Tổng kết kinh nghiệm của các công ty nớc ngoài cho thấy, con đường tiến tới chinh
phục thị trường Mỹ là phải biết sử dụng các đại diện bán hàng, đại lý, nhà phân phối và nhà
bán lẻ. Đây là một nhu cầu bức xúc nhng rất khó khăn đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam
phải làm dần, từng bước tìm hiểu.
78 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2345 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hiệp định thương mại Việt- Mỹ với vấn đề xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NTR. Tuy nhiên, theo Bộ
Thơng mại, hàng dệt may là mặt hàng đợc bảo hộ cao bằng hàng rào thuế quan và hạn ngạch,
trong quan hệ song phơng sẽ là một trong những vấn đề nóng bỏng nhất. Nếu mở đợc thị tr-
ờng này, hàng dệt may của Việt Nam theo khả năng sản xuất có thể thu hút đợc các nớc khác
đầu t vào Việt Nam làm hàng xuất khẩu đi Mỹ.
* Hàng giày dép:
Mức tiêu thụ giày dép của Mỹ rất lớn, chỉ cần giành đợc 10% thị trờng này cũng có thể
đạt kim ngạch trên 1,5 tỷ USD, lớn hơn tổng kim ngạch xuất khẩu giày dép mà Việt Nam có
thể đạt đợc trong năm nay.
Bà Châu Huệ Cẩm, Thứ trởng Bộ Công nghiệp nhận định với thị trờng Mỹ, hàng da
giày của Việt Nam có thể tham gia vào thị trờng “thợng lu” nếu đi kèm với mác của các hãng
nổi tiếng nh Adidas, Reebok. Còn với phân khúc thị trờng “hạ lu” thì phải cạnh tranh với
hàng của Trung Quốc. Tuy vậy, thị trờng Mỹ cũng không khó tính, nếu đã vào đợc thì khả
năng trụ lại là không quá khó khăn.
Nhận xét về khả năng tăng tốc của ngành Da Giày Việt Nam , một chuyên gia của
Viện Nghiên cứu Thơng mại (Bộ Thơng mại) khẳng định, với Hiệp định thơng mại Việt-
Mỹ, thuế suất thuế nhập khẩu từ mức 35% trớc đây sẽ chỉ còn 20% đối với mặt hàng giày
dép của Việt Nam sang Mỹ. Trớc thời điểm Hiệp định thơng mại Việt- Mỹ có hiệu lực, sản
phẩm giày dép Việt Nam xuất khẩu tới hơn 40 nớc, trong đó thị trờng chủ yếu là các nuớc
EU, Mỹ, Nhật. Việt Nam đợc đánh giá là một trong 5 nớc có số lợng giày dép tiêu thụ nhiều
nhất ở EU, do lợi thế giá rẻ, chất lợng và mẫu mã chấp nhận đợc với loại sản phẩm chủ yếu
là giày thể thao.
* Hàng thuỷ - hải sản:
Thời gian qua, Mỹ luôn luôn là một trong những thị trờng lớn nhất nhập khẩu các mặt
hàng thuỷ, hải sản của Việt Nam nh tôm sú, điệp, nghêu, cá tra, cá đồng, cá basa đông lạnh
và chỉ đứng thứ 2 sau Nhật trong danh sách 10 thị trờng có thị phần cao nhất của hàng thuỷ,
hải sản Việt Nam .
Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của nớc ta sang Mỹ tăng nhanh trong những năm gần
đây: từ 39 triệu USD năm 1997 lên 80 triệu USD năm1998 và 129 triệu USD năm 1999.
Trong 8 tháng đầu năm nay, lợng thuỷ sản của ta xuất khẩu sang Mỹ đạt trị giá 206,6 triệu
USD. Ước tính, tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản sang thị trờng này trong cả năm nay sẽ đạt
trên 250 triệu USD.
2. Dự báo kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ giai đoạn 2000- 2010:
Bảng số 10 : Số liệu dự báo xuất khẩu Việt Nam vào Hoa Kỳ 2010
(a) ( Đơn vị: triệu USD)
tt
M
ặt hàng
X
uất
khẩu
Việt
Nam
vào
Mỹ
N
hập
khẩu
Mỹ
từ
các
nớc
N
hập
khẩu
Mỹ
từ
Việt
Nam
T
ăng
xuất
khẩu
Việt
Nam
vào
Mỹ
T
ăng
xuất
khẩu
Việt
Nam
vào
Mỹ
X
uất
khẩu
Việt
Nam
vào
Mỹ
N
hập
khẩu
Mỹ
từ
các
nớc
T
hị
phần
Việt
Nam
tại
Mỹ
T
ăng
nhập
khẩu
Mỹ
từ
các
nớc
ăng
xuất
khẩ
u
Việt
Na
m
vào
Mỹ
1
998
1
998
2
000
2
005
2
005/2
000
2
010
2
010
2
010
2
010/
1998
010
/
005
G
iày dép
1
15
1
3879
2
30
1
000
4
35%
1
500
1
8000
8
,33%
1
3% 50
%
H
àng
may
mặc
3
5
5
0000
8
4
1
000
1
190%
1
500
6
0000
2
,50%
1
20% 50
%
Máy móc
1 2
8100
0
3
0
1
000
3
333%
1
500
4
0000
0
,38%
1
42% 50
%
H
àng
điện tử
1 5
0000
1 5
00
5
0000
%
1
500
6
0000
2
,50%
1
20% 00
%
H
àng
khác
2
0
4
2072
2
5
0
5
00
1
000%
1
000
5
0000
0
,20%
1
19% 00
%
Đ
ồ chơi
1 1
7839
1 5
00
5
0000
%
1
000
2
0000
5
,00%
1
12% 00
%
N
ông sản
chế
biến
1
0
1
0000
6
2
1
00
1
61%
5
00
1
2000
4
,17%
1
20% 00
%
Đ
ồ gỗ
1 1
6771
1
0
3
00
3
000%
5
00
2
0000
2
,50%
1
19% 67
%
T
huỷ sản
1
00
6
717
2
00
2
00
1
00%
6
00
8
000
7
,50%
1
19% 00
%
0
S
ành sứ
2 3
364
1
0
1
00
1
000%
3
00
4
000
7
,50%
1
19% 00
%
1
H
àng thủ
công
1 3
965
1
0
2
00
2
000%
3
00
5
000
6
,00%
1
26% 50
%
2
C
à phê
1
50
2
738
1
62
2
00
1
23%
3
50
3
000
1
1,67
1
10% 75
hạt % %
3
D
ầu thô,
khí tự
nhiên
7
0
3
5051
7
3
1
00
1
37%
2
00
4
0000
0
,50%
1
14% 00
%
4
V
ăn hoá
phẩm
1 2
919
1 1
00
1
0000
%
2
00
4
000
5
,00%
1
37% 00
%
5
H
ạt có
dầu
1
5
2
500
1
5
5
0
3
33%
1
00
3
000
3
,33%
1
20% 00
%
Tổng
số xuất
khẩu sang
Mỹ
5
23
9
1746
5
9
39
5
850
6
23%
1
1050
1
1570
00
0
,96%
1
26% 89
%
Tổng
số xuất
khẩu hàng
hoá Việt
Nam (dự
báo)
9
300
1
2000
2
8000
3
01%
5
0000
97
%
Tỷ
trọng xuất
khẩu sang
Mỹ
7
%
7
%
2
1%
2
2%
(Nguồn: Thơng vụ thuộc Sứ quán Việt Nam tại Mỹ)
Dự đoán trên dựa vào các cơ sở sau đây:
- Những năm 2000 - 2005 tăng trởng đột biến (tổng xuất khẩu của ta vào Mỹ tăng 6
lần trong 5 năm), đặc biệt các mặt hàng tăng mạnh nhất là: giày dép, may mặc, máy móc,
điện tử, đồ gỗ, đồ chơi, nông sản chế biến, đây là thời kỳ chuyển hớng thị trờng và thay đổi
cơ cấu kinh tế. Thời kỳ này chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu các hàng mà ta có u thế về thủ công
và lao động rẻ nh: giày dép, dệt may, thủ công mỹ nghệ truyền thống và bớc đầu phát triển
máy móc và hàng chế biến cao chuẩn bị cho thời kỳ tiếp theo.
- Thời kỳ 2005- 2010 xuất khẩu của ta sang Hoa Kỳ sẽ tăng chậm lại nhng phải tăng
gần gấp đôi trong 5 năm. Hàng nguyên liệu thô và nông sản thô tăng chậm hơn hay giữ
nguyên thị phần.
