MỤC LỤC
Trang
Danh mục các chữ viết tắt
Lời cam đoan
Danh mục các bảng, biểu
Danh mục các biểu đồ
Lời mở đầu
Chương 1: Cơ sở khoa học để xây dựng cấu trúc vốn tối ưu nhằm nâng cao hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp .1
1.1.Cấu trúc vốn và cấu trúc vốn tối ưu ở các doanh nghiệp 1
1.1.1. Khái niệm cấu trúc vốn 1
1.1.2. Khái niệm cấu trúc vốn tối ưu . .1
1.2. Các yếu tố tài chính ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của doanh nghiệp .2
1.2.1. Tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần 2
1.2.2. Đòn cân nợ và mối quan hệ giữa đòn cân nợ với giá trị doanh nghiệp .3
1.2.3. Chính sách thuế 6
1.2.3.1. Cấu trúc vốn không có thuế thu nhập công ty 7
1.2.3.1. Cấu trúc vốn có thuế thu nhập công ty 8
1.2.4. Chi phí sử dụng vốn bình quân 11
1.3. Quyết định lựa chọn cấu trúc vốn cho doanh nghiệp .12
1.3.1. Lựa chọn cấu trúc vốn trong điều kiện thông tin bất cân xứng .12
1.3.2. Đánh giá các yếu tố mang tính chất quyết định để xây dựng cấu trúc vốn .15
1.3.2.1. Các yếu tố bên ngoài 15
1.3.2.2. Các yếu tố bên trong 17
1.3.3. Xác định cấu trúc vốn tối ưu thông qua phân tích EBIT – EPS 18
1.4. kinh nghiệm xây dựng cấu trúc vốn cho các công ty cổ phần ở một số
nước trên thế giới 19
- 2 -
Kết luận chương 1 .23
Chương 2: Phân tích cấu trúc vốn của các công ty cổ phần Thực phẩm trên
TTCK TP.HCM .24
2.1. Giới thiệu khái quát về các công ty cổ phần thực phẩm niêm yết trên TTCK
TP.HCM .24
2.2. Phân tích các tỷ số đòn bẩy tài chính 30
2.2.1. Tỷ số nợ trên vốn chủ sở hữu . 30
2.2.2. Hiệu quả sử dụng vốn (ROE) . 35
2.3. Đánh giá tính chất tối ưu của cấu trúc vốn . 37
2.3.1. Chi phí sử dụng vốn bình quân .37
2.3.2. Đánh giá tính chất tối ưu của cấu trúc vốn thông qua phân tích EBIT–EPS.40
2.4. Những rào cản trong việc huy động vốn và cấu trúc vốn của các công ty cổ
phần trên thị trường chứng khoán Việt Nam . 40
2.4.1. những rào cản xuất phát từ các công ty .42
2.4.2. Những rào cản xuất phát từ việc điều hành, quản lý vĩ mô 45
2.4.3. những rào cản xuất phát từ thị trường . 45
2.4.4. Những rào cản khác trong việc hoạch định cấu trúc vốn của các công ty cổ
phần thực phẩm trên TTCK TP.HCM .46
Kết luận chương 2 .52
Chương 3: Giải pháp xây dựng cấu trúc vốn cho phát triển dài hạn của các công
ty cổ phần Thực phẩm niêm yết trên TTCK TP.HCM .54
3.1. Định hướng mô hình cấu trúc vốn cho các công ty cổ phần Thực phẩm
niêm yết trên TTCK TP.HCM .54
3.1.1. Nhận diện rủi ro 54
3.1.2. Mô hình cấu trúc vốn hợp lý cho các công ty cổ phần thực phẩm niêm yết
trên TTCK TP.HCM trong thời gian tới trước mắt . 55
3.2. Giải pháp xây dựng cấu trúc vốn cho phát triển dài hạn của các công ty
- 3 -
cổ phần thực phẩm trên TTCK TP.HCM 56
3.2.1. Chuyển đổi cơ cấu tài trợ .56
3.2.2. Quản trị vốn lưu động toàn diện 57
3.2.3. Nâng cao trình độ quản trị cấu trúc vốn . 58
3.2.4. Tăng quy mô nợ vay dài hạn để tận dụng lãi suất thấp và lá chắn thuế nhằm
mở rộng sản xuất kinh doanh 59
3.2.5. Các giải pháp huy động vốn vay dài hạn đáp ứng mục tiêu mở rộng sản xuất
kinh doanh của các công ty thực phẩm trên TTCK TP.HCM .59
3.3. Các giải pháp hỗ trợ khác . 62
Kết luận chương 3 .70
Kết luận chung
Tài liệu tham khảo
Phục lục
51 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2604 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dẫn đến việc chọn các dự án đưa vào chương
trình đầu tư quá nhiều, không phù hợp với khả năng nguồn vốn, thời gian thi công
kéo dài, kém hiệu quả và còn nhiều rủi ro. Nhiều Bộ, ngành và địa phương không
Nguyễn Phú Đông Hà 22
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
thực hiện chủ trương tập trung dứt điểm trong quá trình phân bổ vốn kế hoạch hàng
năm. Tình trạng dàn trải trong đầu tư càng ngày càng thể hiện rõ nét hơn. Năm sau,
số lượng các dự án, công trình nhiều hơn năm trước. Các dự án nhóm B không thể
hoàn thành trong 4 năm, các dự án nhóm C không thể hoàn thành trong 2 năm.
Theo quy định, điều kiện để các dự án được bố trí kế hoạch đầu tư năm kế
hoạch là phải có đủ thủ tục về đầu tư và xây dựng ở thời điểm tháng 10 trước năm
kế hoạch. Thực tế, do nhiều nguyên nhân, vẫn còn tình trạng vốn chờ dự án, gây nên
tình trạng áp lực thiếu vốn giả tạo, nhiều lần trong năm kế hoạch phải điều hoà, điều
chuyển vốn. Ngoài ra còn có hiện tượng quyết định khống để hợp pháp hoá ở thời
điểm tháng 10 trước năm kế hoạch.
Ngoài ra, do có chủ trương phân cấp, chính quyền các địa phương hoặc các
Bộ quản lý ngành dọc có xu hướng cục bộ, chỉ chăm lo đến lợi ích của địa phương
mình mà đôi khi tương phản với lợi ích toàn cục dẫn đến đầu tư chồng chéo, xé nát
môi trường đầu tư
2.2.2. Về công tác quy hoạch
Theo các Nghị định 52/CP, 12/CP, 07/CP, quy định về công tác quy hoạch đã
có sự phân định tương đối rõ ràng trong công tác quản lý các dự án quy hoạch tổng
thể, quản lý quy hoạch xây dựng, quản lý quy hoạch địa phương, quản lý quy hoạch
ngành và đầu mối quản lý việc tạm ứng, thanh toán kinh phí lập dự án quy hoạch.
Các tiêu chuẩn về chất lượng đầu ra của công tác lập, thẩm định dự án quy hoạch đã
được nêu:
- Đối với công tác thẩm định các dự án quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội do
Uỷ ban nhân dân tỉnh lập, quy hoạch ngành do Bộ ngành lập: Phù hợp với chiến
lược phát triển kinh tế-xã hội; phân bổ các nguồn lực hợp lý; tính thống nhất quy
hoạch vùng, quy hoạch ngành và quy hoạch xây dựng; tính khả thi của quy hoạch.
- Đối với công tác thẩm định dự án quy hoạch xây dựng đô thị, nông thôn do
Ủy ban nhân dân tỉnh lập: Phù hợp chiến lược phát triển kinh tế-xã hội dài hạn, phù
hợp phân bổ dân cư; thống nhất với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, lãnh thổ
ngành; tính khả thi và biện pháp quản lý.
Các tiêu chuẩn trên được nêu trong Nghị định số 07/CP là một bước tiến dài
đối với việc đảm bảo chất lượng đầu ra của công tác lập, thẩm định các dự án quy
hoạch.
Tuy nhiên, những tiêu chuẩn trên so với yêu cầu của công tác quy hoạch là
chưa đủ đáp ứng đòi hỏi cả về số lượng tiêu chuẩn lẫn cơ chế vận hành để đáp ứng
tiêu chuẩn.
Thật vậy, tiêu chuẩn đảm bảo chất lượng không chỉ đầy đủ mà điều cần thiết
phải tạo nên cơ chế để tiêu chuẩn đặt ra có điều kiện được thực thi. Và trong thực tế,
các quy chế đầu tư xây dựng hiện hành không có điều kiện thứ hai – và là điều kiện
tiên quyết - để đảm bảo chất lượng đầu ra của công tác quy hoạch.
