a) Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
và tình trạng nhũng nhiễu đối với nhà đầu tư. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá
nhân trong xử lý công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở các cơ quan
quản lý nhà nước.
b) Thực hiện hiệu quả các sáng kiến cải thiện môi trường đầu tư; tiếp tục
hợp tác tích cực với các cơ quan, tổ chức nước ngoài trong việc XTĐT và hỗ trợ
doanh nghiệp triển khai dự án.
c) Duy trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa lãnh đạo Chính phủ, các
Bộ, ngành với các nhà đ ầu tư, đặc biệt là Diễn đàn doanh nghiệp hàng năm để
xử lý kịp thời các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện chính sách
và phát luật hiện hành, đảm bảo các dự án hoạt động hiệu quả, nhằm tiếp tục
củng cố lòng tin của các nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư kinh doanh tại
Việt Nam, tạo hiệu ứng lan tỏa và tác động tích cực tới nhà đầu tư mới.
d) Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra: theo chức năng và nhiệm
vụ của mình, Thanh tra Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương có kế hoạch
tăng cường thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ các quy định của chính sách, pháp
luật v ề đầu tư và các quy định quản lý chuyên ngành.
14 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2779 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hiệu quả của FDI và đòi hỏi việc thay đổi chiến lược thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
HIỆU QUẢ CỦA FDI VÀ ĐÒI HỎI VIỆC THAY ĐỔI CHIẾN LƯỢC
THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
Cục đầu tư nước ngoài
Bộ Kế hoạch và Đầu tư
I. Tổng quan về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
1. Bối cảnh kinh tế thế giới
Trong gần một thập kỷ qua, diễn biến tình hình trên thế giới có nhiều
phức tạp. Xu thế hội nhập và toàn cầu hoá kinh tế gia tăng mạnh cùng sự phát
triển nhảy vọt của cách mạng khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông
tin đã thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế tri thức, tạo nên sự dịch chuyển
mạnh cơ cấu kinh tế quốc tế. Kinh tế thế giới đã phục hồi và tăng trưởng trở
lại tuy chậm. Châu Á-Thái Bình Dương tiếp tục tăng trưởng nhanh và là khu
vực phát triển năng động của thế giới. Các công ty đầu tư quốc tế đang áp
dụng chiến lược kinh doanh toàn cầu hoặc khu vực. Cùng với tiến trình hội
nhập sâu vào kinh tế khu vực và thế giới, thị trường tiêu thụ sẽ được mở rộng,
tạo điều kiện để khắc phục trở ngại về mặt thị trường cho các doanh nghiệp
nói chung và doanh nghiệp ĐTNN nói riêng.
Những năm cuối của thế kỷ XX, thế giới lại phải đối mặt với cơn bão
khủng hoảng tài chính toàn cầu. Theo kết quả Điều tra triển vọng đầu tư thế
giới (WIPS) 2009-2011 vừa công bố của Diễn đàn Thương mại và Phát triển
Liên hiệp quốc (UNCTAD), 79% các tập đoàn đa quốc gia (TNCs) đang phải
chịu ảnh hưởng tiêu cực từ cuộc khủng hoảng tài chính, 85% các tập đoàn
chịu ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu trong khi con số này chỉ là 40%
theo WIPS 2008-2010. Khả năng và ý định đầu tư ra nước ngoài của các tập
đoàn đa quốc gia (TNCs, một nguồn FDI lớn) bị ảnh hưởng đáng kể do tác
động của suy thoái kinh tế dẫn tới các chính sách thắt chặt tín dụng tại nước
đầu tư, giảm kỳ vọng thị trường, giảm giá trị tài sản do thị trường chứng
khoán đi xuống và giảm lợi nhuận của các tập đoàn. Thêm vào đó, các TNCs
còn phải đối mặt với những thay đổi khó lường trong chính sách của các nền
kinh tế để ứng phó với khủng hoảng.
Trong bối cảnh đó, cạnh tranh thu hút vốn ĐTNN trên thế giới và trong
khu vực sẽ tiếp tục diễn ra gay gắt. Các nước trong khu vực, nhất là Trung
Quốc đã và đang cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư nhằm cạnh tranh thu
hút ĐTNN từ các nước khác, coi đó là giải pháp chiến lược phục hồi và phát
triển kinh tế. Điều này tạo nên thách thức lớn đối với Việt Nam.
2. Kết quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam trong
thời gian qua
* 20 năm qua:
Sau hơn 20 năm thực hiện chính sách đổi mới, mở của nền kinh tế, khu
vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) đã không ngừng được mở rộng,
2
phát triển và trở thành bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân, góp phần
tích cực vào thành công của công cuộc đổi mới đất nước.
Tính đến hết năm 2010, các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 18/21 ngành
trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân, trong đó lĩnh vực công nghiệp
chế biến và chế tạo vẫn là lĩnh vực thu hút nhiều vốn ĐTNN nhất, với 7.305
dự án, tổng vốn đăng ký 93,97 tỷ USD, chiếm 59,8% số dự án và 49% vốn
đăng ký tại Việt Nam. Đầu tư vào kinh doanh bất động sản đứng thứ hai trong
thu hút ĐTNN với 348 dự án, tổng vốn đăng ký 47,99 tỷ USD, chiếm 2,8% số
dự án và 25% tổng vốn đăng ký tại Việt Nam. Tiếp theo là các lĩnh vực xây
dựng, dịch vụ lưu trú và ăn uống, sản xuất, phân phối điện, nước, khí, điều
hòa.
Đến nay, 92 quốc gia và vùng lãnh thổ đã có đầu tư tại Việt Nam, trong
đó Đài Loan là nhà đầu tư số 1 với trên 2.146 dự án còn hiệu lực, tổng vốn
đăng ký 22,8 tỷ USD. Hàn Quốc đứng thứ 2 với trên 2.650 dự án còn hiệu lực,
tổng vốn đăng ký 22,1 tỷ USD. Tiếp theo là nhà đầu tư Singapore, Nhật Bản
và Malaysia.
ĐTNN đã có mặt ở 63 tỉnh, thành phố trong cả nước, trong đó thành
phố Hồ Chí Minh vẫn là nơi thu hút nhiều nhà ĐTNN nhất chiếm 29% tổng
số dự án và 16,4% tổng vốn đăng ký cả nước. Bà Rịa – Vũng Tàu đang vươn
lên rất sát với thành phố Hồ Chí Minh với quy mô vốn đăng ký 26,3 tỷ USD,
chiếm 14,2% tổng vốn đăng ký của cả nước. Tiếp theo lần lượt là Hà Nội,
Đồng Nai, Bình Dương, Ninh Thuận, Hà Tĩnh, Phú Yên, Thanh Hóa, và Hải
Phòng. 10 tỉnh, thành phố thu hút ĐTNN lớn nhất này đã chiếm tới 75,6%
tổng vốn đăng ký của cả nước (145,9 tỷ USD). 53 tỉnh, thành còn lại chỉ
chiếm 24,4% tổng vốn đăng ký.
* 10 năm gần đây:
Nhìn lại 10 năm qua, có thể thấy rằng giai đoạn 2001-2010 đã chứng
kiến những thay đổi mạnh mẽ có tính đột phá trong thu hút và sử dụng nguồn
vốn ĐTNN tại Việt Nam. Dòng vốn đăng ký và thực hiện tăng liên tiếp từ
năm 2001 và đạt mức cao nhất vào năm 2008, năm kinh tế thế giới bắt đầu
bước vào giai đoạn suy thoái. Vốn đăng ký năm 2008 đạt mức cao nhất trong
vòng 20 năm qua với 71,7 tỷ USD đã được chấp thuận đầu tư, đồng thời vốn
giải ngân của khu vực này cũng đạt mức cao nhất là 11,5 tỷ USD.
Năm 2009 do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới dẫn
tới điều chỉnh chính sách đầu tư của các tập đoàn đa quốc gia, dòng vốn
đầu tư toàn cầu suy giảm, cạnh tranh thu hút ĐTNN càng trở nên gay
gắt, ĐTNN vào Việt Nam đã có sự suy giảm, đạt 23,1 tỷ USD, tuy chỉ
bằng 32% so với năm 2008 nhưng cũng là một mức cam kết khá cao
trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu.
Trong năm 2010 Việt Nam đã thu hút được 18,59 tỷ USD vốn ĐTNN
đăng ký (gồm cả cấp mới và tăng vốn). Tuy chỉ bằng 82,2% so với cùng kỳ
2009, nhưng vốn ĐTNN vào Việt Nam duy trì được con số đáng kích lệ như
3
trên trong bối cảnh suy giảm toàn cầu vẫn chứng tỏ rằng môi trường đầu tư
của Việt Nam vẫn có sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Năm 2010, ước tính các dự án FDI đã giải ngân được 11 tỷ USD, tăng
10% so với cùng kỳ năm 2009, trong đó, vốn thực hiện của các nhà đầu tư
nước ngoài đạt khoảng 8 tỷ USD. Như vậy, năm 2010, các dự án FDI năm
2010 đã đạt được mục tiêu giải ngân đề ra.
Tính chung cả giai đoạn 2001-2010, cả nước có 9.445 dự án ĐTNN
được cấp phép đầu tư, thêm 3.945 dự án tăng vốn đưa tổng số vốn FDI trong
giai đoạn này đạt tới 165,9 tỷ USD, tăng gần 3,8 lần so với giai đoạn trước (từ
năm 1991- 2000, tổng vốn FDI cấp mới và tăng thêm là 43,8 tỷ USD).
Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt
động có hiệu quả đã mở rộng quy mô sản xuất-kinh doanh, tăng thêm vốn đầu
tư, nhất là từ năm 2001 trở lại đây. Giai đoạn 1991-2000, việc tăng vốn đầu tư
rất ít nhưng tính từ năm 2001 đến hết 2010 có khoảng 3.945 lượt dự án mở
rộng quy mô tăng vốn đầu tư với tổng vốn hơn 24,24 tỷ USD, tăng gấp 3,7 lần
so với giai đoạn trước. Qua khảo sát thường niên của Tổ chức Xúc tiến
thương mại Nhật Bản -JETRO tại Việt Nam có trên 70% doanh nghiệp
ĐTNN được điều tra có kế hoạch tăng vốn, mở rộng sản xuất tại Việt Nam;
thể hiện sự tin tưởng và an tâm của nhà ĐTNN vào môi trường đầu tư-kinh
doanh tại Việt Nam. Bên cạnh đó, theo báo cáo của Cơ quan Thương mại –
Đầu tư Vương quốc Anh (UKTI) năm 2010 về triển vọng đầu tư tại các nền
kinh tế mới nổi cũng cho biết hơn 19% các doanh nghiệp được điều tra lựa
chọn Việt Nam là điểm đến đầu tư lý tưởng trong 2 năm tới (đứng đầu là
Trung Quốc với 20% doanh nghiệp lựa chọn).
Đặc biệt kể từ sau khi Việt Nam gia nhập và thực hiện các cam kết với
WTO và triển khai thực hiện Luật Đầu tư 2005, Việt Nam đã thu hút được
những dự án quy mô rất lớn, lên tới hàng tỷ USD trong các lĩnh vực sản xuất
và chế biến dầu mỏ, sản xuất thép, công nghiệp khai khoáng, công nghiệp chế
tạo và dịch vụ...
Trong giai đoạn 2001-2010, khoảng 67% dự án triển khai góp vốn thực
hiện đạt hơn 58,9 tỷ USD (bao gồm cả vốn thực hiện của các dự án hết thời
hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn), chiếm gần 36% tổng vốn đăng ký,
trong đó, vốn của bên nước ngoài đưa vào (gồm vốn góp và vốn vay) khoảng
47,2 tỷ USD, chiếm gần 80% tổng vốn thực hiện. Từ năm 2001-2005, vốn
thực hiện đạt 14,32 tỷ USD. Đến giai đoạn 2006-2010, vốn thực hiện đạt 44,6
tỷ USD, cao gấp 3,1 lần so 5 năm trước, năm sau cao hơn năm trước. Năm
2007 vốn FDI thực hiện đạt trên 8 tỷ USD, tăng 96% so với năm 2006. Năm
2008 đạt mức cao nhất trong 20 năm đạt 11,5 tỷ USD, tăng 43% so với năm
2007. Năm 2009, vốn giải ngân đạt 10 tỷ USD; năm 2010 đạt 11 tỷ USD, tăng
10% so với năm 2009.
4
II. Đánh giá hiệu quả và tác động của ĐTNNN đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội của Việt Nam
1. Mặt tích cực:
Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN ngày càng khẳng định vai trò quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, là khu vực có tốc độ
phát triển năng động nhất.
Thứ 1: ĐTNN là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư phát triển,
đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế:
Nguồn vốn ĐTNN chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn đầu tư toàn
xã hội, giai đoạn 2001-2005 ĐTNN chiếm khoảng 16% tổng vốn đầu tư xã
hội; hai năm 2006-2007 chiếm khoảng 25%, năm 2008 đạt gần 30%, năm
2009 chiếm 25,7%, năm 2010 chiếm 25,8%.
Vốn ĐTNN đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Đóng
góp của khu vực ĐTNN vào GDP tăng dần qua các năm, năm 1992 đạt 2%,
đến năm 2000 đã đạt tới 12,7%. Giai đoạn 2001 – 2005, đóng góp của khu
vực ĐTNN vào GDP cũng tăng cao hơn so với giai đoạn trước, bình quân
khoảng 14,5% / năm. Tỷ trọng này tiếp tục tăng lên trong các năm 2006 –
2010 đạt bình quân 18%/ năm.
Thứ 2: ĐTNN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao năng lực sản
xuất công nghiệp.
Trong 22 năm qua, ĐTNN đã đóng góp vai trò quan trọng cho sự tăng
trưởng của nền kinh tế Việt Nam nói chung và cho ngành công nghiệp nói
riêng, trong đó từng bước trở thành nguồn đầu tư quan trọng của Quốc gia,
góp phần phát triển các ngành công nghiệp. Khu vực có vốn ĐTNN luôn có
tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng trưởng công nghiệp chung của cả
nước: bình quân giai đoạn 1996 - 2000 là 22,4%/năm (trong khi cả nước là
13,9%/năm); giai đoạn 2001-2008 là 17,4%/năm (trong khi cả nước tăng
16,3%/năm), năm 2010 là 17,2%
Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực ĐTNN tại một số địa phương
chiếm tỷ trọng cao trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn, góp
phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa.
ĐTNN đã tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới và tăng cường năng lực
của nhiều ngành công nghiệp (dầu khí, công nghệ thông tin, hóa chất, ô tô, xe
máy, thép, điện tử, chế biến nông sản thực phẩm, da giày, dệt may…). Phần
lớn các ngành có công nghệ cao như: khai thác dầu khí, công nghiệp điện tử,
viễn thông, thiết bị văn phòng, máy tính... đều có sự tham gia quan trọng của
các doanh nghiệp có vốn ĐTNN.
5
Thứ 3: ĐTNN thúc đẩy chuyển giao công nghệ:
ĐTNN đã đóng vai trò nổi bật trong đổi mới và chuyển giao công nghệ
ở Việt Nam, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hiện thực hoá sự hội nhập kinh tế
của Việt Nam với thế giới. ĐTNN đã tác động trực tiếp đến hoạt động đổi
mới công nghệ, chuyển giao công nghệ ở Việt Nam và góp phần vào việc tăng
cường cơ sở vật chất cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
ĐTNN góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt
Nam, phát triển một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viễn thông,
thăm dò và khai thác dầu khí, hoá chất, cơ khí chế tạo điện tử, tin học, ô tô, xe
máy... Thông qua hoạt động chuyển giao công nghệ trong các dự án ĐTNN
trình độ công nghệ sản xuất trong nước đã được nâng cao một cách rõ rệt so
với thời kỳ trước đây.
Nhiều doanh nghiệp trong nước do phải cạnh tranh với các sản phẩm
của doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã cố gắng đổi mới công nghệ bằng việc
nhập khẩu các thiết bị và công nghệ mới để sản xuất ra các sản phẩm có chất
lượng tốt. Do đó đã tăng cường năng lực về công nghệ của các doanh nghiệp
trong nước.
Bên cạnh chuyển giao các máy móc, thiết bị tiên tiến, hiện đại từ nước
ngoài, các doanh nghiệp có vốn ĐTNN cũng đã chuyển giao cho đội ngũ lao
động Việt Nam phương thức quản lý tiên tiến, hiệu quả, góp phần đào tạo
nâng cao trình độ của đội ngũ lao động Việt Nam.
Thứ 4: ĐTNN đóng góp đáng kể vào NSNN và các cân đối vĩ mô:
Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cũng đã đóng góp tích cực vào ngân
sách nhà nước, thể hiện qua việc thu nộp ngân sách tăng dần qua các năm và
bắt đầu vượt ngưỡng 1 tỷ USD từ năm 2005. Giai đoạn 2001-2005 khu vực
doanh nghiệp ĐTNN đã nộp ngân sách 3,6 tỷ USD, tăng gấp 2 lần 5 năm
trước. Năm 2006 con số trên đạt 1,3 tỷ USD, bằng cả 5 năm giai đoạn 1996-
2000. Tính cả giai đoạn 2006-2010, khu vực FDI nộp ngân sách 10.22 tỷ
USD; trong đó, năm 2010 đạt 3,1 tỷ USD (không kể dầu thô) tăng 26% so với
năm 2009.
ĐTNN tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân
đối ngân sách, bù đắp thâm hụt cán cân vãng lai, cải thiện cán cân thanh toán
quốc tế thông qua việc chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại
tệ gián tiếp qua khách quốc tế, tiền thuê đất, tiền mua máy móc và nguyên,
vật liệu...
Thứ 5: ĐTNN góp phần cải thiện cán cân thanh toán cả nước.
Không kể dầu thô, giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN cũng
gia tăng nhanh chóng. Thời kỳ 2001-2005, giá trị trên đạt hơn 34,6 tỷ USD,
gấp 3 lần so với 5 năm trước, trong đó, tỷ trọng năm sau tăng hơn năm trước,
6
năm 2002 tăng 25%, năm 2003 tăng 38%, năm 2004 tăng 39%, năm 2005
tăng 26%, đóng góp 35% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của cả nước; tính
cả dầu thô tỷ lệ này là 56%. Năm 2006 giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn
ĐTNN đạt 14,6 tỷ USD, đóng góp 37% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước.
Giá trị xuất khẩu của khu vực có vốn ĐTNN trong giai đoạn 2007-2010 cũng
gia tăng đáng kể, chiếm khoảng 40% (nếu không kể dầu thô) tổng xuất khẩu
cả nước, nếu tính cả giá trị xuất khẩu dầu thô thì tỷ trọng này đạt khoảng 55%.
Thứ 6: ĐTNN góp phần thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính và tăng tính
minh bạch của môi trường đầu tư Việt Nam.
Bên cạnh yêu cầu tự đổi mới để hội nhập và phát triển, sự có mặt của
các nhà đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế Việt Nam đã góp phần thúc đẩy
quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam theo hướng ngày một rõ
ràng, minh bạch, gần hơn với các thông lệ quốc tế. Các diễn đàn đối thoại
chính sách được tổ chức thường xuyên với sự tham gia của các cơ quan, tổ
chức và nhà đầu tư nước ngoài góp phần không nhỏ cho việc xây dựng các
văn bản pháp quy, từ các ý tưởng, kinh nghiệm quốc tế đến các kỹ thuật xây
dựng văn bản.
Để thu hút đầu tư nước ngoài, cùng với hoàn thiện hệ thống pháp lý,
yêu cầu về cải cách các thủ tục hành chính cũng được Chính phủ quan tâm
hàng đầu. Đề án 30 về cải cách thủ tục hành chính đang được thực hiện ráo
riết từ trung ương tới địa phương và đã thành công bước đầu trong việc công
bố công khai các bộ thủ tục của các Bộ, ngành và địa phương trên mạng
internet vào năm 2009.
Thứ 7: ĐTNN góp phần giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh
tế quốc tế.
ĐTNN chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam. Thông qua mạng lưới tiêu thụ của các tập đoàn xuyên quốc gia, nhiều
sản phẩm sản xuất tại Việt Nam đã tiếp cận được với các thị trường trên thế
giới.
Trong lĩnh vực khách sạn và du lịch, ĐTNN đã tạo ra nhiều khách sạn
cao cấp đạt tiêu chuẩn quốc tế 4, 5 sao cũng như các khu du lịch, sinh thái,
nghỉ dưỡng đáp ứng nhu cầu khách du lịch quốc tế, góp phần gia tăng nhanh
chóng lượng khách du lịch quốc tế vào Việt Nam.
Thứ 8: ĐTNN góp phần mở rộng tăng cường quan hệ đối ngoại với các nước
và các tổ chức trên thế giới.
Bên cạnh đó, ĐTNN còn góp phần đưa nền kinh tế nước ta từng bước
hội nhập với kinh tế thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Thứ 9: Tác động lan tỏa của ĐTNN đến các thành phần kinh tế khác trong
nền kinh tế.
7
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ĐTNN được nâng cao qua số
lượng các doanh nghiệp tăng vốn đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất. Đồng thời,
có tác động lan tỏa đến các thành phần khác của nền kinh tế thông qua sự liên
kết giữa doanh nghiệp có vốn ĐTNN với các doanh nghiệp trong nước, công
nghệ và năng lực quản lý, kinh doanh được chuyển giao từ doanh nghiệp có
vốn ĐTNN. Sự lan tỏa này có thể theo hàng dọc giữa các doanh nghiệp trong
ngành dọc hoặc theo hàng ngang giữa các doanh nghiệp hoạt động cùng
ngành. Mặt khác, các doanh nghiệp ĐTNN cũng tạo động lực cạnh tranh cho
các doanh nghiệp trong nước nhằm thích ứng trong bối cảnh toàn cầu hóa,
qua đó nâng cao được năng lực của các doanh nghiệp trong nước.
Với những kết quả nêu trên, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã được
khẳng định là một trong những kênh quan trọng thu hút vốn cho đầu tư phát
triển, góp phần phát triển kinh tế-xã hội bền vững của đất nước.
2. Mặt hạn chế:
Tuy đạt được những kết quả quan trọng nêu trên, nhưng hoạt động
ĐTNN tại Việt Nam trong thời gian qua cũng còn một số tồn tại cần được
khắc phục, cụ thể là:
Một là: Những bất cập trong hệ thống chính sách, pháp luật: Hệ thống
luật pháp, chính sách về đầu tư, kinh doanh vẫn còn một số điểm thiếu đồng
bộ và nhất quán. Vì vậy, trên thực tế vẫn tạo ra các cách hiểu khác nhau gây
rất nhiều khó khăn cho việc xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư cũng như
hướng dẫn các doanh nghiệp xử lý các vấn đề phát sinh trong quá trình triển
khai dự án.
Chính sách uư đãi đầu tư chưa thật hấp dẫn, chưa đảm bảo cạnh tranh
cao để thu hút đầu tư so với các nước trong khu vực, còn có việc “đánh đồng”
về mức thuế thu nhập doanh nghiệp giữa các dự án sản xuất với dự án dịch vụ
thương mại và bất động sản. Chưa có các ưu đãi cho các dự án công nghiệp
phụ trợ tạo giá trị gia tăng cao trong nước. Việc không còn ưu đãi thuế thu
nhập doanh nghiệp cho các dự án trong khu công nghiệp, hạn chế thu hút vào
đầu tư trong khu sẽ dẫn đến vấn đề ô nhiễm môi trường trong tương lai và
gấy khó khăn cho công tác quản lý, bất cập bố trí cơ sở hạ tầng. Thiếu các rào
cản kỹ thuật dẫn đến xu hướng đầu tư mới cũng như chuyển sang hoạt động
thương mại tăng nhanh. Sự tham gia hoạt động chính sách ưu đãi đầu tư theo
lĩnh vực của các Bộ, ngành để thu hút đầu tư còn hạn chế.
Hai là: Hạn chế trong công tác quản lý nhà nước: Việc phân cấp toàn bộ
cho UBND các địa phương và Ban quản lý KCN – KCX trong quản lý ĐTNN
là chủ trương đúng đắn, tạo thế chủ động và nâng cao trách nhiệm của các cơ
quan quản lý địa phương trong công tác quản lý hoạt động ĐTNN, tuy nhiên
trong điều kiện hệ thống quy hoạch chưa đồng bộ, đầy đủ, việc phân cấp toàn
diện cho các địa phương hiện nay đã bộc lộ một số hạn chế, cụ thể là:
- Nhận thức về thu hút và quản lý các nguồn vốn FDI tại các địa
phương chưa đồng bộ, có khi nóng vội, thiên về lợi ích trước mắt mà chưa
8
tính đến vấn đề chiến lược, thu hút đầu tư một số nơi còn chạy theo số lượng
mà thiếu quan tâm đến chất lượng, làm phá vỡ quy hoạch chung xét trên
phạm vi cả nước ảnh hưởng xấu đến các cân đối tổng thể của nền kinh tế.
Không ít những dự án quy mô lớn với số vốn đăng ký nhiều tỷ USD,
nhưng tính khả thi thấp, tiến độ rất chậm. