I . MỞ ĐẦU
Rừng là nguồn tài nguyên quan trọng của đất nước ta. Rừng không những là cơ sở để phát triển kinh tế - xã hộih mà còn giữ chức năng sinh thái cực kì quan trọng: rừng tham gia vào quá trình điều hoà khí hậu, đảm bảo chu chuyển ôxi, và các nguyên tố cơ bản khác trên hành tinh, duy trì tính ổn định màu mở của đầt làm giẩm nhẹ sức tàn phá khốc liệt của các thiên tai bảo tồn nguồn nước và làm giảm mức ô nhiễm không khí.
Tuy nhiên có một số nguyên nhân làm cho tài nguyên rừng ngày càng thu hẹp, đó là áp lực về dân số của các vùng tăng nhanh, nghèo đói, người dân sinh kế chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên rừng, trình độ dân trí vùng sâu vùng xa còn thấp kiến thức bản địa chưa được phát huy hoạt động khuyến nông khuyến lâm chua phát triển, chính sách nhà nước về quản lý rừng còn nhiều bất cập cơ cấu xã hội truyền thống có nhiều thay đổi
Vì vậy vấn đề bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng hiện nay được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong sự phát triển kinh tế xã hội Việt Nam. Một trong những đòi hỏi để thực hiện thành công nhiệm vụ này là phải có những cơ chế thích hợp thu hút sự tham gia tích cực của cộng đồng dân cư và công tác quản lý bảo vệ phát triển. Trong những năm gần đây nhà nước đã ban hành và áp dụng nhiều chính sách tác động mạnh đến đời sống nhân dân như: giao đất lâm nghiệp, khoán quản lý bảo vệ rừng, quy chết về quản lý rừng phòng hộ quy chết hưởng lợi. Trong khi xây dựng các quy định về quản lý bảo vệ rừng trong phạm vi cả nước phải nghiên cứu và tính toán nhu cầu thực tế chính đáng của người dân mới có thể đảm bảo tính khả thi của các quy định, đồng thời đảm bảo cho rừng không bị khai thác quá mức ảnh hưởng xấu đến chức năng của rừng tự nhiên.
27 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 19226 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hiện trạng tài nguyên rừng Việt Nam, nguyên nhân suy thoái và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI TIỂU LUẬN SINH THÁI NHÂN VĂN
ĐỀ TÀI: Hiện trạng tài nguyên rừng Việt Nam ,nguyên nhân suy thoái và giải pháp
Nhóm sinh viên thực hiện : 1.Nguyễn Thị Hồng Duyên
2. Lữ Thị Hồng Định
I . MỞ ĐẦU
Rừng là nguồn tài nguyên quan trọng của đất nước ta. Rừng không những là cơ sở để phát triển kinh tế - xã hộih mà còn giữ chức năng sinh thái cực kì quan trọng: rừng tham gia vào quá trình điều hoà khí hậu, đảm bảo chu chuyển ôxi, và các nguyên tố cơ bản khác trên hành tinh, duy trì tính ổn định màu mở của đầt làm giẩm nhẹ sức tàn phá khốc liệt của các thiên tai bảo tồn nguồn nước và làm giảm mức ô nhiễm không khí.
Tuy nhiên có một số nguyên nhân làm cho tài nguyên rừng ngày càng thu hẹp, đó là áp lực về dân số của các vùng tăng nhanh, nghèo đói, người dân sinh kế chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên rừng, trình độ dân trí vùng sâu vùng xa còn thấp kiến thức bản địa chưa được phát huy hoạt động khuyến nông khuyến lâm chua phát triển, chính sách nhà nước về quản lý rừng còn nhiều bất cập cơ cấu xã hội truyền thống có nhiều thay đổi…
Vì vậy vấn đề bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng hiện nay được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong sự phát triển kinh tế xã hội Việt Nam. Một trong những đòi hỏi để thực hiện thành công nhiệm vụ này là phải có những cơ chế thích hợp thu hút sự tham gia tích cực của cộng đồng dân cư và công tác quản lý bảo vệ phát triển. Trong những năm gần đây nhà nước đã ban hành và áp dụng nhiều chính sách tác động mạnh đến đời sống nhân dân như: giao đất lâm nghiệp, khoán quản lý bảo vệ rừng, quy chết về quản lý rừng phòng hộ quy chết hưởng lợi. Trong khi xây dựng các quy định về quản lý bảo vệ rừng trong phạm vi cả nước phải nghiên cứu và tính toán nhu cầu thực tế chính đáng của người dân mới có thể đảm bảo tính khả thi của các quy định, đồng thời đảm bảo cho rừng không bị khai thác quá mức ảnh hưởng xấu đến chức năng của rừng tự nhiên.
II.NỘI DUNG
1. Hiện trạng:
Nằm trong vùng thuộc khu hệ rừng mưa nhiệt đới, rừng nước ta nổi tiếng về tài nguyên gỗ, nhất là đặc sản có giá trị.
Tuy nhiên, Việt Nam cũng có tình trạng chung như những nước đang phát triển khác, diện tích rừng bị thu hẹp nhanh chóng. Theo bản đồ rừng của Maurand vào năm 1945 thì nước ta có 14,352 triệu ha rừng, chiếm tỷ lệ 43,8% so với diện tích tự nhiên.
Theo số liệu điều tra của viện qui hoạch rừng thì đến năm 1975 còn 9,5 triệu ha rừng, chiếm 29,1% diện tích tự nhiên, đến năm 1981 còn 7,4 triệu, chiếm 24%, đến năm 1989 có 9,3 triệu, trong đó có những rừng mới trồng.
Diện tích rừng ở Việt Nam so với diện tích đất tự nhiên
STT Khu vực Diện tích đất tự nhiên (1000 ha) Diện tích rừng (1000 ha) Tỷ lệ % diện tích rừng/đất tự nhiên (%)
1 Bắc Bộ 11.570 6955 60,0
2 Trung Bộ 14.754 6580 44,6
3 Nam Bộ 6470 817 13,0
Cả nước 32.794 14.352 43,8
(Theo Maurand, 1945)
Diện tích rừng bị suy giảm từ 43% xuống còn 28,2% (1943 - 1995). Rừng ngập mặn ven biển cũng bị suy thoái nghiêm trọng giảm 80% diện tích do bị chuyển đổi thành các ao - đầm nuôi trồng thuỷ hải sản thiếu quy hoạch. Gần đây, diện tích rừng tuy có tăng lên 37% (năm 2005), nhưng tỷ lệ rừng nguyên sinh cũng vẫn chỉ ở mức khoảng 8% so với 50% của các nước trong khu vực. Đây là một thách thức lớn đối với Việt Nam trong ứng phó với biến đổi khí hậu, trong các hoạt động thực hiện mục tiêu năm 2010 của Công ước đa dạng sinh học nhằm tăng cường hiệu quả bảo tồn và dịch vụ của các hệ sinh thái rừng trong giảm thiểu thiên tai, bảo vệ tài nguyên nước, giảm phát thải CO2.
