số hộ có thực tế hoạt động kinh doanh trong diện phải nộp thuế.
Hộ kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khoán ổn định là những hộ kinh doanh nhỏ chủ yếu bán lẻ lặt vặt, giá trị thấp nên người mua không đòi hỏi về hoá đơn cho những đối tượng này. Trường hợp hộ kinh doanh có yêu cầu mua hoá đơn nên giải thích để họ chuyển sang thực hiện số sách kế toán và nộp thuế theo kê khai hoặc khi cần đến cơ quan thuế để được cấp hoá đơn bán lẻ theo quy định. Số thuế nộp theo hoá đơn lẻ không được trừ vào số thuế đã ổn định.
Ngoài ra chi cục thuế nên phối hợp chặt chẽ với kho bạc, tổ chức thu thuế qua kho bạc, vận động đối tượng nộp thuế thực hiện nộp thuế kịp thời vào kho bạc Nhà nước, hạn chế đến mức thấp nhất việc cán bộ thuế trực tiếp thu. Có như vậy mới đảm bảo tính khách quan, trung thực hơn.
Hộ kinh doanh nộp thuế theo kê khai:
Cần tiếp tục củng cố, duy trì và nâng cao chất lượng lập và ghi chép sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ của hộ kinh doanh. Mở sổ theo dõi hoá đơn ở khu vực mình phụ trách, cán bộ thuế phải thường xuyên kiểm tra sổ theo dõi hoá đơn, cách ghi chép sử dụng các chứng từ hoá đơn ở các hộ. Trước khi bán hoá đơn cho lần tiếp theo phải kiểm tra cuống hoá đơn xem đã sử dụng hết chưa rồi mới bán, kiểm tra đối chiếu với các đơn vị khác để khắc phục tình trạng sử dụng hoá đơn khống, hoá đơn khai man hàng lậu. Mục tiêu của việc triển khai chế độ kế toán là nhằm kiểm soát tốt hơn doanh thu kinh doanh. Đối với những hộ kinh doanh thường xuyên kê khai doanh thu thấp hơn hoặc bằng doanh thu khoán trước đây, phải kiểm tra để tìm rõ nguyên nhân, nếu điều kiện kinh doanh bình thường thì phải cộng thêm doanh thu bán lẻ (doanh thu không viết hoá đơn) đảm bảo doanh thu tính thuế phải sát thực tế, đồng thời phải cao hơn doanh thu trước đây.
Thực hiện phân loại các hộ sản xuất kinh doanh cá thể theo từng ngành nghề, từng mặt hàng, từng khu vực, để tiện theo dõi doanh thu tính thuế của từng mặt hàng, tránh tình trạng nhiều hộ khai không đúng doanh thu thực tế, gây thất thu thuế cho ngân sách. Mỗi khi hộ kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ phát sinh số thuế GTGT âm, hay kê khai doanh thu giảm nhiều so với tháng trước hoặc so với các hộ kinh doanh cùng ngành nghề, cùng quy mô kinh doanh cũng phải kiểm tra ngay để xác định nguyên nhân, nếu khai không đúng phải xử phạt vi phạm hành chính và ấn định ngay số thuế phải nộp.
Tăng cường kiểm tra nhằm phát hiện và xử lý nghiêm khắc đối với những hộ kinh doanh không chấp hành hạch toán kế toán, lập hoá đơn chứng từ không trung thực với thực tế phát sinh nhằm mục đích trốn lậu thuế. Ngoài việc kết hợp vừa kiểm tra hoá đơn với bảng kê hàng hoá mua vào bán ra, số lượng hàng hoá nhập vào xuất đi, để tránh tình trạng các đối tượng nộp thuế tuy đã kê khai đủ doanh số nhưng kê khai doanh thu lẫn lộn giữa các mặt hàng. Mặt hàng có thuế suất thấp với các mặt hàng có thuế suất cao để được tính và nộp thuế với mức thuế suất thấp. Cán bộ thuế cần xuống tận địa bàn kiểm tra việc kê khai doanh thu của từng hộ nắm rõ tình hình phát triển của từng ngành hàng, sự biến động về giá cả và thông qua cộng tác viên ở các phường để phân loại được mức độ rủi ro, sát sao hơn với những hộ có rủi ro lớn. Với những hộ qua kiểm tra phát hiện vi phạm, ngoài việc xử lý vi phạm hành chính còn phải xử phạt theo lần số thuế lậu, đồng thời phải ấn định thuế theo kết quả kiểm tra đó. Mức thuế ấn định phải cao hơn mức thuế của những hộ kinh doanh cùng ngành nghề, cùng quy mô thực hiện tốt chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ để động viên những hộ kinh doanh thực hiện tốt và hộ kinh doanh thấy được lợi ích thực tế, không tái phạm.
