Giúp học sinh lớp 12 ôn tập tốt hơn phần làm văn nghị luận xã hội

MỤC LỤC MỤC LỤC 1 I. MỞ ĐẦU 3 1. Lý do chọn đề tài. 3 2. Mục đích nghiên cứu. 4 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 4 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 4 5. Phương pháp nghiên cứu. 4 6. Cấu trúc của đề tài. 5 II. NỘI DUNG. 6 CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN. 6 1. 1. Cơ sở pháp lý. 6 1.2. Cơ sở lý luận. 6 1. 2. 1.Nghị luận về một tư tưởng đạo lí 6 1. 2. 2. Nghị luận về một hiện tượng đời sống 6 1. 2. 3. Cách làm bài nghị luận xã hội 7 1. 3. Cơ sở thực tiễn 7 1. 3. 1. Xu hướng chung 7 1. 3. 2. Thực tế ở trường THPT Phan Đình Phùng 9 CHƯƠNG 2. RÈN KĨ NĂNG LÀM BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI CHO HỌC SINH LỚP 12 10 2.1.Rèn kĩ năng nhận dạng đề và tìm hiểu đề trong bài văn nghị luận xã hội .10 2. 1. 1. Nhận dạng đề 10 2. 1. 2. Tìm hiểu đề 13 2. 2. Rèn kĩ năng tìm luận điểm và thu thập dẫn chứng trong bài văn nghị luận xã hội 14 2. 2.1. Tìm luận điểm . 14 2. 2. 2. Thu thập dẫn chứng 15 2. 3. Rèn kĩ năng lập dàn bài trong bài văn nghị luận xã hội. 17 CHƯƠNG 3 . THỰC NGHIỆM VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP. 23 3. 1. Tiến hành thực nghiệm. 23 3. 2. Kết quả thực nghiệm 24 3. 3. Giải pháp 25 III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 28 TÀI LIỆU THAM KHẢO 30 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Nghị luận xã hội là phương pháp nghị luận lấy đề tài từ các lĩnh vực xã hội, chính trị, đạo đức làm nội dung bàn bạc, nhằm làm sáng tỏ cái đúng, cái sai, tốt, xấu của vấn đề được nêu ra. Từ đó đưa ra một cách hiểu thấu đáo về vấn đề nghị luận cũng như vận dụng nó vào đời sống và bản thân. Những đề tài và nội dung này thường là những vấn đề có ý nghĩa thiết thực trong cuộc sống, có tính giáo dục và tính thời sự cao. Đối với chương trình làm văn trong nhà trường phổ thông, đó thường là các đề bài mang đến cho học sinh những suy nghĩ, nhận thức đúng đắn về cuộc sống, có ý nghĩa hướng đạo, đặc biệt là những vấn đề có ý nghĩa tác động trực tiếp đối với thế hệ trẻ. Tập trung vào kiểu bài nghị luận xã hội là một nỗ lực đổi mới chương trình Ngữ Văn trong nhà trường trung học phổ thông hiện nay. Bởi lẽ, một thời gian dài trước đây, làm văn trong nhà trường chỉ tập trung vào nghị luận văn học khiến cho học sinh luôn cảm thấy văn chương xa rời thực tế cuộc sống. Cho đến hôm nay, văn nghị luận xã hội không chỉ trở thành tiêu chí đánh giá học sinh trong những bài kiểm tra, mà còn trong cả kỳ thi tốt nghiệp, đặc biệt là kỳ thi tuyển sinh cao đẳng, đại học.Thiết nghĩ, sự chuyển biến này đã mang lại không ít cơ hội cho sự phát triển toàn diện của học sinh. Rèn luyện văn nghị luận xã hội không chỉ giúp học sinh hoàn thiện kĩ năng trình bày quan điểm của mình mà còn cung cấp tri thức vô cùng phong phú về những vấn đề xã hội để có thể sống tốt hơn, và hoàn thiện nhân cách của mình. Tuy nhiên, bất kì một sự đổi mới nào cũng đặt ra không ít thách thức. Thách thức đối với học sinh kể từ khi đề văn nghị luận xã hội có mặt trong cấu trúc đề thi tốt nghiệp trung học phổ thông và tuyển sinh đại học không hề nhỏ. Thời gian rèn luyện trên lớp về nghị luận xã hội không nhiều. Kiến thức xã hội còn hạn chế. Tài liệu tham khảo nghị luận xã hội không nhiều. Cộng với kĩ năng làm bài chưa thuần thục, và nhiều vướng mắc khác trong việc thực hiện các yêu cầu của bài văn nghị luận xã hội Tất cả những điều đó đã tạo áp lực, gây hoang mang cho không ít học sinh. Giúp đỡ cho các em học sinh khắc phục được những khó khăn trên chính là lí do để chúng tôi chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU. Chúng tôi sẽ tiến hành đề tài với hai mục đích cơ bản sau: Thứ nhất, giúp học sinh nắm được những phương pháp cơ bản để làm tốt một bài văn nghị luận xã hội. Thứ hai, các giáo viên Ngữ Văn có thể dùng làm tài liệu ôn tập, luyện thi phần nghị luận xã hội. Những mục đích trên cũng chính là đóng góp của đề tài.

doc32 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 9725 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giúp học sinh lớp 12 ôn tập tốt hơn phần làm văn nghị luận xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nay. Bởi lẽ, một thời gian dài trước đây, làm văn trong nhà trường chỉ tập trung vào nghị luận văn học khiến cho học sinh luôn cảm thấy văn chương xa rời thực tế cuộc sống. Cho đến hôm nay, văn nghị luận xã hội không chỉ trở thành tiêu chí đánh giá học sinh trong những bài kiểm tra, mà còn trong cả kỳ thi tốt nghiệp, đặc biệt là kỳ thi tuyển sinh cao đẳng, đại học.Thiết nghĩ, sự chuyển biến này đã mang lại không ít cơ hội cho sự phát triển toàn diện của học sinh. Rèn luyện văn nghị luận xã hội không chỉ giúp học sinh hoàn thiện kĩ năng trình bày quan điểm của mình mà còn cung cấp tri thức vô cùng phong phú về những vấn đề xã hội để có thể sống tốt hơn, và hoàn thiện nhân cách của mình. Tuy nhiên, bất kì một sự đổi mới nào cũng đặt ra không ít thách thức. Thách thức đối với học sinh kể từ khi đề văn nghị luận xã hội có mặt trong cấu trúc đề thi tốt nghiệp trung học phổ thông và tuyển sinh đại học không hề nhỏ. Thời gian rèn luyện trên lớp về nghị luận xã hội không nhiều. Kiến thức xã hội còn hạn chế. Tài liệu tham khảo nghị luận xã hội không nhiều. Cộng với kĩ năng làm bài chưa thuần thục, và nhiều vướng mắc khác trong việc thực hiện các yêu cầu của bài văn nghị luận xã hội…Tất cả những điều đó đã tạo áp lực, gây hoang mang cho không ít học sinh. Giúp đỡ cho các em học sinh khắc phục được những khó khăn trên chính là lí do để chúng tôi chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU. Chúng tôi sẽ tiến hành đề tài với hai mục đích cơ bản sau: Thứ nhất, giúp học sinh nắm được những phương pháp cơ bản để làm tốt một bài văn nghị luận xã hội. Thứ hai, các giáo viên Ngữ Văn có thể dùng làm tài liệu ôn tập, luyện thi phần nghị luận xã hội. Những mục đích trên cũng chính là đóng góp của đề tài. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU. Đối tượng nghiên cứu: Nghị luận xã hội có mặt trong phân môn Ngữ Văn từ chương trình THCS. Ở chương trình THPT, nó có mặt ở cả 3 khối lớp: 10, 11, 12. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài này, chúng tôi chỉ tìm hiểu phương pháp làm văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 để phục vụ 2 kì thi: Tốt nghiệp trung học phổ thông và tuyển sinh cao đẳng, đại học. Phạm vi nghiên cứu: Các đề bài nghị luận xã hội vô cùng phong phú và đa dạng. Trong khuôn khổ công trình này, chúng tôi chỉ có thể khai thác một số đề bài ở 2 dạng đề cơ bản, đó là: Nghị luận về một tư tưởng đạo lý và nghị luận về một hiện tượng đời sống. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU. Để đạt được những mục đích trên, trong đề tài nghiên cứu của mình, chúng tôi giải quyết một số nhiệm vụ chủ yếu sau: - Đưa ra một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12. - Đưa ra một số giải pháp nhằm tiến hành rèn luyện đạt hiệu quả cao cho học sinh. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Để đạt được mục đích và thực hiện những nhiệm vụ mà đề tài đặt ra, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau: - Phương pháp liệt kê. - Phương pháp thống kê phân loại. - Phương pháp phân tích và tổng hợp để tìm hiểu cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và phân tích, chứng minh các biện pháp thực hiện. - Phương pháp khảo sát thực nghiệm để chứng minh cho giả thuyết của đề tài. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI. Ngoài phần mở đầu và kết thúc, đề tài của chúng tôi gồm những nội dung cơ bản sau: CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1. 1. Cơ sở pháp lý: 1. 2. Cơ sở lý luận. 1. 3. Cơ sở thực tiễn. CHƯƠNG 2: RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI CHO HỌC SINH LỚP 12. 2. 1. Rèn kĩ năng nhận dạng đề và tìm hiểu đề trong bài văn nghị luận xã hội. 2. 2. Rèn kĩ năng tìm luận điểm và thu thập dẫn chứng trong bài văn nghị luận xã hội. 2.3. Rèn kĩ năng lập dàn bài trong bài văn nghị luận xã hội. CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP 3. 1. Tiến hành thực nghiệm. 3. 2. Kết quả thực nghiệm. 3. 3. Giải pháp II. NỘI DUNG CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 1. 1. Cơ sở pháp lí: Căn cứ pháp lí của đề tài là: - Bộ giáo dục đào tạo đã quy định trong cấu trúc đề thi năm học 2008 – 2009, và 2009 – 2010 gồm có 3 câu, trong đó: Câu 2: Vận dụng kiến thức xã hội và đời sống để viết bài nghị luận xã hội ngắn khoảng 400 từ (đối với đề thi tốt nghiệp trung học phổ thông), hoặc khoảng 600 từ (đối với đề thi tuyển sinh cao đẳng, đại học). Có 2 dạng bài cụ thể là: Nghị luận về một tư tưởng đạo lí và nghị luận về một hiện tượng đời sống. 1. 2. Cơ sở lý luận: 1. 2. 1. Nghị luận về một tư tưởng đạo lí: Nghị luận về một tư tưởng đạo lí là bàn về một vấn đề thuộc lĩnh vực tư tưởng đạo đức, lối sống, quan niệm của con người. Vấn đề tư tưởng đạo lí thường được nêu lên trong các ý kiến, nhận định của các bậc vĩ nhân, hay nhà thơ, nhà văn…, hoặc được nêu ra ở tục ngữ, ca dao… Ví dụ: Hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về ý kiến sau: “Một người đã đánh mất niềm tin vào bản thân thì chắc chắn sẽ còn đánh mất thêm nhiều thứ quý giá khác nữa” (Theo sách Dám thành công – Nhiều tác giả, NXB trẻ, 2008, tr90): Đề thi tuyển sinh đại học khối D năm 2009. 1.2.2. Nghị luận về một hiện tượng đời sống. Xung quanh chúng ta hằng ngày có biết bao chuyện xảy ra. Có hiện tượng tốt, có hiện tượng xấu. Tất cả những điều xảy ra trong cuộc sống ấy đều là hiện tượng đời sống. Nghị luận về một hiện tượng đời sống là cách sử dụng tổng hợp các thao tác lập luận để bàn về một sự việc, hiện tượng có ý nghĩa đối với đời sống xã hội, đáng khen, đáng chê hay có vấn đề cần suy nghĩ, từ đó làm cho người đọc hiểu rõ, hiểu đúng, hiểu sâu, để đồng tình hoặc bác bỏ trước những hiện tượng đó. Ví dụ: Trong thư gửi thầy hiệu trưởng của con trai mình, Tổng thống Mĩ A. Lin-côn viết: “Xin thầy hãy dạy cho cháu biết chấp nhận thi rớt còn vinh dự hơn gian lận khi thi” (Theo Ngữ Văn 10, tập 2, NXB Giáo dục, 2006, tr 135). Từ ý kiến trên, anh chị hãy viết một bài văn ngắn (không quá 600 từ) trình bày suy nghĩ của mình về tính trung thực trong khi thi và trong cuộc sống. (Đề thi tuyển sinh đại học khối C năm 2009) 1.2.3. Cách làm bài nghị luận xã hội: Sách giáo khoa ngữ văn 12 đã đưa ra phần ghi nhớ về cách làm bài nghị luận xã hội về một tư tưởng đạo lí và nghị luận về một hiện tượng đời sống như sau: “Bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí thường có một số nội dung sau: + Giới thiệu, giải thích tư tưởng, đạo lí cần bàn luận; + Phân tích những mặt đúng, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến vấn đề bàn luận; + Nêu ý nghĩa, rút ra bài học nhận thức và hành động về tư tưởng đạo lí. Diễn đạt cần chuẩn xác, mạch lạc; có thể sử dụng một số phép tu từ và yếu tố biểu cảm nhưng phải phù hợp và có chừng mực.” Sách giáo khoa ngữ văn 12 tập 1, NXB giáo dục, tr 21. “Bài nghị luận về một hiện tượng đời sống thường có các nội dung: + Nêu rõ hiện tượng + Phân tích các mặt đúng, sai, lợi, hại. + Chỉ ra nguyên nhân và bày tỏ thái độ, ý kiến của người viết về hiện tượng xã hội đó. Diễn đạt cần chuẩn xác, mạch lạc; có thể sử dụng một số phép tu từ và yếu tố biểu cảm, nhất là phần nêu cảm nghĩ riêng” Sách giáo khoa ngữ văn 12 tập 1, NXB giáo dục, tr 67. 1. 3. Cơ sở thực tiễn: 1. 3. 1. Xu hướng chung. Những vấn đề nghị luận xã hội vô cùng phong phú và đa dạng. Hàng trăm hàng nghìn câu nói, nhận định, và có biết bao nhiêu hiện tượng đáng chú ý trong đời sống hiện tại. Tất cả đều có thể được lấy làm đề thi nghị luận xã hội cho học sinh. Thế nhưng thời lượng chương trình dành cho việc giảng dạy và rèn luyện nghị luận xã hội trong phân phối chương trình theo quy định của bộ giáo dục là quá ít. Ở lớp 12, cả ban cơ bản và ban khoa học xã hội nhân văn đều chỉ có 2 tiết lí thuyết về cách làm bài nghị luận xã hội. Một cho dạng bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí, và một cho dạng bài nghị luận về hiện tượng đời sống. Một năm học các em chỉ có 2 bài viết rèn luyện nghị luận xã hội. Còn lại thì tập trung vào nghị luận văn học. Trong khi đó, phần nghị luận xã hội lại là một câu bắt buộc trong đề thi, nằm ở phần chung cho tất cả thí sinh. Thực tế đó khiến cho học sinh không có điều kiện để rèn luyện nghị luận xã hội một cách thường xuyên. Hậu quả là kết quả thi không cao ở câu 2 trong đề thi tốt nghiệp THPT cũng như tuyển sinh cao đẳng, đại học. Năm 2009, kì thi tốt nghiệp THPT đầu tiên thực hiện cấu trúc đề thi mới của bộ giáo dục đào tạo, tỉ lệ tốt nghiệp môn Văn cả nước thấp chưa từng thấy trước đó: 39 %. Các nhà phân tích giáo dục đều chỉ ra nguyên nhân của tình trạng này, đó là do các trường chưa tổ chức rèn luyện chưa thấu đáo cho học sinh phần nghị luận xã hội. Điều này có một lí do khách quan đó là đến tháng 4 năm 2009, Bộ giáo dục đào tạo mới công bố cấu trúc đề thi, trong khi các trường đều kết thúc chương trình vào đầu tháng 5. Việc ôn tập trong một thời gian ngắn như vậy chỉ là “muối bỏ bể”. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng, cho đến nay, muốn có kết quả cao ở phần nghị luận xã hội cho học sinh thì giáo viên phải tranh thủ thời gian để ôn tập cho học sinh, chứ chưa có phân phối chương trình phù hợp quan tâm đến mảng này. Và tất nhiên, thời gian dành cho việc rèn luyện nghị luận xã hội sẽ ít hơn nhiều so với nghị luận văn học. Một thực tế đáng nói nữa đó là học sinh THPT hiện nay có rất ít hiểu biết về kiến thức xã hội. Điều này các em phải tự tích lũy dần theo thời gian, vì chẳng có ai trực tiếp dạy cho các em cả. Vì vậy học sinh rất ngại tìm hiểu các vấn đề xã hội. Mà thiếu kiến thức thực tế thì chắc chắn học sinh không thể làm tốt bài văn nghị luận xã hội được. Kết quả không cao cũng là điều dễ hiểu. 1.3. 