• Trong vòng 25 năm qua, toàn bộ vùng rừng tự nhiên mất đi hơn 5 triệu ha ở cả vùng cao và vùng ven biển, trung bình mỗi năm mất đi khoảng 250.000 ha. Trong mấy năm qua, diện tích rừng có chiều hướng tăng lên, 28,2% theo thống kê đến năm 2004 thì độ che phủ rừng toàn quốc lên đến 36,7% (bảng 3.2)
Bảng 3.2. Diễn biến về diện tích rừng ở Việt Nam (đơn vị tính: 1.000.000ha)
Năm
1945
1976
1980
1985
1990
1995
1999
2002
2004
Tổngdiệntích(ha)
14,30
11,16
10,60
9,89
9,17
9,30
10,99
11,78
12,30
Rừng trồng (ha)
0,00
0,01
0,42
0,58
0,74
1,05
1,52
1,91
2,21
Rừngtự nhiên(ha)
14,30
11,07
10,18
9,30
8,43
8,25
9,47
9,86
10,89
Độ che phủ (%)
43,00
33,80
32,10
30,00
27,80
28,20
33,20
35,8
36,7
(nguồn:Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam, Phần Đa dạng sinh học, 2005)
Các kiểu rừng chính ở Việt Nam
Điều kiện tự nhiên khí hậu và các nhân tố khác đã tạo cho cây rừng sinh trưởng và phát triển quanh năm, thảm thực vật rừng phong phú đa dạng với nhiều kiểu rừng. Theo các nhà Lâm nghiệp, người ta chia ra các kiểu rừng sau : (Báo cáo về hiện trạng môi trường Việt Nam năm 1994, Cục Môi trường).
1. Rừng lá rộng thường xanh nhiệt đới
Người ta còn gọi là rừng mưa nhiệt đới, rừng nhiệt đới ẩm, kiểu rừng này thường gặp trên các vùng núi cao, dưới 800 m ở phía Bắc, cao trên 1000 m ở phía Nam, là kiểu rừng hỗn loài thuộc họ quen thuộc ở vùng nhiệt đới như họ Đậu (Papilionoideae), họ Dầu (Dipterocarpaceae), chúng phát triển tươi tốt thành nhiều tầng với nhiều năm tuổi khác nhau. Ở kiểu rừng này còn có rất nhiều thực vật phụ sinh như phong lan và cây dây leo thân cỏ (song mây) và thân gỗ.
Rừng lá rộng thường xanh nhiệt đới có năng suất sinh học rất cao, và có nhiều loài gỗ quí. Sự thuận lợi về môi trường, phong phú về thức ăn đã tạo ra một quần thể động vật phong phú về chủng loại và số lượng.
2. Rừng khộp
Còn gọi là rừng thưa nhiệt đới, rừng nhiệt đới rụng lá, thường thấy ở miền Nam tại các vùng có độ cao dưới 1000 m. Thành phần gồm cây rụng lá xen lẫn cây thường xanh ở mức độ khác nhau.
Trên nhiều vùng đất bằng phẳng ở Tây Nguyên thường đọng nước trong mùa mưa, và cạn nước trong mùa khô, thêm vào đó lửa rừng tàn phá thường xuất hiện rừng Khộp nghèo với vài loài cây họ Dầu mọc thưa thớt, sinh trưởng chậm.
Trên sườn dốc, nơi có tầng đất sâu hơn hoặc có nước tương đối thuận lợi hơn, nhất là ở vùng đất đỏ bazalt và ven sông suối thường xuất hiện rừng khộp giàu có, thành phần loài phong phú, cây mọc dầy thành nhiều tầng xanh tươi, cho nhiều gỗ cứng, gỗ quí với kích thước lớn như : Giáng hương, Trắc, Cẩm lai, Gụ, Mun... và nhiều loài gỗ Sao, Dầu.
Rừng khộp là nơi tập trung của nhiều loài thú nổi tiếng vùng Châu Á như: Hươu, Nai, Voi, Khỉ, Vượn... trong đó có các loài thú quí hiếm của thế giới như Bò xám Cuprey, Tê Giác.
Rừng khộp nghèo để tạo thành đồng cỏ chăn nuôi. Đất rừng khộp giàu để phát triển cây công nghiệp, cây lương thực và cây ăn trái... Ở rừng này, người ta thường áp dụng lối canh tác nông lâm kết hợp.
3. Rừng lá kim
Ở các vùng cao trên 1000 m ở phía Nam thích hợp với các loài thực vật lá kim (Tùng, Bách, Thông 2 lá, Thông 3 lá) đã tạo nên những cánh rừng bạt ngàn trên cao nguyên Lâm Đồng. Tùy theo độ cao và chế độ ẩm cụ thể mà rừng thông có thể xen lẫn với cây lá rộng của rừng Khộp hoặc của rừng thường xanh Á nhiệt đới.
Rừng thông ở đây cung cấp gỗ xây dựng, gỗ gia dụng, làm bột giấy. Nhựa thông dùng để chế biến colofan, dầu thông, nhiều loại hóa chất khác nhau là những mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao. Ở dưới tán rừng thông hoặc xen kẻ với cây công nghiệp, cây thuốc, cây ăn trái hoặc các đồng cỏ chăn nuôi.
Ở các vùng cao trên 1500 m thuộc dãy núi Hoàng Liên Sơn cũng có rừng lá kim, nhưng khu vực nhỏ hơn, thường gặp là thông, Pơmu là loại quí.
4. Rừng thường xanh lá rộng Á nhiệt đới
Thường gặp ở các vùng núi cao trên 800 m ở phía Bắc, phần lớn gồm các cây hiện diện thuộc họ Dẻ (Fagaceae), họ Long Não (Lauraceae), họ Thạch Nam (Ericaceae)... và các cây Tre, Nứa (họ Poaceae). thực vật phụ sinh phát triển mạnh, thường là Phong lan (Orchidaceae), ráng đuôi phụng, ráng tổ rồng (Polypodiaceae) và các cây Thảo quả (họ Zingiberaceae). Ở vùng rừng này, người ta thường trồng những cây thuốc như: Đỗ Trọng (họ Eucommiaceae), Quế (họ Lauraceae), Nhân sâm (họ Araliaceae)...
5. Rừng lá rộng thường xanh nhiệt đới trên núi đá vôi
Thành phần thực vật trên núi đá vôi khá phong phú, chủ yếu là rừng thường xanh, cây rụng lá chiếm tỷ lệ nhỏ. Các loài cây đặc hữu của vùng này gồm : Nghiến (họ Tilliaceae), cây Kim giao (họ Podocarpaceae), cây Trai ly (họ Clusiaceae)... là những loại gỗ quí, thường chúng có đặc điểm chung là ưa Calci, chịu hạn, ít chịu chua. Nhiều loài vừa có bộ rễ phát triển sâu, vừa có khả năng kiềm chế thoát nước trên mặt lá. Nhưng cũng có những loài rễ cạn, chúng sinh trưởng nhanh trong mùa mưa ẩm và rụng lá vào mùa khô. Nơi gần đầu nguồn do hang động đưa nước từ nơi khác đến, nên chúng ta thường gặp cây nhiệt đới thường xanh và Tre, Trúc. Rừng này thích hợp cho các loài vật cần hang động để lẫn trốn thú dữ như: Sơn dương, khỉ, vượn... Đây là loại rừng đặc sắc đối với con người vì nơi đây còn giữ lại nhiều nguồn gen, quí, có giá trị cao trong nghiên cứu khoa học, rừng quốc gia Cúc Phương được thành lập theo kiểu này.
6. Rừng ngập mặn ở Việt Nam
Ở Việt Nam, những nguồn tài nguyên rừng ngập mặn đã được sử dụng bởi nhân dân sống trong vùng biển nhiều thế kỷ không gây ra sự mất cân bằng sinh thái. Tuy nhiên trong những năm gần đây, sự gia tăng dân số (đặc biệt sự di dân), lợi tức của nhân dân địa phương thấp, và sự phát triển nhanh chóng kinh tế đã gây ra sự khai thác quá mức và sự phá hoại gây hậu quả cho những khu rừng ngập mặn. Vả lại, chính sách của Việt Nam cho sự tái xây dựng kinh tế làm phát triển sự khai thác những nguồn tài nguyên thiên nhiên, dưới chính sách này, sự phát triển nuôi tôm trong những khu vực rừng ngập mặn là một trong những chiến lược phát triển quốc gia. Chính vì vậy mà thủy canh được xem như một trong những mối đe dọa quan trọng của rừng ngập mặn Việt Nam.
Việt Nam có bờ biển dài 3200 km với nhiều cửa sông giàu phù sa, nên rừng ngập mặn sinh trưởng tốt, đặc biệt là bán đảo Cà Mau (tỉnh Cà Mau).
Trước năm 1945, ở Cà Mau có trên 150.000 ha rừng già, cây to cao, trong tổng số 400.000 ha rừng ngập mặn của cả nước. Nhưng trong thời gian chiến tranh từ năm 1962 đến 1971, chất độc hóa học của Mỹ đã hủy diệt nhiều khu rừng rộng lớn ở Cà Mau và huyện Cần Giờ (TP.HCM)...
Sau chiến tranh, Bộ Lâm Nghiệp đã cố gắng phục hồi, có kế hoạch chỉ đạo trồng lại rừng ngập mặn, nhưng do nhiều cơ quan và nhân dân lại phá rừng làm đầm nuôi tôm nên diện tích rừng ngập mặn bị thu hẹp nhanh chóng.
Theo GS. Phan Nguyên Hồng thì rừng ngập mặn ở Việt Nam có khoảng hơn 50 loài cây, phân bố không giống nhau ở các khu vực ven biển. Có 4 khu vực chủ yếu như sau :
- Khu vực ven biển Đông Bắc từ Móng Cái (Quảng Ninh) đến Đồ Sơn (Hải Phòng).
Rừng ngập mặn phát triển nhờ các đảo che chắn ở phía ngoài. Các loài cây chủ yếu là : đước, vẹt, vẹt dìa, sú mấm. Do có mùa Đông lạnh nên cây chỉ cao từ 1,5 m đến 7 m.
- Khu vực ven biển đồng bằng Bắc Bộ từ Đồ Sơn đến Cửa Lạch Trường (Thanh Hóa)
Tuy có các bãi bồi rộng, giàu phù sa, nhưng ở đây bãi biển trống trãi, không có các đảo che chắn gió nên chỉ có một ít rừng ngập mặn trong các cửa sông, với các loài ưa nước lợ như: bần, vẹt dìa, sú, ô rô... Bần có kích thước khá lớn, cao từ 8 m đến 12 m, đường kính từ 15 đến 25 cm.
- Khu vực ven biển miền Trung : kéo dài từ Lạch Trường đến Vũng Tàu.
Bãi bồi hẹp, ít phù sa do bờ biển dốc, nhiều gió bão nên chỉ có những dãi rừng hẹp ở phía trong các cửa sông, chủ yếu là các cây nhỏ, cây bụi, gồm có đước, đưng, vẹt, sú, mấm...
- Khu vực Nam Bộ từ Vũng Tàu đến Hà Tiên :
Nơi đây có nhiều bãi bồi rộng, giàu phù sa, do hệ thống sông Đồng Nai, Cửu Long cung cấp, ít gió bão nên rừng ngập mặn phát triển tốt, nhất là ở Cà Mau. Rừng có nhiều loài cây như : đước, dưng, vẹt, dà, mấm, dừa nước. Chúng ta có các rừng ngập mặn ở các tỉnh : Long An, Bến Tre, Trà Vinh, Kiên Giang, Cà Mau... và huyện Cần Giờ (TP.HCM). Riêng tỉnh Bến Tre, các rừng ngập mặn ở huyện Bình Đại, Thạnh Phú, sau thời gian chiến tranh, đến nay phần lớn là rừng trồng mới, và mang tính cách rừng phòng hộ môi trường hơn là kinh tế, còn ở rừng ngập mặn Ba Tri có sân chim Mỹ Hòa, khá phong phú về giống loài động vật và thực vật : về thực vật có 59 loài, trong đó có 39 loài thực vật trồng và 20 loài hoang dại, tất cả thuộc 33 họ (Nguyễn Thị Ngọc Ẩn, 1996), và 84 loài chim thuộc 35 họ (Trần Thanh Tòng, 1996)
Tuy nhiên, hiện nay rừng ngập mặn bị tàn phá nhiều để lấy đất làm đầm nuôi tôm, hoặc lấy gỗ, củi... Rừng đã và đang suy thoái nghiêm trọng, chính nó đã gây ảnh hưởng xấu cho nhân dân khi có thiên tai hoặc khí hậu thay đổi. Được đánh giá là rừng phòng hộ môi trường có biện pháp quản lý tốt qua chính sách giao đất, khoán rừng, nổi bật và đáng kể nhất là rừng ngập mặn Cần Giờ, và nên chú ý bảo quản cây chà là
2/ Nguyên nhân
2.1. Nguyên nhân trực tiếp
Chiến tranh:
Chiến tranh không những là nguyên nhân trực tiếp mà còn là nguyên nhân sâu xa gây suy thoái ĐDSH. Trong giai đoạn 1945 đến 1990 nước ta đã trải qua hai cuộc chiến tranh và 2 cuộc xung đột biên giới hết sức khốc liệt.
Chỉ trong giai đoạn từ 1961 đến 1975, 13 triệu tấn bom và 72 triệu lít chất độc hoá học do Mỹ rải xuống chủ yếu ở miền Nam Việt Nam đã huỷ diệt khoảng 4,5 triệu ha rừng (WB, 1995). Sau khi kết thúc chiến tranh diện tích rừng cả nước chỉ còn lại khoảng 9,5 triệu ha – với 10% rừng nguyên sinh, chiếm khoảng 28% diện tích cả nước.
Chiến tranh đã gây biến động lớn về phân bố dân cư giữa các vùng, đồng thời một diện tích lớn đất rừng bị khai phá để trồng cây lương thực bảo đảm hậu cần tại chỗ cho quân và dân. Không những thế các loài động vật hoang dã còn bị đe dọa bởi các loại vũ khí do chiến tranh để lại sau đó.
Khai thác quá mức.
Khai thác gỗ:
Là mối đe dọa lớn đối với ĐDSH. Nó không những làm nghèo kiệt tài nguyên gỗ tự nhiên mà còn làm giảm sút nghiêm trọng chất lượng rừng và gây ảnh hưởng lớn đối với vùng cư trú của các loài động vật hoang dã.
Trong giai đoạn từ năm 1986 – 1991, bình quân lượng gỗ bị khai thác là 3,5 triệu m3/năm và khoảng 1-2 triệu m3 ngoài kế hoạch (khoảng 80.000 ha bị mất mỗi năm); giai đoạn 1992 -1996 khoảng 1,5 m3 gỗ/năm; Từ năm 1997 tới nay khoảng 0,35 triệu m3 gỗ/năm được khai thác theo kế hoạch từ rừng tự nhiên ở Việt Nam.
Hình 2.1. Khai thác quá mức tài nguyên rừng
Nạn khai thác gỗ trộm xảy ra ở nhiều nơi, kể cả trong các khu rừng phòng hộ và rừng đặc dụng cũng làm cho tài nguyên rừng bị cạn kiệt nhanh chóng. Nguyên nhân chính dẫn tới việc khai thác gỗ trái phép xảy ra nghiêm trọng và khó kiểm soát vì nhu cầu dùng gỗ trong nước và việc xuất khẩu ngày càng tăng trong khi trữ lượng gỗ ngày càng giảm. Việc kinh doanh gỗ có lãi lớn nhưng lực lượng bảo vệ rừng chưa đủ mạnh, hiệu quả kiểm soát thấp, việc xử lý những vụ vi phạm khai thác và vận chuyển gỗ trái phép còn hạn chế.
Ngổn ngang gỗ lậu.
- Khai thác củi làm nhiên liệu:
Khai thác củi làm nhiên liệu có quy mô lớn và kho kiểm soát, đây cùng là mối đe dọa rất lớn đối với ĐDSH. Nhu cầu năng lượng từ củi chiếm tới 75% tổng nhu cầu năng lượng của đất nước, ước tính hàng năm có 22-23 triệu tấn nhiên liệu được khai thác từ rừng tự nhiên (RWEDP – Nghiên cứu tổng quan về nhiên liệu gỗ củi)
Trước năm 1995, có khoảng 21 triệu tấn củi được khai thác hàng năm, bên cạnh đó còn có nạn đốt than. Khai thác củi và đốt than để bán còn là nghề kiếm sống khó thay thế của nhiều người vùng núi.
- Khai thác, buôn bán các sản phẩm ngoài gỗ
Rừng Việt Nam có khoảng 2.300 loài thực vật nhóm lâm sản ngoại gỗ như song, mây, lá nón, tre nứa, và cây thuốc (khoảng 1.000 loài)
Chúng được khai thác với những mục địch khác nhau: để dùng, để bán trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Đặc biệt là khu hệ động vật hoang dã đã bị khai thác một cách bừa bãi và kiệt quệ. Có khoảng 70 loài thuộc các lớp chim thú bò sát bị khai thác thường xuyên để khai thác sử dụng cho các loại mục đích khác
việc kinh doanh các loài hoang dã nhát là rắn,rùa,baba ,tắc kè …để làm món ăn đặc sản ,làm thuốc,đồ lưu niệm …và xuất khẩu bất hợp pháp ngày càng tăng.
Trong khi đó khai thác lâm sản vốn là nguồn sống lâu đời của một bộ phận khá lớn người dân
Xây dựng cơ sở hạ tầng.
Cùng với tiến trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, việc xây dựng cơ sở hạ tầng bao gồm đường giao thông, cầu phà, bến cảng, mạng lưới điện, hệ thống cấp thoát nước...là một tất yếu.
Việc xây dựng các cơ sở hạ tầng nói trên một cách thiếu quy hoạch, thiếu cơ sở khoa học có ảnh hưởng mạnh đối với ĐDSH. Chẳng hạn như việc xây dựng các tuyến đường giao thông xuyên qua các vùng rừng rộng lớn như đường Trường Sơn, các tuyến đường bộ đi qua vùng Đồng Tháp Mười, nối Hà Tiên với Cà Mau, đường dây điện 500kv..., ít nhiều đã làm mất đi tính liên tục của vùng phân bố các loài, gây nhiễu loạn và làm suy thoái môi trường tự nhiên, chỉ tính riêng các hồ chứa nước được xây dựng hàng năm đã làm mất đi khoảng hàng ngàn ha rừng (Do nhiều loài sinh vật bị tiêu diệt do đất đá vùi lấp, do ngập sâu dưới nước. Nhiều loài sinh vật mất nơi cư trú, mất môi trường sống, mất nguồn thức ăn, mất nơi sinh đẻ nên một khối lượng lớn cá thể bị chết, các chuỗi dinh dưỡng bị xáo trộn, cân bằng sinh thái bị tổn thương. Việc ngăn sông, xây đắp làm hồ chứa có thể làm mất đường di cư sinh sản của một số loài sinh vật như Cá Chình.
Cháy rừng
Hiện nay, Việt Nam có trên 6 triệu ha rừng dễ cháy, bao gồm rừng thông, rừng tràm, rừng tre nứa, rừng bạch đàn, rừng khộp... Cùng với diện tích rừng dễ cháy tăng thêm hàng năm thì tình hình diễn biến thời tiết ngày càng phức tạp và khó lường ở Việt Nam đang làm nguy cơ tiềm ẩn về cháy rừng ngày càng nghiêm trọng hơn.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của Cục Kiểm lâm về cháy rừng và thiệt hại do cháy rừng gây ra trong 42 năm qua (1963 -04/2005) tổng số vụ cháy rừng là trên 49.600 vụ, diện tích thiệt hại trên 646.900 ha rừng (chủ yếu là rừng non), trong đó có 274.251 ha rừng trồng và 377.606 ha rừng tự nhiên. Riêng năm 2002 đã xảy ra 1.098 vụ cháy, năm 2003 xảy ra 642 vụ cháy, trong đó vụ cháy rừng Tràm U Minh là nghiêm trọng nhất.