Nhìn chung để quản lý một cách tốt nhất doanh thu kinh doanh chống thất thu về doanh thu, cần nâng cao chất lượng quản lý với từng loại hộ kinh doanh theo hướng tăng dần tỷ trọng hộ kinh doanh thực hiện sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ, nộp thuế theo kê khai, giảm dần số hộ nộp thuế khoán. Tăng cường giải thích hướng dẫn kỹ lưỡng chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ, lợi ích, trách nhiệm của hộ kinh doanh, của khách hàng, của cơ quan thuế để từng bước đưa các hộ kinh doanh lớn và vừa vào thực hiện nghiêm chỉnh chế độ kế toán thích hợp với từng ngành nghề, quy mô kinh doanh. Từ đó có căn cứ thu thuế sát đúng với thực tế hoạt động của từng hộ kinh doanh.
Những ngành nghề còn thất thu:
+ Hoạt động kinh doanh ăn uống: Doanh thu quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh ăn uống hiện nay chỉ đạt khoảng 30% doanh thu thực tế. Do đó, Chi cục cần phải xác định lại doanh thu kinh doanh của các hộ này để thu thuế theo doanh thu mới xác định lại. Việc xác định lại doanh thu kinh doanh phải dựa trên: địa bàn kinh doanh, diện tích kinh doanh, số lượng phòng ăn, bàn ăn, số lượng nhân viên phục vụ, số lượng khách hàng thường đến ăn uống tập trung vào thời gian nào, tính được bình quân một khách vào ăn uống là bao nhiêu… Có thể điểu tra xây dựng định mức doanh thu tối thiểu cho mỗi loại nhà hàng, cửa hàng làm tham khảo. Đối với hộ thực hiện sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ nếu kiểm tra thấy doanh thu kê khai không đảm bảo doanh thu tối thiểu và thấp hơn doanh thu khoán của hộ kinh doanh cùng quy mô thì phải cộng thêm doanh thu bán hàng không xuất hoá đơn (vì đại bộ phận kinh doanh ăn uống không xuất hoá đơn).
+ Hoạt động xây dựng cơ bản tư nhân: Chi cục cần chỉ đạo các đội thuế, cán bộ thuế phường phối hợp với hội đồng tư vấn, thanh tra xây dựng để nắm rõ từng công trình xây dựng trên địa bàn phụ trách. Đảm bảo nắm rõ tên người nhận thi công, địa chỉ, công trình thi công có thầu cả nguyên vật liệu hay chỉ làm công để có căn cứ tính thuế đúng chính sách. Trường hợp xây nhà ở của tư nhân mà chủ nhà thông đồng với người thi công thì phối hợp với hội đồng tư vấn thuế phường để xác định người thi công là người nhận thầu hay là họ hàng đến làm hộ. Nếu không phải là người làm hộ thì phải thu thuế ngay khi công trình còn đang xây dựng. Nắm chắc định mức giá thành xây dựng từng loại nhà do Bộ, sở xây dựng quy định để đấu tranh, tính thuế với các trường hợp hợp đồng xây dựng cố tình ghi thấp hơn thực tế hoặc chủ thầu không khai báo đúng giá nhận thầu.
+ Hoạt động kinh doanh vãng lai: nên có biện pháp quản lý như hình thức buôn chuyến sẽ ấn định thuế theo từng lần phát sinh và ở từng khu vực vị trí. Muốn làm được điều này cần phải phối hợp với ban quản lý chợ, ban quản lý thị trường, hàng ngày rà soát kiểm tra ấn định luôn trong ngày.