2. Thực tế ở trường THPT Phan Đình Phùng. Hòa với thực tế chung của các trường THPT trong cả nước, trường THPT Phan Đình Phùng cũng có những thuận lợi và khó khăn nhất định. Các giáo viên dạy khối 12 của tổ Văn đã chú ý đến việc rèn kĩ năng làm văn nghị luận xã hội cho học sinh để đáp ứng yêu cầu trong các kì thi. Tuy nhiên, thời gian dành cho việc rèn luyện này thật sự là quá ít. Năm học 2008 – 2009, do sự chậm trễ trong việc công bố cấu trúc đề thi đã nói trên mà tổ Văn của trường cũng đã không có thời gian rèn luyện cho học sinh. Vì thế mà năm học đó, tỉ lệ tốt nghiệp môn Văn cũng chỉ dừng lại ở con số 39%. Năm học 2009 – 2010, việc rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận xã hội cho học sinh lớp 12 được thực hiện cho học sinh yếu kém trong 2 đợt học phụ đạo ban đêm, mỗi đợt kéo dài 4 tuần. Số lượng đề nghị luận xã hội giải quyết mẫu cho học sinh là 8 đề. Nhờ thế, tỉ lệ tốt nghiệp môn Văn năm 2009 lên đến 58%. Năm học 2010 – 2011, trong các buổi học phụ đạo chiều thứ 7 theo chương trình học 2 buổi trên ngày cho học sinh, các giáo viên Văn đã dành thời lượng 50% cho việc rèn luyện nghị luận xã hội. Nhìn chung, tổ Văn của trường đã và đang có những quan tâm đáng kể đến việc rèn luyện kĩ năng làm văn nghị luận xã hội cho học sinh. Tuy nhiên, khối lượng thời gian cho việc đầu tư là chưa nhiều. Về phía học sinh, các em vẫn còn rất yếu kém kĩ năng về lĩnh vực này. Nhiều học sinh còn chưa nhận ra mức độ khó của đề bài nghị luận xã hội nên vẫn còn tỏ ta xem thường. Nhiều em khác có ý thức thì tỏ ra hoang mang, lo lắng, không biết làm thế nào để làm tốt bài văn nghị luận xã hội. Nếu không có một kế hoạch ôn luyện cụ thể thì khó có thể giúp học sinh ôn tập một cách hiệu quả nhất. Vì thế đòi hỏi về mặt thời gian và nhân lực cho việc đầu tư là rất lớn. CHƯƠNG 2 RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI CHO HỌC SINH LỚP 12 Thực tiễn cho thấy, học sinh không phải là đại văn hào, thiên tài chính trị…có đủ năng lực về sáng tạo và văn chương và có thuật hùng biện. Nhưng dù có là đại văn hào, là thiên tài đi nữa thì trước khi nói và viết họ vẫn phải chọn đề tài, lập ý một cách công phu. Huống là học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường, đang học tập, trau dồi năng lực văn học, chuẩn bị cho tương lai cuộc sống của mình. Không ai có thể làm tốt một bài văn nghị luận khi dồn tất cả các khâu, từ phân tích đề, lập dàn ý, chọn dẫn chứng, hành văn, diễn đạt… vào một thời điểm căng thẳng được. Thế nhưng học sinh của chúng ta thì vẫn cứ thích làm như thế. Thử hỏi làm sao có kết quả khả quan được. Trong khuôn khổ đề tài này, chúng tôi chỉ đưa ra một số biện pháp giúp học sinh chuẩn bị trước khi viết vào bài làm chính thức. Các công đoạn này thường được gọi là “làm nháp”. 2.1. Rèn kĩ năng nhận dạng và tìm hiểu đề trong bài văn nghị luận xã hội. 2.1.1. Nhận dạng đề. Trong phần đối tượng và phạm vi nghiên cứu, người viết đã giới hạn 2 dạng đề nghị luận xã hội, đó là dạng nghị luận về một tư tưởng đạo lí và nghị luận về một hiện tượng đời sống. Tuy nhiên, trên thực tế các đề nghị luận xã hội lại vô cùng phong phú và đa dạng. Sự phân chia các dạng đề chỉ là tương đối. Nhiều khi giới hạn giữa hai dạng nghị luận là rất nhỏ, nên học sinh sẽ rất khó xác định dạng đề. Do vậy, việc nhận dạng đề trước khi tìm hiểu đề và lập dàn bài, cũng như viết thành lời văn là điều hết sức quan trọng. Nó giúp học sinh định hướng đúng cho bài làm, tránh việc sai lạc đề. Thử xác định dạng đề của các đề bài sau: (1) “Lý tưởng là ngọn đèn chỉ đường. Không có lý tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có phương hướng thì không có cuộc sống” (Lép Tônxtôi). Anh (chị) hãy nêu suy nghĩ về vai trò của lý tưởng nói chung và trình bày lý tưởng riêng của mình. (2) Bàn về đọc sách, nhất là đọc các tác phẩm văn học lớn, người xưa nói: “Tuổi trẻ đọc sách như nhìn trăng qua kẽ lá, lớn tuổi đọc sách như ngắm trăng ngoài sân, tuổi già đọc sách như thưởng trăng trên đài” (Dẫn theo “Lâm Ngữ Đường”, sống đẹp, Nguyễn Hiến Lê dịch, NXB Sài Gòn, 1965). Anh (chị) hiểu ý kiến trên như thế nào? (3) Hãy viết một bài văn bàn về vấn đề: Tuổi trẻ học đường suy nghĩ và hành động để góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông hiện nay. (4) Anh (chị) suy nghĩ gì về hiện tượng nghiện “game” trong giới trẻ hiện nay? (5) Nhà tỉ phú B. Gates nói rằng: “Các bạn phải học để trả ơn cho đất nước, cho những gì mà đất nước đã đầu tư cho bạn”. Anh (chị) suy nghĩ gì về ý kiến trên? Bàn về trách nhiệm của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc? (6)Trong thư gửi thanh niên và nhi đồng toàn quốc nhân dịp Tết sắp đến (1.1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ, tuổi trẻ là mùa xuân của đất nước”. Anh (chị) hãy viết một bài văn ngắn trình bày quan điểm của mình về việc làm thế nào để phát huy tốt nhất thời vàng son của tuổi trẻ hiện nay? Xét về các đề bài trên chúng ta thấy: Các đề (1), (2) thuộc dạng đề bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí. Các đề (3), (4) thuộc dạng đề bài nghị luận về một hiện tượng đời sống. Các đề bài trên là những đề bài đơn giản nhất thường thấy. Học sinh có thể dễ dàng nhận ra dạng đề ở các đề bài này nhờ vào các dấu hiệu ngôn ngữ có trong đề bài. Đối với đề (1) và (2), học sinh nhận ra nhờ các câu nói nằm trong dấu ngoặc kép. Đề (1) là câu nói của nhà văn Nga Lep – Tônxtôi, đề (2) là câu nói của Lâm Ngữ Đường ở Trung Quốc. Yêu cầu của 2 đề bài này là bình luận về câu nói được trích dẫn. Nội dung của 2 phát ngôn trên thuộc về vấn đề nhận thức cuộc sống. Nói tóm lại, học sinh có thể nhận ra dạng đề nghị luận về một tư tưởng đạo lí khi nhận thấy đề bài yêu cầu bàn luận về một nhận định, hay một câu nói của một người nổi tiếng được giới thiệu trong đề bài. Nhận định, tư tưởng thường được được trích dẫn nguyên văn và được đặt trong dấu ngoặc kép. Đối với đề (3), (4), học sinh nhận ra dạng đề nghị luận về một hiện tượng đời sống cũng nhờ vào đối tượng được đề cập đến trong đề bài và yêu cầu của đề bài. Đối tượng được đề cập bây giờ không phải là một câu nói nào đó mà là một vấn đề đang xảy ra trong cuộc sống hiện tại. Thông thường trên dạng đề này có các từ ngữ như: hiện tượng, vấn đề, vấn nạn…. Ở đề (3) là vấn đề tai nạn giao thông, còn ở đề (4) là hiện tượng nghiện “game”. Nhờ các từ ngữ nói trên, học sinh có thể xác định được dạng đề ngay tức thì. Tuy nhiên ở đề (5), và (6) thì vấn đề lại không hoàn toàn đơn giản như vậy. Ở đề (5) có câu nói của tỉ phú B. Gates, và cũng có yêu cầu bàn về câu nói này. Nhưng ở vế sau của yêu cầu đề bài (bàn về trách nhiệm của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc) thì không còn là nghị luận về tư tưởng đạo lí nữa, mà là bàn về vấn đề thế hệ trẻ ý thức