Hệ quả là chất lượng của công tác quy hoạch hiện nay chưa cao, các qui
hoạch chưa thực sự là cơ sở vững chắc cho việc hoạch định các kế hoạch phát triển
Nguyễn Phú Đông Hà 23
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
kinh tế - xã hội dài hạn, trung hạn và ngắn hạn. Các Bộ, ngành, địa phương đều tiến
hành xây dựng các quy hoạch; nhưng chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa qui hoạch
ngành và qui hoạch lãnh thổ; chưa có cách tiếp cận tổng thể, toàn diện; kết quả phổ
biến là tình trạng đầu tư còn chồng chéo, dư thừa công suất chế biến, nhưng lại thiếu
nghiêm trọng nguồn nguyên liệu, đầu tư thiếu đồng bộ, chắp vá, đầu tư nhiều lần,
thiết bị cũ nát, lạc hậu, gây lãng phí nguồn vốn đầu tư, hiệu quả kém.
Nhiều quy hoạch chưa đủ cụ thể để định hướng đầu tư, không phù hợp với
yêu cầu thực tế không bám sát thực tế phát triển kinh tế - xã hội của địa bàn và của
từng ngành, lĩnh vực. Các công trình, dự án chưa tính đến các điều kiện và yếu tố
cần thiết cho khai thác, sử dụng.
Hậu quả của việc đầu tư ồ ạt vào hệ thống các nhà máy xi măng lò đứng, cũng
như đầu tư hệ thống các nhà máy sản xuất đường từ mía...cho thấy hơn lúc nào hết
cần phải nâng cao hơn nữa chất lương các quy hoạch và đặc biệt cần nâng cao hơn
nữa vai trò, trách nhiệm của các chủ đầu tư, gắn quyền hạn với trách nhiệm cá nhân
của người có thẩm quyền và trách nhiệm bồi thường thiệt hại cụ thể nếu để xảy ra
những rủi ro do nguyên nhân chủ quan.
Vấn đề phân loại các dự án, tổ chức thẩm định và thẩm quyền phê duyệt các
loại quy hoạch hiện nay cũng chưa được quy định một cách cụ thể: quy hoạch ngành
đa lĩnh vực; ngành kinh tế kỹ thuật cụ thể; các tỉnh trọng điểm và không trọng điểm;
các khu công nghiệp tập trung.
Chất lượng của các quy hoạch còn nhiều hạn chế, cơ sở luận, phương pháp
lập chưa phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường; mức độ chuẩn xác thấp; vì vậy
thường xuyên phải điều chỉnh, kém tính ổn định.
2.2.3. Về quy trình quản lý dự án
Quy trình quản lý dự án còn rất phức tạp, rườm rà. Theo quy chế hiện hành,
công tác quản lý đầu tư và xây dựng được thực hiện thông qua nhiều cấp kiểm tra,
xét duyệt, quyết định.
Với một quy trình gồm nhiều cấp, sẽ rất dễ dẫn tới hiện tượng dàn trải về
trách nhiệm, không có cấp nào chịu trách nhiệm toàn diện và đầy đủ.
Hơn nữa, trong điều kiện cơ chế quản lý còn nhiều điểm chưa rõ ràng, thiếu
tính minh bạch, thông tin không đầy đủ, việc xác định một dự án đầu tư cụ thể có
hiệu quả kinh tế và hiệu quả về mặt xã hội là vấn đề không dễ dàng và có đầy đủ
tính thuyết phục.
Cần nghiên cứu để giảm đến mức tối thiểu các cấp trung gian liên quan trực
tiếp tới việc kiểm tra, giám sát, xét duyệt, quyết định đối với các dự án đầu tư; tăng
cường hơn nữa việc phân cấp trong lĩnh vực quản lý đầu tư và xây dựng.
2.2.4. Về giám sát thi công và chất lượng công trình
Chất lượng nhiều công trình rất thấp, đặc biệt đối với các dự án hoàn toàn sử
dụng nhà thầu trong nước. Các nhà thầu cố đưa giá thầu thấp để thắng thầu rồi sau
đó tìm mọi cách hạ giá thành bù lại phần chênh lệch. Mặt khác, các nhà thầu cũng
Nguyễn Phú Đông Hà 24
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
như tư vấn giám sát không tuân thủ nghiêm ngặt đúng quy trình, quy phạm và thiết
kế kỹ thuật nên công trình không đảm bảo chất lượng.
Trong những năm gần đây, tần suất xuất hiện sự cố công trình ngày một
nhanh; tỷ lệ công trình phải sửa chữa ngay khi đưa vào sử dụng ngày càng tăng; sai
phạm xảy ra ở hầu hết các công đoạn, bộ phận hình thành kết cấu công trình. Do
thông tin ban đầu không chính xác nên giải pháp thiết kế thường không phù hợp với
điều kiện địa hình, địa chất. Công tác giám sát rất hình thức.
Đặc biệt, chủ đầu tư có vai trò và quyền lực lớn, nhưng năng lực hạn chế và
bị môi trường nhiều tiêu cực chi phối nên dễ dàng chấp nhận bàn giao các công trình
kém chất lượng.
Một nguyên nhân quan trọng khác là các nhà thầu thường chấp nhận bỏ thầu
thấp; nhưng khi triển khai thi công thì đổ lỗi cho khách quan để xin bổ sung vốn,
hoặc thi công với mức tiết kiệm tối đa, chấp nhận chất lượng các công trình thấp.
Vai trò giám sát thi công còn rất hạn chế, tác dụng không đáng kể. Tình trạng
dễ dãi với các nhà thầu của các tư vấn giám sát và của các chủ đầu tư là một trong
những nguyên nhân rất đáng quan tâm nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng của các
công trình xây dựng. Với cơ chế giám sát như hiện nay, cơ quan tư vấn giám sát
không độc lập được, nên gây ra tình trạng không khách quan, gây nên chất lượng
kém và tạo điều kiện thất thoát vốn đầu tư.
2.2.5. Về mục tiêu, hiệu quả của vốn đầu tư.
Mục tiêu đầu tư đã được xác định trong nhiều thời kỳ kế hoạch 5 năm và hàng
năm là tập trung đầu tư để chuyển dịch nhanh cơ cấu đầu tư, tăng hiệu quả của nền
kinh tế, nhanh chóng hình thành các ngành kinh tế mũi nhọn, các vùng kinh tế trọng
điểm, tạo điều kiện cho một số sản phẩm chính của nền kinh tế có qui mô sản xuất
lớn, sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Tuy nhiên, kết quả của
nhiều năm đầu tư chưa thực hiện được mục tiêu đề ra.
Trong nông nghiệp còn nặng đầu tư vào thuỷ lợi (chiếm hơn 70% vốn đầu tư
của ngành), chủ yếu là thuỷ lợi phục vụ cây lúa, việc xây dựng các công trình thuỷ
lợi tưới cho các cây công nghiệp còn ít, còn coi nhẹ đầu tư thuỷ lợi cấp nước cho
công nghiệp và dân sinh, cho nuôi trồng thuỷ sản. Vốn cho công tác nghiên cứu
khoa học, chuyển giao công nghệ, công tác giống, khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư thời gian đầu chưa được quan tâm thoả đáng (những năm gần đây đã
được điều chỉnh).
Trong công nghiệp, đã quá chú trọng vào việc đầu tư để tăng công suất sản
xuất mà chưa chú ý đúng mức đến đầu ra của sản phẩm, đầu tư quá mức vào một số
ngành, làm cho một số sản phẩm cung vượt quá cầu; chưa tập trung đổi mới công
nghệ theo hướng hiện đại.
Nguồn vốn ngân sách Nhà nước đã tập trung chủ yếu cho các công trình hạ
tầng kinh tế và hạ tầng xã hội, nhằm thu hút nhiều hơn các thành phần kinh tế khác
tham gia đầu tư. Nhưng tình trạng đua nhau xây dựng các trụ sở làm việc với qui mô
Nguyễn Phú Đông Hà 25
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
và trang thiết bị đắt tiền vượt quá xa tiêu chuẩn cần thiết, gây lãng phí, kém hiệu
quả, tạo sự không công bằng. Bệnh hình thức, phô trương trong các công trình trụ sở
còn rất phổ biến, từ Trung ương đến địa phương.