- Đến năm 2010 thị phần của Việt Nam trong nhập khẩu của Hoa Kỳ chiếm 0,96% là
một chỉ tiêu cao (năm 1998 Malaysia chiếm đợc thị phần vào khoảng trên 2% nhập khẩu của
Mỹ đứng thứ 12 trong đối tác thơng mại của Hoa Kỳ). Ta chỉ có thể đạt đợc quy mô trên khi
ta đẩy mạnh đợc công nghiệp hoá, thu hút mạnh mẽ đầu t Hoa Kỳ, chủ yếu của các công ty
siêu quốc gia, đồng thời sử dụng tốt lực lợng ngời Việt Nam tại Hoa Kỳ, vào các ngành công
nghiệp với quy mô lớn làm hàng xuất khẩu trở lại Hoa Kỳ nh máy móc thiết bị, điện tử, viễn
thông, điện đồng thời tận dụng cả các mặt hàng tốn nhiều sức lao động nh: dệt may, giày dép,
thực phẩm chế biến, thủ công mỹ nghệ, văn hoá phẩm...
- Nhập khẩu của Hoa Kỳ trong thập kỷ qua đã đạt tốc độ tăng trởng trung bình năm
vào khoảng 10% và dự kiến trong thập kỷ tới sẽ vẫn đạt đợc thịnh vợng nh thập kỷ qua do
toàn cầu hoá thành công và các nền kinh tế khác cũng đợc hởng chung thành quả này. Tuy
nhiên trong giai đoạn 2000- 2010 dự kiến tăng thấp hơn thập kỷ qua trung bình 4% năm
(năm 2010 so 1998 tăng 26%).
III. Thách thức với việc xuất khẩu hàng hoá của việt nam sang mỹ
1. Những quy định của Mỹ về hàng nhập khẩu.
Luật pháp nớc Mỹ quy định, tất cả mọi vấn đề có liên quan đến việc nhập khẩu hàng
hoá từ nớc ngoài vào đều thuộc thẩm quyền của chính phủ Liên bang. Bộ Thơng mại, Văn
phòng đại diện thơng mại, Uỷ ban thơng mại quốc tế và cụ thể nhất là Hải quan Mỹ là những
cơ quan có trách nhiệm đối với vấn đề này. Các giấy tờ cần xuất trình trong quy trình nhập
hàng vào Mỹ gồm: Giấy nhập khẩu hải quan; Hoá đơn thơng mại; Danh mục kiện hàng (nếu
có); Giấy tờ khác theo yêu cầu cụ thể của chính quyền liên bang hay địa phơng. Mỹ có nhiều
quy định pháp luật chặt chẽ và chi tiết trong buôn bán, các quy định về chất lợng, kỹ
thuật...Vì thế, khi các nhà xuất khẩu cha nắm rõ hệ thống các quy định về luật lệ của Mỹ th-
ờng cảm thấy khó làm ăn tại thị trờng này.
Sau đây là các quy định của Mỹ về nhập khẩu:
* Nhãn hiệu và thơng hiệu:
Luật pháp Mỹ quy định các nhãn hiệu hàng hoá phải đợc đăng ký tại Cục Hải
quan Mỹ. Hàng hoá mang nhãn hiệu giả hoặc sao chép, bắt chớc một nhãn hiệu đã đăng ký
bản quyền của một công ty Mỹ hay một công ty nớc ngoài đã đăng ký bản quyền đều bị cấm
nhập khẩu vào Mỹ. Bản sao đăng ký nhãn hiệu hàng hoá phải nộp cho Cục Hải quan Mỹ và
đợc lu giữ theo quy định. Hàng nhập khẩu vào Mỹ có nhãn hiệu giả sẽ bị tịch thu sung công.
Theo “Copyright Revision Act” (1976) của Mỹ, hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ theo các
bản sao chép các thơng hiệu đã đăng ký mà không đợc phép của ngời có bản quyền là vi
phạm luật bản quyền, sẽ bị bắt giữ và tịch thu, các bản sao các thơng hiệu đó sẽ bị huỷ. Các
chủ sở hữu bản quyền muốn đợc Cục Hải quan Mỹ bảo vệ quyền lợi cần đăng ký khiếu nại
bản quyền tại Văn phòng bản quyền theo các thủ tục hiện hành.
* Hạn ngạch nhập khẩu:
Đi đôi với những luật lệ và nguyên tắc về nhập khẩu hàng hoá, ở Mỹ còn áp
dụng hạn ngạch để kiểm soát về khối lợng hàng nhập khẩu trong một thời gian nhất định.
Phần lớn hạn ngạch nhập khẩu do Cục Hải quan quản lý và chia làm 2 loại: hạn ngạch thuế
quan và hạn ngạch tuyệt đối. Hạn ngạch thuế quan quy định số lợng đối với loại hàng nào đó
đợc nhập khẩu vào Mỹ đợc hởng mức thuế giảm trong một thời gian nhất định, nếu vợt sẽ bị
đánh thuế cao. Hạn ngạch tuyệt đối là hạn ngạch về số lợng cho một chủng loại hàng hoá nào
đó đợc nhập khẩu vào Mỹ trong một thời gian nhất định, nếu vợt quá sẽ không đợc phép
nhập khẩu. Có hạn ngạch tuyệt đối mang tính toàn cầu, nhng có hạn ngạch tuyệt đối chỉ áp
dụng đối với từng nớc riêng biệt.
Một số mặt hàng sau đây khi nhập khẩu vào Mỹ phải có hạn ngạch:
+ Hạn ngạch thuế quan áp dụng đối với: sữa và kem các loại, cam, quýt, ôliu,
xirô, đờng mật,wiskroom chế toàn bộ hoặc một phần từ thân cây ngô.
+ Hạn ngạch tuyệt đối áp dụng đối với: thức ăn gia súc, sản phẩm thay thế bơ,
sản phẩm có chứa 45% bơ béo trở lên, pho mát đợc làm từ sữa chua diệt khuẩn, sôcôla có
chứa 5,5% trọng lợng là bơ béo trở lên, cồn êtylen và hỗn hợp của nó dùng làm nhiên liệu.
Ngoài ra Cục Hải quan Mỹ còn kiểm soát việc nhập khẩu bông, len, sợi nhân
tạo, hàng pha tơ lụa, hàng làm từ sợi thiên nhiên đợc sản xuất tại một số nớc theo quy định.
Việc kiểm soát này đợc tiến hành dựa trên những quy định trong Hiệp định hàng dệt mà Mỹ
đã ký với các nớc.
Tiêu chuẩn thơng phẩm đối với hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ đợc quy định rất
chi tiết và rõ ràng đối với từng nhóm hàng. Việc kiểm tra, kiểm dịch và giám định do các cơ
quan chức năng thực hiện.
* Hàng dệt:
Các sản phẩm dệt nhập khẩu vào Mỹ phải ghi rõ tem, mác quy định: các thành
phần sợi đợc sử dụng có tỷ trọng trên 5% sản phẩm phải ghi rõ tên, các loại nhỏ hơn 5% phải
ghi là “các loại sợi khác”. Phải ghi tên hãng sản xuất, số đăng ký do Federal Trade
Commission (FTC) của Mỹ cấp.
* Pho mát, sữa và các sản phẩm sữa:
Pho mát và các sản phẩm pho mát phải tuân theo các yêu cầu của Cơ quan quản
lý Thực phẩm và Dợc phẩm (FDA) và của Bộ Nông nghiệp Mỹ, và hầu hết phải xin giấy
phép nhập khẩu và quota của Vụ quản lý đối ngoại (FAS) thuộc Bộ Nông nghiệp Mỹ.
Nhập khẩu sữa và kem phải tuân theo các điều luật về thực phẩm, và điều luật
về nhập khẩu sữa. Các sản phẩm này chỉ đợc nhập khẩu bởi những ngời có giấy phép nhập
khẩu do các cơ quan: Bộ Y tế, FDA, Trung tâm an toàn thực phẩm và dinh dỡng, Văn phòng
nhãn hiệu thực phẩm và Bộ Nông nghiệp Mỹ cấp.
* Thịt và các sản phẩm thịt:
Thịt và các sản phẩm thịt nhập khẩu vào Mỹ phải tuân theo các quy định của Bộ
Nông nghiệp Mỹ và phải qua giám định của Cơ quan giám định y tế về động - thực vật
(APHIS) và của Cơ quan giám định về an toàn thực phẩm trớc khi làm thủ tục hải quan. Các
sản phẩm từ thịt sau khi đã qua giám định của Cơ quan giám định động - thực vật (APHIS)
còn phải qua giám định của Cơ quan quản lý Thực phẩm và Dợc phẩm (FDA).
* Động vật sống:
Động vật sống khi nhập khẩu vào Mỹ phải đáp ứng các điều kiện về giám định
và kiểm dịch của APHIS, ngoài ra còn phải kèm theo giấy chứng nhận về sức khoẻ của chúng
và chỉ đợc đa vào Mỹ qua một số cảng nhất định.