trách nhiệm trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Như vậy đề bài trên vừa là bàn về tư tưởng đạo lí, vừa là bàn về hiện tượng đời sống. Với đề bài này, phần giải quyết yêu cầu của đề bài bàn về tư tưởng đạo lí phải được chú trọng hơn phần giải quyết yêu cầu của đề bài bàn về hiện tượng đời sống. Tương tư như vậy, ở đề (6), có câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy nhiên đề bài lại yêu cầu trình bày quan điểm của mình về việc làm thế nào để phát huy tốt nhất thời vàng son của tuổi trẻ hiện nay. Để giải quyết đề bài này người viết phải đi từ nhận định của Bác Hồ để bàn về vấn đề trong cuộc sống hiện tại. Với đề bài này, phần giải quyết yêu cầu của đề bài bàn về hiện tượng đời sống phải được chú trọng hơn phần giải quyết yêu cầu của đề bài bàn về tư tưởng đạo lí. Với các đề bài vừa thuộc nghị luận về tư tưởng đạo lí, vừa thuộc nghị luận về hiện tượng đời sống, học sinh cần kết hợp yêu cầu bài làm của cả hai dạng đề đề giải quyết. Trước hết các em cần xác định phần chung của hai dạng đề cần giải quyết, đó là: - Giới thiệu, tư tưởng đạo lí hoặc hiện tượng cần giải quyết. - Bình luận về tư tưởng đạo lí hay hiện tượng đời sống. Chỉ ra mặt đúng, mặt tích cực, hay mặt sai, mặt tiêu cực của vấn đề cần bàn luận. - Rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân. Mỗi dạng đề có các yêu cầu riêng của nó. Dạng đề nghị luận về một tư tưởng đạo lí cần thiết phải giải thích ý nghĩa của tư tưởng đạo lí. Còn dạng đề nghị luận về một hiện tượng đời sống cần thiết phải phân tích nguyên nhân và chỉ ra hậu quả của hiện tượng cần bàn luận. Đối với các đề bài có sự kết hợp cả 2 dạng thì học sinh cần phải xác định luận điểm nhiều hơn, bao gồm cả phần chung và phần riêng đã nói trên. Như vậy, nhận dạng đề là khâu quan trọng đầu tiên giúp học sinh xác định được hướng đi của bài làm, nhằm tránh việc lạc đề. 2.1.2. Tìm hiểu đề. Sau khi nhận dạng đề, học sinh cần tiến hành khâu tìm hiểu đề. Việc tìm hiểu đề không phải là công đoạn riêng của văn nghị luận xã hội mà bất cứ bài làm văn nghị luận nào cũng cần thiết phải được chú ý. Tìm hiểu đề là tìm hiểu 3 yêu cầu của đề, bao gồm: Yêu cầu về thể loại (1), yêu cầu về nội dung (2) và yêu cầu về phạm vi dẫn chứng(3). Đối với đề văn nghị luận xã hội, yêu cầu (1) và (3) gần như giống nhau ở tất cả các đề bài. Yêu cầu (1) thông thường là bình luận. Còn yêu cầu (3) là dẫn chứng phải lấy từ thực tế cuộc sống, có thể lấy từ sách vở, văn học nhưng cần hạn chế vì dễ sa vào ngoại đề. Yêu cầu (2) là yêu cầu đòi hỏi học sinh phải xác định đúng để bài làm đi đúng trọng tâm. Ví dụ 1: Suy nghĩ của anh (chị) về tài năng trẻ Việt Nam. Yêu cầu về nội dung (sau đây gọi là luận đề) của đề bài trên đó là: vấn đề tài năng trẻ của Việt Nam. Ví dụ 2: Có người cho rằng: “Nếu cuộc đời là một bộ phim, tôi muốn là vai phụ xuất sắc nhất”. Anh (chị) có đồng tình với ý kiến trên không? Hãy trình bày quan điểm của mình. Luận đề của đề bài này là: Bàn về vai trò của một người bình thường trong xã hội, nhưng là người bình thường xuất sắc. Ví dụ 3: Bày tỏ ý kiến của mình về vấn đề mà tác giả Thân Nhân Trung đã nêu trong bài kí đề danh tiến sĩ năm 1442: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp”. Luận đề của đề bài trên là bàn về vai trò của hiền tài đối với đất nước. Với các ví dụ trên, chúng tôi có thể đưa ra cho học sinh một phương pháp chung trong việc tìm hiểu đề, đó là: Đọc kĩ đề, sau đó tìm từ hoặc cụm từ then chốt nhất trong đề bài, từ đó phát biểu thành một câu hoặc cụm từ ngắn gọn. Đối với những đề bài ngắn như ở ví dụ 1, có thể học sinh cho rằng việc tìm ra từ then chốt là điều quá đơn giản. Nhưng đối với những đề bài dài, có câu nói phức tạp, chẳng hạn như ở ví dụ 2, 3 ở trên thì việc xác định từ then chốt hết sức quan trọng trong việc xác định trọng tâm của bài làm . Ở đề 2, ta xác định từ then chốt là vai phụ xuất sắc nhất, nếu xác định từ then chốt là cuộc đời, hay bộ phim thì bài làm sẽ không chú ý được trọng tâm cần bàn luận. Tương tự như vậy, ở đề 3, ta xác định từ then chốt là hiền tài. Nhưng cũng có thể học sinh xác định đó là từ nguyên khí, hoặc là thế nước.Nếu xác định các từ vừa nêu thì bài làm cũng sẽ không thể đi đúng trọng tâm được. 2.2. Rèn kĩ năng tìm luận điểm và thu thập dẫn chứng trong bài văn nghị luận xã hội. 2.2.1. Tìm luận điểm: Đa số học sinh hiện nay, nhất là học sinh trung bình, yếu kém chưa biết cách viết văn theo luận điểm. Thông thường các em mắc lỗi viết lan man, ý lộn xộn, thường hay tẩy xóa, nhớ đâu viết đó, nghĩ ra ý gì thì viết ý đó. Nếu không còn biết gì nữa thì nộp bài trước khi hết giờ. Khi đi thi về có ai hỏi: “Làm bài như thế nào?” thì cũng chỉ trả lời là: “tạm tạm” chứ không biết bài làm có những luận điểm nào. Những bài làm như thế trong biểu điểm của các đề thi thường chỉ chưa tới 50% so với điểm tối đa. Những bài làm này được liệt vào dạng: Viết lan man, chung chung thành một đoạn văn, chưa thành bài văn. Chỉ có những học sinh được giáo viên nhắc nhở nhiều lần, rằng phải làm theo luận điểm thì các em mới chú ý đến việc tìm luận điểm cho bài viết. Ở bài văn nghị luận xã hội, luận điểm chính đã có sẵn ở cấu trúc bài làm theo yêu cầu của sách giáo khoa. Học sinh chỉ cần dựa vào trình tự các bước để lập luận điểm. Sau đây, chúng tôi xin đưa ra một mẫu chung về thứ tự các luận điểm trong một bài văn nghị luận xã hội. (Ở đây đang đề cập đến các luận điểm trong phần thân bài) * Đối với đề bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí: - Luận điểm 1: Giải thích tư tưởng đạo lí cần bàn luận. + Luận cứ: Nghĩa đen (nghĩa tường minh). Nghĩa bóng (nghĩa hàm ẩn) Nghĩa cả câu. Luận điểm 2: Bình luận về tư tưởng đạo lí. + Luận cứ: Phần bình: Mặt đúng, mặt chưa đúng của tư tưởng đạo lí. + Luận cứ: Phần luận: Mở rộng vấn đề. (Thông thường là nêu những hiện tượng đi trái với tư tưởng đạo lí đang bàn luận). Luận điểm 3: Rút ra bài học cho bản thân. * Đối với đề bài nghị luận về một hiện tượng đời sống: - Luận điểm 1: Giới thiệu hiện tượng đời sống cần bàn luận: Nêu thực trạng Luận điểm 2: Tìm hiểu nguyên nhân của hiện tượng. Luận điểm 3: Tìm hiểu hậu quả của hiện tượng. Luận điểm 4: Nêu giải pháp. Chúng tôi sẽ giới thiệu luận điểm của một số đề bài ở phần sau của đề tài. Ở đây cần nhấn mạnh cho học sinh nhớ rằng: Mỗi luận điểm nên được viết thành một đoạn văn riêng biệt, để người đọc nhận thấy bài làm có luận điểm rõ ràng, mạch lạc. Và học sinh cũng tránh được lối viết lan man, nhập nhằng, không rõ ý. 2.2.2. Thu thập dẫn chứng: Bài làm thiếu dẫn chứng cụ thể cũng là một thiếu sót thường xuyên xảy ra trong các bài làm văn nghị luận xã hội của các em học sinh. Để chứng minh một cách thuyết phục cho các luận điểm của một bài văn nghị luận xã hội, người viết phải sử dụng các dẫn chứng cụ thể, tiêu biểu về những người thật, việc thật. Đây là một công việc vô cùng khó khăn đối với học