+ Hoạt động kinh doanh cho thuê nhà, cửa hàng: cần tập trung vào các đối tượng có giá cho thuê bất hợp lý, có hoạt động cho thuê cả thiết bị, cải tạo sửa chữa. Nếu có hoạt động cho thuê thiết bị, sửa chữa yêu cầu phải xuất hoá đơn, bảng quyết toán công trình sửa chữa. Tổ chức phân loại các hợp đồng cho thuê để có biện pháp quản lý thích hợp như: hợp đồng giữa tổ chức và cá nhân cho thuê, hợp đồng giữa cá nhân với cá nhân, hợp đồng có giá cho thuê bất hợp lý, có dấu hiệu vi phạm…Từ đó chỉ đạo các tổ thanh tra, kiểm tra của chi cục phối hợp với các ngành, phường để phát hiện vi phạm và đấu tranh, xử lý.
+ Hoạt động vận tải tư nhân: Tiếp tục phối hợp với công an, giao thông công chính, cơ quan đăng kiểm để rà soát, nắm số lượng đối tượng đăng ký sử dụng phương tiện vận tải, phân loại đối tượng có phương tiện vận tải là xe chở hàng, xe chở khách. Trên cơ sở đó so sánh giữa số phương tiện đăng kiểm, số phương tiện đăng ký sử dụng tại cơ quan công an với số phương tiện do chi cục đã quản lý thu thuế để xác định số chênh lệch phát sinh chưa quản lý.
2.2.3 : Chấn chỉnh lại công tác quản lý hoá đơn chứng từ
Để chấn chỉnh việc quản lý sử dụng hoá đơn đi vào nề nếp khắc phục những tồn tại trong thời gian qua cần thực hiện những biện pháp sau:
Cần có quy định tất cả các hộ sản xuất kinh doanh phải có bản cam kết viết hoá đơn đầy đủ cho khách hàng. Bản cam kết phải được treo chỗ thuận tiện dễ thấy tại điểm bán hàng. Nếu hộ kinh doanh không thực hiện đúng cam kết sẽ bị xử phạt theo luật định.
Có chính sách khuyến khích người mua hàng lấy hoá đơn (có thể tăng số liên hoá đơn để người mua có một liên giao cho cơ quan thuế- để thực hiện đề án xổ số hoá đơn có thưởng). Đồng thời có quy đinh: Nếu người mua có đủ số liệu chứng minh người bán không xuất hoá đơn thì được thưởng ít nhất bằng số trốn thuế. Thủ tục nhận thưởng phải quy định đơn giản và thuận tiện cho người nhận thưởng.
Cơ quan thuế thực hiện nghiêm túc các quy định về bán hoá đơn, quản lý hoá đơn, phối hợp chặt chẽ giữa bộ phận bán hoá đơn và bộ phận quản lý đối tượng sử dụng hoá đơn nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm. Bên cạnh đó, cơ quan thuế tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra coi đây là nhiệm vụ thưởng xuyên liên tục, trong đó việc kiểm tra đối chiếu hoá đơn là trọng tâm. Đặc biệt đối với các hộ kế toán sử dụng hoá đơn phải được lập phiếu xác minh 100% số hoá đơn đối tượng sử dụng hàng tháng, tất cả những hoá đơn bán hàng bên bán và bên mua đều ở một địa phương phải xác minh đối chiếu ngay trong tháng, với những hoá đơn liên quan đến địa phương khác thì lập phiếu gửi đi xác minh. Nếu xác minh có vi phạm phải kết hợp xác định rõ đối tượng vi phạm để xử lý đúng người, đúng hành vi…
Mọi trường hợp vi phạm về khai báo sử dụng hoá đơn, quản lý, sử dụng hoá đơn cơ quan thuế phải xử lý hành vi vi phạm và tạm đình chỉ việc sử dụng hoá đơn của hộ kinh doanh. Sau khi hộ kinh doanh đã thực hiện quyết định xử lý và có các biện pháp chấn chỉnh mới tiếp tục bán hoá đơn cho hộ kinh doanh.
Phối hợp với cơ quan thông tin tuyên truyền đưa tin về những vụ vi phạm điển hình nhằm phát huy tác dụng giáo dục cho hộ có hành vi vi phạm.
2.2.4 : Nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ quản lý thu thuế
Muốn làm tốt công tác quản lý thu thuế ngày càng tốt hơn, đặc biệt là quản lý, thu thuế đối với hộ sản xuất, kinh doanh cá thể cần có sự quan tâm của lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền địa phương, có sự phối hợp với cơ quan thuế và các phòng ngành chức năng.
Tuỳ theo đặc điểm địa bàn và quy mô của đối tượng kinh doanh, bố trí phân công lại cán bộ quản lý cho phù hợp với năng lực. Đội nào cần nhiều nhân lực nên bố trí số lượng cán bộ nhiều hơn, còn những đội nào mà công việc không đòi hỏi nhiều nhân lực thì có thể giảm bớt biên chế, phân công, phân nhiệm một cách hợp lý, khoa học, đúng người, đúng việc. Xây dựng tổ đội quản lý thuế giỏi, cán bộ thuế gương mẫu với ý thức trách nhiệm cao hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Tuyển chọn những người thực sự có năng lực, có phẩm chất đạo đức, trung thực ngay thẳng vào đội ngũ cán bộ thuế. Khen thưởng kịp thời những cán bộ thuế gương mẫu, thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Để tránh hiện tượng tha hoá biến chất của cán bộ thuế, thì cần đẩy mạnh công tác thanh tra nội bộ làm trong sạch đội ngũ cán bộ.
Mỗi cán bộ quản lý các hộ kinh doanh, theo sự phân công của cán bộ phụ trách phải khắc phục khó khăn hoàn thành nhiệm vụ, qua quá trình thực hiện nhiệm vụ. Nếu có khó khăn phải chủ động giải quyết, trường hợp đã cố gắng nhưng không giải quyết được phải báo cáo về, đề xuất các giải pháp với phụ trách cấp trên để hỗ trợ.
Hàng năm phải triển khai kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng chính sách chế độ, biện pháp, nghĩa vụ và chuyên môn cho cán bộ thuế:
+ Mở các buổi tập huấn nghiệp vụ thường xuyên khi chế độ, chính sách thay đổi. Nhằm giúp cán bộ thuế nắm bắt nhanh nhạy những kiến thức mới.
+ Trang bị cho người học có cách tư duy, cách xử lý tình huống khó khăn trong quá trình quản lý thuế xảy ra.
+ Mời các chuyên gia về thuế trên tổng cục có kiến thức sâu rộng và khả năng truyền đạt tốt về trao đổi kinh nghiệm, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ thuế.
+ Các kiến thức được trang bị phải làm sao cho người học hiểu được và vận dụng thành công vào công việc của họ sau khi học, thời gian học phải hợp lý, thuận lợi cho công tác của cán bộ thuế tại cơ quan, nên tổ chức các buổi học vào cuối tuần.
Phát động phong trào thi đua toàn ngành về phòng chống thất thu thuế, mở các hội thi đấu thể thao, thăm quan du lịch tạo không khí phấn khởi trong quá trình làm việc cho cán bộ thuế.
Việc chấn chỉnh công tác tổ chức cán bộ và nâng cao ý thức trách nhiệm của cán bộ quản lý thu thuế là những yếu tố mang tính chất quyết định cho sự thánh công của công tác quản lý thu thuế nói chung và thu thuế hộ cá thể nói riêng.
2.2.5 : Cần thiết phải phát triển dịch vụ tư vấn thuế
Các dịch vụ tư vấn ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế- xã hội. Dich vụ tư vấn thuế là dịch vụ cung cấp các thông tin, kiến thức, giải pháp về lĩnh vực thuế cho đối tượng nộp thuế có nhu cầu để họ thực hiện nghĩa vụ thuế phù hợp với các quy định của Nhà nước. Dịch vụ tư vấn thuế tồn tại dưới hai dạng chủ yếu:
Một là, tư vấn thuế là một dịch vụ công do cơ quan thuế cung cấp thông tin kịp thời, các văn bản pháp luật thuế cho các đối tượng nộp thuế.
Hai là, tư vấn thuế là một dịch vụ tư do các tổ chức, nhà tư vấn cung cấp cho khách hàng theo hợp đồng. Đây là một hoạt động dịch vụ có thu, một dạng kinh doanh chất xám mà các đối tượng nộp thuế có nhu cầu phải trả dịch vụ phí cho mỗi hoạt động tư vấn.
Tư vấn thuế có một vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các hộ cá thể và trong đời sống xã hội. Thông qua tư vấn thuế, hộ kinh doanh có được các thông tin cần thiết về đối tượng tính thuế, thuế suất, thời gian nộp thuế…đối với hoạt động kinh doanh cụ thể của mình, vì vậy với thời gian nghiên cứu để kê khai thuế họ dành để làm công việc chuyên môn. Đối với toàn xã hội, tư vấn thuế là kênh thông tin hai chiều giữa khu vực sản xuất kinh doanh với khu vực quản lý nhà nước. Làm dịch vụ tư vấn cho các hộ kinh doanh, tư vấn thuế nắm được những vướng mắc, những điểm bất hợp lý của chính sách thuế khi áp dụng trong thực tế, qua đó phản ánh những thắc mắc, những bất hợp lý về chính sách thuế để cơ quan thuế sửa đổi bổ sung cho phù hợp.
Hiện nay đối tượng nộp thuế tự kê khai, tự tính và nộp thuế theo thông báo của cơ quan thuế, song trong thực tiễn, các đối tượng nộp thuế không phải ai cũng có trình độ hiểu biết về pháp luật thuế, đặc biệt với đối tượng nộp thuế là các hộ kinh doanh. Do đó phát triển dịch vụ tư vấn thuế là một tất yếu khách quan.
Phát triển tư vấn thuế không chỉ là sự tất yếu khách quan xuất phát từ nhu cầu của các đối tượng nộp thuế mà còn là nhu cầu khách quan của chính cơ quan thuế. Nhiệm vụ của cơ quan thuế là thực hiện thu đúng, thu đủ, thu kịp thời tiền thuế. Sự tự nguyện, tự giác chấp hành các luật thuế của các đối tượng nộp thuế là điểm mấu chốt tạo điều kiện để cơ quan thuế hoàn thành nhiệm vụ. Vì vậy, cơ quan thuế phải làm tốt công tác tuyên truyền, giải thích các luật thuế, giải đáp kịp thời những vướng mắc của các đối tượng nộp thuế khi thực hiện luật thuế, tạo những điều kiện thuận lợi nhất cho các ĐTNT khi họ thực hiện nghĩa vụ thuế của mình. Điều đó chứng tỏ rằng tư vấn thuế là một công việc cần thiết khách quan, một công việc tiến hành thường xuyên, liên tục của cơ quan thuế.
Công tác tư vấn thuế ở Việt Nam mới phát triển ở dạng dịch vụ công. Cơ quan thuế đã phối hợp chặt chẽ với các phương tiện thông tin đại chúng để cung cấp các thông tin, kiến thức về lĩnh vực thuế cho các đối tượng nộp thuế. Các chuyên mục về thuế trên truyền hình, trên đài phát thanh, trên các báo trung ương và địa phương, các ấn phẩm, các loại tài liệu tuyên truyền dưới nhiều hình thức được phát hành. Đường dây nóng trả lời về thuế GTGT và TNDN, TNCN đã được thiết lập. Ngoài ra, các Cục thuế còn thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng về các luật thuế mới, về công tác sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ…cho các ĐTNT…Tất cả những điều đó đã đem lại cho ĐTNT những hiểu biết, nhận thức nhất định về pháp luật thuế và nghĩa vụ của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên công tác tư vấn thuế vẫn chưa được đặt đúng vị trí của nó trong hệ thống hành chính thuế và trong đời sống kinh tế xã hội. Trong hệ thống tổ chức bộ máy thuế, bộ phận làm công tác tư vấn thuế -dịch vụ công chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của các ĐTNT và của toàn xã hội. Tư vấn thuế với danh nghĩa là dịch vụ tư thì hầu như chưa được phát triển một cách có tổ chức.Vì vậy nhất thiết cần có những giải pháp thúc đẩy công tác tư vấn thuế phục vụ cho công tác thu nộp thuế tại Việt Nam hiện nay.
