Hiện tượng người dân Hà Nội đến chùa nghe giảng kinh

Tôn giáo là một hiện tượng xã hội - văn hóa hết sức phổ biến trên toàn thế giới. Đã có lúc người ta nghĩ rằng tôn giáo sẽ dần dần tiêu vong cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, sự phát triển của kinh tế xã hội. Nhưng trên thực tế lại không như vậy. Đã có một thời gian tương đối dài các hoạt động tôn giáo ở Việt Nam đã lắng xuống, nhưng hiện nay cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường tôn giáo đang âm thầm trỗi dậy với một sức sống ngày càng mạnh mẽ. Tìm hiểu được mức độ phát triển của tôn giáo hiện nay như thế nào là một vấn đề không dễ dàng. Trong khuôn khổ tiểu luận này, tôi chỉ tiến hành nghiên cứu một vấn đề tôn giáo nhỏ là hiện tượng người dân Hà Nội đến chùa nghe giảng kinh, nhằm qua đó thấy được phần nào sự phát triển của Phật giáo ở Hà Nội. Đề tài triển khai trên 2 mục tiêu cơ bản sau: ã Tìm hiểu thực trạng và nguyên nhân của hiện tượng người dân đến chùa nghe giảng kinh. ã Đánh giá những mặt tích cực và tiêu cực của hiện tượng trên. Không gian khảo sát là chùa Quán Sứ. Đây là một trong những chùa lớn ở Hà Nội và là một trong những trung tâm Phật giáo lớn nhất không chỉ ở Hà Nội mà còn trên phạm vi toàn quốc. Trụ sở của Giáo hội Phật giáo Trung ương được đặt tại đây. Chùa còn là nơi thu hút đông đảo khách thập phương về lễ. Đây cũng là nơi duy nhất có tổ chức giảng kinh đều đặn vào các buổi sáng chủ nhật. Đề tài nghiên cứu sử dụng những phương pháp chủ yếu sau đây: - Phương pháp quan sát: Qua quan sát tham dự trong 5 buổi giảng kinh, chúng tôi có được ước lượng số người đi nghe giảng kinh mỗi buổi, thái độ người đi nghe giảng kinh, nội dung buổi giảng kinh. - Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, với lượng mẫu là 100 Mục Lục 1. Giới thiệu chung về đề tài 1 2. cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài 3 3. Kết quả nghiên cứu 8 3.1. Vài nét về chùa Quán Sứ 8 3.2. Thực trạng hoạt động giảng kinh 8 Sơ đồ tần suất đi nghe Giảng kinh ở từng độ tuổi 13 3.2.3. Thái độ những người đi nghe giảng kinh 13 3.3. Nguyên nhân đi nghe giảng kinh 15 3.4. Mục đích đi nghe giảng kinh 23 3.5. Những ảnh hưởng của việc đến chùa nghe giảng kinh đối với những người đi nghe. 26 3.6. Đánh giá tình hình 29 3.7. Một số nhân tố xã hội ảnh hưởng đến hiện tượng này 32 4. kết Luận 33

doc31 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3305 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hiện tượng người dân Hà Nội đến chùa nghe giảng kinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vấn sâu với 2 nhóm đối tượng: Người đi nghe giảng kinh. Người giảng kinh- Hòa thượng Thích Thanh Tứ. 2. cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài 2.1. Phật giáo và hoạt động Giảng Kinh của tôn giáo này. Phật giáo là một trong ba tôn giáo thế giới. Có người nói Phật giáo là một tôn giáo vô thần. Xét về một khía cạnh nào đó, điều này không sai. Khởi nguyên của Phật giáo vốn chỉ là một trường phái triết học. Sau khi Phật Thích Ca nhập diệt, các đệ tử của Ngài tập kết 4 kỳ Đại hội, soạn lại các lời Giảng thành các quyển Kinh, tổ chức lại cơ cấu thiết chế, lúc đó, Phật giáo mơí thực sự trở thành một tôn giáo. Tuy nhiên, dù là một trường phái triết học hay là một tôn giáo, hoạt động giảng Kinh cũng là một hoạt động không thể thiếu của đạo Phật. Các buổi giảng Kinh có ảnh hưởng rất lớn đến nhân sinh quan, thế giới quan và nhân cách của các Phật tử. Kinh Phật có ba loại chính, gọi là Tam Tạng: Tạng Kinh ,Tạng Luật và Tạng Luận. Kinh là lời thuyết pháp của Phật và các Bồ Tát, Luật là giới luật, Luận là lời bàn về Kinh và Luật. ở nước ta, do các tư tưởng Phật giáo rất thích hợp với văn hoá-tâmlý của người dân nói chung, nên sau khi du nhập vào Việt Nam (thế kỷ I sau CN) Phật Giáo nhanh chóng trở thành một trong những hệ tư tưởng chính. Tuỳ theo sự phát triển trong từng giai đoạn của Phật Giáo, hoạt động giảng Kinh cũng có mức độ phổ biến khác nhau. Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động Giảng Kinh có xu hướng phát triển mạnh ở các đô thị, đặc biệt ở Huế, Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Nội dung giảng kinh càng ngày càng gắn với đời hơn, được diễn đạt giản dị và dễ hiểu hơn. Nội dung các buổi Giảng Kinh chủ yếu xoay 3 loại Kinh chính:Kinh Pháp Hoa, Kinh Lăng Nghiêm và Kinh Niết Bàn. Hoạt động Giảng Kinh dưới góc độ là một hiện tượng tín ngưỡng xã hội. Hoạt động đến chùa nghe Giảng Kinh là một hiện tượng tín ngưỡng xã hội. Trước hết, đây là một hiện tượng nảy sinh do sự vận động nội tại của xã hội chứ không phải từ ý muốn chủ quan của một cá nhân hay một nhóm, một tổ chức nào. Trong thời kỳ bao cấp, do sự thống trị đơn nhất của hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, trong đó có chủ nghĩa vô thần khoa học nên tôn giáo đã lắng xuống. Do đó, hoạt động giảng kinh cũng chưa thu hút được đông đảo người tham gia. Nhưng sau khi phá bỏ chế độ quan liêu bao cấp, thực hiện chính sách mở cửa, tự do tín ngưỡng, tôn giáo có điều kiện phát triển công khai. Đồng thời, cũng do sự phát triển phức tạp của xã hội, con người nảy sinh nhu cầu tâm linh, nhu cầu có chỗ dựa về mặt tinh thần.Do đó, tôn giáo(ở nước ta, chủ yếu là đạo Phật), có điều kiện truyền bá giáo lý rộng khắp hơn. Nói tóm lại, sự phát triển của hoạt động đến Chùa nghe giảng Kinh là xuất phát từ các thay đổi của xã hội, nó nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người và chỉ tồn tại trong những hoàn cảnh cụ thể. Thứ hai, hoạt động đến chùa nghe Giảng Kinh không phải là hoạt động của .riêng một nhóm nào. Trong thời gian gần đây, nó đã trở thành một hiện tượng phổ biến trong các nhóm xã hội, dù xét dưới góc độ nào:nghề nghiệp, giới tính, trình độ học vấn.....Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy rằng, trong tương lai, hoạt động này sẽ còn phát triển hơn nữa. Hiện tượng đến chùa nghe Giảng Kinh còn có tính lịch sử. Như đã nói ở trên, hiện tượng này chỉ nảy sinh trong trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định. Hiện tượng này đặc biệt phổ biến dưới triều đại Lý-Trần, khi Phật giáo là quốc giáo của nước ta. Trong những năm chiến tranh, hoạt động này lắng xuống một cách rõ rệt. Đặc biệt, trong thời kỳ bao cấp, nó chỉ là hoạt động âm thầm của một nhóm nhỏ trong xã hội. Nhưng trong thời gian gần đây, cụ thể là dưới chế độ kinh tế thị trường, nó đã phát triển và trở thành một hiện tượng xã hội đáng quan tâm. Hơn nữa, bản thân hiện tượng này còn có tính lịch sử do sự tồn tại đã hàng chục thế kỷ của nó. Xuất hiện ở Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ thứ I, hiện tượng này đã thực sự gắn bó với những thăng trầm của lịch sử nước ta. ở đây, trong phạm vi một bài nghiên cứu xã hội học, chúng tôi chỉ xét hiện tượng này trong bối cảnh cụ thể là giai đoạn hiện nay. 2.2.Một số khái niệm cơ bản Kinh và Giảng kinh “Kinh, còn gọi là Khế kinh, Kinh bản,là một trong 3 bộ phận của Tam tạng(Kinh, Luật, Luận).Kinh là giáo pháp,là lời dạy của Phật” (Phật học Đại Từ Điển-Đinh Phúc Bảo biên soạn-NXB Văn Vật,in lại năm 1984,Tr.1213 ) Theo từ điển Phật học (NXB TP Hồ Chí Minh 1997-T128-129) thì Kinh là “...những bài giảng về đạo lý do Đức Phật thuyết ra và chư đệ tử góp nhặt lại đóng thành bổn như: A Di Đà Kinh, Kim cang Kinh, Diệu pháp liên hoa Kinh v.v.... Kinh nếu đọc theo chữ Phạn thì là Tu-đa-la(sutras). Tiếng Trung quốc là Khế kịnh tức là hiệp kinh, vì kinh do Phật thuyết hiệp với các căn cơ, dung hòa với các cỡ trí của các hạng chúng sanh. Kinh phật phải đủ 5 nghĩa: Xuất sanh: Tất cả nghĩa lý đều do nơi kinh mà xuất hiện ra. Tuyền dũng: Nghĩa lý thâm thuý và lưu thông như nước suối chảy. Hiển thị: Nghĩa lý màu nhiệm do nơi kinh chỉ bảo cho thấy rõ. Thằng mặc: Nghĩa lý trong kinh làm chừng mực cho chúng sanh tu học, cũng tỷ như thợ mộc nhờ giây mực mà đẽo gỗ cho ngay. Kết man: Nghĩa lý tóm thâu, đơm kết như dây hoa.....” Còn theo cuốn "Vào cổng chùa" của Thích Thanh Từ, thì kinh được hiểu môn na là những lời của Đức Phật dạy. Để truyền bá chánh pháp, người giảng kinh thường giảng dạy những luận về Kinh cho Phật tử nghe. Theo cuốn " Tôn giáo thế giới và Việt Nam" của Mai Thanh Hải (NXB Công an nhân dân-1998), thì Kinh sách đạo Phật là một khối đồ sộ về chữ nghĩa, về kiến thức, về quan niệm. Người ta thường gọi kinh sách nhà Phật là " Tam tạng kinh điển"(tripitaka) bao gồm: Kinh tạng(sutra pitaka), Luật tạng( Vinaya pitaka)và Luận tạng(Abhidhamma pitaka). Toàn bộ kinh điển nguyên gốc viết bằng chữ Phạn(sanscrit) và chữ Pali là hai ngôn ngữ chính của ấn độ trước công nguyên. Kinh tạng ghi lời Phật dạy về giáo lý. Kinh tạng có năm bộ kinh lớn: Trường bộ kinh gồm tất cả các bài thuyết pháp dài của Phật; Trung bộ kinh gồm các bài thuyết pháp dài trung bình; Tương ứng bộ kinh gồm các bài xếp theo đề tài; Tăng bộ kinh gồm các bài xếp theo từng phép và Tiểu bộ kinh gồm 15 bài kinh xưa nhất. Cả hai phái Đại thừa và Tiểu thừa đều công nhận năm bộ kinh này là chính thống; riêng Đại thừa còn có nhiều kinh khác như: Hoa nghiêm, Diệu pháp Liên hoa, Bát nhã, Lăng Nghiêm, Kim Cương, Di đà,.. Luật tạng ghi các giới luật do Phật định ra để làm khuôn phép cho đời sống và cho việc tu học của các đệ tử, nhất là để giữ gìn kỷ cương trong những người xuất gia đi tu. Luận Tạng được các đệ tử xây dựng sau khi Phật qua đời; mục đích Luận tạng là nhằm giới thiệu giáo lý nhà Phật một cách có hệ thống, động thời phê bình, uốn nắn những nhận thức sai trái và những quan điễm xuyên tạc Đạo Phật. Giảng kinh là phương thức chủ yếu để truyền bá giáo lý đạo Phật. Người giảng Kinh thường được gọi là giảng sư. Một buổi giảng Kinh thường do một giảng sư đứng lên thuyết pháp, các Phật tử ngồi dưới lắng nghe. Không phải bất cứ vị tăng ni nào cũng có thể là giảng sư mà chỉ có những vị tăng, ni đã tốt nghiệp Đại học Phật Giáo mới được giảng Kinh. Đôi khi, chùa còn mời một số nhà nghiên cứu Phật học, am hiểu Kinh Phật đến để giảng Kinh. Nội dung buổi giảng Kinh thường xoay quanh Kinh Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, và Niết Bàn. Hoạt động Giảng Kinh thường diễn ra trong các chùa. Phật tử và người tin vào đạo Phật Thông thường, không mấy có sự khác nhau giữa hai khái niệm Phật tử và người tin theo đạo Phật. ở các nước khác, những người tin vào một tôn giáo nào đó thường là tín đồ của chính tôn giáo đó. Nhưng riêng ở nước ta, hai khái niệm này cần phải được phân biệt trên mặt nhận thức. Bởi vì, đạo Phật ở nước ta không chỉ là một tôn giáo mà còn là một hệ tư tưởng mà đã có thời là tư tưởng chính thống. Do đó, ảnh hưởng của đạo Phật ở nước ta rất sâu rộng, không chỉ có các tín đồ đạo Phật tin theo mà cả những người ngoại đạo cũng chịu ảnh hưởng ít nhiêù (theo nguồn tin của Giáo hội Phật giáo, số người tin theo Đạo Phật chiếm 75% dân số, trong khi số Phật tử chính thức chỉ chiếm khoảng 12,8%). Phật tử, theo định nghĩa của chính tôn giáo này, là “con của Phật về pháp giáo, đệ tử của Phật, tín đồ Phật Giáo.....nhờ Phật giáo hoá, hoặc nhờ nghe Kinh do Phật thuyết mà chứng được Pháp tánh,....noi theo Phương pháp Phật truyền mà tu để đắc các quả đạo. (Từ điển Phật học-Tập 2,t.225) Hiểu theo cách thông thường, Phật tử là những người đã được Giáo hội Phật giáo công nhận. Còn khái niệm những người tin theo đạo Phật thì rất rộng. Chỉ cần có niềm tin vào đạo Phật hoặc sự tồn tại của Phật đã là người thuộc nhóm này. Phật tử thì chắc chắn có niềm tin vào đạo Phật, nhưng những người có niềm tin vào đạo Phật thì chưa chắc đã là Phật tử. 3. Kết quả nghiên cứu 3.1. Vài nét về chùa Quán Sứ Chùa Quán Sứ ở tại 73 phố Quán Sứ-Quận Hoàn Kiếm-Hà Nội, xưa là đất của thôn An Tập, huyện Thọ Xương, trên lối ra vào hoàng thành Thăng Long,mạn cửa nam. Nguyên đây là ngôi chùa nhỏ nằm bên "Quán Sứ"-nơi đón tiếp các sứ thần nước ngoài, được triều đình Lê sơ tạo dựng từ thế kỷ XV. Năm 1934, Chùa là Hội quán của Phật giáo Bắc Kỳ. Từ năm 1942, chùa nhiều lần được mở mang với quy mô kiến trúc rộng lớn, khang trang và trở thành trụ sở Trung ương Hội Phật giáo Việt Nam. Hàng ngày , chùa đón tiếp hàng trăm lượt khách vào thăm quan, lễ Phật.. Đặc biệt vào các ngày rằm, mồng một, các ngày lễ khác của Phật giáo, hàng nghìn người tới Chùa Quán Sứ mỗi ngày. Hiện nay, Chùa Quán Sứ có tất cả 13 tăng ni: 3 ni và 10 tăng, trong đó có 2 Hòa thượng. Ngoài ra nếu tính cả thị giảng là 20 người. 3.2. Thực trạng hoạt động giảng kinh 3.2.1. Về cơ cấu tổ chức của hoạt động giảng kinh. Người khai sinh ra Phật giáo, Thích ca mâu ni, tuy không để lại bất kỳ một cuốn sách nào nhưng những lời của ông đã được các đệ tử ghi chép lại trong các cuốn Kinh và được truyền bá rộng rãi nhờ hoạt động giảng kinh. Chính việc tiến hành giảng kinh đã giúp Phật giáo phát triển mạnh mẽ và thu hút được nhiều tín đồ. Vì vậy, hoạt động giảng kinh là hoạt động không thể thiếu của Phật giáo. Việc tổ chức giảng kinh được giáo hội Phật giáo tất cả các nước trên thế giới tiến hành. Nhìn chung, ở Hà Nội, Giáo hội Phật giáo thường tổ chức giảng kinh vào ba tháng "an cư kiết hạ"(từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy). Tuy nhiên, không phải tất cả các chùa đều tổ chức giảng kinh, mà chỉ có ba chùa: Quán Sứ, Bà Đá, Liên phái. Nhưng riêng chùa Quán Sứ có tổ chức hoạt động giảng kinh vào các buổi sáng chủ nhật từ 8h đến 9h. Hiện nay, việc giảng kinh tại chùa Quán Sứ thường do hòa thượng Thích Thanh Tứ giảng. Các buổi giảng kinh của hòa thượng thu hút trung bình 350-400 người nghe, có những buổi lên đến hơn nghìn người ngồi kín sân chùa để nghe giảng kinh. Các loại kinh chủ yếu được giảng là kinh Pháp Hoa, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Niết Bàn và một số loại kinh khác. Kinh Pháp Hoa là tên gọi tắt của Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, còn gọi là kinh Diệu Pháp, Kinh Liên Hoa. Diệu Pháp là cái vi diệu, cái tinh tế nhất. Liên Hoa là hoa sen, ý nói Kinh này đẹp đẽ trong sáng như hoa sen. Trọng điểm của cuốn Kinh này là tuyên truyền quan điểm Tam Thừa (Thanh Văn,Duyên Giác,Bồ Tát), thống nhất Tam Thừa về một mối và điều hoà cách thuyết pháp của Tiểu Thừa, Đại Thừa. Cuốn kinh này nêu lên rằng tất cả mọi chúng sinh đều có thể trở thành Phật. Kinh Lăng Nghiêm, còn gọi là Đại Phật Đỉnh,Thủ Lăng Nghiêm Kinh. Nội dung bộ kinh này nói rằng: tất cả mọi vật trong thế gian đều là cái Tâm sáng suốt của Bồ Đề; Tâm thì tinh tế tròn trĩnh, bao hàm cả 10 phương.Chúng sinh do không rõ cái Tâm mình là Tính Tịnh Diệu Thể (một thể linh diệu, trong sạch) nên rơi vào vòng sinh tử. Như vậy, cần phải làm phương pháp thiền định để phá bỏ cái định kiến ấy. Cách tu luyện có từng bước từ thấp đến cao, và mục tiêu phấn đấu là đạt tới sự giác ngộ toàn diện. Kinh Niết Bàn có nội dung là về Niết Bàn. Nó nói về thế giới lý tưởng của nhà Phật-nơi không còn khổ đau,luân hồi sinh tử. Niết Bàn có nghĩa là “diệt”, “tịch diệt”, “vô vi”...., Là sự đoạn tuyệt triệt để về nguồn gốc phiền não để sinh ra cái nghiệp sinh tử. (theo Phật Học Đại Từ Điển -Đinh Phúc Bảo biên soạn-NXB Văn Vật,in lại năm 1984,Tr.1213 ) Nội dung các buổi giảng kinh tuy là các kinh Phật nhưng để cho người nghe dễ hiểu, hoà thượng Thích Thanh Tứ thường lấy những ví dụ rất cụ thể trong cuộc sống. Từ những lời Phật dạy, hòa thượng đưa đến những cách ứng xử cho các Phật tử. Trong buổi giảng Kinh ngày 21/3/1999, Hòa thượng có nói: ‘Kinh Phật và thế gian không xa, nó vốn trùng khớp, do đó việc vận dụng giáo lý của Phật vào cuộc sống hàng ngày sẽ làm cuộc sống thực tế tốt đẹp hơn’. Hòa thượng Thích Thanh Tứ khuyên các Phật tử: ‘Kinh cũng là những việc làm thực tế, nên học để hiểu, hiểu để làm, từ đó tránh ác làm điều thiện và giảm được ác đạo’. Nhìn chung, buổi giảng kinh xoay quanh vấn đề khuyên con người làm điều thiện trừ bỏ điều ác. Ngoài ra, để giúp mọi người đến chùa hiểu rõ hơn về những lời Phật dạy và phục vụ hoạt động giảng kinh, trong chùa Quán Sứ có bày bán rất nhiều tranh ảnh, sách báo của Phật giáo. Một quầy sách ngay ngoài cổng chùa đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi người muốn tìm hiểu Đạo Phật và trong chùa ngay gần chỗ giảng kinh là nơi bày bán Tạp chí Phật học và báo Giác Ngộ. Cũng còn cần kể đến một thư viện luôn mở của phục vụ bất cứ ai muốn tìm hiềủ thêm về kinh Phật, mà việc làm thẻ thư viện ở đây hết sức dễ dàng. 3.2.2. Thành phần những người đi nghe giảng kinh và tần suất đi nghe giảng kinh của họ. a.Thành phần người đi nghe giảng kinh Theo quan sát của chúng tôi mỗi buổi giảng kinh trung bình có 350 người, trong đó nam giới chiếm khoảng hơn 1/3 tổng số, còn lại là nữ giới. Khoảng 80% số người đi nghe giảng kinh mặc áo nâu sồng. Bảng 2 Thành phần người đi nghe Giảng Kinh (Xét theo lứa tuổi và trình độ học vấn) Độ tuổi 20-39 40-59 Trên 60 Trình độ học vấn Dưới PTTH PTTH ĐH &TrênĐH Nam 15% 27.3% 57.7% 21.2% 21.2% 57.6% Nữ 9% 32.8% 58.2% 43.3% 41.7% 15% Qua số liệu trên,chúng tôi rút ra kết luận sau: -Về độ tuổi: độ tuổi người đi nghe Giảng Kinh phổ biến là trên 60 tuổi(chiếm gần 60%). ở đây không có sự khác biệt mấy giữa hai giới (nam:57.7% ; nữ :58.2%). Về mặt tâm lý, ở độ tuổi này thường có nhu cầu tình cảm rất lớn, nhưng lại ít được thoả mãn do con cháu bận đi làm, khiến họ thấy cô đơn. Ngoài ra, phần lớn trong số họ là những người đã thôi không làm việc nên thời gian rảnh rỗi của họ khá nhiều. Vì vậy, đến chùa, trong đó, việc đi nghe giảng kinh trở thành một nhu cầu cần thiết đối với đời sống của họ. Độ tuổi 40-59 chiếm trên dưới 30% số lượng người đi nghe giảng Kinh. ở đây, tỷ lệ nữ giới cao hơn nam giới (nữ:32.8 %;nam:27.3%). Qua điều tra ở phần mục đích đi nghe giảng Kinh trong bảng hỏi và phỏng vấn sâu, chúng tôi nhận thấy nguyên nhân của sự chênh lệch này là do nam giới tầm tuổi này vẫn còn đang rất chú trọng công việc, họ ít có thời gian hơn nữ giới. Mặt khác, nữ giới tầm tuổi này thường có rất nhiều lo lắng, xáo trộn trong tinh thần do có những thay đổi tâm sinh lý. Mặt khác, do họ chủ yếu ở nhà lo việc nội trợ nên có điều kiện tham gia các hoạt động tôn giáo, trong đó có việc đi nghe giảng kinh. Độ tuổi từ 20-39 chiếm tỷ lệ thấp nhất. Điều này cũng là dễ hiểu bởi những người tầm tuổi này thường có rất nhiều mối quan tâm như bạn bè, tình yêu, gia đình và sự nghiệp. Hơn nữa, lứa tuổi này thường tham gia nhiều hoạt động tôn giáo như: đi chùa lễ Phật, tham gia lễ hội, hành hương....Do vậy, việc đi nghe giảng kinh không là hoạt động tôn giáo chủ đạo của họ. Tầm tuổi này, tỷ lệ nam lại cao hơn nữ. Tìm hiểu sâu bằng bảng hỏi và phỏng vấn sâu, chúng tôi được biết mục đích chính của những người đi nghe giảng Kinh lứa tuổi này chủ yếulà tìm hiểu đạo Phật, nâng cao hiểu biết. Đây cũng là nguyên nhân khiến chênh lệch tỷ lệ giữa hai giới (nam giới tầm tuổi này có thời gian và điều kiện hơn để đi nghe giảng Kinh vì họ chủ yếu chỉ cần lo sự nghiệp, còn nữ giới ngoài công việc xã hội, còn bận rộn với việc gia đình). -Về trình độ học vấn: Có sự khác nhau khá lớn giữa hai giới Nam giới, tỷ lệ người có trình độ học vấn cao (ĐH và trên ĐH) chiếm gần 60%. Còn tỷ lệ người có trình độ học vấn trung bình (tốt nghiệp PTTH) và thấp (dưới PTTH) khá thấp (21.2%). Trong khi đó, tỷ lệ người có trình độ học vấn cao của nữ giới rất thấp (15%), chủ yếu là người có trình độ học vấn trung bình và thấp. Nữ giới có trình độ học vấn cao phần lớn đều đã đạt được một địa vị xã hội nhất định, nên họ thường rất bận rộn (gia đình và xã hội). Ngoài ra, những người này thường sợ dị nghị từ phía gia đình, đồng nghiệp, hàng xóm nên họ ít đến chùa nghe giảng kinh. Mặt khác, mỗi người đều có nhiều nguyên nhân khác nhau khiến họ đi nghe giảng kinh nên mục đích của họ khác nhau nhưng ở nam giới, mục đích chủ yếu là tìm hiểu về đạo Phật và muốn nâng cao hiểu biết, còn ở nữ giới, mục đích cũng là tìm hiểu đạo Phật nhưng sự tìm hiểu của họ mang nhiều yếu tố tình cảm là chính. Do đó, trong những người đi nghe giảng kinh, tỷ lệ nam giới có học vấn cao cao hơn ở nữ giới. b.Tần suất hoạt động nghe giảng Kinh Hoạt động giảng kinh được tổ chức đều đặn vào sáng chủ nhật hàng tuần và buổi nào cũng thu hút đông người tham gia. Để đánh giá tần suất đi nghe giảng kinh của họ, chúng tôi đặt ra câu hỏi: "Ông( bà) có thường xuyên đi nghe giảng kinh không?", với bốn chỉ báo sau: 1. thường xuyên; 2. 1,2 lần trong tháng; 3. Vài tháng một lần; 4.Khi nào rỗi thì đi. Theo độ tuổi chúng tôi thu được kết quả sau: Sơ đồ tần suất đi nghe Giảng kinh ở từng độ tuổi Qua sơ đồ trên, chúng tôi nhận thấy mỗi người ở những độ tuổi khác nhau, trong những điều kiện khác nhau thì tần suất đi nghe giảng kinh khác nhau. Nhìn vào biểu đồ ,chúng ta thấy, tần suất phổ biến cho cả 3 độ tuổi vẫn là thường xuyên đi nghe giảng kinh và khi nào rỗi thì đi. Như đã lý giải ở trên, những người ở độ tuổi 60 trở lên có điều kiện về thời gian nên tần suất phổ biến của họ là thường xuyên. Còn đối với độ tuổi từ 20-39, 40-59, do bận nhiều công việc gia đình, xã hội nên ít có thời gian. Vì vậy, chỉ có khi nào rỗi họ mới có thể đi nghe giảng kinh. Điều này cho thấy, đại đa số người nghe Giảng Kinh đều thật sự bị cuốn hút vào hoạt động này. Nhiều người đã nói rằng, đi nghe Giảng Kinh đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được của cuộc sống. 3.2.3. Thái độ những người đi nghe giảng kinh Theo quan sát, chúng tôi thấy: Buổi sáng, có những người đến rất sớm, họ đi lễ Phật rồi vào trong giảng đường ngồi, người thì nói chuyện với nhau, người thì tụng kinh,... Số lượng người đến tăng dần và những người đến muộn phải lấy dép, ni lông, giấy báo ra ngồi ở sân bên ngoài giảng đường, số người ngồi ngoài có hôm lên tới gần 100 người, vì chỗ ngồi trong giảng đường không đủ, tuy nhiên có hôm chỉ vài ba chục người. Nhìn chung, những người ngồi nghe rất trật tự, chăm chú lắng nghe, đặc biệt là những người ngồi trong giảng đường và nam giới. Trong lúc Hoà thượng Thích Thanh Tứ giảng, có người ngồi rất im lặng, lắng nghe từng lời của hòa thượng; có người lấy giấy bút ghi chép hết sức cẩn thận; có người ngồi theo kiểu tọa sen vừa nghe vừa đan len; lại có một số người vừa nghe vừa bình luận nhỏ to với nhau; có người lại lần tràng hạt... Có thể nói có bao nhiêu người thì có bấy nhiêu cách tiếp nhận khác nhau. tuy nhiên, vẫn còn một số người vân phân tâm, chưa thực sự chú ý vào bài giảng. Những người thực sự chú tâm vào bài giảng phần lớn là những người ngồi trong giảng đường và nam giới. Còn những người chưa tập trung phần lớn là những người ngồi bên ngoài giảng đường, chủ yếu là nữ giới - họ thường thì thầm to nhỏ với nhau rất vui vẻ. Đây là những người đi theo nhóm bạn bè. Việc đi nghe giảng kinh chỉ là một thói quen và một phần là phong trào. Tuy nhiên, phần lớn mọi người đều lắng nghe và tiếp nhận những điều nghe được thông thường thì không có người thắc mắc. Dường như, họ cho rằng những điều họ đang nghe là đúng đắn không cần bàn cãi gì thêm. Qua đó, chúng tôi nhận thấy họ có niềm tin thực sự vào Đức Phật. Những người đến nghe giảng kinh thường đi một mình, có một số người đi theo nhóm. Tuy nhiên có những người đã biết nhau và khi gặp nhau ở đó họ thường ngồi gần nhau và trao đổi một số chuyện. Những người đến đây là hoàn toàn tự nguyện, họ tập trung nhau lại cùng vì một mục đích, và khi buổi giảng kinh kết thúc, tất cả mọi người đều đứng dậy, im lặng, chắp tay trước ngực cúi chào khi hòa thượng Thích Thanh Tứ đi ra. Sau khi hòa thượng đi rồi mọi người mới chuẩn bị đi về. Tất cả mọi người đều tôn kính Hòa thượng Thích Thanh Tứ, có một chuyện xảy ra vao buổi giảng kinh 2/5/1999, có một bà chừng gần 60 tuổi, dường như có việc bận định đi về trước nhưng ngay lập tức bị những người xung quanh nhắc nhở: Phải đợi Hòa thượng đi đã rồi mới được về. Trước khi ra về mọi người thường chào hỏi nhau, có người còn bình luận thêm về những điều đã nghe được, có người tiếp tục đi lễ Phật... Nhìn chung, sau khi buổi giảng kinh kết thúc, không ai có thái độ vội vã ra về, trông vẻ mặt mọi người rất vui vẻ, mãn nguyện. Dường như, họ có vẻ luyến tiếc khi buổi giảng kinh kết thúc. Còn trong buổi sáng hôm 21/3, chúng tôi được chứng kiến một chuyện: Có một bà sau khi nghe giảng kinh đã để quên cái ô và có một ông đã đuổi theo khi bà ra tới gần cổng và trả lại ô cho bà. Ông nói: Vừa rồi hòa thượng đã giảng con nguời nên làm việc thiện, vì thế Phật tử chúng ta lấy nghĩa đối với nhau là chính. Qua những quan sát được như trên, chúng tôi rút ra một số kết luận sau: - Những người đi nghe giảng kinh là tự nguyện không có một nhóm tổ chức nào. - Trong quá trình nghe giảng kinh, hầu hết mọi người đều hết sức lắng nghe. - Những điều họ nghe được, họ cố gắng áp dụng ngay vào thực tế. - Cách ứng xử của các Phật tử nhìn chung hết sức thân thiện và nhiệt tình. - Dường như những điều nghe được đã chi phối cả suy nghĩ lẫn hành động của họ. 3.3. Nguyên nhân đi nghe giảng kinh Phần lớn những người đến chùa nghe giảng kinh có sự tập trung, chăm chú nghe giảng và đi nghe giảng kinh một cách thường xuyên. Vậy những nguyên nhân nào đã đưa họ tìm đến chùa nghe giảng kinh? Trong đợt điều tra mẫu, chúng tôi đã tìm được 4 nguyên nhân chính sau: -Do bạn bè rủ -Do tin vào đức Phật và muốn đến gần đức Phật -Do có sự xáo trộn lớn trong cuộc sống -Do muốn tìm hiểu đạo Phật Với 4 nguyên nhân chính đó,chúng tôi đưa vào bảng hỏi thành 4 chỉ báo, mỗi người được hỏi được chọn tối đa là 3 trong số 4 chỉ báo đó. Kết quả như sau: Bảng 3 : Nguyên nhân đi nghe giảng kinh (xét theo độ tuổi) Giớitính Từ 20-40 tuổi Từ 40-60 tuổi Trên 60 tuổi Bạn bè rủ Nam 40% 6.25% 10,5% Nữ 4.5% 14,5% 28,2% Do tin vào đức Phật và muốn đến gần đức Phật Nam 6.25% 33,3% 21% Nữ 20% 9% 30,8% Do có xáo trộn lớn trong cuộc sống Nam 3.1% 9.3% 10,5% Nữ 6.7% 18,2% 7,7% Muốn tìm hiểu Đạo Phật Nam 60% 66,7% 58% Nữ 80% 77,3% 33,3% Theo kết quả thu được, phần lớn các câu trả lời là: Đi nghe giảng kinh là do muốn tìm hiểu Đạo Phật. Sau đó mới là các nguyên nhân: Do tin vào đức Phật và muốn đến gần đức Phật; do bạn bè rủ; do có xáo trộn lớn trong cuộc sống. Có sự khác nhau rất lớn trong nguyên nhân đi nghe giảng Kinh giữa nam và nữ. Cụ thể như sau: Đối với nam giới: Nhìn vào biểu đồ trên, ta thấy nguyên nhân chủ yếu khiến nam giới đi nghe giảng kinh là vì muốn tìm hiểu đạo Phật. Một Phật tử đã tâm sự "mọi cái đều biến hoại, không trường tồn, nhưng đạo Phật đã qua mấy nghìn năm vẫn bền vững, vẫn sống mãi trong lòng người, vẫn phát triển. Vậy đạo Phật phải có một điều gì đó đặc biệt ?" Mặt khác, qua phỏng vấn sâu, chúng tôi được biết một số người đến với đạo Phật là do sự sụp đổ lý tưởng. Họ đã từng tuyệt đối tin theo chủ nghĩa vô thần, bài trừ tôn giáo. Nhưng những biến động trong cuộc sống đã khiến họ hoang mang dao động, nhiều khi là bế tắc. Họ cảm thấy mất niềm tin và do đó, muốn quay về với truyền thống. Mà một trong những hệ tư tưởng truyền thống của nước ta là Phật giáo. Hơn nữa, giáo lý đạo Phật có một cách lý giải về thế giới, về con người và cuộc sống phù hợp với tâm lý-văn hoá người Việt, dễ làm người ta chấp nhận hơn các tôn giáo khác. Từ đó, chúng ta có thể thấy rằng, nam giới tìm đến đạo Phật là do họ cảm thấy đạo Phật có nhiều điều để nghiên cứu và tìm hiểu. Ngoài ra, các lý do khác như: Bạn bè rủ, do tin vào Đức Phật và muốn đến gần Đức Phật, do có sự xáo trộn trong cuộc sống. Các lý do này chiếm tỷ lệ không cao Với lý do Bạn bè rủ, chủ yếu ở độ tuổi 20-39( 40%). Điều này cho thấy, giới trẻ đi nghe giảng kinh mang ý nghĩa "tình cờ" nhiều hơn là xuất phát từ nhu cầu tự thân. Độ tuổi 40-59 và trên 60, đi nghe giảng kinh vì lý do này chiếm tỷ lệ thấp( 40-59: 6.25%; trên 60: 10,5%). Như vậy, ở hai tầm tuổi này nam giới đi nghe giảng kinh chủ yếu là do bản thân họ thực sự có nhu cầu. Lý do Xáo trộn trong cuộc sống cũng chiếm tỷ lệ khá thấp, ít người thừa nhận nguyên nhân này( 20-39: 3.1%; 40-59: 9.3%; trên 60: 10.5%). tuy nhiên, đây lại là một nguyên nhân cơ bản khiến người ta đến với tôn giáo nếu xét về mặt lý thuyết( Nguyên gốc tâm lý-xã hội của tôn giáo: Con người bất lực trước cuộc sống nên đã tìm đến sự đền bù hư ảo của tôn giáo). Mặt khác, qua điều tra mục đích đi nghe giảng kinh, chúng tôi thấy rằng mục đích chính của nhiều người là đi tìm sự thanh thản. Như vậy, mặc dù không thừa nhận nguyên nhân này nhưng thực chất nhiều người đi nghe giảng kinh là do những xáo trộn trong cuộc sống mà họ không thể giải quyết được. Với lý do do tin vào Đức Phật và muốn đến gần Đức Phật chiếm tỷ lệ không cao (20-39: 6.25%; 40-59:17.5%; trên 60: 19%). Điều này là do tư duy nam giới là tư duy logic, nặng về lý tính cho nên niềm tin vào Đức Phật như một vị thần có quyền lực siêu nhiên thường không cao. Tuy nhiên, từ tuổi 40 trở lên, niềm tin vào Đức Phật cao hơn nhiều so với độ tuổi 20-39, điều này là do họ tiếp xúc, va chạm nhiều với những bất bình đẳng trong xã hội( đặc biệt là về vị thế xã hội), có nhiều điều họ không thể tự chủ được khiến họ phải tìm đến sự giải thích bằng số phận, bằng quyên lực siêu nhiên. Đối với nữ giới Qua biểu đồ trên, chúng ta có thể thấy rằng nguyên nhân chủ yếu khiến nữ giới đi nghe giảng kinh vẫn là do muốn tìm hiểu đạo Phật. Tuy nhiên, có một sự khác nhau lớn giữa hai giới: Độ tuổi 20-39 và 40-59, nứ giới đi nghe giảng kinh vì lý do này cao hơn nam giới trong khi đó đối với độ tuổi trên 60 lại thấp hơn hẳn so với hai độ tuổi trên và so với nam giới. Nguyên nhân chính là ở độ tuổi trên 60, người ta đã từng trải nhiều do đó nhu cầu tìm hiểu và lý giải cuộc sống không còn mạnh mẽ nữa. Mặt khác, nữ giới độ tuổi này thuộc thế hệ cũ-khi mà xã hội chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo: coi phụ nữ bất tài là có đức, nên phụ nữ ít được học hành. Vì thế, họ đến với hoạt động giảng kinh như một nghi lễ tôn giáo hơn là để tìm hiểu. Còn với độ tuổi từ 20-59, nữ giới có nhiều điều kiện học hành, mở rộng quan hệ xã hội vì thế nhu cầu tìm hiểu và lý giải cuộc sống là rất lớn. Nguyên nhân nữ giới đi nghe giảng kinh do bạn rủ chiếm tỷ lệ khá thấp(20-39:4.5%; 40-59:14.5%; trên 60:28.2%). Với độ tuổi 60 trở lên, lý do này chiếm tỷ lệ cao hơn hẳn so với hai tầm tuổi trên và so với nam giới tầm tuổi này. Nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu tình cảm của nữ giới rất lớn, nên họ có xu hướng hoạt động theo nhóm. Mặt khác, tầm tuổi này gia đình nhìn chung đã ổn định, có nhiều thời gian rỗi nên họ có thể chú trọng hơn đến quan hệ xã hội , đặc biệt là quan hệ bạn bè. Với lý do tin vào Đức Phật và muốn đến gần Đức Phật, tỷ lệ nữ giới cao hơn hẳn so với nam giới( 20-39:6.7%; 40-59: 20.8%; trên 60: 51.3%). Điều này là do tư duy nữ giới là tư duy tình cảm nên rất dễ tin vào thần thánh, vào quyền lực siêu nhiên. Có một sự chênh lệch rất lớn giữa tầm tuổi 20-39 và tầm tuổi trên 60. Vì đây là hai thế hệ khác nhau, lớn lênn trong những bối cảnh lịch sử khác nhau nên tư duy, tình cảm của họ khác nhau. Nữ giới ở tầm tuổi 20-39, sống trong bối cảnh đất nước đang đổi mới, vai trò của người phụ nữ được coi trọng hơn, vì thế nhu cầu tự khẳng định của họ cũng như sư năng động, tự tun của họ cũng cao hơn, họ chưa cần đến niềm tin-một chỗ dựa tinh thần như nữ giới tầm tuổi trên 60. Để khẳng định đúng đắn của thông tin này, chúng tôi đặt thêm câu hỏi: “Ông(bà) đã quy y Tam bảo chưa?" Những người đi nghe giảng kinh phần lớn là những người đã quy y Tam bảo(Quy tức là trở về, y là nương tựa. Tam bảo là Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo. Quy y Tam bảo là quay trở về nương tựa với Phật, Pháp, Tăng). Nhưng có một vấn đề đặt ra là trong số những nguời đi nghe giảng kinh thì có bao nhiêu người đã quy y và trong số đã Quy y đó thì họ đi nghe giảng kinh trước rồi mới Quy y hay Quy y trước rồi mới đi nghe giảng kinh. Để giải đáp vấn đề này, chúng tôi đã đặt ra câu hỏi "Ông(bà) đã quy y Tam bảo chưa?" và “Nếu đã quy y, xin ông(bà) cho biết thêm: Ông (bà) quy y trước rồi mới nghe giảng kinh hay nghe giảng kinh truớc rồi mới quy y?” Các câu trả lời được tổng kết như sau: Bảng 4: Nữ giới: Từ20-40 tuổi Từ40-60 tuổi Trên 60 tuổi Chưa quy y Tam bảo 50% 4,5 % 2,6% Quy y trước rồi mới nghe giảng kinh 16,6% 68,2% 69,2% Nghe giảng kinh trước rồi mới quy y 33,4% 30,8% 28,2% Nam giới: Từ20-40 tuổi Từ40-60 tuổi Trên 60 tuổi Chưa quy y Tam bảo 60% 22,2 % 26,4% Quy y trước rồi mới nghe giảng kinh 20% 55,6% 36,8% Nghe giảng kinh trước rồi mới quy y 20% 22,2% 36,8% Qua các số liệu thu được chúng tôi nhận thấy: Trong độ tuổi từ 20-40, những người đi nghe giảng kinh phần lớn là những người chưa quy y, trong đó số nữ giới chưa quy y chiếm tỷ lệ thấp hơn so với nam giới. Đối với nữ giới trong số những người đi nghe giảng kinh có 16,6% đã quy y Tam bảo trước rồi mới đi nghe giảng kinh, 33,4% nghe giảng kinh trước rồi mới Quy y. Còn nam giới thì tỷ lệ giữa những nguời đi nghe giảng kinh trước rồi mới Quy y và Quy y trước rôì mới nghe giảng kinh là như nhau(20%). Đối với nữ giới ở độ tuổi từ 40 trở lên đi nghe giảng kinh thì phần lớn đã Quy Y Tam bảo. Còn số lượng nam giới chưa Quy y Tam bảo trong độ tuổi 40 trở lên chiếm khoảng hơn 1/5 tổng số nam. Nhìn chung, số người Quy y Tam bảo trước rồi mới đi nghe giảng kinh chiếm số đông hơn những người đi nghe giảng kinh trước rồi mới Quy y. Những người đi nghe giảng kinh trước rồi mới quy y là những người đã tìm hiểu về đạo Phật và họ biết việc họ hiểu rõ việc đi quy y Tam bảo cũng như các giáo lý của Phật giáo. Còn những người đi Quy y Tam bảo trước khi đi nghe giảng kinh là những người tìm đến với đạo Phật nhưng chưa thực sự hiểu đạo Phật. Như vậy, ban đầu như là một nghĩa vụ của một Phật tử họ đi nghe giảng kinh để hiểu về những điều Đức Phật đã nói. Như vậy, mặc dù xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng nguyên nhân chủ đạo vẫn là tìm hiểu đạo Phật. 3.4. Mục đích đi nghe giảng kinh Phật giáo là một tôn giáo nhưng cũng đồng thời mang tư tưởng triết học sâu sắc. Do vậy, Phật giáo đã có sức thu hút lớn đối với mọi tầng lớp dân cư ở mọi trình độ học vấn, từ những người chưa học hết phổ thông đến những người có học vị cao từ bậc đại học trở lên. Mỗi người tìm đến Đạo Phật với một lý do riêng và mục đích riêng. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu, chúng tôi chỉ đề cập đến mục đích cơ bản của những người đi nghe giảng kinh. Qua bảng hỏi, chúng tôi thu được kết quả như sau: Bảng 5: Mục đích đi nghe giảng kinh (xét theo độ tuổi và giới tính) Từ 20-39 tuổi Từ 40-59 tuổi Trên 60 tuổi Tìm sự thanh thản Nam 20% 44,4% 63,1% Nữ 6.2% 45,4% 46,1% Tìm một lẽ sống cao đẹp hơn Nam 10.1% 22.4% 26,3% Nữ 33,3% 36,4% 20,5% Tăng sự hiểu biết Nam 60% 44,4% 30,8% Nữ 33,3% 31,8% 30,8% Tìm hiểu đạo Phật Nam 40% 33,3% 30,8% Nữ 66,6% 31,8% 38,5% Tu dưỡng đạo đức, tạo phúc đức cho con cháu Nam 14.8% 29.6% 10.5% Nữ 2.6% 16% 31.2% Qua bảng tổng kết trên, chúng tôi nhận thấy rằng: tuỳ thuộc vào độ tuổi và giới tính mà mục đích đi nghe giảng kinh là khác nhau. Những người đến chùa nghe giảng kinh không phải chỉ vì một mục đích mà có nhiều mục đích khác nhau. Mục đích Tìm sự thanh thản đối với cả hai giới nhìn chung là cao, đặc biệt ở tầm tuổi từ 40 trở lên ( hơn 40%). Còn đối với độ tuổi 40 trở xuống, nhu cầu đi tìm sự thanh thản cao hơn nữ giới: nam giới:20%, nữ giới 6.2%. Ngoài ra, qua phỏng vấn sâu, chúng tôi nhận thấy nam giới ở độ tuổi này điều quan trọng đối với họ là sự nghiệp nhưng trong quá trình làm việc và phấn đấu, họ gặp khá nhiều trắc trở nhưng họ không thể vượt qua được nhưng nếu chấp nhận thì họ không làm được. Vì thế, đi nghe giảng kinh là một cách họ tiếp nhận nhân sinh quan Phật giáo- điều này làm họ cảm thấy thanh thản. Mục đích Tìm một lẽ sống cao đẹp hơn chiếm một tỷ lệ không cao đối với cả hai giới. Tuy nhiên, với nữ giới dưới 40 tuổi, mục đích này chiếm trên 30 %, cao hơn so với nam giới và với độ tuổi khác. Vì cuộc sống phức tạp, luôn luôn tồn tại sự đấu tranh, mâu thuẫn đã làm cho nhiều phụ nữ cảm thấy sợ cuộc sống hiện tại. Do vậy, họ đã đi tìm một lẽ sống cao đẹp hơn qua việc tìm hiểu Đạo Phật. Mục đích tăng sự hiểu biết và tìm hiểu Đạo Phật là những mục đích chính của những người đi nghe giảng kinh. Nhìn chung, tỷ lệ giữa hai giới và ở các lứa tuổi tương đối đồng đều. Có điều đáng quan tâm: đối với độ tuổi 20-39, mục đích Tăng sự hiểu biết của nam giới cao hơn nữ giới: nam giới 60%, nữ giới 33.3%. Trong khi đó cũng với độ tuổi này, mục đích Tìm hiểu đạo Phật của nữ giới lại cao hơn nam giới: nữ giới 66.6%, nam giới 40%. Như vậy, cùng với nguyên nhân ban đầu đi nghe giảng kinh là muốn Tìm hiểu Đạo Phật nhưng mục đích của nam giới và nữ giới là khác nhau. Nam giới đi nghe giảng kinh với mục đích Tăng sự hiểu biết là chính, chứng tỏ việc tìm hiểu Đạo Phật là một nhu cầu của nam giới muốn làm phong phú thêm vốn kiến thức đã có. Còn nữ giới chỉ đơn thuần là muốn tìm hiểu đạo Phật thì mục đích cần đạt tới là tìm hiểu đạo Phật. Mục đích Tu dưỡng đạo đức, tạo phúc đức cho con cháu không phải là mộtmục đích chính. Mục đích này chiếm tỷ lệ cao ở nữ giới độ tuổi trên 60 (31.2%)và nam giới độ tuổi từ 40-59 (29.6%). Nữ giới trên 60 tuổi do có nhiều thời gian và nhu cầu hướng về gia đình, con cháu rất lớn. Mặt khác họ lại chịu ảnh hưởng của tư tưởng về nhân-quả nên họ mong muốn để lại phúc đức cho con cháu-mà theo họ đi nghe giảng kinh là một cách làm. Còn nam giới từ 40-59 tuổi, sau một thời gian bon chen với cuộc sống, giữa những cái được và cái mất trong cuộc đời khiến họ suy nghĩ. Ngoài ra, tầm tuổi này, về cơ bản nhiều mặt của cuộc sống đã được ổn định. Do vậy, nam giới bắt đầu có xu hướng quay về gia đình, suy nghĩ về gia đình, con cháu nên họ thấy cần phải tu dưỡng đạo đức tốt hơn nữa để làm gương cho con cháu sau này. Tóm lại, tuy mỗi người đi nghe giảng kinh đều mong muốn đạt được nhũng mục đích khác nhau, nhưng nhìn chung mục đích chính của những người đi nghe giảng kinh là Tăng sự hiểu biết và Tìm hiểu đạo Phật 3.5. Những ảnh hưởng của việc đến chùa nghe giảng kinh đối với những người đi nghe. Đa số những người đi nghe giảng kinh đi rất đều đặn, việc đi nghe giảng kinh phần nhiều do thói quen, tuy nhiên những điều họ nghe được cũng tác động đến suy nghĩ và hành động của họ. Những điều người nghe tiếp nhận trong các buổi giảng kinh chính là giáo lý của Đạo Phật. Do vậy, những giáo lý đó dần dần trở thành cơ sở để mỗi người nhìn nhận, đánh giá, hành động và tác động đến thế giới xung quanh. Để đánh giá được sự ảnh hưởng của việc đi nghe giảng kinh đối với hành động và suy nghĩ của họ, chúng tôi đưa ra câu hỏi:" Ông(bà) có thể cho biết những lời Phật dạy(qua các buổi giảng kinh có chi phối hành động và suy nghĩ của ông(bà) không?" và 4 chỉ báo: "Chi phối hoàn toàn", "Chi phối phần lớn", "Chỉ chi phối một phần nào", "Không chi phối" để những người được hỏi tự đánh giá. Kết quả được biểu diễn theo biểu đồ: 32% 10.5% 57.5% Qua đó chúng tôi nhận thấy việc đi nghe giảng kinh có tác động khá mạnh mẽ đến những người nghe. Phần lớn trong số họ chịu sự chi phối khá mạnh mẽ. Suy nghĩ và hành động của họ luôn được kiểm soát để tuân theo những điều họ tin, họ hiểu. Để thấy rõ hơn nữa về vấn đề này, chúng tôi đã phỏng vấn sâu một số người để xem họ chịu ảnh hưởng như thế nào? Kết quả phần lớn câu trả lời là những điều về Luật nhân quả, Luân hồi chi phối họ khá mạnh mẽ. “Đối với bản thân mình thì những điều mà Đức Phật dạy rất gần gũi với thực tế, mình có thể đem áp dụng ngay vào trong cuộc sống hàng ngày như sống ngay thẳng, thật thà. Ngoài ra, mình còn khuyên bạn bè không nên nói dối, bởi vì Gieo nhân nào gặt quả nấy " (nữ, 23 tuổi, sinh viên) "Trước khi đi nghe giảng kinh, tôi rất nóng nảy, chẳng hạn nếu có ai nói gì động đến tôi là tôi nổi nóng nói họ ngay lập tức. Nhưng từ ngày đi nghe giảng kinh, hiểu được những điều mới, tôi cố kìm nén những sự tức giận của mình vì mình đã đi nghe giảng kinh rồi, đã được Phật giác ngộ, nên không trách những người không biết" (nữ, 65 tuổi, nghỉ hưu) "Nhiều lúc trong công việc gặp một số khó khăn hay nhiều khi cấp dưới làm không như ý mình, từ ngày đi nghe giảng kinh rồi tôi bỏ qua nhiều chuyện nhỏ, nhiều khi thay vì nói họ tôi đã làm giúp họ." (nam, 47 tuổi, doanh nghiệp) Qua một số tâm sự của những người đi nghe giảng Kinh, chúng tôi nhận thấy rằng những điều mà họ tiếp thu được dường như mặc nhiên họ cho là đúng và luôn tìm cách áp dụng vào trong cuộc sống. Những điều đó không những tác động đến bản thân họ mà còn tác động cả đến những người xung quanh. Nhìn chung, những người được phỏng vấn đều trả lời là họ kìm chế được tính nóng giận. Ngoài ra, có một số người có niềm tin thực sự vào Đức Phật, họ đi nghe giảng kinh vì tin đó là những điều đúng đắn và giúp được họ rất nhiều trong cuộc sống, mặc dù sự giúp đỡ này chủ yếu bắt nguồn từ niềm tin. "Tôi bị đau dạ dày, mỗi khi lên cơn đau chỉ cần nghĩ đến lời Đức Phật dạy là tôi cảm thấy dễ chịu ngay" (nữ, 45 tuổi, buôn bán) "Ngày trước tôi rất gày nhưng từ ngày đi nghe giảng kinh tôi lên được 5 cân". (nữ, 27 tuổi, nhân viên văn phòng) Có thể thấy rằng những điều mà những người đi nghe giảng kinh tiếp nhận được đã tác động rất mạnh mẽ đến suy nghĩ và hành động của họ, thậm chí có thể làm thay đổi cuộc sống của họ. Qua bảng hỏi, chúng tôi thu được 97% số câu trả lời là họ có đem những điều Phật dạy để dạy dỗ con cháu, chủ yếu là dạy tu nhân tích đức, làm điều thiện, không nói dối,... Tóm lại, sự ảnh hưởng của Đạo Phật đến những người đi nghe giảng kinh được thể hiện ở hai khía cạnh: Thứ nhất, ảnh hưởng đến cách ứng xử trong các mối quan hệ với những người xung quanh. Thứ hai, những người đi nghe giảng kinh đã truyền bá Đạo Phật đến những người xung quanh dù là họ có ý thuức hay không có ý thức về việc làm của mình theo dạng "mưa dầm thấm lâu" 3.6. Đánh giá tình hình 3.6.1. Mặt tích cực Là một bộ phận không thể thiếu của đạo Phật, hoạt động giảng Kinh là công cụ tác động chủ yếu để đạo Phật thiết lập những ảnh hưởng của mình đến các Phật tử. Do đó, những ảnh hưởng tích cực của đạo Phật tới con người và xã hội cũng chủ yếu được thực hiện thông qua việc Giảng Kinh. Chủ yếu có các mặt sau: • Những ảnh hưởng tích cực của hiện tượng đi chùa nghe giảng Kinh đến việc hình thành nhân cách con người:có nhiều quan niệm khác nhau về nhân cách. ở đây,chúng tôi đề cập tới nhân cách như một hệ thống tư duy và hành động, quan niệm và cách ứng xử của cá nhân con người trước tự nhiên, xã hội và con người, trước thế giới bên ngoài cũng như trong chính bản thân mình. Trên cơ sở đó thì những tác dụng tích cực của hiện tượng đến chùa nghe Giảng kinh đến nhân cách con người được biểu hiện ở 3 mặt. Mặt thứ nhất là, các Phật tử biết chấp nhận sự biến đổi của xã hội và con người, sống giản dị, trong sạch, có nề nếp. Khác với những tôn giáo khác,phật giáo cho đời người là khổ,cuộc đời là bể khổ. Mỗi khi gặp chuyện mất mát, chuyện đau buồn, mỗi khi gặp chuyện không đáp ứng được nhu cầu nguyện vọng của mình, họ lại lấy đó là nguồn an ủi. Ngày nay, người ta có nói khác đi, như nói con người không chỉ có khổ mà còn có sướng vui, có sự an lạc trong trần gian, có hoà bình, hạnh phúc trong dương thế nhưng với đại đa số Phật tử, họ vẫn cho cuộc đời là khổ. Lý thuyết về “Tứ Diệu đế” ,về “Thập nhị nhân duyên” , về nghiệp, về nhân -Quả là cơ sở tư tưởng cho các quan niệm trên. Vì những lý do trên,người nghe giảng Kinh thường có lối sống hoà nhã, giản dị ,không tranh quyền đoạt lợi, biết chấp nhận, không đòi hỏi. Đây là thái độ cực đoan , là tinh thần thủ tiêu đấu tranh. Nhưng trong những trường hợp cụ thể, thái độ trên lại có tác dụng thiết thực trong việc điều hoà các mối quan hệ, tránh mâu thuẫn,xung đột. “...Có người đã từng chửi tôi suốt 2 tiếng đồng hồ, tôi cũng mặc kệ. Có người đã vay tiền của tôi rồi quỵt nợ, lấn đất nhà tôi, nhưng tôi cũng chẳng cãi nhau với họ làm gì, mà cũng chẳng đem lòng thù oán họ. Trong đời tôi,tôi đã thấy nhiều chuyện rồi, có những chuyện dường như nói ra không chịu được. Nhưng rồi thì cũng qua. Phật cũng dạy rồi, lấy oán trả oán, oán oán chất chồng, lấy ân trả oán, oán tự tiêu tan.....” (nam, 51 tuổi, đang đi làm) Mặt thứ hai là, các Phật tử nói riêng và người đi nghe Giảng Kinh nói chung đều có tư tưởng vị tha, bác ái, quan tâm tới nỗi khổ của người khác và biết giúp người hoạn nạn. Chịu ảnh hưởng của Giáo lý Phật,họ nhìn các sự vật trong mối quan hệ nhân-quả, xem cái gì cũng là kết quả của cái trước và là nguyên nhân của cái sau. Họ còn nhìn thế giới, xã hội và con người trong dòng vận động không ngừng, ở đó, không có gì là tồn tại mãi mãi, cái gì cũng đang ở trong một quá trình, với con người là sinh -lão-bệnh-tử, với thế giới sinh vật là sinh-trụ-dị-diệt, với vũ trụ là thành-trụ-hoại-không. Do đó, Phật giáo rất chú trọng cái tâm. Chính vì thế, những người đi nghe giảng Kinh đều có xu hướng sống thiện rất rõ. Khi được hỏi họ thường hay trao đổi, khuyên nhủ con cháu, bạn bè về điều gì, 98% số người được hỏi trả lời rằng họ thường xuyên khuyên nhủ mọi người sống có nhân nghĩa, thấy điều thiện thì làm, điều ác thì bỏ: “Đã theo Phật thì không sân không si. Thấy người khổ thì thương, chỉ tiếc không giúp được hết như mưa không khắp” (nữ, 62 tuổi, nghỉ hưu) “Tu tâm tích đức để trở thành con người tốt đối với nhân loại, trung thành với Tổ quốc và hiếu thảo với gia đình,ông bà, tổ tiên, cha mẹ” (nam, 67 tuổi, nghỉ hưu) Giữ cái tâm được thiện, đối với họ ,điều đó không chỉ là làm theo Phật để tâm hồn thanh thản mà còn là để cho con cháu hưởng phúc, cho kiếp sau an nhàn, như một cụ bà 75 tuổi đã nói với chúng tôi: “Mình làm thiện thì có lợi cho mình, kiếp này không được hưởng thì kiếp sau sẽ được hưởng, mà con cái cũng được hưởng phúc đức. Mình làm ác thì bị quả báo” Cái tâm của con người là vô cùng quan trọng. Ngay trong quan hệ giữa người và người từ xưa đến nay, nhân dân ta đều coi trọng chữ Tâm. Đây là một truyền thống quý báu của dân tộc ta, trong đó có sự đóng góp lớn lao của Phật giáo mà ta cần phát huy. Mặt thứ ba là ,các Phật tử đều có ý thức tự giác rất cao. Có thể do ý thức tôn giáo đòi hỏi tính cộng đồng, do đó,các tín đồ thường có ý thức rất rõ về cái chung,và hành động theo cái chung. Điều này có thể nhận thấy rất rõ khi tham dự các buổi giảng Kinh. Số lượng đi nghe trung bình mỗi buổi giảng Kinh là khoảng 350 người, có khi lên tới gần 1000 người. Hơn nữa,nhà chùa không có một tổ chức,thiết chế nào để quản lý số người này. Thế nhưng,những buổi giảng Kinh luôn diễn ra trật tự, người nghe ai ngồi đúng chỗ của người đó. Chúng tôi đã được chứng kiến cảnh Hoà thượng Thích Thanh Tứ sau khi giảng Kinh bước ra. Cả đám đông đứng lên ,tự động xếp thành hai hàng,chắp tay chào. Có một phụ nữ trung niên trước đó đi giữa lòng đường(nơi Hoà Thượng sắp ra), lập tức bị người khác gọi lại nhắc nhở, yêu cầu đứng vào hàng, đợi Hoà Thượng đi qua mới được về. Nói tóm lại, Giáo lý Phật giáo đã và đang có những ảnh hưởng tích cực đến nhân cách con người,mà chịu ảnh hưởng trực tiếp chính là người đi nghe giảng Kinh. -Trong quá trình tác động đến nhân cách người nghe, giáo lý Phật giáo đã hình thành một thứ đạo đức là đạo đức Phật giáo. Không thể phủ nhận được rằng, đạo đức Phật Giáo đã góp phần không nhỏ vào ổn định đời sống xã hội. Ngũ Giới (không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu) đã không chỉ khiến một số lượng đông đảo Phật tử và người đi nghe giảng Kinh Phật sống thiện hơn,có ý thức hơn, mà còn có tác động gián tiếp tới môi trường xung quanh những người này(đồng nghiệp, con cháu, bạn bè.....) thông qua chính bản thân họ. Về thực chất, đó là những nguyên tắc đạo đức được hình thành nên từ những yêu cầu của cuộc sống xã hộimà Phật Giáo nắm bắt được và vận dụng vào việc thực hiện mục đích của mình. Vì vậy, sự thực hiện chúng,với Phật tử là điều kiện giải thoát,còn với xã hội thì đưa đến hệ quả là làm cho xã hội có cuộc sống thanh bình, có quan hệ lành mạnh-cục diện mà xã hội phát triển nào cũng mong đạt được Do đó, đạo đức Phật giáo nói chung có những nét phù hợp với đạo đức xã hội. Cũng phải thừa nhận rằng,trong suốt gần 2000 năm ở Việt Nam, Phật giáo đã có những ảnh hưởng nhất định,đạo đức con người Việt nam từ xưa đến nay mang khá nhiều dấu ấn của đạo đức Phật giáo. 3.6.2 Mặt tiêu cực Có thể coi Phật giáo như một lý thuyết về sự giải thoát bể khổ nhân gian bằng cách đi vào tự ngã của cái Tâm bên trong, nhằm đạt tới sự sáng suốt tối cao ở Niết Bàn. Học thuyết đó có sức mạnh đưa con người vào thế giới thanh bạch “từ bi hỷ xả”. Nhưng nó thực hiện lý tưởng đó bằng cách khước từ những ham muốn tự nhiên của con người, triệt tiêu sức sống hành động của con người. Đánh giá đạo Phật, Bác Hồ nói “Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không làm lợi gì cho loài người”. Thật vậy, giáo lý Phật giáo quá chú trọng cái Tâm, đề cao chữ “Nhẫn” như một biện pháp cơ bản để giải quyết mâu thuẫn, khiến lu mờ cá tính con người, mất đi tính chủ động, sáng tạo vốn là bản chất của con người xã hội. Đó là chưa kể đến việc giáo lý Phật giáo hình thành trong con người cách nhìn đời có tính bi quan, pha trộn chút hư vô chủ nghĩa. Mà trong điều kiện hiện nay, sau hơn 80 năm chiến tranh và hàng chục năm sống dưới chế độ quan liêu bao cấp, đời sống nước ta còn nghèo nàn lạc hậu, nên rất cần đến sự phát triển. Phát triển ở đây là sự tăng trưởng của kinh tế, sự nâng cao về đời sống vật chất và văn hoá. Để đạt được điều đó, chúng ta cần đến những con người có tham vọng lớn, năng động, tự tin, lạc quan và sáng tạo. Mà những phẩm chất này lại trái với các giáo lý đạo Phật, như tham vọng trái với yêu cầu cấm dục-ly dục-vô dục, năng động sáng tạo trái với tinh thần nhẫn nhục chịu đựng .....Ngày nay, tuy đạo Phật đã cố gắng thay đổi theo chiều hướng nhập thế hơn, nhưng rõ ràng, trong thế giới quan và nhân sinh quan đạo Phật, tính hư vô chủ nghĩa, xa rời thực tế, coi nhẹ cuộc sống vật chất vẫn là những trở ngại khó vượt qua. 3.7. Một số nhân tố xã hội ảnh hưởng đến hiện tượng này Ngoài những nguyên nhân tự thân của mỗi cá nhân, còn có sự ảnh hưởng của các nhân tố xã hội khác ảnh hưởng tới hoạt động đi nghe giảng Kinh. ở đây, chúng tôi chỉ đưa ra một số nhân tố cơ bản mà chúng tôi nhận thấy có ảnh hưởng khá lớn đến hiện tượng đi nghe Giảng Kinh. • Một số đặc điểm về văn hoá-tâm linh của người Việt nam: nền văn hoá nước ta là nền văn hoá lúa nước. Từ xưa, con người phải sống phụ thuộc nhiều vào tự nhiên nên sớm hình thành những tín ngưỡng tôn giáo, niềm tin vào thần thánh. Nhu cầu được sự phù hộ, che chở của một vị thần nào đấy là rất lớn. Thực tế cũng đã chứng minh, nhiều người đi nghe Giảng Kinh là để “Ăn mày cửa Phật”, mong Phật phù hộ độ trì cho gia đình. Nhiều người ,khi trả lời bảng hỏi đã trả lời không tin vào thần thánh, nhưng khi được phỏng vấn sâu, họ cũng tỏ ý mong được Phật phù hộ cho bản thân và cho con cháu, người thân. • Sự thay đổi thích nghi không ngừng của Phật Giáo: để theo kịp sự thay đổi của thời đại, Phật giáo ngày nay đã có nhiều điểm thay đổi so với xưa. Phật giáo bây giờ mang tính hiện đại, gắn với đời nhiều hơn. Một số giới cấm, quy định được nới rộng, khiến người ta dễ chấp nhận và dễ theo. Ví dụ, Phật giáo vốn không chú ý đến các sinh hoạt gia đình, nay đã tỏ ra quan tâm chú ý. Phật giáo còn tổ chức các hội khuyến học, hội từ thiện......, thu hút được sự tham gia của một số đông. Ngũ giới cũng được hiểu một cách rộng rãi hơn.Trong một số trường hợp, ăn thịt cá không bị coi là phạm Giới sát, uống rượu không bị coi là phạm Giới tửu....Thích Thánh Nghiêm nói: “Không được tự mình sát sinh. Còn nếu mua thịt cá về nhà thì không có hại gì” (1). Thích Thánh Châu nói “Vấn đề này không nên áp đặt,mà nên tuỳ hoàn cảnh và sở thích của mỗi người mà giải quyết hợp lý” (2). (1) Thích Thánh Nghiêm – ‘Phật giáo chính tín’ .Huyền Chân dịch,Phân viện nghiên cứu Phật học.Hà Nội ,1991,tr.34 (2) Thích Minh Châu “Năm giới,một nếp sống lành mạnh ,an lạc,hạnh phúc”.Giáo hội Phật giáo Việt Nam.Thiền viện Vạn Hạnh xuất bản.1993,tr24 4. kết Luận Tôn giáo luôn luôn là một hiện tượng tín ngưỡng xã hội khá đặc trưng trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, mà trong đó Phật giáo là một trong ba tôn giáo thế giới. Phật giáo hiện nay vẫn đang là tôn giáo chính ở nước ta và giảng kinh là phương thức cơ bản để truyền bá giáo lý đạo Phật. Ngày nay, Giảng kinh đang ngày càng phát triển mạnh mẽ không chỉ thu hút đông đảo các Phật tử mà còn thu hút cả những người ngoại đạo. Thành phần người đi nghe giảng kinh rất đa dạng ở hầu hết các lứa tuổi, đủ mọi trình độ. Tần suất đi nghe giảng kinh của họ nói chung là thường xuyên và đã trở thành một thói quen, một nhu cầu không thể thiếu được đối với người đi nghe giảng kinh. Chất lượng các buổi giảng kinh ngày càng đạt những kết quả cao nội dung các buổi giảng kinh ngày càng đi vào thực tế nhiều hơn, điều này thể hiện thông qua số lượng người nghe ngày càng tăng, thái độ chú ý lắng nghe của họ và sự ảnh hưởng mạnh mẽ của giáo lý Phật giáo đối với hành động và suy nghĩ của họ. Nguyên nhân chính khiến mọi người đến với hoạt động Giảng kinh là muốn tìm hiểu đạo Phật, nâng cao hiểu biết và tìm một chỗ dựa tinh thần. Hiện tượng đi nghe giảng kinh là một nhu cầu tinh thần không thể thiếu. Nó tác động mạnh đến hoạt động và suy nghĩ của con người, giúp con người hướng đến một cuộc sống tốt đẹp hơn nhưng bên cạnh đó lại bộc lộ mặt tiêu cực là thủ tiêu ý chí vươn lên của con người. Mục Lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHiện tượng người dân Hà Nội đến chùa nghe giảng kinh.doc
Luận văn liên quan