sinh, bởi vì vốn hiểu biết về thực tế xã hội của các em còn quá ít. Để có thể có những hiểu biết nhất định về thời sự, về các vấn đề chính trị xã hội nóng bỏng của đất nước, đặc biệt là các vấn đề đang được đưa ra bàn luận, từ đó tích lũy thành những dẫn chứng cụ thể để đưa vào bài làm của mình, học sinh cần tích lũy từ nhiều kênh thông tin khác nhau như báo chí, truyền hình, internet… Cụ thể là: Trong quá trình đọc sách báo, nghe tin tức trên các phương tiện thông tin đại chúng, học sinh cần ghi lại thông tin về những nhân vật tiêu biểu, những sự kiện, những con số chính xác về một sự việc nào đó. Sau đây là một số thông tin tư liệu có thể thu thập để làm dẫn chứng: (1) Thông tin về tỉ phú Bill Gates: Ông sinh ra trong một gia đình khá giả ở Hoa Kì. Từ nhỏ đã say mê toán học, từng đậu vào ngành luật của trường đại học Harvard. Nhưng với niềm say mê máy tính, ông đã nghỉ học và cùng một người bạn mở công ti Microsoft. Vượt qua nhiều khó khăn, ông đã trở thành người giàu nhất hành tinh, và hiện nay ông đã dành 95% tài sản của mình để làm từ thiện. (Theo tạp chí văn học và tuổi trẻ) (2) Thưở thiếu thời Picaso là một họa sĩ vô danh, nghèo túng ở Pais. Đến lúc chỉ còn 15 đồng bạc, ông quyết định “đánh canh bạc” cuối cùng. Ông thuê sinh viên dạo quanh các cửa hàng tranh và hỏi: “Ở đây có bán tranh của Picaso không?”. Chưa đầy một tháng sau tên tuổi của ông đã nổi tiếng khắp Paris, tranh của ông bán được và nổi tiếng từ đó. (Theo tạp chí văn học và tuổi trẻ) (3) O. Henry là nhà văn trứ danh của nước Mĩ. Ông chưa từng được hưởng bất cứ một sự giáo dục nào. Thường hay bị bệnh tật dày vò. Thưở nhỏ đi chăn bò, chăn dê, làm thuê. Từng làm kế toán nhưng bị tình nghi là ăn trộm nên bị bắt bỏ tù. Sau khi ra tù, ông bắt đầu viết truyện ngắn và trở nên nổi tiếng. Tác phẩm của ông được nhiều người nghiên cứu và trở thành sách bắt buộc học ở đại học. (Theo tạp chí Văn học và tuổi trẻ) (4)Theo số liệu của phòng pháp chế - chi cục kiểm lâm Đăk Lăk, từ đầu năm đến nay, kiểm lâm Đăk Lăk đã bắt giữ được 3025 kg và 978 cá thể động vật hoang dã, nhiều hơn số lượng của cả năm trước (2691kh và 176 cá thể). Điều này chứng tỏ tình trạng săn bắt, mua bán động vật hoang dã ở Đăk Lăk đang gia tăng mạnh mẽ. (Theo báo lao động ngày 23.8.2010) (5) Hôm qua, lửa đã lan sang rừng Hoa Mai, khu rừng tràm 15 -20 năm tuổi còn sót lại của vườn quốc gia U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang. Có thêm ít nhất 150 ha rừng bị thiêu rụi. Đến 16 giờ, lửa vẫn bùng phát dữ dội, vượt qua tầm kiểm soát của lực lượng chữa cháy. Chi Cục Kiểm lâm tỉnh cho hay, từ đầu mùa khô đến nay đã xảy ra 54 vụ cháy rừng, làm 3600 ha rừng bị thiêu rụi. Nguyên nhân là do người dân đốt đồng và săn bắt thú rừng khiến lửa bén sang cây tràm. (Theo báo tin nhanh Việt Nam số ra ngày 15 tháng 9 năm 2010). Ta thấy ở tư liệu (1) có thể dùng để dẫn chứng ở nội dung: Tinh thần tự học và niềm đam mê nghề nghiệp. Tư liệu (2) dẫn chứng ở nội dung: Nếu không tạo cơ hội cho chính mình thì chẳng bao giờ ta có cơ hội cả. Tư liệu (3): Thành công không có nghĩa là chưa hề thất bại. Tư liệu (4): hiện tượng săn bắt, mua bán động vật hoang dã. Tư liệu (5): Tình trạng cháy rừng. Tuy nhiên, học sinh cũng cần lưu ý rằng một dẫn chứng có thể sử dụng cho nhiều đề văn khác nhau nếu như các em biết khéo léo phân tích theo hướng của đề. Chẳng hạn với tư liệu (1) ở trên, ngoài đề bài về tinh thần tự học đã nói ở trên, học sinh có thể sử dụng cho các đề bài khác như: tài năng con người; niềm đam mê sáng tạo; bài học về sự thành công, hay về tấm gương của lòng nhân ái… Dĩ nhiên là các tư liệu về đời sống thực tế phải được các em tích lũy dần dần trong cuộc sống của mình, tuy nhiên trong thời gian luyện thi, các em cần thu thập thông tin bằng cách ghi chép tổng hợp vào sổ tư liệu của mình. Sau đó cần phân loại theo chủ đề, nhóm đề bài để dễ học, dễ nhớ. Vẫn biết là đề tài của nghị luận xã hội vô cùng phong phú, học sinh tuyệt đối không học tủ, học mò, đoán đề, nhưng trong quá trình ôn tập, các em vẫn phải học và nắm được những thông tin tư liệu cơ bản nhất liên quan đến đời sống hiện tại, để các em có thể vận dụng được trong trường hợp đề bài lạ, chưa được giáo viên ôn tập qua. Thông thường là những tư liệu về tấm gương người tốt việc tốt, hay tư liệu về những hiện tượng xấu trong xã hội, liên quan đến những vấn đề nóng bỏng trong đời sống hiện nay. Điều đặc biệt chú ý là học sinh phải nhớ được tên cụ thể của con người hay hiện tượng đưa ra làm dẫn chứng, tránh việc đưa dẫn chứng chung kiểu như: con người, các bạn học sinh, trường em, lớp em… 2.3. Rèn kĩ năng lập dàn bài trong bài văn nghị luận xã hội. Sau khi đã có các luận điểm và dẫn chứng, học sinh cần lập dàn bài để sắp xếp các luận điểm và luận cứ một cách chặt chẽ, hợp lí. Thông thường, khâu lập dàn bài vẫn là một trong những khâu mà học sinh bỏ qua. Rất nhiều em vừa đọc đề đã cắm đầu cắm cổ viết. Viết một thôi một hồi rồi lại tẩy xóa, viết lại. Cuối cùng bài làm văn cứ như đang làm nháp. Lập dàn bài là cách tổ chức lập luận, lựa chọn, sắp xếp ý thành một hệ thống chặt chẽ và bao quát nội dung cơ bản của đề bài. Do đó, nếu bài làm có sự chuẩn bị dàn bài chắc chắn sẽ mang lại sự chủ động và tránh tẩy xóa cho học sinh. Lập dàn bài còn giúp học sinh tránh tình trạng bỏ sót ý, sắp xếp ý lộn xộn hoặc triển khai ý không cân xứng kiểu “đầu voi đuôi chuột”. Và như thế học sinh sẽ chủ động trong việc sắp xếp thời gian. Có thể nói trong một bài làm văn, khâu tìm luận điểm, lập dàn bài có thể chiếm đến 50% hiệu quả của nó. Học sinh có thể lập dàn bài theo các bước sau: Xác định các luận điểm: Đề bài có nhiều ý thì ứng với mỗi ý là một luận điểm. Đề bài có 1 ý thì các ý nhỏ hơn cụ thể của ý đó được xem là những luận điểm. Tìm luận cứ cho các luận điểm: Mỗi luận điểm cần được cụ thể hóa thành nhiều ý nhỏ hơn gọi là luận cứ. Số lượng ý nhỏ và cách triển khai tùy thuộc vào ý lớn. Học sinh phải lập dàn bài gồm 3 phần như sau: Mở bài: Giới thiệu vấn đề cần nghị luận Thân bài: Triển khai nội dung theo các ý nhỏ và ý lớn đã tìm. Kết bài: Tổng kết nội dung đã trình bày, liên hệ, mở rộng, nâng cao vấn đề. Sau đây là một vài dàn bài mẫu: * Dàn bài 1: Đề bài: Suy nghĩ của anh chị về câu nói của Nguyễn Bá Học: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Mở bài: -Ý chí nghị lực giúp con người vượt qua thử thách gian nan. - Trích dẫn câu nói của Nguyễn Bá Học B. Thân bài: - Luận điểm 1: Giải thích câu nói: + Luận cứ1: Nghĩa tường minh: Trước đây, giao thông chưa thuận tiện, muốn đến nơi nào đó phải trèo đèo lội suối rất vất vả. Những cuộc hành trình dài thường khiến người ta mệt mỏi, sợ hãi, không dám đến đích cần tới. + Luận cứ 2: Nghĩa hàm ẩn: Đường đi còn có nghĩa là cuộc đời, cuộc sống con người; Sông, núi là hình ảnh ẩn dụ cho những khó khăn thử thách. + Luận cứ 3: Ý cả câu: Mọi khó khăn thử thách đều có thể vượt qua nếu con người có ý chí và nghị lực. Luận điểm 2: Bình luận, mở rộng vấn đề. + Luận cứ 1: Cuộc sống luôn chứa đựng muôn vàn khó khăn, trắc trở. Vượt qua những khó khăn trắc trở đó, con người sẽ thành công. Dẫn chứng: Mạc Đĩnh Chi phải học dưới ánh đèn đom đóm mà đỗ đạt thành công. Thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí viết bằng đôi chân mà trưởng thành. Stephen Hawking chỉ đi lại bằng xe lăn vì bại liệt nhưng đã trở thành nhà vật lý học kiệt xuất, là người đầu tiên nêu lên khái niệm “hố đen vũ trụ” có ý nghĩa lớn đối với nhân loại. + Luận cứ 2: Những khó khăn thử thách là cơ hội để thử sức, rèn luyện bản thân mình, là cơ hội để nhận diện năng lực mình, và là cơ hội để có những bài học. Dẫn chứng: Nhà diễn thuyết nổi tiếng thời cổ đại Hi Lạp Demosthenes thưở nhỏ bị nói lắp. Khi đứng trên sân khấu diễn giảng, giọng nói ông không rõ ràng, phát âm không chuẩn, vẫn thường bị mọi người chế nhạo. Nhưng ông không hề chán nản. Để khắc phục khó khăn này, ngày ngày ông đều ngậm một viên đá trong miệng, rồi đứng trước biển tập đọc. Sau một thời gian kiên trì tập luyện, ông đã chứng minh được năng lực của mình, và trở thành nhà diễn thuyết nổi tiếng nhất Hi Lạp. Nhà bác học Marie Curie đã từng bị bệnh ung thư máu, nhưng bà đã không chịu cúi đầu bỏ cuộc, không cam tâm để mình trở thành người vô dụng, và cuối cùng bà đã 2 lần được nhận giải thưởng Nobel (về vật lí và hóa học). Từ 2 luận cứ trên, khẳng định câu nói của Nguyễn Bá Học là hoàn toàn đúng. Nếu con người kiên trì nghị lực thì “không có việc gì khó” cả. - Luận cứ 3: Phê phán một bộ phận trong xã hội thiếu ý chí nghị lực trong cuộc sống. Gặp chuyện khó khăn là chán nản, sinh ra bi quan, hoặc sa vào con đường tội lỗi. Luận điểm 3: Rút ra bài học trong cuộc sống: + Luận cứ 1: Con người cần ý thức được vai trò, tầm quan trọng của tinh thần vượt khó trong cuộc sống. + Luận cứ 2: Liên tưởng bài thơ của Bác Hồ: “Không có việc gì khó; Chỉ sợ lòng không bền; Đào núi và lấp bể; Quyết chí ắt làm nên.” Mỗi con người cần mài sắc ý chí, nghị lực trên mọi bước đường, mọi hành trình. C. Kết bài: Khẳng định lại tính đúng đắn của tư tưởng đạo lí. Câu nói có ý nghĩa lớn đối với thế hệ thanh niên hiện nay. * Dàn bài 2: Hãy trình bày suy nghĩ của mình về “bệnh vô cảm” trong xã hội hiện nay. A. Mở bài: Hiện tượng lạnh lùng thiếu quan tâm lẫn nhau trong quan hệ giữa người với người trong xã hội hiện tại. Hiện tượng đó gọi là “bệnh vô cảm”. B. Thân bài: - Luận điểm 1: Giải thích bệnh vô cảm là gì? Hiện tượng mà quan hệ giữa người với người trở nên lạnh lùng, thiếu quan tâm lẫn nhau, thiếu trách nhiệm với nhau trong cuộc sống. - Luận điểm 2: Nêu thực trạng về bệnh vô cảm +Luận cứ 1: Biểu hiện: Thiếu sự đồng cảm, chia sẻ với người khác, nhất là với những người gặp khó khăn hơn mình. Dẫn chứng: Đi đường gặp người hoạn nạn thì làm ngơ. Đi xe bus không nhường ghế cho người già, trẻ em, phụ nữ mang thai. + Luận cứ 2: Đối tượng vô cảm: Ở những người có địa vị cao như bác sĩ vô cảm với bệnh nhân, thầy cô giáo với học sinh, cha mẹ với con cái… Thế hệ trẻ ngày nay rất nhiều người thơ ơ, vô cảm. - Luận điểm 3: Nêu nguyên nhân + Luận cứ 1: Về khách quan: Xã hội phát triển trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt đã khiến con người dễ quan tâm đến quyền lợi của bản thân mình một cách thái quá. + Luận cứ 2: Về chủ quan: Thói ích kĩ có sẵn trong mỗi con người. Một bộ phận được xã hội trao quyền lực nhưng không ý thức đầy đủ trách nhiệm đối với xã hội, đã tỏ ra hống hách, chuyên quyền. Cá nhân, nhà trường, xã hội chưa thường xuyên giáo dục tuyên truyền kịp thời một cách hài hòa giữa trí, đức và mĩ. - Luận điểm 4: Nêu hậu quả: + Xã hội thiếu tình người trong đời sống cộng đồng. + Ảnh hưởng đến tương lai của những con người đang trong quá trình hoàn thiện nhân cách, hoàn thiện đời sống tâm lí. + Đời sống tâm hồn con người trở nên nghèo nàn. + Xã hội nhức nhối vì những bất công vô lí. - Luận điểm 5: Thái độ và đề xuất giải pháp + Lên án nghiêm khắc trước những suy nghĩ và hành động vô cảm của con người. + Tích cực tham gia ngăn chặn và tuyên truyền giáo dục mọi người về một lối sống đẹp. + Mỗi người cần tự rèn luyện để có lẽ sống đẹp, cao cả, nhân ái, vị tha. + Cần tham gia những phong trào thanh niên với mục đích giúp đỡ, quan tâm đến những số phận bất hạnh. C. Kết luận: Khẳng định lại thái độ phê phán của mình đối với những người có lối sống vô cảm. Trên đây là 2 dàn bài mẫu tiêu biểu cho 2 dạng đề nghị luận xã hội mà đề tài giới hạn nghiên cứu. Từ yêu cầu chung và dàn bài mẫu nói trên, chúng tôi đề nghị mẫu dàn bài cho bài văn nghị luận xã hội như sau: * Đối với đề bài nghị luận về một tư tưởng đạo lí: - Mở bài: Nêu ý khái quát, rồi dẫn nhận định, đánh giá có nêu ra ở đề bài. Sau đó định hướng vấn đề nghị luận. Lưu ý: Học sinh phải trích dẫn nhận định và nêu luận đề của đề bài trong phần mở bài này. -Thân bài: + Giải thích nội dung vấn đề tư tưởng đạo lí. + Nhận định, đánh giá vấn đề tư tưởng, đạo lí trong bối cảnh của cuộc sống hiện tại. (Tức là chứng minh và bình luận) + Mở rộng vấn đề: (Phần luận) Chỉ ra những biểu hiện sai lệch so với tư tưởng đạo lí đang bàn luận. - Kết bài: Kết luận, tổng kết, nêu nhận thức mới, tỏ ý khuyên bảo hay tỏ ý hành động. Lưu ý: Bài làm ở dạng này cần lựa chọn góc độ riêng để giải thích, đánh giá và đưa ra ý kiến riêng của mình. Có thể chọn dẫn chứng từ 3 nguồn: thực tế, sách vở và giả thiết. Tuy nhiên không nên chọn nhiều dẫn chứng văn học, vì sẽ dễ sa vào nghị luận văn học. * Đối với đề bài nghị luận về một hiện tượng đời sống: - Mở bài: Giới thiệu sự việc hiện tượng có vấn đề. - Thân bài: + Liên hệ thực tế, chỉ ra nguyên nhân, hậu quả, phân tích các mặt và đánh giá hiện tượng. + Đề xuất các giải pháp cụ thể đối với hiện tượng. - Kết bài: Kết luận, khẳng định những vấn đề đã nêu trong thân bài. Lưu ý: Bài làm ở dạng này cần lựa chọn góc độ riêng để phân tích, nhận định, đưa ra ý kiến và sự cảm nhận riêng của người viết. Trên đây là một số chỉ dẫn có thể giúp học sinh chuẩn bị tốt cho một bài văn nghị luận xã hội. Thiết nghĩ học sinh sẽ đạt được ít nhất 50% số điểm nếu có sự chuẩn bị kĩ càng ở các khâu trên. Trong quá trình viết vào bài làm văn, học sinh cần rèn kĩ năng diễn đạt tốt bằng cách vận dụng kết hợp các thao tác lập luận (thao tác lập luận so sánh, giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, bác bỏ) và các phương thức biểu đạt (thuyết minh, biểu cảm, nghị luận) đã học. Với những học sinh có khả năng diễn đạt tốt và văn viết có cảm xúc, chắc chắn bài viết của các em sẽ đạt được kết quả cao nhất nếu có sự chuẩn bị tốt theo các hướng dẫn ở chương II này. CHƯƠNG 3 THỰC NGHIỆM VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP 3. 1. Tiến hành thực nghiệm. Các nội dung đã được trình bày ở chương II của đề tài này đã được ứng dụng cụ thể ở trường THPT Phan Đình Phùng kể từ năm học 2008 – 2009 đến năm học này là năm học 2010 -2011. Đối tượng thực nghiệm đại trà: Học sinh lớp 12 của trường. Thời gian tiến hành: - Năm học 2008 – 2009: Thực hiện trong 2 tuần ôn tập thi tốt nghiệp trung học phổ thông theo quy định của khung chương trình 37 tuần. Tổng cộng 5 tiết trên tổng số 10 tiết ôn tập. - Năm học 2009 – 2010: Thực hiện trong 2 tháng học phụ đạo học sinh yếu kém lớp 12 (tổng số 16/16 tiết phụ đạo), và trong 2 tuần ôn tập thi tốt nghiệp trung học phổ thông (5 tiết trên tổng số 10 tiết ôn tập) theo quy định của khung chương trình 37 tuần. Bản thân người viết đề tài thực hiện trong chương trình luyện thi đại học cho học sinh tại nhà riêng. (Đã hướng dẫn 25 đề/nhóm học sinh). -Năm học 2010 – 2011: (Tính đến thời điểm hiện tại) Thực hiện trong nội dung dạy phụ đạo khối 12 học 2 buổi/ ngày kể từ đầu học kì II đến hết tháng 3/ 2011. Tổng cộng 12 tiết trên tổng số 24 tiết học phụ đạo. -Bản thân người viết đề tài thực hiện trong chương trình luyện thi đại học cho học sinh tại nhà riêng, tính đến thời điểm hiện tại đã hướng dẫn học sinh giải quyết 45 đề/ nhóm học sinh. -Ngoài ra, nội dung thực nghiệm còn được tiến hành trong các tiết trả bài nghị luận xã hội trong năm học. Ở chương trình cơ bản là trả bài viết số 1, số 3. Ở chương trình nâng cao là trả bài viết số 1, số 3, và số 6. -Phương pháp thực nghiệm là: Ở tiết hướng dẫn đầu tiên, giáo viên trình bày kĩ cách thức tiến hành chuẩn bị cho một bài văn nghị luận xã hội. Sau đó, giáo viên ra đề, học sinh tự tìm hiểu đề, tìm dẫn chứng, lập dàn bài. Giáo viên kiểm tra, sửa chữa và cung cấp thông tin liên quan đến đề bài. 3. 2. Kết quả thực nghiệm. Chúng tôi đã tiến hành thống kê điểm bài kiểm tra của loại đề nghị luận xã hội của học sinh các lớp 12 mà người viết trực tiếp giảng dạy. Các bài viết số 1, số 3 được đánh giá thang điểm 10. Các bài kiểm tra học kì I, II được đánh giá thang điểm 3. Như vậy, chúng tôi đã thống kê con số đạt điểm 5 trở lên của bài viết số 1, 3 và con số điểm 1,5 trở lên của bài kiểm tra học kì. Chúng tôi cũng đã so sánh kết quả giữa các thời điểm, đặc biệt là ở 2 thời điểm: Khi giáo viên chưa cung cấp nội dung thực nghiệm (ở bài viết số 1) và sau khi giáo viên đã tiến hành ôn tập cho học sinh (ở các bài viết sau). Kết quả như sau: Tên bài viết Năm học 2009 - 2010 Năm học 2010 - 2011 Ghi chú Lớp 12A1 Lớp 12B2 Lớp 12C Lớp 12A11 Bài viết số 1 55% 45% 60% 47% Chưa được hướng dẫn. Bài viết số 3 62% 53% 69% 52% Bài kiểm tra học kì 1 65% 55% Không có câu nghị luận xã hội Không có câu nghị luận xã hội Bài kiểm tra học kì II 75% 60% Chưa tổ chức kiểm tra Chưa tổ chức kiểm tra. Nhìn vào bảng so sánh trên, chúng tôi nhận thấy chất lượng bài làm nghị luận xã hội của học sinh lớp 12 có được cải thiện rõ tính từ thời điểm trả bài viết số 1 hằng năm. Rõ ràng là giữa việc không giảng giải, chỉ dẫn gì, để cho học sinh làm bài tự phát, với việc hướng dẫn học sinh làm bài theo những quy định chung thì việc hướng dẫn học sinh chuẩn bị trước khi viết bài tất nhiên sẽ đạt kết quả tốt hơn. Và chúng tôi cũng khẳng định rằng ngoài phương pháp của chúng tôi đưa ra, học sinh không có sự lựa chọn nào khác hơn để có thể làm tốt bài văn nghị luận xã hội cả. Do đó, kết quả cụ thể từ bài làm của học sinh sẽ chứng minh được tính khả thi của đề tài này. 3. 3. Giải pháp: Có thể nói rằng phương pháp đưa ra bao giờ cũng có vẻ khả thi. Hầu hết thực nghiệm đều cho kết quả tốt. Tuy nhiên, việc thực hiện đồng bộ có được như kết quả thực nghiệm hay không thì lại là một điều không hề đơn giản. Lí do là vì trong thời gian thực nghiệm, người thực nghiệm đang ý thức về đề tài nghiên cứu của mình, đang chăm chút làm sao để kết quả thực nghiệm được khả quan để đề tài của mình có tính khả thi. Người viết đề tài này cũng không khỏi băn khoăn về vấn đề trên. Nếu đề tài được công nhận, chúng tôi xin đưa ra một số giải pháp cơ bản để có thể thực hiện được như sau: Thứ nhất, học sinh có thói quen làm văn đốt cháy giai đoạn, tức là bỏ qua công đoạn chuẩn bị trong giấy nháp, và cứ thế viết vào. Việc thay đổi thói quen của học sinh là một điều không dễ. Do đó, trong tiết trả bài viết số 1, giáo viên phải chỉ ra cho học sinh thấy được những điểm sai cơ bản của các em như: Bài làm có sự tẩy xóa nhiều; sắp xếp ý lộn xộn; “đầu voi đuôi chuột”, dẫn chứng sai hay thậm chí lạc đề… Những lỗi trên đều do các em hấp tấp, chưa tìm hiểu đề, chưa xác định phạm vi dẫn chứng, chưa lập dàn ý mà đã vội viết vào. Phải giáo dục làm sao để học sinh thấy rằng: không có sự chuẩn bị như giáo viên hướng dẫn thì không có con đường nào khác hơn đề có thể tránh được các lỗi trên. Vậy trừ phi các em không muốn tiến bộ, không muốn điểm văn ngày càng cao thì chỉ có cách là làm theo lời thầy cô giáo. Thứ hai, học sinh của chúng ta vốn dĩ vẫn thường bỏ qua lời thầy cô giáo mặc dù biết lời thầy cô dạy là không sai. Đối với các em thì “lời nói gió bay”, các em chỉ gật gù được trong giờ học, còn ra khỏi tiết trả bài rồi thì đâu vẫn hoàn đấy. Để đến tiết trả bài lần sau, thầy cô giáo vẫn cứ lại ca “bài ca muôn thưở”, còn học sinh thì lại gật gù: “biết rồi khổ lắm nói mãi”. Nếu giáo viên có gọi một em học sinh nào đó mà hỏi: “Tại sao em không tìm hiểu đề, lập dàn bài trước khi viết”, chắc chắn cũng sẽ được nghe câu trả lời: “Dạ em sợ không kịp giờ”. Còn chất lượng bộ môn thì vẫn chưa thấy có kết quả vượt bậc. Biện pháp mà tôi muốn nhấn mạnh với giáo viên là: chúng ta cần phải thực hiện biện pháp bắt buộc. Trừ bài thi tốt nghiệp cuối cùng của các em, còn thì các bài kiểm tra bài viết ở trường chúng ta đều bắt buộc các em phải làm nháp trực tiếp vào trong tờ bài làm, tức là tìm hiểu đề và lập dàn bài. Yêu cầu của giáo viên là điểm bài làm là điểm trung bình cộng của 2 phần: tìm hiểu đề, lập dàn bài và viết bài văn. Một khi đã bắt buộc như thế, học sinh không thể không làm theo. Cứ như thế nhiều lần sẽ tạo được thói quen cho các em. Thứ ba, đó là biện pháp giúp các em có được vốn dẫn chứng phù hợp để đưa vào bài làm. Ở chương II của đề tài, người viết đã có biện pháp giúp học sinh thu thập dẫn chứng cụ thể trong đời sống xã hội. Ở đây, giáo viên cần có biện pháp kiểm tra việc chuẩn bị của các em bằng cách kiểm tra việc học thuộc một số dẫn chứng tiêu biểu. Vẫn biết làm văn cần thiết phải có sự sáng tạo, nhưng trong trường hợp luyện thi, việc học thuộc một số điều cần thiết cũng là việc làm quan trọng. Có thể nói thông qua việc học tập, các em sẽ được bồi đắp thêm vốn sống, sự hiểu biết về cuộc sống. Các em được rèn luyện nhân cách hoàn thiện để có thể dễ dàng hội nhập với cuộc sống hiện tại. Giáo dục tích hợp giữa văn chương và cuộc đời vẫn là một yêu cầu trong đổi mới phương pháp dạy học văn theo hướng hiện đại. Thứ nữa, phương pháp dạy học tích cực chỉ ra rằng giáo viên phải lấy học sinh làm trung tâm. Do đó trong quá trình hướng dẫn học