Việc đầu tư vào các công trình không có khả năng cạnh tranh như các công
trình sản xuất thép, phân đạm, mía đường và một số sản phẩm khác trong thời gian
vừa qua mà giá thành sản phẩm vượt xa giá thành nhập khẩu sản phẩm cùng loại là
vấn đề rất đáng rút kinh nghiệm và nên tránh trong quá trình xem xét và triển khai
đầu tư
Vốn đầu tư thất thoát diễn ra từ khâu chuẩn bị dự án, thẩm định và phê duyệt
dự án đầu tư đến khâu thực hiện đầu tư và xây dựng. Tình trạng đầu tư không theo
quy hoạch được duyệt; khâu khảo sát nghiên cứu thiếu tính đồng bộ, không đầy đủ
các chỉ tiêu kinh tế, khả năng tài chính, nguồn nguyên liệu, bảo vệ môi trường, điều
tra thăm dò thị trường không kỹ; chủ trương đầu tư không đúng khi xem xét, phê
duyệt dự án đầu tư. Việc thẩm định và phê duyệt chỉ quan tâm tới tổng mức vốn đầu
tư, không quan tâm tới hiệu quả, điều kiện vận hành của dự án, nên nhiều dự án sau
khi hoàn thành và đưa vào sử dụng không phát huy tác dụng, gây lãng phí rất lớn.
Lãng phí và thất thoát và tiêu cực trong đầu tư và xây dựng đang là vấn đề
nhức nhối, cả xã hội quan tâm; kéo dài nhiều năm với mức độ ngày càng trầm trọng
mà đến nay vẫn chưa có biện pháp hữu hiệu để hạn chế.
Một số Bộ, ngành, địa phương khi xác định mức vốn đầu tư ít quan tâm đến
việc tiết kiệm vốn đầu tư, sử dụng đơn giá, định mức trong tính toán cao hơn quy
định, làm tăng khối lượng, tăng dự toán công trình. Nhiều dự án không làm đúng
thiết kế, chủ đầu tư và bên thi công móc nối, thoả thuận khai tăng khối lượng, điều
chỉnh dự toán để rút tiền và vật tư từ công trình.
Ngoài ra, do năng lực quản lý điều hành kém của chủ đầu tư, các ban quản lý
dự án, các tổ chức tư vấn cũng là nguyên nhân gây lãng phí, thất thoát vốn đầu tư.
Qua kiểm tra một số công trình, đã phát hiện tình trạng lãng phí và thất thoát
vốn nhà nước diễn ra phổ biến ở nhiều công trình, nhiều dự án, nhiều lĩnh vực,
Nguyễn Phú Đông Hà 26
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
nhiều cấp; tỷ lệ lãng phí và thất thoát của những công trình có mức lãng phí và thất
thoát thấp cũng tới 10%, cao thì lên tới 30-40%, thậm chí có công trình lên đến
80%. Đó là chưa tính đến những công trình đầu tư kém hiệu quả, công nghệ sản
xuất lạc hậu, sản xuất ra các sản phẩm với chất lượng kém, giá thành cao và không
tiêu thụ được...
Nguyên nhân chính, tổng quát của hiện tượng lãng phí và thất thoát nằm ở
chính những cơ chế kiểm soát hiện có; vừa cồng kềnh, vừa chồng chéo nhau, làm
cho có quá nhiều người có thẩm quyền can thiệp vào công trình nhưng không thể
xác định được trách nhiệm chính thuộc về ai, do đó không thể quản lý được hoặc
quản lý rất kém hiệu quả.
Đặc biệt, cơ chế không quy định rõ chủ thực sự của các công trình. Nếu như
có được một cơ chế đơn giản, không chồng chéo nhau, trong đó mỗi khâu chỉ có
một người chịu trách nhiệm toàn bộ trước pháp luật, thì chắc chắn tình hình sẽ
không tồi tệ như vậy.
Hàng năm nguồn vốn Nhà nước chủ yếu tập trung cho đầu tư xây dựng các
công trình mới, phần vốn cho công tác duy tu bảo dưỡng là rất thấp. Do vậy hiệu
quả tổng hợp sử dụng 2 nguồn vốn này chưa cao, công trình không được chú ý duy
tu bảo dưỡng thường xuyên nên mau xuống cấp, hư hỏng. Việc duy tu bảo dưỡng
chưa theo một kế hoạch và theo quy trình bắt buộc mà mới theo kiểu hỏng đâu sửa
đấy, việc sửa chữa chắp vá, hiệu quả thấp.
Đây là một tồn tại lớn trong công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, mặc
dù các nhà quản lý đã nhận thấy cần có sự điều chỉnh cho phù hợp hơn, nhưng còn
gặp nhiều khó khăn. Rất nhiều công trình, sau khi đưa vào sử dụng nhưng do thiếu
vốn duy tu bảo dưỡng, đã xuống cấp rất nhanh, nên chỉ 4-5 năm đã phải sửa chữa
nâng cấp, với số vốn chi phí cũng gần bằng khi xây mới, thậm chí phải xây dựng lại
rất tốn kém.
2.2.6. Vai trò, năng lực của chủ đầu tư
Trong quá trình kiểm tra, thanh tra một số dự án lớn, đã phát hiện thấy có tình
trạng chủ đầu tư giao cho các doanh nghiệp không đủ năng lực chuyên môn và tài
Nguyễn Phú Đông Hà 27
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
chính thực hiện công trình. Như vậy, dẫn đến những hậu quả tai hại đối với công
trình. Nguyên nhân là do chưa có quy định rõ ràng về trách nhiệm của chủ đầu tư;
không có một chủ đầu tư theo đúng nghĩa.
Trình độ cán bộ thực hiện các dự án đầu tư còn nhiều bất cập. Hiện nay có
tình trạng phổ biến là giám đốc dự án đầu tư đồng thời lại là người trực tiếp sử dụng
công trình sau khi hoàn thành. Ví dụ công trình xây dựng bệnh viện thường do giám
đốc bệnh viện làm chủ dự án; dự án trường học do hiệu trưởng nhà trường làm chủ
dự án; công trình nhà hát do giám đốc nhà hát làm chủ dự án... Nhưng do những
người này không có kiến thức chuyên môn về quản lý đầu tư và xây dựng nên sai
sót, đến khi bị thanh tra phát hiện, thì đổ cho các nguyên nhân khách quan như
không có nghiệp vụ về lĩnh vực quản lý đầu tư và xây dựng, và nếu như các cơ quan
quản lý nhà nước đã thẩm định và phê duyệt thì đổ lỗi cho các cơ quan đó...
Một trong những nguyên nhân rất đáng quan tâm là năng lực của các chủ đầu
tư, nhất là các chủ đầu tư sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước còn rất hạn chế
ngay từ khâu lập dự án đến các khâu triển khai tiếp theo. Việc hình thành các PMU
như hiện nay, thực chất là thêm một khâu trung gian không cần thiết, cần nghiên
cứu cải tiến, nếu xét thấy không phù hợp với thực tế quản lý thì giải tán.
Phần trên đây cho chúng ta cái nhìn tổng thể về bức tranh đầu tư từ vốn ngân
sách từ hai khía cạnh chủ yếu: Hiệu quả vĩ mô và cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách.
Chương 3 sẽ là chương bàn về việc cải thiện hiệu quả đầu tư từ vốn ngân sách trên
quan điểm thiết lập một mô hình quản lý đầu tư và các điều kiện phụ trợ nhằm tái
lập mô hình quản lý đầu tư theo triết lý mới, từ đó, cải thiện hiệu quả đầu tư của
đồng vốn đầu tư từ ngân sách.
Nguyễn Phú Đông Hà 28
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
Chương 3:HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐẦU TƯ
TỪ VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TẠI VIỆT NAM
3.1. Xây dựng quy trình đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước
Những tồn tại về cơ chế đầu tư được nêu trong phần 2.2 của chương trước đặt
ra một vấn đề là phải đổi mới cơ chế đầu tư để cải thiện hiệu quả của đồng vốn đầu
tư từ ngân sách.
Để đổi mới cơ chế đầu tư, đầu tiên, chúng ta cần phải xây dựng quy trình về
quản lý đầu tư thống nhất và xuyên suốt, nhằm tạo nên luồng chảy thông suốt cho
đồng vốn ngân sách.
Một cách nôm na, chúng ta phải xây dựng quy trình đầu tư theo ý tưởng uốn
thẳng các khúc quanh và bịt kín các kẽ hở để đồng vốn đầu tư chảy đúng hướng, có
trọng tâm, không dàn trải, đạt hiệu suất cao.
Cụ thể hơn, quy trình đầu tư phải giải quyết các cặp vấn đề mâu thuẩn đang
tồn tại như sau:
- Ý muốn tổng thể với cách làm manh mún trong quy hoạch đầu tư.