* Gia cầm và các sản phẩm gia cầm:
Gia cầm sống, lạnh đông, đóng hộp, trứng và các sản phẩm từ trứng khi nhập
khẩu vào Mỹ phải theo đúng quy định của APHIS và của Cơ quan giám định an toàn thực
phẩm thuộc USDA.
* Cây và các sản phẩm từ cây:
Cây và các sản phẩm từ cây phải tuân theo các quy định của Bộ Nông nghiệp,
có thể bị hạn chế hoặc cấm. Các sản phẩm này bao gồm cả trái cây, rau, cây trồng, rễ cây,
hạt, sợi từ cây kể cả bông và các cây làm chổi, hoa đã cắt, một số loại ngũ cốc, gỗ cây, gỗ sẻ,
đều cần có giấy phép nhập khẩu.
* Hoa quả, rau và hạt các loại:
Rau, quả, hạt, củ các loại khi nhập khẩu vào Mỹ phải bảo đảm các yêu cầu về
chủng loại, kích cỡ, chất lợng, độ chín. Các mặt hàng này phải qua Cơ quan giám định an
toàn thực phẩm thuộc USDA để có xác nhận là phù hợp với các tiêu chuẩn nhập khẩu.
* Đồ điện gia dụng:
Đồ điện gia dụng khi nhập khẩu vào Mỹ phải ghi trên nhãn mác các tiêu chuẩn
về điện, chỉ tiêu về tiêu thụ điện theo quy định của Bộ Năng lợng, Hội đồng Thơng mại Liên
bang, cụ thể là đối với: tủ lạnh, tủ cấp đông, máy rửa bát, máy sấy quần áo, thiết bị đun nớc,
thiết bị lò sởi, điều hoà không khí, lò nớng, máy hút bụi, máy hút ẩm.
* Thực phẩm, thuốc bệnh, mỹ phẩm và trang thiết bị y tế:
Thuốc chữa bệnh, mỹ phẩm, trang thiết bị y tế khi nhập khẩu vào Mỹ phải theo
các quy định của Federal Drug and Cosmetic Act. Theo đó, những mặt hàng kém chất lợng
hoặc không bảo đảm vệ sinh an toàn cho ngời sử dụng sẽ bị cấm nhập khẩu, buộc phải huỷ
hoặc đa về nớc xuất xứ.
Nhiều mặt hàng thực phẩm nh bánh kẹo, sản phẩm sữa, thịt, trứng, trái cây, rau
còn phải tuân theo các quy định nh đã nêu ở trên.
Hải sản khi nhập khẩu vào Mỹ phải theo các quy định của National Marine
Fisheries Service thuộc Cục quản lý môi trờng không gian và biển và Bộ Thơng mại Mỹ.
* Làm thủ tục hải quan:
Đối với các nhà xuất khẩu nớc ngoài, khi muốn làm thủ tục hải quan để xuất
khẩu vào Mỹ có thể thông qua ngời môi giới hoặc thông qua các công ty vận tải. Thuế suất
có sự phân biệt rất lớn giữa những nớc đợc hởng quy chế Thơng mại bình thờng (NTR) với
những nớc không đợc hởng (Non-NTR), có hàng hoá có thuế, có hàng hoá không thuế, nhng
nhìn chung thuế suất ở Mỹ thấp hơn so với nhiều nớc khác.
* Luật chống bán phá giá (ADs):
ở Mỹ có Luật chống bán phá giá (ADs). Nếu hàng hoá bán vào Mỹ thấp hơn giá
quốc tế hoặc thấp hơn giá thành thì ngời sản xuất ở Mỹ có thể kiện ra toà, và nh vậy, nớc bị
kiện sẽ phải chịu thuế cao không chỉ đối với chính hàng hoá bán phá giá mà còn đối với tất
cả các hàng hoá khác của nớc đó bán vào Mỹ.
* Luật chống bán hạ giá (CVDs):
Thuế chống bán hạ giá( CVDs) đợc áp dụng để làm vô hiệu hoá tác động của trợ cấp
xuất khẩu do Chính phủ nớc ngoài dành cho hàng hoá của họ khi xuất khẩu sang Mỹ. Những
trợ cấp này làm giảm giá của hàng xuất khẩu vào Mỹ một cách cố ý, gây “chấn thơng” kinh
tế cho các nhà sản xuất Mỹ.
Tại thị trờng Mỹ, yếu tố giá cả đôi khi có sức cạnh tranh hơn cả chất lợng sản
phẩm. Ngời tiêu dùng Mỹ thờng không muốn trả tiền theo giá niêm yết. Hàng hoá bán tại Mỹ
thờng phải kèm theo dịch vụ sau bán hàng. Số lợng và chất lợng của dịch vụ này là điểm mấu
chốt cho sự tín nhiệm đối với ngời bán hàng. Các nhà kinh doanh tại thị trờng Mỹ phải chấp
nhận cạnh tranh rất gay gắt nh nhiều ngời mô tả là “một mất một còn”. Cái giá phải trả cho
sự nhầm lẫn là rất lớn. Ngời tiêu dùng Mỹ thờng nôn nóng nhng lại mau chán, vì thế nhà sản
xuất phải sáng tạo và thay đổi nhanh đối với sản phẩm của mình, thậm chí phải có “ phản
ứng trớc ”.
Mặc dù khi Hiệp định thơng mại Việt- Mỹ đợc Quốc hội hai nớc thông qua,
hàng hoá Việt Nam vào Mỹ sẽ đợc hởng NTR, nhng vẫn phải cạnh tranh quyết liệt với hàng
hoá của Trung Quốc, của các nớc ASEAN và nhiều nớc khác đang đợc hởng NTR trên thị tr-
ờng Mỹ, trong cuộc chiến này chất lợng và giá cả là quyết định. Hàng hoá của Việt Nam với
chủng loại tơng tự nhng một số mặt hàng có chất lợng thấp hơn và giá thành cao hơn, khó có
thể cạnh tranh với hàng hoá của các nớc nói trên vốn đã có mặt tại thị trờng Mỹ trớc hàng
hoá của Việt Nam hàng chục năm.
Nh vậy, những quy định ngặt nghèo của Mỹ về hàng nhập khẩu là những trở
ngại phi thuế quan mà hàng hoá của Việt Nam không dễ vợt qua. Nếu Việt Nam đợc hởng
NTR/GSP mà chất lợng hàng hoá không tăng và giá cả không hạ hoặc phía Mỹ vẫn áp dụng
các quy định nhập khẩu truyền thống thì việc tăng kim ngạch và cơ cấu hàng hoá xuất khẩu
của Việt Nam tại thị trờng Mỹ là nan giải.
Để vào đợc thị trờng Mỹ, ngoài việc nắm vững nhu cầu thị trờng, các doanh
nghiệp Việt Nam còn phải tìm hiểu và nắm vững hệ thống quản lý xuất nhập khẩu cũng nh
hệ thống hạn ngạch của Mỹ. Mỹ có một hệ thống pháp luật về Thơng mại vô cùng rắc rối và
phức tạp. Khi các doanh nghiệp Việt Nam vợt qua đợc những rào cản này thì việc xâm nhập
thị trờng Mỹ sẽ trở nên dễ dàng hơn.
2. Vấn đề gian lận thơng mại.
Vấn đề gian lận thơng mại giữa các nớc cũng đợc coi nh là một thách thức đối
với Việt Nam khi đợc hởng NTR. Khi đó nếu đợc Mỹ áp dụng GSP (Hệ thống u đãi thuế
quan phổ cập) đối với hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ thì sẽ xảy ra tình trạng
hàng hoá một số nớc mạo danh là hàng của Việt Nam để đợc hởng u đãi. Trong khi giá thành
sản xuất của các nớc này thấp hơn nhiều so với hàng của Việt Nam, thậm chí chỉ bằng một
nửa giá thành của Việt Nam, lại đợc hởng thuế suất u đãi (thông thờng dới 5%), thì hàng của
các nớc này chắc chắn sẽ cạnh tranh và đánh bật hàng của Việt Nam và chiếm đợc thị phần
trong thị trờng Mỹ.
Để chống gian lận thơng mại hai bên phải tìm ra các biện pháp hữu hiệu nh EU
và Việt Nam đã từng làm để hình thành cơ chế kiểm tra kép đối với mặt hàng giày dép trên
cơ sở giấy chứng nhận xuất xứ.
3. Công tác xúc tiến thơng mại còn nhiều hạn chế.
Bên cạnh những tác động tích cực mà công tác xúc tiến thơng mại đem lại cho
các doanh nghiệp Việt Nam, vấn đề khó khăn nhất hiện nay vẫn là việc cung cấp thông tin
cha đầy đủ, cập nhật, cha hỗ trợ cho các doanh nghiệp tiếp cận thị trờng nớc ngoài nói chung
và thị trờng Mỹ nói riêng.