sinh giải quyết các đề văn nghị luận xã hội không phải là quá trình giáo viên cung cấp thông tin theo kiểu đọc chép mà chỉ là quá trình chỉnh sửa sau khi học sinh đã khai thác xong. Sau khi đọc đề văn, học sinh suy nghĩ lập dàn bài trong khoảng 20 phút, sau đó giáo viên kiểm tra và sửa chữa trong vòng 25 phút. Như vậy, với thời gian một tiết học, thầy cô giáo và học sinh đã cùng nhau giải quyết được một đề nghị luận xã hội. Việc chọn đề nào để sửa cho học sinh cũng không quan trọng, vì chúng ta không chủ trương đoán đề, tủ đề, mà chủ trương của chúng ta là giải càng nhiều đề thì học sinh càng quen với kĩ năng giải quyết đề văn nghị luận xã hội. Đến một lúc nào đó, các em sẽ có thể giải quyết bất cứ đề văn nghị luận xã hội nào mà đề thi yêu cầu. Bởi lẽ đề bài nghị luận xã hội tuy vô cùng phong phú và đa dạng nhưng vẫn không nằm ngoài chương trình và sự hiểu biết của học sinh phổ thông. Cuối cùng, đề văn nghị luận xã hội trong các kì thi tốt nghiệp và tuyển sinh cao đẳng, đại học thường có sự giới hạn câu chữ. (Không quá 400 từ hay không quá 600 từ). Sự giới hạn này là do tính toán thời lượng tổng trên cấu trúc đề thi. Tuy nhiên, điều này đã gây không ít khó khăn cho học sinh, vì các em đã quen viết bài nghị luận xã hội dài, thường là 90 phút trên lớp, và không giới hạn thời gian nếu là bài làm ở nhà. Do đó, giáo viên cần rèn luyện cho học sinh kĩ năng này bằng cách cho học sinh thực hành viết nghị luận xã hội trong khoảng thời gian 60 phút. Các em cần viết làm sao trong một khoảng thời gian ngắn lại đầy đủ các luận điểm . Tất nhiên điều này không thể một sớm một chiều mà các em làm được. Bởi vậy, nếu không hề rèn luyện gì cả mà cứ thế đi thi thì chắc chắn các em sẽ bỡ ngỡ. Số lượng bài viết học sinh cần viết hoàn chỉnh để rèn luyện kĩ năng càng nhiều càng tốt. Ở đây người viết đề nghị là ít nhất 10 bài trên một học sinh nếu ôn thi đại học; 5 bài trên một học sinh nếu ôn thi tốt nghiệp THPT. Trên đây là một vài giải pháp cơ bản nhất mà người giáo viên văn có thể lựa chọn để ôn tập tập tốt cho học sinh lớp 12 phần làm văn nghị luận xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình dạy học, mỗi thầy cô giáo còn có thể có nhiều biện pháp sáng tạo khác nữa để phù hợp với đối tượng học sinh mà mình đang phụ trách. III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Kết luận. Chương trình giáo dục THPT ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐ – BGDĐT ngày 5/6/2006 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã nêu: “Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn”. Theo đó, người giáo viên cần phải đổi mới phương pháp dạy học nhằm chú trọng việc giúp học sinh học để đáp ứng những yêu cầu của cuộc sống hiện tại và tương lai. Những điều đã học cần thiết, bổ ích cho bản thân học sinh và cho sự phát triển xã hội. Trở lại việc dạy học sinh làm văn nghị luận xã hội. Một mặt, nó đáp ứng được yêu cầu chung về đổi mới dạy học vừa đề cập trên. Mặt khác, nó vừa đảm bảo yêu cầu đối với bộ môn khoa học xã hội nhân văn, đó là giáo dục chân, thiện, mĩ cho học sinh. Việc đưa nghị luận xã hội vào cấu trúc đề thi đã chứng minh những hiệu quả giáo dục của nó đối với sự hình thành và phát triển toàn diện nhân cách học sinh. Tuy nhiên điều này đã thách thức không nhỏ đối với người trực tiếp giảng dạy học sinh. Trong khuôn khổ nhỏ hẹp của đề tài, người viết chỉ mới có thể đi vào việc chỉ ra những biện pháp cơ bản trong khâu đầu tiên của quá trình làm bài, đó là khâu chuẩn bị viết bài. Nếu đề tài thành công, chúng tôi sẽ tiếp tục đi sâu hơn các khâu quan trọng khác của quá trình làm bài văn nghị luận xã hội. Đó cũng chính là hướng mở của đề tài chúng tôi. 2. Kiến nghị. Có thể có học sinh, phụ huynh và giáo viên ở bộ môn khác nghĩ rằng ôn tập Môn Văn thì cần gì đến vai trò của giáo viên. Sách tham khảo bán thiếu gì, mua về rồi đọc là được. Xin thưa rằng điều đó chỉ đúng với một bộ phận rất ít học sinh thôi. Ấy là đối với các em có ý thức tự học cao. Còn đa số học sinh THPT hiện nay đều rất lơ mơ về phương pháp học văn. Đã có học sinh ở lớp luyện thi nói rằng: Trước khi đến học lớp luyện thi này, em nghĩ học văn rất đơn giản, cần gì phải đi học. Em đi học vì người lớn bắt đi. Nhưng đi học một thời gian rồi em mới nhận ra học văn thật khó. Càng học càng thấy nhiều điều khó quá. Trích dẫn câu nói này, chúng tôi muốn khẳng định rằng ôn tập môn văn cũng cần rất nhiều thời gian. Tuy nhiên, hiện nay thời gian ở trường dành cho việc rèn luyện kĩ năng viết văn là quá ít. Phân phối chương trình mỗi tuần 3 tiết, trong đó giáo viên cùng học sinh phải giải quyết một bài đọc văn 2 tiết, chỉ còn lại một tiết cho phân môn tiếng Việt hoặc làm Văn. Thời gian học phụ đạo thêm cũng chỉ là muối bỏ bể. Theo người viết đề tài này được biết thì hiện nay số tiết dành cho môn Toán của lớp 12 là 5 tiết / tuần (bao gồm cả tiết tự chọn), trong khi đó ở môn Văn chỉ có 3 tiết/ tuần và không có tiết tự chọn (Ở đây đang nói đến ban cơ bản). Thiết nghĩ hai môn học trên đều có vai trò quan trọng như nhau, người viết đề nghị ban giám hiệu, ban chuyên môn nhà trường xem xét trong năm học tới bố trí thêm tiết tự chọn môn Văn cho khối 12 ban cơ bản để việc rèn luyện kĩ năng làm văn nói chung, kĩ năng làm văn nghị luận xã hội nói riêng có thêm nhiều thời gian hơn. Nếu tổng số tiết Văn của khối 12 ban cơ bản là 4 tiết/ tuần (kể cả tiết tự chọn) thì giáo viên bộ môn Văn mới có điều kiện truyền đạt hết những gì muốn nói với học sinh. Hiện nay, giáo viên tổ Văn chúng tôi vẫn thường tâm sự với nhau là: Những gì muốn nói với các em đều phải cất giấu ở trong lòng vì thời gian không cho phép. Trên đây là một vài ý kiến kết luận và đề xuất của người nghiên cứu. Chúng tôi rất mong sự đóng góp quý báu của quý đồng nghiệp để đề tài của chúng tôi hoàn thiện tốt hơn. Xin chân thành cảm ơn. TX Sông Cầu ngày 25 tháng 03 năm 2011 Người viết Ngô Thị Diễm Châu TÀI LIỆU THAM KHẢO Hoàng Dục – Trần Văn Vụ, Ôn tập Ngữ Văn 12, kiến thức và kĩ năng, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2009. Phan Trọng Luận (chủ biên), Sách giáo khoa Ngữ Văn 12 tập 1, NXB giáo dục, Hà Nội, 2007. Phan Trọng Luận, Trần Đình Sử, Hướng dẫn thực hiện chương trình sách giáo khoa lớp 12 môn Ngữ Văn, NXB giáo dục, Hà Nội, 2008. Vũ Nho, Hướng dẫn ôn tập thi tốt nghiệp THPT năm học 2009 – 2010 môn Ngữ Văn, NXB giáo dục Việt Nam. Phan Quốc Trung, Những bài làm văn nghị luận xã hội chọn lọc, NXB Đại học quốc gia Hà Nội. Lê Anh Xuân (chủ biên), Rèn kĩ năng làm bài thi tốt nghiệp THPT và thi đại học môn Ngữ Văn, NXB Đại học quốc gia Hà Nội. Lê Anh Xuân (chủ biên), 199 bài văn nghị luận xã hội ngắn, NXB Đại học quốc gia Hà Nội. PHẦN ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CÁC CẤP

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiúp học sinh lớp 12 ôn tập tốt hơn phần làm văn nghị luận xã hội.doc
Luận văn liên quan