- Quy hoạch chiều dọc (Bộ ngành) và quy hoạch chiều ngang (địa phương).
- Mong muốn phân cấp đầu tư với cách làm cục bộ của các ngành, địa
phương.
- Mong muốn tập trung với cách làm dàn trải trong bố trí vốn đầu tư.
- Mục đích vì lợi ích tổng thể với cách làm chạy theo lợi ích cá nhân.
- Quyền hạn với trách nhiệm của các chủ thể tham gia quy trình quản lý đầu
tư.
- Quy định mang tính pháp lý với cách làm tuỳ tiện.
Để giải quyết các cặp vấn đề mâu thuẩn trên đây, quy trình quản lý đầu tư
phải hướng đến các mục tiêu cụ thể là:
- Bám sát với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội theo từng thời kỳ để có các
tiêu chí đánh giá cụ thể về chất lượng của toàn bộ hoạt động đầu tư từ vốn
ngân sách.
- Hướng đến việc thiết lập quy hoạch tổng thể mang tính chất khung cho toàn
bộ nền kinh tế.
- Thiết lập hệ thống phân cấp đầu tư từ vốn ngân sách hợp lý, dung hoà lợi
ích tổng thể với lợi ích cục bộ. Triệt tiêu yếu tố mặc cả giữa chính quyền địa
phương với Trung ương.
- Tạo nên hệ thống giám sát hiệu quả, phù hợp với quy trình.
- Quy định về quyền hạn và nghĩa vụ một cách rạch ròi.
- Chế tài nghiêm minh.
- Tạo cơ chế cho việc thiết lập hệ thống tiêu chuẩn mở về chất lượng của tất
cả các khâu trong quá trình đầu tư.
Với các yêu cầu trên , ta xây dựng mô hình thực hiện quy hoạch và tiến hành
dự án đầu tư từ vốn ngân sách như hình 3.1; hình 3.2 và hình 3.3.
Nguyễn Phú Đông Hà 29
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
Hình (3.1) mô tả tổng quát quá trình lập quy hoạch đầu tư tổng thể và thực
hiện quy hoạch; trong đó:
(1) Nhà nước với vai trò đại diện quyền lợi toàn dân vạch ra mục tiêu kinh tế - xã
hội theo từng giai đoạn (ngắn hạn, dài hạn) của mỗi thời kỳ. Mục tiêu này sẽ
là kim chỉ nam cho hoạt động đầu tư; và việc đánh giá sự thành công hay thất
bại của dự án đầu tư, hoặc sự thành công hay thất bại của đề án quy hoạch
đầu tư tổng thể phải được căn cứ vào mục tiêu đã hoạch định. Cơ quan hoạch
định mục tiêu kinh tế - xã hội từng thời kỳ là Quốc hội. Điều cần thiết là phải
biến những mục tiêu kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô thành các chỉ tiêu cụ thể.
Hình 3.1: Mô hình tổng quát quy trình quản lý đầu tư
Nguyễn Phú Đông Hà 30
Các ban quản
lý dự án
MỤC
TIÊU
Từng
thời kỳ
NỀN
KINH
TẾ
NHÀ
NƯỚC
Quy hoạch
đầu tư
Quản lý
Thực hiện dự án
(4)
Giám sát
(5)
Hoạch định
(1)
(2)
(3)
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
Hình 3.2: Quan hệ giữa Nhà nước với Ban quản lý dự án
BAN QUẢN LÝ
DỰ ÁN
NHÀ NƯỚC
THÀNH LẬP
(1)
BÁO CÁO NGHIÊN
CỨU KHẢ THI.
RA QUYẾT ĐỊNH
(3)
BÁO CÁO DỰ
ÁN HOÀN
THÀNH
(4)
NGHIỆM THU
DỰ ÁN
(5)
GIẢI THỂ
(6)
(2)
Hình 3.3: Quan hệ giữa Ban quản lý dự án với dự án
Nguyễn Phú Đông Hà 31
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
DỰ ÁN NHÀ THẦU
(3)
(1)
Giám sát
(2)
Thực hiện
BAN QUẢN LÝ
DỰ ÁN
Nguyễn Phú Đông Hà 32
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
(2) Căn cứ vào mục tiêu kinh tế xã hội đã được hoạch định ở bước (1),
cấp Nhà nước tiến hành quy hoạch đầu tư tổng thể. Mục đích của
việc quy hoạch đầu tư tổng thể là đưa đưa nền kinh tế đi đến mục
tiêu đã đề ra. Vì vậy, quy hoạch đầu tư tổng thể phải bám theo các
tiêu chí đã được cụ thể hoá của mục tiêu vĩ mô. Ở bước này, chúng
ta cần phải cụ thể hoá thêm một mức nữa đối với các tiêu chí đã nêu
ra. Sự cụ thể hoá này cần phải được thể hiện qua tính minh bạch của
quy hoạch tổng thể đầu tư. Như vậy, không còn những quy hoạch
tổng thể mang tính chung chung nữa, thay vào đó là những quy
hoạch cụ thể từng ngành, từng địa phương, có trọng điểm vì mục
tiêu phát triển chung. Vấn đề đặt ra là phải xác định ranh giới mức
độ cụ thể của quy hoạch tổng thể nhằm đạt được các yêu cầu: Thứ
nhất, bảo đảm tính cụ thể để có thể triển khai các dự án đầu tư cấp
Nhà nước theo ý đồ của quy hoạch; thứ hai, bảo đảm tính tổng thể,
thiết lập khung cho quy hoạch đầu tư ở cấp thấp hơn (Cấp địa
phương). Ở phần này, đề tài đề xuất là tiến hành quy hoạch tổng thể
theo phương pháp: Cụ thể hoá thành các dự án lớn ở cấp Nhà nước,
có vai trò nền móng trong từng lĩnh vực, từng khu vực nhằm bổ trợ,
thu hút đầu tư của địa phương, đầu tư của dân chúng và đầu tư từ
nước ngoài. Chính các dự án đó sẽ là khung cho quy hoạch ở cấp
thấp hơn.
Cơ quan Nhà nước nào sẽ trực tiếp vạch ra quy hoạch đầu tư tổng
thể?
(3) Căn cứ vào quy hoạch tổng thể đầu tư đã được nêu trong bước (2)
với các yêu cầu của nó, cấp Nhà nước tiến hành chương trình hành
động để vạch ra các dự án đầu tư phải thực hiện nhằm mục đích
triển khai ý đồ của quy hoạch nhằm đạt được mục tiêu đã hoạch
định. Tiếp theo, cấp Nhà nước ra quyết định thành lập các ban quản
lý theo từng dự án. Bước thứ (3) này nhằm mục tiêu xoá bỏ cách
Nguyễn Phú Đông Hà 33
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
làm trước đây: Một Bộ ngành có thể quản lý rất nhiều dự án, từ dự
án nhóm A cho đến dự án nhóm C, đưa đến tình trạng dàn hàng
ngang trong quản lý, không bảo đảm hiệu quả, không gắn với trách
nhiệm rõ ràng. Thế thì, vấn đề đặt ra là: Ban quản lý dự án gồm
những thành viên nào? Đề tài đề xuất các thành viên tham gia Ban
quản lý dự án như sau: Đại diện Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đại diện
Bộ xây dựng, đại diện Bộ ngành quản lý lĩnh vực đầu tư của dự án,
đại diện Chính quyền địa phương (cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương) tại khu vực dự án tiến hành đầu tư. Như vậy, ban quản
lý dự án gồm các thành viên quản lý ngành dọc và quản lý địa
phương, nhờ đó, có được sự tương hợp giữa chiều dọc và chiều
ngang của nền kinh tế; môi trường đầu tư không bị cắt vụn, giải
quyết mâu thuẫn quy hoạch chiều dọc với quy hoạch chiều ngang.
Ban quản lý dự án cần phải bầu ra trưởng ban, trưởng ban là người
đại diện pháp lý, có quyền hạn và trách nhiệm cao nhất trước pháp
luật về dự án đảm trách.
(4) Ban quản lý dự án sau khi được thành lập ở bước thứ (3), sẽ tiến
hành thực hiện dự án như đã giao, chịu sự quản lý trực tiếp của cấp
Nhà nước. Ban quản lý dự án là cơ quan duy nhất có quyền thực
hiện dự án đầu tư và cũng là cơ quan duy nhất chịu trách nhiệm
trước pháp luật nếu có vi phạm xãy ra. Để thực hiện dự án, Ban
quản lý dự án phải tiến hành qua nhiều khâu, được lý giải theo mô
hình 3.3.