Để phát triển dịch vụ tư vấn thuế:
Thành lập một bộ phận chuyên trách làm công tác tư vấn thuế (dịch vụ công) nằm trong hệ thống tổ chức bộ máy ngành nghề thuế từ trung ương đến địa phương. Các bộ phận dịch vụ công này phải được gắn liền với các địa bàn sản xuất kinh doanh sao cho các đối tượng nộp thuế mất ít thời gian và công sức nhất khi có nhu cầu tìm hiểu, thắc mắc, giải đáp về chế độ, chính sách, pháp luật thuế.
Nhà nước cho phép thành lập dịch vụ tư vấn thuế dưới dạng dịch vụ tư. Các trung tâm tư vấn này hoạt động theo phương thức kinh doanh, tự hạch toán và tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước pháp luật Nhà nước. Các trung tâm này có thể do các luật sư, các nhà chuyên môn thành lập và tổ chức hoạt động.
Khuyến khích các cơ sở kinh tế sử dụng tư vấn thuế trong công tác chấp hành luật thuế.
Khuyến khích các tổ chức tư vấn Việt Nam thuê chuyên gia hoặc các tổ chức tư vấn nước ngoài vào làm việc. Tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tư vấn cử cán bộ đi thực tập, học tập ở nước ngoài
2.3. KIẾN NGHỊ ĐIỀU KIỆN THỰC THI GIẢI PHÁP.
Để việc quản lý thuế thành công đều cần phải có những điều kiện nhất định trong đó môi trường quản lý (bao gồm môi trường văn hoá và chính trị, môi trường kinh tế và môi trường pháp luật) là một điều kiện quyết định.
Môi trường văn hoá ở đây thể hiện thông qua cách nhìn nhận của người dân đối với những chính sách của Chính Phủ, thái độ tuân thủ trong việc thực hiện những quy định của luật thuế và thái độ của công chúng đối với những hành vi vi phạm pháp luật thuế. Trong một quốc gia nếu người dân nhận thức được một cách đầy đủ và có thái độ tích cực đối với hệ thống thuế, có thái độ phê phán với những người vi phạm pháp luật thì công tác quản lý thuế mới đạt được kết quả tốt đẹp. Bên cạnh đó môi trường chính trị cũng là một điều kiện quan trọng. Nếu việc quản lý thuế bị chi phối bởi ý muốn hay yêu cầu của một nhóm đối tượng nào đó thì những biện pháp quản lý sẽ bị sai lệch, không đạt được mục tiêu quản lý. Thêm nữa tệ nạn tham nhũng, cửa quyền trong những người thi hành pháp luật là một trong những nhân tố làm giảm sút lòng tin trong dân chúng và sự chấp nhận của dân chúng với Chính Phủ.
Sự phát triển của hệ thống tài chính đặc biệt là việc sử dụng phương thức thanh toán qua ngân hàng làm cho các giao dịch trở nên dễ kiểm soát hơn và việc quản lý thuế sẽ dễ dàng hơn rất nhiều. Bên cạnh đó hệ thống kế toán hiện đại cũng chính là tiền đề cần thiết để áp dụng những sắc thuế tiên tiến như thuế GTGT…
Việc theo đuổi nhiều mục tiêu khác nhau (cả về chính sách xã hội và mục tiêu kinh tế) trong mỗi luật thuế sẽ dẫn đến những rắc rối không cần thiết, gây ra những chi phí không đáng có cho người nộp thuế và quản lý thuế, làm giảm tính hiệu quả của công tác quản lý thuế. Vì vậy cần phải có môi trường luật pháp rõ ràng theo kịp những thay đổi của thời đại.
Tiếp tục hoàn thiện cơ cấu và nội dung chính sách, chế độ thuế:
Thuế GTGT: Mục tiêu cơ bản của thuế GTGT là thu ngân sách. Để đạt được mục tiêu này thuế GTGT phải được hoàn chỉnh theo hướng mở rộng diện thu, đơn giản hoá thuế suất, có thể thiết kế hai mức thuế suất là 0% áp dụng cho hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu và thuế suất 10% cho các loại hàng hoá dịch vụ khác. Những cơ sở kinh doanh có quy mô nhỏ và những hoạt động kinh doanh, dịch vụ khó thực hiện thu, quản lý bằng chính sách thuế GTGT thì được áp dụng thu thuế doanh thu hoặc thuế bán hàng, tính bằng tỷ lệ % trên tổng doanh thu.