Sự kiện cháy rừng vào thàng 3,4 năm 2002 tại Vườn Quốc Gia U Minh – Thượng là một tai họa điển hình về cháy rừng đối với tài nguyên sinh vật và ĐDSH. Tại U Minh Thượng trước khi bị cháy rừng đã thống kê được 32 loài thú. Sau khi bị cháy, ít nhất có 25 loài thú (78,2%) bị ảnh hưởng với các mức độ khác nhau. Một số loài có nguy cơ không gặp lại ở HST độc đáo này: Dơi ngựa lớn Pteropus vampyrus; Sóc lửa Callosciurus finlaysoni; Rái cá lông mũi Lutra sumatrana; Rái cá vuốt bé Aonyx cinerea; Mèo cá Drionailurus viverrinus; Tê tê Manis javanica; Cầy giông đốm lớn Viverra megaspila... (nguồn Cục Kiểm lâm, 2005)
2.2. Nguyên nhân sâu xa gây suy thoái tài nguyên rừng ở Việt Nam.
Gia tăng dân số và di cư.
Tăng dân số nhanh đã là một trong những nguyên nhân chính làm suy thoái tài nguyên rừng của Việt Nam. Sự gia tăng dân số dẫn đến tăng nhu cầu sinh hoạt và nhu cầu thiết yếu khác trong khi lượng tài nguyên có hạn, nhất là tài nguyên đất cho sản xuất nông nghiệp. Hệ quả tất yếu dẫn tới là phải mở rộng đất nông nghiệp, xâm lấn vào đất rừng, làm suy thoái ĐDSH.
.Sự nghèo đói.
Việt Nam được xếp loại là một trong những nước nghèo trên thế giới với gần 80% dân số sống ở nông thôn, hoạt động kinh tế chủ yếu là nông – lâm – ngư nghiệp, đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn
Những người nghèo thường không có ruộng đất, phải sống dựa vào đất bạc màu, đất dốc, đất có độ phì kém, lại thiếu vốn đầu tư lâu dài cho sản xuất, buộc họ phải khai thác nhanh ruộng đất của mình hoặc phá rừng lấy đất canh tác.
Mối quan hệ giữa xóa đói giảm nghèo với bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế xã hội là mối quan hệ nhân quả. Vì vậy, xoá đói giảm nghèo là một trong những mục tiêu của phát triển, là điều kiện để bảo vệ môi trường.
Chính sách kinh tế.
Chính sách kinh tế ở tầm vĩ mô có ảnh hưởng sâu sắc ở quy mô lớn đến ĐDSH, đến biến đổi tài nguyên và chất lượng môi trường.
Những chính sách trong thời kỳ đổi mới một mặt đã góp phần tạo ra bước tiến mạnh mẽ cho nền kinh tế, mặt khác đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến ĐDSH. Chính sách đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp có giá trị cao là nguyên nhân có ý nghĩa nhất làm suy thoái ĐDSH. Lợi nhuận kinh tế cao của việc xuất khẩu nông sản đã kích thích các thành phần kinh tế đầu tư phá rừng để mở rộng diện tích trồng cây công nghiệp như cà phê, cao su, điều và phá rừng ngập mặn để nuôi tôm cá.
Chủ trương xuất khẩu gỗ tròn kích thích việc khai thác gỗ và hậu quả là nhiều khu rừng đã bị phá huỷ; đến 1996 giá trị xuất khẩu gỗ đã đạt tới 126,5 triệu USD. Có thể thấy những chính sách phát triển kinh tế trong cơ chế thị trường đã có những tác động gây suy thoái ĐDSH là khó tránh khỏi trên phạm vi toàn quốc nếu không có biện pháp hữu hiệu nhằm quản lý, bảo vệ các HST.
+Hiệu lực thi hành pháp luật về môi trường.
Công tác quản lý, bảo vệ tài nguyên và môi trường đã được Nhà nước ta quan tâm từ những năm 1960. Tuy nhiên, việc thực thi chưa được triệt để và ý thức bảo vệ ĐDSH của nhân dân, nhất là đồng bào miền núi chưa cao. Mặt khác, về phương diện quản lý Nhà Nước, lực lượng kiểm lâm chưa đủ mạnh, chính sách đãi ngộ còn hạn chế, trang bị kỹ thuật yếu, chế tài, luật pháp chưa cụ thể và có khi còn không động viên, khuyến khích lực lượng kiểm lâm và quần chúng tích cực tham gia bảo vệ rừng.
Hình 3.4. Việc vi phạm pháp luật vẫn diễn ra thường xuyên
+Chính sách kinh tế cộng đồng.
Chính sách sử dụng đất: Có vai trò quyết định đến phát triển kinh tế xã hội và đời sống của người dân. Sau thời kỳ hợp tác xã tan rã, để duy trì sự sống, người dân đã phải đầu tư vào mảnh ruộng 5% do hợp tác xã để lại và phải lên rừng khai hoang để chống đói. Đây chính là giai đoạn mà rừng Việt Nam bị huỷ hoại.
Chính sách lâm nghiệp: Theo con đường làm ăn tập thể, các nông trường và các lâm trường quốc doanh được thành lập khắp nơi trên cả nước. Một trong những nhiệm vụ của lâm trường là khai thác gỗ theo kế hoạch của nhà nước. Theo số liệu thống kê, hàng năm việc khai thác gỗ đã làm suy thoái 70.000 ha rừng, trong đó có 30.000 ha bị mất trắng.
Tập quán du canh du cư: Trong số 54 dân tộc ở Việt Nam thì có tới 50 dân tộc với khoảng 9 triệu dân có tập quán du canh và do sức ép của gia tăng dân số, du canh trở thành một nguyên nhân quan trọng làm mất rừng, thoái hoá đất và kết quả là tạo ra cả một vùng đất trống đồi trọc như hiện nay.
Những nguyên nhân trên đã làm cho rừng Việt Nam suy thoái trầm trọng và dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng
3/ Hậu quả của suy thoái tài nguyên rừng
Biến đổi khí hậu
Lớp đất màu mỡ bị rửa trôi
Đất bị xói mòn trở nên bạ màu
Thường xuyên có lũ lụt hạn hán xảy ra
Suy thoái đa dạng sinh học
3.1 Biến đổi khí hậu
Tại Việt Nam, nhiệt độ trung bình năm đã tăng khoảng 0,1 độ C và mực nước biển dâng từ 2,5 - 3 cm trong vòng mỗi thập kỷ qua. Sự thay đổi chế độ mưa với lượng mưa tăng vào mùa mưa nhưng lại giảm vào mùa khô là nguyên nhân gây ra lũ lớn thường xuyên hơn và hạn hán xảy ra hàng năm ở hầu hết các khu vực trong cả nước.
Trước tiên, cần hiểu khí hậu là gì? Khí hậu là mức độ trung bình của thời tiết trong một khoảng thời gian và không gian nhất định. Trong vòng 1.000 năm qua, nhiệt độ bề mặt Trái đất có tăng, giảm không đáng kể và có thể nói là ổn định.