Thông tin trong hoạt động xúc tiến thơng mại đóng vai trò rất quan trọng và có
ý nghĩa quyết định. Đây là đối tợng nghiên cứu của các tổ chức xúc tiến thơng mại và là
mảng hoạt động lớn nhất trong xúc tiến thơng mại. Nếu tổ chức khai thác và chuyển tải thông
tin tốt, chất lợng thông tin cao thì hiệu quả hoạt động xúc tiến thơng mại đợc khẳng định và
đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp. Ngợc lại tổ chức thông tin thiếu chính xác, không đầy
đủ, không kịp thời hoặc cha đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp thì công tác xúc tiến thơng
mại sẽ không mang lại lợi ích gì cho doanh nghiệp, thậm chí còn gây thiệt hại cho các doanh
nghiệp.
Thông tin ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nói
chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. Trong nền kinh tế thị trờng thông tin đợc coi là
một trong những nguồn lực quan trọng của doanh nghiệp. Trong sự cạnh tranh ngày càng gay
gắt của thị trờng, nắm bắt đợc nhu cầu khách hàng càng đầy đủ, nhanh chóng thì mới có thể
đáp ứng nhu cầu của họ tốt hơn và do đó hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn, sản phẩm sẽ
có tính cạnh tranh cao hơn.
Do cha hiểu đầy đủ, cụ thể về một ngành nào hoặc một doanh nghiệp cụ thể nào
và về nhu cầu của doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất, kinh doanh nên thông tin từ các tổ
chức xúc tiến thơng mại hỗ trợ cho doanh nghiệp còn mang tính chất chung chung, cha cụ
thể và kịp thời. Trong khi đó các doanh nghiệp rất cần thông tin chuyên ngành cụ thể về thị trờng, mặt
hàng...
Do trình độ chuyên môn của đội ngũ nhân viên hạn chế, việc tiếp cận và xử lý
thông tin còn yếu nên nhiều khi chơng trình xúc tiến không nhằm đúng đối tợng, lĩnh vực
kinh doanh làm cho hiệu quả thấp.
Do không đợc hỗ trợ về mặt kinh tế nên đa số các tổ chức xúc tiến thơng mại
hoạt động theo nguyên tắc “ lấy thu bù chi”, do vậy họ hớng vào lợi nhuận hơn là hớng vào
lợi ích của quốc gia, lợi ích của các doanh nghiệp.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trờng
xuất khẩu, Việt Nam cần xây dựng một hệ thống xúc tiến thơng mại theo hớng phục vụ
khách hàng rõ rệt. Ông Greg Dodds, Tổng giám đốc điều hành khu vực Đông Bắc á, cơ quan
xúc tiến xuất khẩu của Australia(Austrade) cho rằng “Xúc tiến thơng mại là giúp từng doanh
nghiệp tăng doanh thu ở thị trờng ngoài nớc. Các cơ quan xúc tiến thơng mại cần tập trung
đáp ứng nhu cầu thực sự của các cơ quan xuất khẩu do bản thân các cơ sở này, chứ không
phải ai khác đa ra”.
Muốn làm ăn với Mỹ, chúng ta phải có hệ thống thông tin hiện đại. Phơng tiện
hữu hiệu nhất hiện nay có thể đáp ứng nhu cầu thông tin cho các doanh nghiệp là Internet.
Hiện nay giá dịch vụ Internet ở Việt Nam còn quá cao so với nhiều nớc. Ngay ở Mỹ, ngời sử
dụng chỉ trả 1USD/ngày, còn ở Việt Nam là 1USD/giờ. Nhà nớc cần tính đến lợi ích chung
của xã hội chứ không nên vì lợi ích của một số ngành mà để mất đi lợi thế có tính toàn cầu
này. Nếu chúng ta không có thông tin hiện đại thì không thể hội nhập với thế giới, không thể
xuất khẩu và cạnh tranh đợc.
Chơng III
Các giải pháp đẩy mạnh việc xuất khẩu hàng hoá của việt nam sang mỹ
I. Các giải pháp tăng cờng xuất khẩu các ngành hàng chủ lực.
Thực tiễn xuất khẩu của Việt Nam sang thị trờng Mỹ trong những năm qua cho thấy
một số nhóm, mặt hàng đạt kim ngạch khá và tăng đều qua các năm do các doanh nghiệp của
ta đã thiết lập đợc hệ thống các kênh phân phối tơng đối ổn định trên thị trờng Mỹ và vẫn
đảm bảo đợc nguồn lực để tổ chức sản xuất với chi phí thấp nhằm tận dụng lợi thế so sánh
của mình. Để hởng lợi trực tiếp từ Hiệp định thơng mại Việt - Mỹ ngay sau khi Hiệp định có
hiệu lực, chúng ta cần tổ chức tốt các ngành hàng sau đây là các ngành hàng có triển vọng tốt
để thâm nhập thị trờng Mỹ:
- Dệt may.
- Giày dép.
- Thuỷ sản.
- Sành sứ.
- Mây tre đan.
` - Đồ gỗ và đồ nội thất.
- Rau quả chế biến.
- Hàng cơ khí và kim khí.
- Gạo, cao su, cà phê.
- Hàng thêu ren.
- Đá ốp lát.
Sau đây là giải pháp đối với một số ngành trọng yếu:
Đối với hàng dệt may: Làm ăn với doanh nghiệp Mỹ đòi hỏi các doanh nghiệp
dệt may Việt Nam phải tiếp cận với phơng thức sản xuất và xuất khẩu FOB. Vì lẽ, hàng dệt
may bị ràng buộc bởi điều kiện xuất xứ và tỷ lệ nội địa hoá trên sản phẩm khi xuất khẩu vào
thị trờng này. Vì vậy, trong thời gian tới, ngành dệt may cần tích cực tìm kiếm thị trờng bán
hàng thành phẩm FOB và đặc biệt lu ý đến các hàng hoá với chất lợng bình dân, giá rẻ. Đây
sẽ là cơ hội xâm nhập vào thị trờng Mỹ. Bên cạnh đó, ngành dệt may Việt Nam cũng phải
chịu sức ép của tiến trình hội nhập kinh tế. Đến năm 2004, thị trờng EU bãi bỏ hạn ngạch dệt
may cho các nớc WTO. Vào năm 2006, theo lộ trình của AFTA, chúng ta sẽ xoá bỏ hàng rào
thuế quan nhập khẩu. Riêng thị trờng Mỹ, sẽ ấn định hạn ngạch dệt may trong thời gian sớm
nhất.
Trớc thách thức đó, ngành dệt may Việt Nam cần tập trung giải quyết 4 vấn đề
lớn sau: Một là, xây dựng chơng trình đầu t phát triển cho toàn ngành từ nay đến năm 2010;
trong đó tập trung đầu t cho ngành dệt dới dạng các cụm công nghiệp nhằm tạo ra nguồn
nguyên phụ liệu chất lợng cao cung cấp cho ngành may xuất khẩu. Hai là, kết hợp chơng
trình đầu t chiều sâu đối với các doanh nghiệp hiện có với chơng trình cổ phần hoá, sắp xếp
lại các doanh nghiệp dệt may nhằm từng bớc hình thành doanh nghiệp vừa và nhỏ với công
nghệ chuyên sâu, phù hợp với trình độ quản lý hiện nay. Ba là, đối với ngành may, do đặc
thù vốn đầu t thấp, công nghệ và lao động không quá phức tạp nên có thể phát triển rộng
khắp đến tận các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa trên cơ sở củng cố 4 trung tâm làm hàng
xuất khẩu chất lợng cao, đó là Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh. Bốn
là, đổi mới hệ thống quản lý, phơng pháp làm việc nhằm nâng cao hiệu quả các cuộc làm
việc với các đối tác nớc ngoài, đặc biệt là doanh nhân Mỹ trên cơ sở đúng thời hạn giao hàng
và ổn định số lợng, chất lợng sản phẩm. Bên cạnh đó là chiến lợc dài hạn tăng cờng khả năng
xuất khẩu các loại bông, sợi hoá học, vải, nguyên phụ liệu trong nớc; nâng cao năng lực cũng
nh quy mô sản xuất của các xí nghiệp may và chất lợng thiết kế mẫu mã, khả năng bán hàng
theo phơng thức FOB, tham gia hội chợ triển lãm, liên kết mạng lới bạn hàng trong việc cung
ứng nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm.
Bên cạnh những cố gắng nỗ lực của các doanh nghiệp trong ngành dệt may, Nhà
nớc vẫn cần hỗ trợ các chính sách về vốn đầu t, u đãi thuế, khuyến khích sản xuất mặt hàng
mới.