Quản lý hộ cá thể nghỉ kinh doanh: Những hộ nộp thuế theo phương pháp khoán là đối tượng cần phải xem xét miễn giảm khi nghỉ kinh doanh. Ngoài ra chỉ nên miễn giảm thuế cho từng ngày nghỉ là hợp lý nhất vì theo quy định hiện nay khuyến khích người cần nghỉ 10 ngày cố nghỉ hoặc khai gian đến 15 ngày, những người cần nghỉ 20 ngày cố nghỉ hoặc khai gian đến cả tháng và tiêu cực bắt nguồn từ đó.
Chế độ kế toán hộ kinh doanh: Cần có hướng dẫn bổ sung thêm hình thức mở sổ sách đối với hộ nộp thuế theo phương pháp trực tiếp trên doanh thu. Nếu hộ kinh doanh thực hiện mua hàng hoá, dịch vụ không có đủ chứng từ đầu vào thì hộ cũng phải mở sổ Nhật ký mua hàng, sổ theo dõi vật tư hàng hoá tồn kho để theo dõi hàng hoá mua vào, tồn kho theo lượng hàng đơn giá thực nhập. Trường hợp không cập nhật, ghi sổ hàng hoá mua vào một loại hàng hoá nào đó mà tại cơ sở kinh doanh có xuất hiện hoặc tồn kho loại hàng đó hoặc số lượng hàng hoá ghi sổ nhập, tồn kho thấp nhưng xuất bán tồn kho với số lượng lớn hơn, thì cơ sở sẽ bị truy thu thuế và xử phạt hành chính. Việc bắt buộc theo dõi hàng hoá mua vào, tồn kho sẽ giúp cơ quan thuế đánh giá được mức độ thực tế kinh doanh của hộ. Từ đó có biện pháp theo dõi, đánh giá mức độ kinh doanh, xác định tính thuế sát đúng thực tế.
Tổng cục thuế cần quan tâm đầu tư, tăng cường phương tiện làm việc cho cơ quan, cán bộ thuế, đặc biệt là các mạng vi tính để đơn giản hoá các tờ khai, các thủ tục quản lý kiểm tra, gắn với việc đào tạo bồi dưỡng để mọi cán bộ quản lý có thể sử dụng thông thạo các máy vi tính; tăng thêm trường hợp giao lưu thông tin với ngành liên quan ở trong và ngoài nước, thu thập thêm nhiều thông tin cần thiết để xác định đúng đắn các căn cứ tính thuế.
KẾT LUẬN
Những năm gần đây, số lượng các hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn Huyện Tứ Kỳ tăng nhanh, tốc độ phát triển cao tạo tỷ trọng thu càng lớn trong số thu ngoài quốc doanh. Tuy nhiên, đây cũng là lĩnh vực thất thu lớn: Thất thu cả về đối tượng kinh doanh và doanh thu kinh doanh, tình trạng gian lận thuế diễn ra khá phổ biến. Yêu cầu đặt ra cho chi cục thuế Hoàn Kiếm là phải tập trung quản lý các hộ kinh doanh cá thể nhằm tạo chuyển biến căn bản trong lĩnh vực này.
Trong thời gian thực tập tại đây, qua tìm hiểu thực tế tình hình em đã tìm ra được một số giải pháp sao cho quản lý được tốt hơn đối với hộ kinh doanh từ đó hạn chế được thất thu thuế.
Mong rằng đề tài: “ Giải pháp tăng cường công tác quản lý thu thuế GTGT đối với hộ kinh doanh cá thể tại chi cục Huyện Tứ Kỳ” sẽ có một ý nghĩa nào đó.
Là một sinh viên, sự hiểu biết về lý luận và thực tiễn còn hạn chế nên đề tài nghiên cứu không tránh khỏi khiếm khuyết. Em rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo, các cán bộ thuế để em có thể hoàn thiện hơn bản chuyên đề của mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình nghiệp vụ thuế - Học viện tài chính
Tạp chí thuế Nhà Nước tháng 4/2006
Tạp chí thuế Nhà Nước tháng 8/2008
Các trang web:
-
-
-
-
-
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp tăng cường công tác quản lý thu thuế GTGT đối với hộ kinh doanh cá thể tại chi cục thuế Huyện Tứ Kỳ.doc