Thế nhưng, trong vòng 200 năm trở lại đây, đặc biệt là trong mấy chục năm vừa qua khi công nghiệp hoá phát triển, nhân loại bắt đầu khai thác than đá, dầu lửa, sử dụng các nhiên liệu hoá thạch... Cùng với các hoạt động công nghiệp tăng lên, nhân loại bắt đầu thải vào bầu khí quyển một lượng khí CO2, nitơ ôxít, mêtan... khiến cho nhiệt độ bề mặt Trái đất nóng lên. Hầu hết giới khoa học đều công nhận biến đổi khí hậu là do nồng độ của khí hiệu ứng nhà kính tăng lên trong khí quyển ở mức độ cao. Bản thân nó đã làm cho Trái đất ấm lên, nhiệt độ bề mặt Trái đất nóng lên, nhiệt độ nóng lên này đã tạo ra các biến đổi trong các vấn đề thời tiết hiện nay.
Theo báo cáo mới nhất của Liên hiệp quốc, nguyên nhân của hiện tượng biến đổi khí hậu 90% do con người gây ra, 10% là do tự nhiên.
Sơ đồ hiệu ứng nhà kính (Ảnh:
- Giới khoa học có bằng chứng gì về biến đổi khí hậu? - Tất cả các trạm đo nhiệt độ đều có thể đo, đánh giá và xác nhận được bằng chứng về biến đổi khí hậu. Hiện nay, nhiệt độ trung bình đã tăng lên tới 0,3 - 0,4 độ C trong mấy chục năm vừa qua và hiện đang có xu hướng tăng tiếp.
Theo các mô hình nghiên cứu trong thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình của Trái đất có thể tăng từ 1,1 - 6 độ C khả năng xảy ra từ 1,8 - 4 độ C trong đó tùy theo sự phát thải hiệu ứng nhà kính cắt giảm đến mức độ nào để làm giảm bớt các khí CO2 và các khí khác gây hiệu ứng nhà kính.
Nếu như ngay từ lúc này, nhân loại dừng phát thải khí nhà kính thì nhiệt độ bề mặt Trái đất vẫn tiếp tục nóng lên, nước biển vẫn tiếp tục dâng lên trong vòng 50 năm nữa. Nhiệt độ trái đất nóng lên làm cho băng của các dãy Himalaya và Nam cực, Bắc cực và các vùng khác tan chảy. Những núi băng này tan chảy sẽ làm cho mực nước biển tăng lên. Mực nước biển dâng lên từ 28 - 43 cm. Nhưng có thể mực nước biển này còn cao hơn nữa tùy theo sự phát thải của hiệu ứng nhà kính và tác động của con người gây ra.
Biểu đồ nhiệt độ trung bình trên bề mặt Trái đất đã tăng lên trong vòng 140 năm qua (Ảnh: www.combatclimatechange.ie)
3.2 Lớp đất màu mỡ bị rửa trôi
Mỗi năm, lớp phủ thổ nhưỡng ở Tây Nguyên bị xói mòn và trôi ra biển hàng trăm triệu tấn. Phá rừng để lấy đất canh tác là vấn đề nóng bỏng nhất ở đây. Bình quân từ năm 1990 đến nay, mỗi năm vùng mất tới 15.000 ha rừng.
Tỷ lệ che phủ trước năm 1985 khoảng 75%, nay chỉ còn 60%. Ở Đak Lak, năm 1960 còn 1,8 triệu ha rừng, chiếm 92% diện tích đất tự nhiên, nay chỉ còn 50%... Đó mới chỉ là số liệu trên giấy tờ. Thực tế chắc còn bi đát hơn.
Tây Nguyên có tổng diện tích tự nhiên 5,4 triệu ha, là vùng có diện tích đất đang sử dụng chiếm tỷ lệ cao: 81,5%, đứng thứ 4 trong 7 vùng của nước ta. Địa hình đất Tây Nguyên là một phức hợp núi, cao nguyên, trũng giữa và đồng bằng. Tài nguyên đất ở đây rất đa dạng, đặc biệt có 1,3 triệu ha đất đỏ bazan với hàm lượng chất hữu cơ, đạm, lân, kali... cao, cho phép phát triển nhiều loại cây trồng, đặc biệt là các cây công nghiệp lâu năm như cà phê, hồ tiêu, cao su, chè, dâu tằm, cây ăn quả.
Tuy vậy, nguồn tài nguyên quý giá này đang đứng trước những thách thức lớn do sự gia tăng dân số quá nhanh dẫn tới khai thác đất bất hợp lý, thảm thực vật che phủ bề mặt suy giảm nhanh chóng. Vì thế, tầng đất canh tác đang bị xói mòn, rửa trôi với tốc độ đáng báo động...
Khi thảm thực vật - tấm áo bảo vệ mặt đất - bị lột đi nhanh chóng thì tốc độ xói mòn, rửa trôi đất cũng diễn ra với tỷ lệ thuận.
Mất đất kéo theo mất nước
Theo tài liệu của Sở KHCN&MT Đak Lak thì ở độ dốc 5-8 độ, với lượng mưa hàng năm 1.905 mm, trên 1 ha nương rẫy, lượng đất bị rửa trôi lên tới 95,1 tấn/năm, trên đất trồng ngô là 105,7 tấn, trên đất trồng cà phê 2 tuổi là 69,2 tấn... gấp rất nhiều lần so với nơi có rừng (rừng tái sinh 12 tấn, rừng nguyên sinh dưới 6 tấn).
Tổng kết nhiều điểm quan trắc trên các độ dốc và vùng đất khác nhau cũng cho thấy lượng chất dinh dưỡng trung bình hàng năm trên 1 ha đất sản xuất bị cuốn trôi rất lớn: 171 kg N; 19 kg P2O5; 337,5 kg K2O; 1.125 kg chất hữu cơ. Tính ra mỗi năm đất Tây Nguyên bị trôi xuống sông Mê Kông và sau đó bị đẩy ra biển Đông tới hàng trăm triệu tấn và kèm theo đất là hàng vạn tấn N, P2O5, K2O... Đây là lý do khiến cho đất canh tác bị bạc màu nhanh chóng.
Không có rừng che phủ thì lượng nước ngầm trong đất cũng bị suy kiệt, độ ẩm của đất giảm, các vi sinh vật trong đất cũng mất theo, có vùng đã có biểu hiện của sự sa mạc hoá, hạn hán quanh năm, cây khô cằn không phát triển được...
Sự suy thoái của đất Tây Nguyên do phá rừng và khai thác đất bất hợp lý đã đến mức báo động.
(Theo
3.3 Đất bị xói mòn trở nên bạc màu
3.4 thường xuyên có lũ lụt hạn hán xảy ra
Những căn nhà vốn rách nát nay bị nhấn chìm
Hàng ngàn người dân của các xã thuộc huyện Đại Lộc, đổ về đây vớt gỗ và củi – bù lại cho những mất mát trước đó - Ảnh: SGTT
3.5 Suy thoái đa dạng sinh học
Tài nguyên rưng bị suy thoái là nguyên nhân chính dẫn tới sự suy thoái đa dạng sinh học ở nước ta.
Suy thoái về loài:
Hiện nay, một số loài thực vật đã suy giảm và trở thành nguồn gen quý hiếm không những đối với nước ta mà còn cả đối với thế giới, ví dụ như các loài: Thông lá dẹt (Pinus kremffii), Thông nước (Glyptostropus pensilis), Sam đỏ (Taxus chinensis), Trầm hương (Aquilaria crassna)....
• Một số loài động vật lớn trên hầu như đã bị diệt vong như: Tê giác 2 sừng (Dicerorhynus sumatrensis), Heo vòi (Tapia indicus), Hươu sao (Cervus nippon), Trâu rừng (Bubalus bubalis), Bò xám ( Bos sauveli), Vượn tay trắng (Hylobates lar)... Các loài chim, bò sát và ếch nhái cũng nằm trong tình trạng tương tự như: Hạc cổ trắng, Cò á châu, Già đẫy lớn, Cò quắm cánh xanh, Ngan cánh trắng...
• Theo số liệu thống kê Việt Nam có 365 loài động vật và 356 loài thực vật đang trong tình trạng đe dọa tuyệt chủng.
Suy thoái về di truyền:
• Mức độ suy giảm của biến dị di truyền thường đi cùng với nguy cơ đe dọa của loài..
+ Một số loài động thực vật chỉ còn lại với số lượng cá thể rất ít như: Bò xám, Tê giác một sừng,.... (động vật); Trầm hương, Hoàng đàn, Mun, Thủy tùng, Lát hoa, Sam đỏ, Thông pà cò,... (thực vật).
• Suy thoái về di truyền còn thể hiện ở sự mất di truyền của loài phụ, các xuất xứ, các quần thể quan trọng. Ví dụ như :
Thông 5 lá Đà lạt: trước đây phân bố nhiều ở Trại Mát, cách thành phố Đà Lạt khoảng 6 -7km, và đây là nơi thu được mẫu vật đầu tiên song hiện tại chỉ còn tìm thấy 2 cá thể cuối cùng tại khu vực, đang trong trạng thái bị đe dọa khó có thể tồn tại lâu dài ( Nguyễn Hoàng Nghĩa, 1997).
• Nhóm thú Linh trưởng ở Việt Nam đa dạng về thành phần loài và có giá trị cao về tính đặc hữu song nguồn tài nguyên này đã và đang bị suy giảm. Nguyên nhân quan trọng là diện tích rừng tự nhiên bị thu hẹp mà thú Linh trưởng là nhóm thú chuyên hóa với đời sống leo treo ở rừng.
• Một vấn đề khác liên quan đến việc chọn giống là xói mòn di truyền. Các giống cao sản, thuần nhất đạt độ đồng đều cao được gây trồng rộng rãi và thay thế các giống cũ làm cho nền tảng di truyền bị thu hẹp, nhiều giống cây trồng (nông lâm nghiệp) địa phương đã bị mất đi hoặc bị thu hẹp.
4 / Cách khắc phục
4.1-giải pháp
Tuyên truyền phổ biến giáo dục,nâng cao nhận thức về quản lý bảo vệ rừng
-Xây dựng các chương trình về thông tin – giáo dục -truyền thông phổ biến kiến thức về pháp luật bảo vệ và phát triển rừng nằm nâng cao nhậ thức về việc bảo vệ rừng
-Đổi mới phương pháp tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng tiếp nhận thông tin nhâất là đổi tượng đồng bào dân tộc vùng sâu vùng xa .Đưa kiến thức cơ bản về bảo vệ tài nguyên rừng vào chương trình giảng dạy ở các cấp tiểu học trung học
-Vận động các hộ gia đình sống trong và gần rừng kí cam kết bảo vệ rừng ;xây dựng và quy ước bảo vệ rừng ở cấp xã
Quy hoạch ,xác định lâm phận các loại rừng ổn định
Hoàn thiện thể chế chính sách và pháp luật
-Phân dịnh rõ chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nứơc của các bộ ,nghành uỷ ban nhân dân các cssps đối với công tác quản lý ,báo vệ và phát triển rừng
Nâng cao trách nhiệm của chủ rừng,chính quyền cac cấp và sự tham gia của các nghành các tổ chức xã hội vào bảo vệ rừng
Hỗ trợ nâng cao đời sống của người dân
Xây dựng cơ sở hạ tầng ,đầu tư trang thiết bị bảo vệ rừng
Ưngs dụng khoa học công nghệ vào công tác nghiên cứu và bảo vệ rừng
Nghiên cứu và xây dựng các quy chế tăng cường nguồn lực tài chính ,đổi mới cơ chế cấp phát tài chính
Hợp tác quốc tế:triển khai thực hiện tốt cá điều ước quốc tếmà Việt Nam là thành viên(Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật thực vật hoang dã nguy cấp;hiệp định ASEAN về chống ô nhiễm khó bụi xuyên biên giới….)
Thu hut các nguồn vốn ODA và các hỗ trợ kỹ thuật của cộng đoòng quốc tế cho công tác bảo vệ rừng
Xây dựng và thực hiện các thoã thuận song phương về hợp tác bảo vệ rừng liên biên giơi với các nước Lào va Campuchia.
4.2-Chương trình hành động hiện nay
Chương trình Giảm phát thải khí nhà kính do phá rừng và suy thoái rừng (REDD) ở Việt Nam vừa được công bố ngày 17/9/2009 tại Hà Nội.Chương trình trị giá 4,38 triệu USD được Chính phủ Na Uy tài trợ, do 3 tổ chức thuộc LHQ gồm Tổ chức Nông lương (FAO), Chương trình phát triển (UNDP) và Chương trình môi trường (UNEP) phối hợp tổ chức dưới sự điều hành của Bộ NN-PTNT Việt Nam.
Tỉnh Lâm Đồng được chọn làm nơi thí điểm chương trình.
Theo Liên hợp quốc, REDD sẽ giúp giảm phát thải khí nhà kính do phá rừng và suy thoái rừng. Ngoài ra, REDD tạo cơ chế khuyến khích tài chính để Việt Nam bảo tồn và phát triển rừng, góp phần ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo tồn đa dạng sinh học và ngăn chặn suy thoái đất và sa mạc hóa.
Chương trình sẽ tập trung vào nâng cao năng lực để thực hiện REDD cả ở cấp quốc gia và cấp vùng thông qua các hoạt động tại Lâm Đồng. Ngoài ra, chương trình tìm cách thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia trong vùng hạ lưu sông Mekong nhằm tránh rò rỉ phát thải qua biên giới.