(5) Trong quá trình thực hiện dự án đầu tư từ vốn ngân sách, Ban quản
lý chịu sự giám sát của hội đồng giám sát cấp Nhà nước. Theo đó,
hội đồng giám sát sẽ giám sát quá trình thực hiện đầu tư của ban
quản lý. Việc giám sát sẽ thực hiện theo hệ thống tiêu chí sau: Thứ
nhất, các tiêu chí cụ thể của mục tiêu kinh tế xã hội theo từng thời
kỳ; thứ hai, các tiêu chí của quy hoạch tổng thể đầu tư; thứ ba, các
Nguyễn Phú Đông Hà 34
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
tiêu chí từ báo cáo nghiên cứu tiền khả thi và khả thi của ban quản
lý đã trình. Khi thực hiện giám sát, hội đồng giám sát không được
có hành vi cản trở tiến độ dự án hoặc cưỡng ép dự án đình chỉ thi
công để kiểm tra. Nếu phát hiện có sai phạm, phải báo cáo ngay với
cấp Nhà nước để có biện pháp xử lý kịp thời. Hội đồng giám sát
phải chịu trách nhiệm trực tiếp nếu có sai sót nhưng không được
báo cáo hoặc hạng mục công trình đã được giám định nhưng không
đảm bảo đúng yêu cầu như trong biên bản giám định.
Như vậy, triết lý mô hình này chính là quản lý theo từng dự án, quyền hạn và
trách nhiệm gắn với một dự án đầu tư cụ thể, người thực hiện dự án phải là người
tường tận nhất các thông tin về dự án mình đảm trách. Triết lý này khắc phục một
tồn tại rất lớn của quy trình đầu tư hiện hành là không quản theo từng dự án và quản
theo từng khâu (thẩm định, báo cáo khả thi, thi công, v.v…) dẫn đến tình trạng
không tường tận thông tin về dự án mà mình đảm trách, dẫn đến nhũng nhiễu, tiêu
cực, chồng chéo về quyền hạn, dàn trải về trách nhiệm, làm cho đồng vốn đầu tư
không đạt hiệu quả cao.
Để làm rõ mô hình 3.1, các mô hình 3.2 và mô hình 3.3 sẽ triển khai các mối
quan hệ chưa được mô tả thật sự rõ nét giữa cấp Nhà nước với Ban quản lý dự án và
giữa ban quản lý dự án với dự án.
Trước tiên, mô hình 3.2 cho chúng ta thấy giữa cấp Nhà nước và Ban quản lý
dự án có sáu mối quan hệ sau đây:
(1) Cấp Nhà nước ra quyết định thành lập Ban quản lý dự án với chức
năng thực hiện dự án đầu tư.
(2) Ban quản lý dự án có trách nhiệm khảo sát, nghiên cứu, lập báo cáo
nghiên cứu tiền khả thi và báo cáo nghiên cứu khả thi trình cho cấp
Nhà nước để cấp Nhà nước xem xét.
(3) Sau khi xem xét, nếu xét thấy không đạt, cấp Nhà nước yêu cầu
tiến hành lại bước thứ 2 hoặc tiến hành bước thứ (6); nếu đạt, cấp
Nguyễn Phú Đông Hà 35
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
Nhà nước ra quyết định thực hiện dự án để Ban quản lý dự án tiến
hành khởi công dự án.
(4) Sau khi cấp Nhà nước ra quyết định, Ban quản lý dự án tiến hành
thực hiện dự án, sau khi hoàn thành, Ban quản lý dự án có trách
nhiệm gửi báo cáo hoàn tất để cấp Nhà nước xem xét.
(5) Khi nhận được báo cáo hoàn tất, cấp Nhà nước tiến hành nghiệm
thu dự án.
(6) Nếu nghiệm thu không đạt, cấp Nhà nước yêu cầu giải trình, nếu có
sai phạm, tuỳ theo mức độ sẽ bị xử lý theo khung chế tài, và mối
quan hệ bị đình chỉ ngay tại bước này để xử lý. Ngược tại, nếu khi
nghiệm thu thành công, Nhà nước ra quyết định giải thể ban quản lý
dự án.
Với mô hình này, Ban quản lý dự án chịu trách nhiệm trước cấp Nhà nước về
chất lượng hoàn thành dự án được giao, cấp Nhà nước sẽ chịu trách nhiệm về cơ sở
để dự án được tiến hành và chất lượng của công tác nghiệm thu.
Nếu mô hình 3.2 là sự cụ thể hoá mối quan hệ giữa cấp Nhà nước với ban
quản lý dự án thì mô hình 3.3 lại là sự cụ thể hoá mối quan hệ nối tiếp giữa ban
quản lý dự án với dự án.
(1) Sau khi được phép thực hiện dự án, Ban quản lý dự án tiến hành gọi
thầu để chọn ra nhà thầu có năng lực và giá cả cạnh tranh để thực
hiện dự án.
(2) Trong quá trình thực hiện, Ban quản lý dự án, với tư cách là tổ chức
chịu trách nhiệm cao nhất và duy nhất của dự án, giám sát quá trình
thực hiện dự án.
(3) Sau khi hoàn tất, Ban quản lý dự án tiến hành nghiệm thu theo các
tiêu chuẩn đã đặt ra ban đầu, chịu trách nhiệm với quyết định
nghiệm thu của mình
Với mô hình 3.1, việc thực hiện dự án sẽ được giao khoán cho Ban quản lý dự
án, cấp Nhà nước chỉ quan tâm đến đầu ra của dự án. Do đó, về nguyên tắc, sẽ
Nguyễn Phú Đông Hà 36
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
không có mô hình chuẩn cho mối quan hệ giữa ban quản lý dự án và dự án. Nhưng
một cách chung nhất, có thể xem Ban quản lý dự án đóng vai trò chủ đầu tư, thực
hiện thuê mướn nhà thầu hoặc đấu thầu, sau đó, Ban quản lý dự án sẽ giám sát hoạt
động của nhà thầu theo những nguyên tắc riêng của mình. Và như vậy, mô hình 3.3
biểu diễn mối quan hệ chung nhất giữa Ban quản lý dự án và dự án nhưng chỉ có
tính tham khảo, không bắt buộc.
Quy trình quản lý đầu tư mô tả trên đây là quy trình quản lý đầu tư cấp Trung
ương. Còn đối với việc quản lý đầu tư của cấp địa phương cũng được tuân theo mô
hình tương tự với các chủ thể tham gia quy trình được giảm xuống theo cấp bập
tương ứng.
Chẳng hạn, quy trình quản lý đầu tư của cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương có quy trình tương tự như mô hình 3.1 với những điều chỉnh như sau:
- “Mục tiêu kinh tế” được thay bằng “mục tiêu của các dự án cấp trung ương
đầu tư trên địa bàn”.
- “Nhà nước” được thay bằng “Chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương”.
- “Nền kinh tế” được thay bằng “kinh tế địa phương”.
- ”Quy hoạch đầu tư” được thay bằng “Quy hoạch đầu tư cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương”.
- “Ban quản lý dự án” trực thuộc được lập ra từ đại diện các Sở ngành, Quận
huyện.
Quy trình được tiến hành theo các bước như sau:
(1) Đầu tiên, chính quyền địa phương dựa vào mục tiêu của các dự án
được thực hiện trên địa bàn để làm căn cứ cho việc lập quy hoạch
đầu tư, và cũng dựa vào các mục tiêu đó để cụ thể hoá thành các
thước đo cho tiêu chuẩn thực hiện quy hoạch.
(2) Căn cứ vào mục tiêu trên, Chính quyền địa phương lập quy hoạch
đầu tư tổng thể đầu tư địa phương. Quy hoạch đầu tư tổng thể phải
bám theo các tiêu chí đã được cụ thể hoá của mục tiêu chung.
Nguyễn Phú Đông Hà 37
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
(3) Căn cứ vào quy hoạch tổng thể đầu tư của địa phương, với các yêu
cầu của nó, Chính quyền địa phương vạch ra các dự án đầu tư phải
thực hiện nhằm mục đích triển khai ý đồ của quy hoạch nhằm đạt
được mục tiêu chung. Sau đó, thành lập các ban quản lý theo từng
dự án.
(4) Ban quản lý dự án sẽ tiến hành thực hiện dự án như đã giao, chịu sự
quản lý trực tiếp của chính quyền cấp địa phương. Ban quản lý dự
án là cơ quan duy nhất có quyền thực hiện dự án đầu tư và cũng là
cơ quan duy nhất chịu trách nhiệm trước pháp luật nếu có vi phạm
xãy ra.
(5) Ban quản lý chịu sự giám sát của hội đồng giám sát cấp Chính
quyền địa phương. Theo đó, hội đồng giám sát sẽ giám sát quá trình
thực hiện đầu tư của ban quản lý dự án.
Từ đây, khi chúng ta chỉ tập trung vào quy trinh quản lý đầu tư cấp Trung
ương và xem như quy trình quản lý cấp địa phương sẽ được giải quyết tương tự. Và
đề tài này cũng giới hạn phạm vi trong việc không đề cập đến những đặc thù của địa
phương so với Trung ương.
3.2. Quy trình thanh toán vốn đầu tư
Một vấn đề nữa là thanh toán vốn đầu tư, hiện nay, việc thanh toán vốn đầu tư
được tiến hành theo quy trình gồm rất nhiều bước theo phương thức thanh toán theo
tiến độ thực hiện. Mỗi lần muốn thanh toán khối lượng, Chủ đầu tư phải gửi công
văn đến cơ quan tài chính cùng cấp xin thanh toán khối lượng kèm theo đầy đủ hồ
sơ, chứng từ liên quan. Cơ quan Tài chính thẩm tra hồ sơ và thực địa tại địa bàn,nếu
đồng ý sẽ cấp bằng chuyển khoản thông qua Kho bạc nhà nước cùng cấp. Kho bạc
nhà nước, sau khi thẩm tra toàn bộ hồ sơ cấp phát, tiến hành cấp cho đơn vị.
Tiến trình thanh toán vốn đầu tư phải trải qua 2 lần thẩm tra, chưa kể quá
trình thẩm tra, thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi, thẩm định thiết kế xây dựng
(nếu có), thẩm tra trước khi ra quyết định đầu tư.
Nguyễn Phú Đông Hà 38
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
Mặc dù vậy, hiệu quả trong việc thẩm tra, cấp phát vốn đầu tư không cao,
luôn dẫn đến hai trạng thái tiêu cực: Một là cơ quan tài chính sau khi thẩm tra
thường cắt bớt khối lượng thực tế phát sinh của nhà thầu đã thực hiện để bảo đảm
tính an toàn của việc cấp phát ngân sách; hai là cơ quan tài chính cấp vượt khối
lượng thực tế phát sinh do không đủ năng lực chuyên môn để thẩm tra khối lượng
khai khống của đơn vị (Cũng không loại trừ có các hành vi tiêu cực)
Như vậy, với quy trình thanh toán vốn đầu tư có nhiều bước lặp đi lặp lại sẽ
làm chậm trễ tiến độ thực hiện đầu tư, thiếu hiệu quả kể cả về chất lượng khâu thanh
toán lẫn chất lượng thực hiện dự án. Do đó, cần phải rút ngắn thời gian bằng một
quy trình đơn giản hơn và mang lại hiệu quả cao hơn.
Với triết lý của mô hình 3.1, thay vì để cho các cơ quan chức năng quản lý
dàn trải theo từng khâu, đưa ra quy trình quản lý theo từng dự án. Quy trình thanh
toán sẽ bám theo quy trình tổng thể 3.1 nhằm mục đích đơn giản hoá và hướng đến
hiệu quả cao hơn.
Hình 3.4 sau đây mô tả về quy trình thanh toán vốn đầu tư theo nguyên tắc
sau:
- Phù hợp với mô hình 3.1.
- Bảo đảm tính an toàn của ngân sách.
- Đảm bảo tính chủ động cho chủ đầu tư.
- Đảm bảo tính linh hoạt của vốn đầu tư từ ngân sách
Trình tự các bước thanh toán như sau:
(1) Cấp Nhà nước giao dự án cho Ban quản lý dự án thực hiện kèm
theo kế hoạch vốn thực hiện dự án.
(2) Ban quản lý dự án sau khi nghiên cứu, khảo sát, lập báo cáo nghiên
cứu tiền khả thi và báo cáo nghiên cứu khả thi trình cấp Nhà nước,
kèm theo bảng ngân sách dự trù.
(3) Căn cứ vào kết quả thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi, cấp Nhà
nước ra quyết định thực hiện dự án và vốn đầu tư dự trù; đồng thời,
Nguyễn Phú Đông Hà 39
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
cấp Nhà nước giao hạn mức ngân sách cho Kho bạc hoặc hạn mức
tín dụng cho Quỹ Hỗ trợ phát triển về cấp vốn cho dự án.
BAN
QUẢN LÝ
DỰ ÁN
NHÀ
NƯỚC
Thực
hiện
01
02
03
04
06
05
Hình 3.4: Mô hình thanh toán vốn đầu tư
KHO BẠC,
Quỹ HTPT
DỰ ÁN
Nguyễn Phú Đông Hà 40
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
(4) Trong quá trình thực hiện dự án được giao, Ban quản lý dự án căn
cứ khối lượng thực hiện, yêu cầu Kho bạc nhà nước hoặc Quỹ Hỗ
trợ phát triển thanh toán khối lượng cho nhà thầu theo tiến độ thực
hiện và các quy định trong hợp đồng giao thầu.
(5) Dựa trên yêu cầu thanh toán của đơn vị, Kho bạc nhà nước hoặc
Quỹ Hỗ trợ phát triển thẩm tra khối lượng thực hiện và hợp đồng.
(6) Sau khi thẩm tra, Kho bạc nhà nước hoặc Quỹ Hỗ trợ phát triển cấp
thanh toán vốn đầu tư theo yêu cầu thực tế.
Quy trình thanh toán trên bảo đảm bốn nguyên tắc đã nêu trên.Thứ nhất, có
thể kết hợp với mô hình tổng thể 3.1 thông qua việc cố định các mối quan hệ sẵn có;
thứ hai, việc cấp phát qua tổ chức tín dụng của Nhà nước giúp đồng vốn ngân sách
được sử dụng an toàn; thứ ba, bất cứ khi nào khối lượng thực tế phát sinh đủ điều
kiện thanh toán cho nhà thầu, chủ đầu tư có thể đề nghị Kho bạc nhà nước hoặc Quỹ
hỗ trợ phát triển thanh toán khối lượng theo hợp đồng; thứ tư, do cấp vốn trọn gói
dưới hình thức hạn mức ngân sách hoặc hạn mức tín dụng, do đó, đồng vốn ngân
sách có thể điều chuyển linh hoạt, điều hoà giữa nơi thừa vốn với nơi thiếu vốn,
hoặc có thể giao vốn khi chưa có vốn thực tế (thông qua hình thức hạn mức tín
dụng).
Mô hình 3.1 kết hợp với các quy trình 3.2, quy trình 3.3 và quy trình thanh
toán vốn đầu tư 3.4 cho chúng ta một bức tranh tổng thể về quy trình quản lý đầu tư
từ vốn ngân sách và đã giải quyết các mâu thuẫn cơ bản của quy chế đầu tư hiện
hành.
3.3. Khắc phục các rào cản trong việc thực hiện quyền hạn và trách
nhiệm
Quy trình trên không thể vận hành thông suốt nếu các chủ thể tham gia quy
trình không thực hiện quyền hạn và gánh chịu trách nhiệm một cách đầy đủ, rõ ràng.
Đó là các rào cản quan trọng mà quy chế đầu tư hiện hành không thể vượt qua. Các
rào cản được mô tả như trong hình 3.5 gồm ba loại rào cản chủ yếu sau đây:
Nguyễn Phú Đông Hà 41
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
- Thứ nhất, rào cản về năng lực pháp lý: Các chủ thể tham qua quy trình đầu
tư không có năng lực pháp lý thích hợp để thực thi đầy đủ quyền hạn của
mình cũng như không có chế tài rõ ràng để gánh trách nhiệm một cách đầy
đủ nhất.
- Thứ hai, rào cản về năng lực chuyên môn: Nếu rào cản năng lực pháp lý đã
vượt qua (đã được phép làm) nhưng nếu năng lực chuyên môn kém sẽ dẫn
đến các chủ thể tham gia không thể thực thi quyền hạn và nghĩa vụ của
mình (được làm mà không thể làm).
- Thứ ba, rào cản về mối quan hệ cá nhân: Sau khi vượt qua hai rào cản trên,
các chủ thể lại vướng phải vấn đề mối quan hệ cá nhân, nể nang lẫn nhau.
Do đó, không thể thẳng tay thực hiện quyền hạn của mình. dẫn đến tiêu cực,
che đậy các khuyết tật của quá trình thực hiện đầu tư. Đây là vấn đề vô cùng
nan giải (mối quan hệ cá nhân là vấn đề xã hội).