Đối với hàng giày dép: Thị trờng Mỹ rất coi trọng các tiêu chuẩn về kỹ thuật
đòi hỏi chất lợng rất cao. Hàng hoá phải đợc phía Mỹ kiểm tra rồi mới chấp nhận cho nhập.
Việc ký kết Hiệp định thơng mại vừa qua, Nhà nớc chỉ mới tạo ra hành lang pháp lý cho các
doanh nghiệp, tạo thuận lợi trong quá trình trao đổi thơng mại, còn bản thân các doanh
nghiệp phải tự lo liệu hết các khâu từ việc tìm đối tác, tìm nhu cầu sản phẩm trên thị trờng tới
việc thoả thuận giá cả, làm hàng mẫu...Hiện nay, đã có nhiều doanh nghiệp tìm đợc đối tác
và bắt đầu sản xuất hàng mẫu, chỉ chờ khi Hiệp định đợc thông qua là sẽ xuất khẩu. Một số ít
doanh nghiệp da giày có sản phẩm giày xuất khẩu sang thị trờng Mỹ hoặc qua đối tác trung
gian xuất khẩu sang Mỹ sẽ có điều kiện mở rộng, đẩy mạnh sản xuất và tăng kim ngạch xuất
khẩu. Phần lớn các doanh nghiệp 100% vốn nớc ngoài có điều kiện xuất khẩu số lợng lớn
sang Mỹ sẽ giãn bớt ở thị trờng EU và trớc mắt tạo điều kiện cho số đông các doanh nghiệp
của ta duy trì và phát triển sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trờng EU. Trên cơ sở đó,
các doanh nghiệp giày Việt Nam sẽ tiếp tục đầu t đổi mới công nghệ, trang thiết bị và nâng
cao trình độ quản lý, kỹ thuật để tiếp cận và mở rộng thị trờng vào Mỹ.
Hiện nay, ngành Da giày Việt Nam đang đứng trớc những thách thức lớn, đó là
sự cạnh tranh gay gắt giữa các nớc xuất khẩu giày; trong đó đáng chú ý là Trung Quốc. Trình
độ kỹ thuật, quản lý sản xuất cha cao, chi phí lớn làm cho giá thành cao, điều này rất bất lợi
khi xuất khẩu vào thị trờng Mỹ. Phần lớn các doanh nghiệp của ta còn phụ thuộc vào đối tác
gia công nên việc thâm nhập thị trờng Mỹ cha chủ động. Đối với số đông các doanh nghiệp,
việc hiểu biết các quy định, các luật trong thơng trờng Mỹ còn ít. Nếu các doanh nghiệp
ngành Da giày không nhanh chóng có kế hoạch đầu t chiều sâu cải tiến mẫu mã, xây dựng
công nghệ khuôn đúc cho riêng mình thì e rằng khó có thể thâm nhập đợc vào thị trờng Mỹ
khó tính nhng nhiều triển vọng về lâu dài này.
Vì vậy, về lâu dài, đối với sản xuất trong nớc cần đẩy mạnh việc chuyển dần từ
nhận gia công sang chủ động mua nguyên liệu trong nớc để sản xuất hàng xuất khẩu. Nhà n-
ớc cần đầu t xây dựng một số Khu Công nghiệp liên hoàn về ngành thực phẩm và da giày để
hỗ trợ nhau và tạo nên hiệu quả kinh tế tối u, bao gồm: nhà máy giết mổ, chế biến thức ăn
sẵn, chế biến đồ hộp, thuộc da, chế biến sản phẩm da và thiết kế mẫu mốt. Liên doanh với
các đối tác nớc ngoài nhng yêu cầu họ phải từng bớc chuyển giao công nghệ...
Tổng công ty Da giày Việt Nam đã thành lập và hoạt động đợc một thời gian;
bởi vậy, cần đúc rút những kinh nghiệm hoạt động sản xuất kinh doanh và đề ra phơng hớng
đầu t phù hợp trong thời gian tới.
Tổng công ty Da giày đã và đang đầu t xây dựng mới từ 2 đến 3 nhà máy sản
xuất mũ giày phục vụ sản xuất giày xuất khẩu. Các trờng hợp đầu t mở rộng trong ngành
giày nên đợc hởng u đãi (theo Luật khuyến khích đầu t trong nớc nh đối với đầu t xây dựng
cơ sở mới).
Nếu doanh nghiệp vay vốn ngân hàng để đầu t thì không bắt buộc phải có vốn tự
có tơng đơng 30% khoản vay. Đề nghị hạ mức này xuống 10% hoặc bãi bỏ hoàn toàn điều
kiện này. Ngân hàng sẽ t thẩm định dự án đầu t và cho vay dựa trên những tính toán về hiệu
quả đầu t.
Đối với hàng thuỷ sản: Theo các chuyên gia, để có thể trụ vững ở thị trờng này,
các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ hải sản Việt Nam sẽ phải không ngừng nâng cao chất lợng
bởi hệ thống kiểm soát chất lợng của Mỹ rất ngặt nghèo, sự cạnh tranh giữa các sản phẩm
cùng loại nhập từ nớc khác là vô cùng quyết liệt. Về chất lợng, theo quy định của Mỹ, tất cả
các sản phẩm nhập khẩu từ nớc ngoài vào Mỹ, đặc biệt là các mặt hàng thực phẩm chế biến,
trong đó có hàng thuỷ sản, đều phải qua khâu kiểm tra chất lợng rất chặt chẽ của Cơ quan
Kiểm soát chất lợng thực phẩm và dợc phẩm Mỹ (FDA). Mặt khác, riêng đối với mặt hàng
thuỷ sản, Mỹ chỉ áp dụng tiêu chuẩn hệ thống kiểm soát HACCP (chơng trình kiểm soát vệ
sinh an toàn chất lợng của riêng nớc này), chứ không chấp nhận bất cứ một tiêu chuẩn nào
khác, kể cả tiêu chuẩn kiểm tra chất lợng đợc coi là rất khắt khe của Liên minh Châu âu
(EU). Chính vì vậy, hiện chỉ có 25 doanh nghiệp Việt Nam xây dựng đợc tiêu chuẩn chế
biến thủy, hải sản theo chơng trình HACCP có thể xuất sang thị trờng Mỹ, trong khi đó có rất
nhiều doanh nghiệp khác mặc dù đã đợc EU đa vào danh sách nhóm 1 (đợc xuất trực tiếp sản
phẩm thuỷ hải sản sang toàn bộ 15 nớc EU mà không cần kiểm tra), nhng vẫn không đợc thị
trờng này chấp nhận. Ngay cả khi đặt chân vào thị trờng Mỹ, hàng Việt Nam vẫn phải cạnh
tranh quyết liệt với rất nhiều sản phẩm của các nớc khác nh Thái Lan và các nớc AESAN
khác cùng có mặt trên thị trờng này. Theo một số doanh nghiệp đã và đang có mặt trên thị tr-
ờng Mỹ, nếu xét về chất lợng, hàng thuỷ, hải sản của Việt Nam hoàn toàn không thua kém so
với các nớc khác, song do phải chịu thuế suất đầu vào cao (20- 40%), nên giá thành bị đội lên
quá cao, khiến sức cạnh tranh của hàng Việt Nam bị giảm đáng kể. Các doanh nghiệp Việt
Nam vẫn phải xây dựng cho đợc tiêu chuẩn hệ thống kiểm soát chất lợng theo chơng trình
HACCP. Nhng đó mới là “ tiêu chuẩn đầu vào”. Điều quan trọng là các doanh nghiệp Việt
Nam cần chủ động tìm hiểu đầy đủ các thông tin về thị trờng cũng nh thị hiếu của khách
hàng Mỹ, trên cơ sở đó xuất những mặt hàng vừa có lợi thế so sánh cao so với các nớc khác,
vừa đợc ngời tiêu dùng chấp nhận để duy trì khả năng cạnh tranh của mình”.
Bộ Thuỷ sản và các doanh nghiệp thuộc Hiệp hội chế biến thuỷ sản đã xác định
rõ là để đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản, trớc hết phải nâng cao chất lợng và tính cạnh tranh của
sản phẩm, đồng thời phải tăng cờng xúc tiến thơng mại để mở rộng thị trờng.
Ngành thuỷ sản đã sớm đi đầu trong việc xây dựng và áp dụng các hệ thống mới
về quản lý chất lợng sản phẩm nh để từng bớc thay thế các phơng thức kiểm soát chất lợng
truyền thống. Từ năm 1991, thuỷ sản Việt Nam đã tiếp cận với hệ quản lý chất lợng của Mỹ
đối với hàng thuỷ sản và coi đây là một trong những điều kiện quan trọng nhất để đẩy mạnh
xuất khẩu thuỷ sản sang các thị trờng lớn và khó tính nh Mỹ, EU. Cụ thể, Bộ thuỷ sản đã có
quy định là từ ngày 1/1/2000, tất cả các cơ sở chế biến thuỷ sản trong nớc bắt buộc phải áp
dụng các tiêu chuẩn này.