Việt Nam được chọn là 1 trong 9 quốc gia trên thế giới thí điểm chương trình REDD của LHQ và là nước đầu tiên bắt đầu thực hiện các hoạt động nhằm giảm phá rừng và suy thoái rừng.
Thời gian qua, tình trạng chặt phá rừng tiếp tục diễn ra nghiêm trọng tại nhiều vùng rừng nguyên sinh, rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đầu nguồn, nhất là khu vực Tây Nguyên và một số tỉnh Miền Đông Nam Bộ. Để khắc phục tình trạng trên, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị các cấp, các ngành, các địa phương khẩn trương thực hiện nghiêm túc các biện pháp ngăn chặn tình trạng chặt phá, đốt rừng, khai thác rừng trái phép.
Theo đó, Thủ tướng giao Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chủ trì, phối hợp với các Bộ: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công an, Quốc phòng; huy động các lực lượng thích hợp của địa phương tham gia vào công tác bảo vệ rừng, trấn áp bọn lâm tặc; tổ chức chỉ đạo lực lượng kiểm lâm, công an, quân đội, Bộ đội biên phòng, dân quân, bảo vệ lâm trường, khẩn trương tổ chức truy quét những cá nhân, tổ chức phá rừng thuộc phạm vi quản lý của địa phương. Tổ chức kiểm tra, di chuyển số dân cư tự do đang cư trú phá rừng trái phép tại các khu rừng nguyên sinh, rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đầu nguồn, đến những khu đã được quy hoạch; bố trí đất đai, thực hiện các chính sách hỗ trợ của nhà nước để số dân này có điều kiện làm ăn sinh sống. Chỉ đạo kiểm tra, thu gom và xử lý theo quy định hết số gỗ rừng bị chặt phá khai thác trái phép; xử lý nghiêm, thu hồi giấy phép kinh doanh của các cơ sở mua bán, tiêu thụ gỗ, các loại động vật hoang dã trái phép. Phối hợp với các tổ chức đoàn thể quần chúng, các cơ quan thông tin đại chúng tuyên truyền, vận động cộng đồng tham gia bảo vệ rừng và ngăn chặn các hành vi vi phạm.
Thủ tướng yêu cầu Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng phối hợp với các Bộ, ngành chỉ đạo chính quyền địa phương kiểm tra, phát hiện các trường hợp xâm nhập rừng trái phép, ngăn chặn kịp thời không để rừng bị phá. Cương quyết phá bỏ các loại cây trồng, các công trình xây dựng trái phép trên diện tích rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng nguyên sinh. Ngăn chặn nạn đốt phá rừng, không để lan rộng. Những khu rừng đã bị đốt, phải bắt buộc khoanh lại để rừng tái sinh phục hồi và trồng dặm, tạo lại thảm rừng.
4.3 Đánh giá hiệu quả
Những năm qua công tác bảo vệ rừng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng,nhận thức về rùng được nâng cao,quan điểm đổi mới về lâm nghiệp đã được triển khai có hiệu quả ;hệ thống pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng ngày càng hoàn thiẹn;chế độ chính sách lâm nghiệp, nhất là chính sách về đa dạng hoá các thành phần kinh tế trong lâm nghiệp ,giao đất giao rừng,khoán bảo vệ rừng và quyền hưởng lợi từ rừng được ban hànhvà bước đầu đi vào cuộc sống.Nhà nước đã tăng cường đầu tư thông qua nhiều chương trình dự án đã tác động tích cực vào bảo vệ rừng.Vai trò trách nhiệm quản lý nhà nước về rừng của các nghành và chính quyền các cấp được nâng cao hơn ,các tổ chức xã hôiđã có những nổ lực tham gia vào công tác bảo vệ và phát triển rừng…
Nhiều biện pháp cương quyết như tổ chức các đợt truy quyết giải toả các tụ điểm phá rừng trái phép, ngăn chặn chuyển đổi mục dích sữ dụng đất lâm nghiệp ngoài quy hoạch xử lý vi phạm pháp luật trong baảo vệ và phát triển rừng được thục hiện quyết liệt hơn.Nhờ đó tình trạng vi phạm cá quy định của nhà nườc về bảo vệ và phát triển rừng , tình trạng phá rừng trên quy mô lớn được hạn chế ,giảm thiệt hại so cvới năm 1990.Nhiều mô hình bảo vệ và phát triển đã được hình thành ở các địa phương ,góp phần coi trọng vào việc khôi phục lại diện tích rừng ,phát triển kinh tế xã hội và cải thiện châts lượng môi trường ở địa phương.
Mặc dù thời gian đã có những nỗ lực khoong ngừng của cá nghành các cấp trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng nhưng nhìn chung kết quả đạt được chua toàn diện ,chuyển biến chua căn bản ,thiếu vững chắc .Tiình trạng phá rừng khai thác và sử dụng đát lâm nghiệp trái phép vẫn diễ ra ở nhiều nơi ,đặc biệt ở các địa phương còn nhiều rừng tự nhiên .Nhiều băng nhóm phá rừng chuyên nghiệp ,đường dây buôn bán lâm sản chưa dược theo dõi ,phát hiện và bóc gơ kịp thời.Nhiều điểm noóng về phá rừng nghiêm trọngkéo dai chưa được giả quyết triệt để.
III KẾT LUẬN
Tài nguyên rừng Việt Nam đang gặp nhiều vấn đè như nạn phá rừng trái phép dưới nhiều hình thức và mục đích khác nhau đang diễn ra rất phức tạp ,gây nhiều khó khăn cho các cấp chính quuyền cũng như cơ quan chức năng trong vấn đè quản lý .Đây là vấn đè mang tính xã hôi cao ,để giả quyết vấn dề này không đơn thuần là giải pháp riêng biệt của môột nghành ,một lĩnh vực mà cần có nững giả pháp tổng hợp với sự tham gia cuă nhiều nghành chức năng .Nhúng năm vùa qua nhiều chính sách hỗ trợ của nhà nước đac được thực hiện như chương trình 132,134,135 đã có tác động tích cực góp phần thay đổi bộ ặt nông thôn ,miền nuúi song vẫn chưa giải quyết được triệt để nạn phá rừng với việc đẩy mạnh các hoạt động truyền thống về bảo vệ rừng tronh những năm gần đaay ,nhận thức của đa số người dân được nâng cao rõ rệt .Tuy nhiên Nhà nước cần thắt chặt hơn nữa trong công tác và bảo vệ rừng đồng thời đua ra các giả pháp trước mắt và lâu dài nguồn tài nguyên này.Và chúng ta những sinh viên của khoa tài nguyên môi trưòng cần phải làm nhiề hơn nữa,học tập và nghiên cứu thật tôt để có thể bảo vệ tài nguyên rừng nói riêng và môi trường nói chung
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hiện trạng tài nguyên rừng Việt Nam ,nguyên nhân suy thoái và giải pháp.doc