Hình 3.5: Các rào cản đối với việc thực thi quyền hạn và trách nhiệm của các
chủ thể tham gia quy trình đầu tư
Chủ thể tham
gia quy trình
đầu tư
Quyền hạn &
Trách nhiệm
Pháp
lý
Chuyên
môn
Quan
hệ
Nguyễn Phú Đông Hà 42
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
Nếu một trong ba rào cản trên không vượt qua được, quyền hạn và trách
nhiệm không được các chủ thể tham gia thực thi một cách đầy đủ. Khi đó, quy trình
đầu tư chỉ có thể tồn tại trên giấy; và như vậy, quy chế đầu tư bị phá sản, hoạt động
đầu tư từ vốn ngân sách không đi đúng hướng.
Ba loại rào cản trên được xếp theo thứ tự ưu tiên như hình 3.4, theo đó, rào
cản pháp lý được đặt lên đầu tiên, vì đó là điều kiện tiên quyết, nếu quyền hạn
không được công nhận và trách nhiệm không bị ràng buộc về mặt pháp lý thì không
có cơ hội cho các chủ thể tham gia tiếp cận với các rào cản khác. Tương tự như vậy,
nếu rào cản pháp lý đã vượt qua, chủ thể tham gia phải tự xét xem bản thân đã đủ
năng lực chuyên môn để thực thi quyền hạn và gành lấy trách nhiệm pháp lý trao
phó hay chưa (?) trước khi nghĩ đến tình cảm mối quan hệ cá nhân chi phối. Đến
lượt nó, rào cản về mối quan hệ cá nhân, nể nang tình cảm lẫn nhau rất khó khắc
phục xét về phương diện pháp lý.
Để có giải pháp giúp các chủ thể vượt qua các rào cản trên, cần phải xác định
rõ quyền hạn và trách nhiệm của từng chủ thể tham gia như sau:
Cấp Nhà nước:
- Quyền hạn: Hoạch định đầu tư; thành lập các ban quản lý dự án; thẩm định
báo cáo nghiên cứu khả thi; ra quyết định đầu tư; nghiệm thu công trình;
giám sát các việc thực hiện đầu tư.
- Trách nhiệm: Chịu trách nhiệm trước Pháp luật về quy hoạch đầu tư tổng
thể; về việc thành lập các ban quản lý dự án; về tính đúng đắn của quyết
định tiến hành dự án đầu tư trên cơ sở báo cáo nghiên cứu khả thi của ban
quản lý dự án; về việc phát hiện sai phạm trong quá trình thực hiện đầu tư
của các ban quản lý dự án.
Các Ban quản lý dự án:
- Quyền hạn: Sau khi có quyết định thực hiện dự án của Nhà nước, Ban quản
lý dự án có toàn quyền trong việc thực hiện dự án từ đấu thầu cho đến thanh
toán vốn đầu tư, v.v… .
Nguyễn Phú Đông Hà 43
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
- Trách nhiệm: Chịu trách nhiệm trước Nhà nước, trước pháp luật về chất
lượng của việc thực hiện dự án đầu tư.
Hội đồng giám sát của Nhà nước:
- Quyền hạn: Có quyền giám sát Quá trình thực hiện đầu tư của Ban quản lý
dự án; kiến nghị ý kiến lên Nhà nước và đề xuất phương án xử lý sai phạm
nếu có trong khung chế tài theo quy định.
- Trách nhiệm: Có trách nhiệm kịp thời phát hiện sai phạm; thực hiện giám
sát theo phương thức đã quy định.
Để hỗ trợ cho các chủ thể thực hiện các quyền hạn và gánh lấy trách nhiệm
của mình, về mặt pháp lý, phải đưa ra các cơ chế, tạo điều kiện để các chủ thể thực
hiện quyền hạn và có các biện pháp chế tài nghiêm minh ràng buộc trách nhiệm
tương ứng với quyền hạn.
Theo đó, với quy trình như hình 3.1, các chủ thể tham gia quy trình được phân
định trách nhiệm và quyền hạn. Vấn đề còn lại, quy chế đầu tư phải có quy định chế
tài rõ ràng, chặt chẽ để các chủ thể tham gia gánh lấy trách nhiệm một cách đầy đủ
nhất. Nhờ đó, vượt qua rào cản thứ nhất: Pháp lý.
Khi về mặt pháp lý, quyền lợi và trách nhiệm được quy định rạch ròi, các cá
nhân thực hiện phải có kiến thức chuyên môn và kỹ năng để cụ thể hoá quyền hạn
và trách nhiệm thành hành động, tuy nhiên, với yêu cầu của thời đại, quy chế phải
tạo cơ chế để bồi dưỡng kiến thức chuyên môn trong dài hạn và thuê mướn chuyên
gia trong ngắn hạn, nhân sự trong bộ máy thực hiện quy trình chỉ đóng vai trò điều
phối viên.
Rào cản về tình cảm có thể được giảm thiểu nhờ tính rõ ràng trong quy định
về quyền hạn cũng như chế tài trách nhiệm.
3.4. Tăng cường độ sâu cho vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước
Một vấn đề nữa, việc thiết lập quy trình quản lý đầu tư nhằm cải thiện hiệu quả
của đồng vốn đầu tư từ ngân sách. Nhưng khi xét trên bình diện tổng thể, vốn đầu tư
cần phải tạo động lực, kích thích đầu tư toàn xã hội, tạo hiệu ứng truyền dẫn lên
Nguyễn Phú Đông Hà 44
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
toàn bộ nền kinh tế. Khi đồng vốn đầu tư đảm bảo được yêu cầu này được gọi là vốn
đầu tư có độ sâu kinh tế.
Một đồng vốn được gọi là có độ sâu đầu tư khi đồng vốn đó được đầu tư vào
dự án có độ sâu. (Xem hộp 3.1)
Hộp 3.1: Độ sâu của dự án đầu tư.
Khi đồng vốn có độ sâu, tác động lên nền kinh tế sẽ có sự khác biệt lớn so
với đồng vốn đầu tư thông thường như mô tả trong hình 3.6 và 3.7.
Như hình 3.6 và 3.7 mô tả, vốn đầu tư nếu được đầu tư có độ sâu, sức
truyền dẫn của nó sẽ rất mạnh
Đầu ra của dự án A tác động đến đầu vào của ngành kinh tế
khác và đầu ra của dự án B không tồn tại tác động này; hoặc:
Đầu ra của cả 2 dự án đều tồn tại tác động lên ngành kinh tế
khác nhưng ngành kinh tế chịu tác động bởi dự án A có chiều
sâu hơn ngành kinh tế chịu tác động bởi dự án B.
Đầu ra của dự án A tác động đến đầu vào của dự án B; hoặc:
. Dự án đầu tư A được gọi là có độ sâu kinh tế sâu hơn dự án
đầu tư B nếu:
. Đầu ra của dự án A được gọi là tác động đến đầu vào của dự
án B nếu đầu ra của dự án A được dụng làm đầu vào chủ yếu cho dự
án B (Tài sản cố định; nguyên, nhiên vật liệu chủ yếu; v.v…).
. Một dự án đầu tư được gọi là có độ sâu khi đầu ra (sản phẩm)
của dự án đó được dùng làm đầu vào cho dự án đầu tư khác.
. Độ sâu của một hoạt động đầu tư bất kỳ là tác động của sản
phẩm dự án đầu tư (đầu ra) lên đầu vào của ngành khác, lĩnh vực khác
trong nền kinh tế.
Nguyễn Phú Đông Hà 45
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
Hình 3.6: Đầu tư thông thường
Hình 3.7: Đầu tư có độ sâu:
Tài trợ
TSCĐ
Sản xuất Thành phẩm
TSLĐ
Doanh số
Hiệu quả
Tài trợ
Thiết bị
Sản xuất Thành phẩm Doanh số
Hiệu quả
Nhân công
TSCĐ
Tài trợ
TSLĐ
Hiệu quả
Sản xuất Thành phẩm Doanh số
Nguyễn Phú Đông Hà 46
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
Định lượng độ sâu kinh tế:
Theo quan hệ thuận giữa vốn đầu tư và tăng trưởng kinh tế như đã trình
bày xuyên suốt đề tài:
Tăng trưởng = f(Vốn đầu tư)
Với độ sâu kinh tế khác nhau, tác động của vốn đầu tư đến tăng trưởng
kinh tế khác nhau, theo đó, vốn đầu tư càng sâu, gây hiệu ứng lên tăng trưởng
càng lớn; hay nói cách khác hàm số của tăng trưởng theo đầu tư sẽ có thêm
tham số về độ sâu của vốn đầu tư:
Tăng trưởng = f1(d, Vốn đầu tư)
Với d: độ sâu của vốn đầu tư.
Hàm số tăng trưởng theo đầu tư được thể hiện dưới nhiều hình thức khác
nhau, tùy theo quan điểm của từng tác giả. Tuy nhiên, hàm số với hệ số ICOR
được sử dụng tương đối rộng rãi cho việc đo lường hiệu suất đầu tư tác động
đến tăng trưởng kinh tế; được biểu diễn theo công thức:
Tăng trưởng = (1/k) x Vốn đầu tư.
Với k: hệ số ICOR.
Hệ số ICOR thể hiện mối quan hệ giữa vốn đầu tư và tăng trưởng kinh tế.
Nó cho biết đầu tư bao nhiêu đồng thì tạo ra một đồng tăng trưởng. Hay:
ICOR = Vốn đầu tư / Tăng trưởng
Nếu hệ số ICOR càng lớn, hiệu suất đầu tư càng thấp và ngược lại, hệ số
ICOR càng bé, hiệu suất đầu tư càng cao.
Ta xét ví dụ tổng quát sau:
Có 2 dự án, dự án A và dự án B. Trong đó:
- Dự án A nhận được số vốn đầu tư là I.
- Tạo nên giá trị gia tăng là h%.
- Đầu ra của dự án A được chiếm d% trong tổng giá trị đầu vào của dự án
B.
Nếu không xét đến tham số d%, hàm số tăng trưởng theo đầu tư như sau:
Tăng trưởng = h% x I
Nói cách khác, h% = 1/k.
Nếu dự án A được đầu tư theo chiều sâu, hiệu quả của dự án B có được từ
tác động chiều sâu của dự án A sẽ là:
h% x d% x I.
Khi đó, hiệu suất tổng cộng của nền kinh tế có được do sự tác động của
vốn đầu tư vào dự án A sẽ là:
h%(1+d%)I.
Do h% = 1/k nên:
Hiệu suất tổng cộng = Tăng trưởng = [(1+d%)/k]I.
Nếu giả định, nền kinh tế đầu tư sản xuất theo chiều sâu, hàm số tăng
trưởng theo đầu tư sẽ có dạng:
Tăng trưởng = [(1+d%)/k)] x Đầu tư.
Vì vậy, kinh tế tăng trưởng bằng ba phương pháp như sau:
Phương pháp 1: Tăng vốn đầu tư (tăng I).
Phương pháp 2: Tăng hiệu suất đầu tư (tăng 1/k hoặc giảm k).
Nguyễn Phú Đông Hà 47
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
Phương pháp 3: Tăng độ sâu kinh tế của vốn đầu tư (tăng d)
Theo các phương pháp trên, ngoài các biện pháp tăng cường vốn đầu tư (giải
pháp về lượng), tăng hiệu quả vốn đầu tư (giải pháp về chất); biện pháp tăng cường
độ sâu kinh tế là giải pháp truyền dẫn hiệu quả của đồng vốn đầu tư sang các lĩnh
vực khác, các dự án khác.
Do quy trình đầu tư được thiết kế để áp dụng chung cho hoạt động đầu tư từ
vốn ngân sách, bất kể độ sâu kinh tế như thế nào. Do đó, lời giải bài toán tăng độ
sâu kinh tế không nằm ở cấu trúc quy trình quản lý đầu tư mà nằm ở yếu tố nội tại
của quy trình như: Việc xác định mục tiêu chung cho toàn bộ nền kinh tế, việc xây
dựng quy hoạch đầu tư tổng thể, việc xác định các dự án, thẩm định dự án, v.v… .
Vì vậy, để đưa đồng vốn đầu tư xuống các tầng sâu kinh tế thì không cách gì
khác hơn là khi thiết lập các điểm mốc của quy trình đầu tư ta phải chú ý đến nó.
Theo đó, khi xác lập sau khi xác lập mục tiêu kinh tế, chúng ta phải xây dựng quy
hoạch đầu tư theo hướng nhắm đến các ngành, các lĩnh vực tạo động lực kích thích
đầu tư toàn xã hội để hướng đến hoàn thành mục tiêu đề ra.
Nói cách khác, Mục tiêu kinh tế đề ra không thể được thực hiện toàn bộ bởi
các dự án đầu tư theo quy hoạch đầu tư. Thay vào đó, các dự án đầu tư là những
điểm nhấn tạo động lực, kích thích đầu tư nhằm tiến đến hoàn thành mục tiêu đặt ra.
Tác động tích cực của cách làm trên sẽ giúp đạt được các mục tiêu rộng hơn,
xa hơn trong phạm vi nguồn lực ngân sách là hữu hạn.
Nguyễn Phú Đông Hà 48
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
KẾT LUẬN.
Trải qua ba chương, đề tài đã hoàn thành nhiệm vụ đặt ra. Trong đó, mục
đích và vai trò của việc đầu tư từ ngân sách được nêu bật lên; và được xem xét qua
lăng kính quy chế đầu tư từ ngân sách hiện hành kết hợp với nét nhìn tổng quát về
hiệu quả đầu tư; Từ đó, đưa ra những đề xuất góp hoàn thiện cơ chế đầu tư từ ngân
sách hiện nay tại Việt Nam; và kết thúc đề tài là sự phân tích định lượng về độ sâu
kinh tế trong đầu tư ngân sách.
Thành quả của đề tài được tóm lược như sau:
- Nêu được khái niệm về đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước.
- Xác định mục đích và vai trò của đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước.
- Định lượng hiệu quả đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt
Nam.
- Đánh giá mặt tích cực và tiêu cực của quy chế đầu tư và xây dựng từ vốn
ngân sách nhà nước hiện hành.
- Đề xuất quy trình quản lý đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước.
- Đề xuất các quy trình phụ trợ (quy trình thầu, quy trình thanh toán vốn đầu
tư, v.v…).
- Nêu và định lượng độ sâu kinh tế của vốn đầu tư từ ngân sách.
Với những thành quả trên, đề tài mong muốn nhân được sự đồng tình và góp
ý của quý Thầy, quý bạn hữu, quý đồng nghiệp và những người có quan tâm.
Trân trọng!
Nguyễn Phú Đông Hà 49
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Kim Thản (2005), Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa Sài
Gòn, Tp Hồ Chí Minh.
2. Luật Ngân sách nhà nước ngày 16 tháng 12 năm 2002 của Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3. Nghị định số 07/2003/NĐ-CP ngày 30 tháng 01 năm 2003 của Chính
phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về sửa đổi, bổ sung
một số điều của quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm
theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08 tháng 07 năm 1999 và
Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày 05 tháng 05 năm 2000 của Chính
phủ.
4. Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày 05 tháng 05 năm 2000 của Chính
phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về sửa đổi bổ sung
một số điều của quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm
theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08 tháng 07 năm 1999của
Chính phủ.
5. Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08 tháng 07 năm 1999 của Chính
phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về ban hành quy chế
quản lý đầu tư và xây dựng.
6. Nghị định số 60/2003/NĐ-CP ngày 06 tháng 06 năm 2003 của Chính
phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành Luật Ngân sách nhà nước.
7. Thông tư số 44/2003/TT-BTC ngày 15 tháng 05 năm2003 của Bộ
Tài chính nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về hướng dẫn
quản lý, thanh toán vốn đầu tư và vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư
và xây dựng thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước.
8. Thông tư số 59/2003/TT-BTC ngày 23 tháng 06 năm 2003 của Bộ
Tài chính nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về hướng dẫn
Nguyễn Phú Đông Hà 50
Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam
thực hiện Nghị định số 60/2003/NĐCP ngày 06 tháng 06 năm 2003
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Ngân
sách nhà nước.
9. Gareth D.Myles (2003), Public Economics, McGraw-hill/Irwin,
USA.
10. Harvey S. Rosen (2001), Public Finance, McGraw-hill/Irwin, USA.
11. Robert A. Haugen (2000), Modern Investment Theory, Prentice Hall,
USA.
12. International Monetary Fund (2005), Vietnam: Article IV
Consultaion-Staff Report; Public Information Notice on the
Executive Board Discussion; and Statement by the Executive
Director for Vietnam,
13. International Monetary Fund (2005), Vietnam: Statement by the Hon.
Le Duc Thuy, Governer of the Fund for Vietnam, at the Joint Annual
Disussion,
Nguyễn Phú Đông Hà 51
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Góp phần hoàn thiện cơ chế đầu tư vốn ngân sách nhà nước hiện nay tại Việt Nam.pdf