Ngoài các mặt hàng truyền thống nh đã nêu trên, khả năng xuất khẩu phần mềm máy
tính hay những phần mềm cho thơng mại điện tử cũng là mặt hàng có nhiều triển vọng mà ta
với Mỹ có những tơng đồng phù hợp lợi ích cả hai bên. Nhà nớc cần có các biện pháp mạnh
mẽ khuyến khích các công ty Việt Nam sang Mỹ tiếp cận thị trờng trong lĩnh vực này. Thị
phần của thơng mại điện tử ở Mỹ đang trên đà tăng trởng mạnh và trong một số năm tới có
thể lên đến hàng ngàn tỷ USD mỗi năm.
II.các giảI pháp từ phía nhà nớc .
Để hỗ trợ các doanh nghiệp mở rộng thị trờng xuất khẩu, Nhà nớc cần tạo môi trờng
quốc tế thuận lợi cho kinh doanh, hình thành hành lang pháp lý song phơng và đa phơng...
Đối với riêng thị trờng Mỹ, Nhà nớc cần có các biện pháp hỗ trợ sau để giúp các doanh
nghiệp tiến vào thị trờng này:
2. Cải cách hệ thống ngân hàng.
Ngành ngân hàng Việt Nam là hệ thống huyết mạch của nền kinh tế, nổi bật là đẩy lùi
nạn lạm phát phi mã, ổn định giá trị đồng tiền, ổn định kinh tế vĩ mô, làm nòng cốt trong huy
động vốn, đáp ứng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp để chuyển dịch cơ cấu sản xuất, linh
hoạt đáp ứng nhu cầu thị trờng ở quy mô lớn hơn trong và ngoài nớc, hợp tác chặt chẽ với
các ngân hàng Mỹ trong quan hệ đại lý ngân hàng nh vay vốn ngoại tệ, điều tra khách hàng
Mỹ, xác nhận L/C, thanh toán quốc tế...để hỗ trợ và phục vụ có hiệu quả cho các doanh
nghiệp Việt Nam tham gia kinh doanh với Mỹ, đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ.
Đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam, chúng ta cần hiện đại hoá công nghệ ngân
hàng, từng bớc nâng dần tỷ lệ tín dụng so với GDP lên ngang bằng các nớc trong khu vực (tỷ
lệ này của Việt Nam hơn 32%, các nớc khoảng 50%). Hạ thấp chỉ tiêu về chi phí nghiệp vụ
trên tài sản “Có” xuống tơng đơng với mức bình quân của khu vực (tỷ lệ này của Ngân hàng
Thơng mại Việt Nam là 9%, các nớc trong khu vực khoảng 2,5-3%). Tiếp đến là hình thành
các thị trờng chứng khoán để đáp ứng nhu cầu thu hút vốn trong và ngoài nớc; tận dụng các
nguồn tài trợ thơng mại, nguồn vốn vay của các ngân hàng nớc ngoài để cho các doanh
nghiệp vay kinh doanh sản xuất và xuất khẩu. Và cuối cùng là lành mạnh hoá hệ thống tài
chính tiền tệ, cơ cấu lại các ngân hàng yếu kém, tăng cờng tiềm lực tài chính, khả năng cạnh
tranh và sức đề kháng của ngân hàng trớc những biến động của thị trờng trong nớc và quốc
tế.
2. Tăng cờng quản lý nhà nớc về xúc tiến thơng mại.
Bộ Thơng mại và một số bộ ngành có liên quan cần thành lập các nhóm nghiên
cứu thị trờng Mỹ, tập trung vào các vấn đề nh môi trờng pháp luật, hàng hoá, kinh doanh, giá
cả, phơng thức tiếp cận thị trờng Mỹ để giúp đỡ các doanh nghiệp Việt Nam .
Để vào đợc thị trờng Mỹ, các doanh nghiệp không những phải nắm vững nhu
cầu thị trờng, thị hiếu ngời tiêu dùng và đảm bảo sản phẩm có sức cạnh tranh về chất lợng
cũng nh giá cả, mà còn phải thông thạo hệ thống pháp luật Mỹ, nắm đợc hệ thống quản lý
xuất nhập khẩu cũng nh hạn ngạch của Mỹ. Mỹ có một hệ thống pháp luật về thơng mại vô
cùng rắc rối và phức tạp. Bộ luật Thơng mại (Uniform Commerical Code) đợc coi nh xơng
sống của hệ thống pháp luật về thơng mại. Vì vậy, các doanh nghiệp rất cần những thông tin
hỗ trợ này từ phía Nhà nớc, đặc biệt các doanh nghiệp cha xuất khẩu sang thị trờng Mỹ lần
nào và chuẩn bị thâm nhập thị trờng này.
Hoạt động xúc tiến thơng mại nhằm phát triển sản xuất và xuất khẩu trên cơ sở
giảm chi phí về thời gian và tiền của cho các doanh nghiệp, cụ thể gồm các giải pháp sau:
- Đa vào Website những thông tin có giá trị thơng mại để quảng cáo cho các
doanh nghiệp và hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ. Tập hợp các nhu cầu xuất khẩu
của Mỹ sang Việt Nam, đảm bảo hàng hoá nhập khẩu là công nghệ tiên tiến và mang lại hiệu
quả cao cho phát triển kinh tế đất nớc.
- Tổ chức hội chợ triển lãm theo nhu cầu của các doanh nghiệp Việt Nam và
Mỹ muốn thâm nhập thị trờng của nhau và chuẩn bị các phơng án làm ăn lâu dài sau khi có
Quy chế Tối huệ quốc.
- Tổ chức mạng lới du lịch Việt Nam - Mỹ một cách có hiệu quả, phục vụ tốt
các nhu cầu của giới kinh doanh và du khách, trong đó tổ chức các chuyến đi khảo sát thị tr-
ờng cho các doanh nghiệp.
- Thành lập Quỹ xúc tiến thơng mại do Nhà nớc và doanh nghiệp cùng đóng
góp. Quỹ này lập tài khoản riêng không nằm trong ngân sách của Bộ tài chính, chuyên dùng
cho mục đích xúc tiến thơng mại.
Để thúc đẩy xuất khẩu, ngoài các biện pháp và chính sách chung, đối với thị tr-
ờng Mỹ cần lập hệ thống các trung tâm thơng mại tại một số thành phố lớn nh NewYork, Los
Angeles, San Francisco, Chicago...tạo cầu nối và giảm chi phí giao dịch cho các công ty Việt
Nam . Các trung tâm này có thể do Nhà nớc ta bảo trợ hoặc kết hợp với các công ty Mỹ và
Việt kiều, hoặc kết hợp giữa một số doanh nghiệp mạnh trong nớc sang mở các phòng trng
bày, giao dịch giới thiệu và ký hợp đồng.
Để hoạt động xúc tiến thơng mại gặt hái đợc thành công, Việt Nam cần tăng c-
ờng khả năng tiếp cận với các thông tin thơng mại. Chính những thông tin thơng mại này cho
phép một chuyên gia có thể chuyển một tiềm năng xuất khẩu thành một hoạt động giao dịch
kinh doanh thực sự. Đó là thiết lập các mối quan hệ trong kinh doanh, thông tin về các kênh
phân phối, hiếu biết về bản chất của cạnh tranh trong nớc và nớc ngoài và cuối cùng là sở
thích của ngời tiêu dùng.
Về vai trò của Đại diện thơng mại ở nớc ngoài, họ là phơng tiện quan trọng tạo
điều kiện cho các cơ sở xuất khẩu tiếp cận với những thông tin thơng mại. Việt Nam cần tập
trung tìm cách tăng cờng hệ thống đó. Việc bố trí đội ngũ tuỳ viên thơng mại là một hình
thức đầu t tốn kém nhng không thể không có và chúng ta cần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
đầu t cho việc thiết lập các Ban Đại diện thơng mại của mình ở nớc ngoài.
3. Thành lập Quỹ hỗ trợ xuất khẩu (HTXK).
Mục tiêu chính của Quỹ HTXK là trợ giúp các doanh nghiệp có tiềm năng phát triển
xuất khẩu nhng không có điều kiện tiếp cận nguồn vốn của ngân hàng do không có tài sản
thế chấp. Quỹ HTXK sẽ đứng ra bảo lãnh các khoản vay, cung cấp các khoản tín dụng cho
các doanh nghiệp xuất khẩu để các doanh nghiệp đầu t công nghệ hiện đại và bảo đảm vốn lu
động.
II. Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam sang thị trờng
Mỹ.
Trong quan hệ kinh tế-thơng mại Việt-Mỹ, Nhà nớc chỉ có tác dụng tạo ra một
khuôn khổ pháp lý ổn định và môi trờng kinh doanh thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp.
Việc tận dụng và phát huy đợc những lợi thế của mình hay không là phụ thuộc vào các doanh
nghiệp. Sau đây là các giải pháp đối với các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu:
1. Giải pháp về vốn.
Thành lập các tập đoàn công ty lớn hoặc liên kết các công ty có quy mô nhỏ để sản
xuất và xuất khẩu những mặt hàng chủ lực trên quy mô sản xuất lớn, có khả năng cạnh tranh
cao, tạo ra nguồn cung cấp hàng hoá xuất khẩu ổn định và lâu dài, đáp ứng đợc nhu cầu đặt
hàng nhanh với số lợng lớn của các đối tác Mỹ.
Thực tiễn cho thấy đối với mặt hàng dệt may, Mỹ không đặt đơn hàng lẻ. Một đơn
hàng của Mỹ có thể lên tới cả triệu sản phẩm mà thời gian cung ứng hàng lại rất nhanh. Do
vậy, cần đa năng lực sản xuất của các doanh nghiệp ngành may lên cao và cần liên kết lại
nhằm đủ sức thực hiện một đơn hàng.
Quy mô sản xuất của ta hiện nay còn quá nhỏ để có thể cạnh tranh vì sản xuất
còn phân tán theo vùng và sản xuất thủ công là chính nên giá thành còn cao, chất lợng cha
đồng đều và sức cạnh tranh kém. Để khắc phục nhợc điểm này, chúng ta cần tổ chức lại sản
xuất ở quy mô hợp lý, kết hợp sử dụng lao động lành nghề và giản đơn, áp dụng phơng thức
quản lý tiên tiến, đa hệ thống sản xuất của ta vào định hớng xuất khẩu các loại hàng hoá mà
các đối tác nớc ngoài cần chứ không phải dựa vào những gì mình có, cố gắng tận dụng phát
huy những lợi thế so sánh của mình để tăng khả năng xuất khẩu sang thị trờng Mỹ.
Để có quy mô sản xuất lớn hai yếu tố chính là vốn và thị trờng. Vì vậy việc thu hút
vốn là yếu tố quan trọng trong cạnh tranh nhng nếu thiếu thị trờng thì cũng không thể tăng
quy mô sản xuất.
Trung bình một công ty quy mô vừa ở Mỹ vào khoảng 100 triệu USD doanh số. Các
công ty dới mức này thờng liệt vào dạng nhỏ. Các công ty siêu quốc gia cũng đang trên đờng
hội nhập và đang có xu thế sáp nhập để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trờng thế giới.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, về vốn cần phát huy nội lực là chính, đồng thời
có thể dựa vào nguồn vốn của các ngân hàng trong và ngoài nớc, các tổ chức tài chính, các
nguồn viện trợ, các khoản vay ngắn, trung và dài hạn, các nguồn vốn đầu t trực tiếp nớc
ngoài hoặc tiếp cận vốn trên thị trờng chứng khoán. Kinh doanh càng phát triển sẽ tích luỹ đ-
ợc nhiều vốn tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng đầu t chiều sâu, mở rộng hoạt động sản
xuất kinh doanh.
Về thị trờng, các doanh nghiệp phải dựa một phần lớn vào hệ thống toàn cầu mới giải
quyết đợc trên cơ sở hội nhập tiểu khu vực, khu vực, châu lục, liên châu lục và toàn cầu, tăng
khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên cơ sở giá thành hạ, chất lợng cao thì mới có khả năng
mở rộng, giữ vững và phát triển thị trờng. Sau khi Hiệp định thơng mại Việt- Mỹ có hiệu lực,
cánh cửa thị trờng Mỹ sẽ đợc mở rộng với các hàng hoá xuất khẩu nếu nh các doanh nghiệp
của ta có khả năng sản xuất đợc các mặt hàng đạt tiêu chuẩn chất lợng đợc phía bạn chấp
nhận, giá cả mang tính cạnh tranh.
2. Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa.
Mỗi doanh nghiệp cần đặt lên hàng đầu mục tiêu nâng cao chất lợng hàng hóa của
mình, từ đó nâng sức cạnh tranh của hàng hóa. Cùng với việc nâng cao chất lợng là việc
giảm giá thành, đa dạng hóa mẫu mã, cải tiến bao bì ... sao cho phù hợp với thị hiếu tiêu
dùng của ngời Mỹ. Các doanh nghiệp không thể đổ lỗi cho thiếu vốn hay thiết bị lạc hậu để
biện hộ cho khả năng cạnh tranh yếu kém của hàng hóa của mình bởi vì còn rất nhiều yếu tố
khác cũng tác động vào sức cạnh tranh của sản phẩm nh các yếu tố vĩ mô (tỷ giá hối đoái, lãi
suất, thuế khóa) và các yếu tố vi mô (quy trình sản xuất, kinh nghiệm quản lý của từng doanh
nghiệp). Vì vậy trong tình hình hiện nay, do các nguồn vốn còn hạn hẹp, các doanh nghiệp
cần chủ động vạch ra chiến lợc cạnh tranh dài hạn cho hàng hóa của mình bằng cách tạo ra
nét độc đáo cho sản phẩm dựa trên khả năng cắt giảm chi phí bình quân trong ngành cũng nh
hợp lý hóa quy trình sản xuất.
Trong điều kiện quốc tế hoá hiện nay, nền sản xuất nhỏ nh ở Việt Nam có
những điểm lợi thế tơng đối là giá nhân công rẻ và có thể đầu t thêm công nghệ để dần nâng
cao chất lợng sản phẩm, nhng cũng phải thấy rằng chỉ có thể làm thuê gia công và làm vệ
tinh cho các công ty lớn mà thôi. Muốn vơn lên tự chủ cần phải tính đến quy mô sản xuất
hợp lý, cần có vốn, nhân lực, công nghệ và thị trờng là những yếu tố quan trọng nhất.
3. Chủ động thực hiện tốt công tác thị trờng, thông tin, tiếp thị.
Các doanh nghiệp có trách nhiệm tổ chức tiếp cận và phân tích, khai thác các thông
tin, trực tiếp và thờng xuyên tiếp xúc với thị trờng thế giới thông qua Hội thảo khoa học, hội
chợ triển lãm, đẩy mạnh tiếp thị để kịp thời nắm bắt đợc nhu cầu của thị trờng, bám sát và
tiếp cận đợc tiến bộ của thế giới trong sản xuất kinh doanh, chủ động tìm bạn hàng, thị trờng,
ký hợp đồng, tổ chức sản xuất và xuất khẩu theo nhu cầu và thị hiếu thị trờng, tránh t tởng ỷ
lại vào các cơ quan quản lý Nhà nớc hoặc trông chờ trợ giá, trợ cấp.
Việc tham gia các hội chợ triển lãm nhất là ở nớc ngoài có thể gặp khó khăn về kinh
phí do giá thuê gian hàng đắt. Vì vậy các doanh nghiệp có thể chủ động nắm bắt thông tin
qua Thơng vụ Việt Nam tại nớc sở tại hoặc Cục Xúc tiến thơng mại thuộc Bộ Thơng mại
hoặc nối mạng Internet để từ đó có thể tìm đợc những bạn hàng tin cậy, nắm bắt đợc tơng đối
chính xác nhu cầu thị trờng đối với hàng hóa của mình cũng nh khả năng cung cấp của thị tr-
ờng đó, giá cả, chất lợng cho những mặt hàng mà doanh nghiệp Việt Nam có nhu cầu nhập
khẩu để phục vụ sản xuất và kinh doanh trong nớc.
Trớc khi ra quyết định xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ, một bớc quan trọng không thể bỏ
qua là phải nghiên cứu kỹ thị trờng và đánh giá nghiêm túc thực lực của doanh nghiệp, sức
cạnh tranh của sản phẩm, khả năng tiếp thị và tiềm lực tài chính. Việc lựa chọn đúng hình
thức xuất khẩu sẽ giúp cho các doanh nghiệp nhanh chóng có chỗ đứng trên thị trờng đầy
tiềm năng này. Để vào đợc thị trờng Mỹ các doanh nghiệp có thể xuất khẩu gián tiếp qua đại
lý. Khi đã quyết định xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ, phơng án tối u là phải vạch ra đợc chiến
lợc để thực hiện xuất khẩu trực tiếp. Xuất khẩu trực tiếp sẽ giúp cho doanh nghiệp kiểm soát
đợc toàn bộ quá trình xuất khẩu, thiết lập đợc quan hệ trực tiếp với mạng lới tiêu thụ và ngời
tiêu dùng.
Tổng kết kinh nghiệm của các công ty nớc ngoài cho thấy, con đờng tiến tới chinh
phục thị trờng Mỹ là phải biết sử dụng các đại diện bán hàng, đại lý, nhà phân phối và nhà
bán lẻ. Đây là một nhu cầu bức xúc nhng rất khó khăn đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam
phải làm dần, từng bớc tìm hiểu. Mặt khác, bản thân các nhà nhập khẩu, nhà phân phối cũng
sẽ tìm đến các doanh nghiệp Việt Nam để đặt hàng. Họ sẽ đa ra các yêu cầu (thờng là chất l-
ợng, khối lợng hàng và thời gian giao hàng…) còn phơng thức tiếp cận thị trờng không đáng
lo lắm vì tiềm lực tài chính của họ khá dồi dào. Các doanh nghiệp cùng ngành hàng ở Việt
Nam nên liên kết với nhau để có thể đáp ứng đợc những đơn hàng quy mô lớn, thời gian giao
hàng nhanh. Các doanh nghiệp Việt Nam cần thận trọng khi quyết định bán hàng trực tiếp
cho ngời tiêu dùng bởi tại Mỹ việc bán hàng trực tiếp này kèm theo trách nhiệm rất lớn đối
với ngời tiêu dùng.
4. Nâng cao trình độ quản lý, chuyên môn cho đội ngũ cán bộ của các doanh
nghiệp Việt Nam.
Qua thực tế thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế Việt Nam, có thể thấy rõ năng
lực quản lý cũng nh trình độ chuyên môn của các cán bộ, ngời lao động tại các doanh nghiệp
Việt Nam cha đáp ứng đợc yêu cầu của công việc.
Nội dung hợp tác với Mỹ bao gồm các lĩnh vực kinh tế, thơng mại, đầu t và nhiều lĩnh
vực khác về kinh tế cũng nh khoa học công nghệ khá đa dạng. Trong khi đó trình độ cán bộ
của ta còn hạn chế cả về kiến thức, kinh nghiệm và ngoại ngữ. Để đáp ứng đợc nhu cầu phục
vụ cho mục tiêu trên, cần quan tâm thích đáng đến công tác đào tạo cán bộ, cụ thể là tập trung vào 4
lĩnh vực sau:
- Đào tạo nâng cao trình độ cán bộ có đủ năng lực hoạch định và thực hiện chính
sách.
- Đào tạo cán bộ có trình độ đàm phán quốc tế.
- Đào tạo, bồi dỡng, hớng dẫn cán bộ nắm bắt đợc kịp thời các Hiệp ớc quốc tế,
các kết quả đàm phán trên bàn hội nghị, hiểu và vận dụng đợc những Hiệp ớc và kết quả đàm
phán đó vào thực tiễn sản xuất và kinh doanh quốc tế. Để kinh doanh đợc với Mỹ, các doanh
nghiệp cần hiểu và vận dụng đợc các luật lệ, chính sách thơng mại của Mỹ.
- Đào tạo về ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh để cán bộ có đủ trình độ giao dịch
quốc tế.
Ngoài ra, các doanh nghiệp còn phải thờng xuyên đào tạo công nhân kỹ thuật lành
nghề để có thể sử dụng công nghệ hiện đại, sản xuất ra những sản phẩm xuất khẩu có chất l-
ợng cao, giá cả cạnh tranh trên thị trờng Mỹ.
Tóm lại, để chuẩn bị thực hiện Hiệp định thơng mại Việt- Mỹ, các doanh nghiệp cần
sớm xúc tiến nghiên cứu để thâm nhập thị trờng Mỹ, tìm hiểu đối tác, nhu cầu thị trờng, thị
hiếu ngời tiêu dùng, cơ chế chính sách và luật pháp quốc tế; cần chủ động để đổi mới công
nghệ, mẫu mã nâng cao chất lợng hàng hoá, đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế. Đặc biệt, cần xúc
tiến khẩn trơng việc đào tạo, bồi dỡng trình độ tay nghề cho công nhân, cán bộ quản lý, kể cả
giám đốc để nâng cao trình độ tiếp nhận công nghệ mới, nâng cao năng lực quản lý hiểu biết
các chuẩn mực thông lệ quốc tế, chính sách thơng mại thế giới và chính sách thơng mại Mỹ
trong cuộc làm ăn mới trên một thị trờng mới. Sự chuẩn bị kỹ càng là điều kiện tốt để các
doanh nghiệp nớc ta chủ động hội nhập đón nhận những cơ hội và thách thức mới khi Hiệp
định thơng mại Việt - Mỹ chính thức đợc thực thi.
Kết luận
Thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở của Đảng và Nhà nớc với phơng châm
“sẵn sàng làm bạn với tất cả các quốc gia trong cộng đồng thế giới”, trong nhiều năm qua
Việt Nam đã đạt đợc nhiều thành tựu trong hoạt động kinh tế đối ngoại.
Hiệp định thơng mại Việt - Mỹ là một trong các điểm mốc căn bản trong quá
trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, là nấc thang cuối cùng trên con đờng bình thờng hoá
quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Mỹ, là dấu hiệu tốt của quá trình hội nhập của Việt Nam
vào hệ thống thơng mại quốc tế. Hiệp định thơng mại Việt - Mỹ sẽ mang đến nhiều cơ hội
kèm theo không ít thách thức xét cả về phơng diện vĩ mô và vi mô, đối với cả Nhà nớc và
từng doanh nghiệp.
Theo đánh giá của Bộ trởng Bộ Thơng mại Vũ Khoan thì “Có Hiệp định là điều
cần nhng cha đủ. Điều quyết định nhất là chủ động tích cực nâng cao khả năng cạnh tranh
trên cả ba cấp độ, đồng thời các doanh nghiệp của ta cần phát huy tinh thần “ tiến công ”,
không ngồi chờ mà chủ động thâm nhập thị trờng Hoa Kỳ, tìm hiểu bạn hàng, đối tác, nhu
cầu, luật pháp, từ đó đẩy mạnh xuất khẩu, tranh thủ đầu t, công nghệ ”.
Nhiệm vụ quan trọng của Việt Nam hiện tại là phải đa ra một chiến lợc phát
triển của đất nớc gắn với quá trình hội nhập của mình. Chiến lợc đó phải đảm bảo duy trì đ-
ợc sự tăng trởng kinh tế đất nớc và thực hiện đợc hội nhập. Do vậy, mọi chính sách đối nội
và đối ngoại của Việt Nam phải hớng tới mục tiêu phát triển này, phải đợc điều phối một
cách hài hoà sao cho phù hợp với tình hình thực tế trong từng giai đoạn phát triển và tình
hình quốc tế. Công việc này đòi hỏi các cơ quan Chính phủ phải hợp tác chặt chẽ với nhau
và với các nớc để có thể đa ra chiến lợc tốt nhất cho đất nớc và cộng đồng quốc tế chấp
nhận đợc. Chiến lợc này không thể chỉ là những nguyên tắc chung chung mà là những vấn đề
cụ thể của từng ngành với các chính sách cụ thể.
Việt Nam cần hoàn thiện hệ thống luật pháp và chính sách thơng mại của mình,
hớng tới các thông lệ và chuẩn mực quốc tế, mang tính thực thi trong nớc; cần thực hiện các
giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu và thâm nhập thị trờng Mỹ để đẩy mạnh quan hệ thơng mại
giữa Việt Nam và Mỹ.
Sau sự kiện Hiệp định thơng mại Việt- Mỹ đợc ký kết, các cuộc tiếp xúc gần đây
và đặc biệt là chuyến viếng thăm Việt Nam của Tổng thống Mỹ Bill Clinton ngày 16-
19/11/2000 đã thực sự đa quan hệ kinh tế Việt - Mỹ chuyển sang một giai đoạn mới. ở giai
đoạn này nhịp độ buôn bán và đầu t sẽ sôi động hẳn hơn trớc đây. Trớc mắt, hàng hoá của
Mỹ vào Việt Nam cha nhiều nhng hàng hoá của Việt Nam vào Mỹ sẽ tăng mạnh.
Có thể hoàn toàn tin tởng rằng với những thành tựu đã đạt đợc của hơn 10 năm
đổi mới, với nền kinh tế đang có dấu hiệu hồi phục, với những quyết tâm cao độ và đờng lối
đối ngoại mềm dẻo, linh hoạt của Đảng và Chính phủ Việt Nam, chúng ta sẽ tận dụng đầy đủ
cơ hội mà Hiệp định thơng mại Việt - Mỹ mang lại nhằm phát huy thế mạnh, đồng thời đẩy
lùi đợc những nguy cơ yếu kém.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn - Hiệp định thương mại Việt- Mỹ với vấn đề xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Mỹ.pdf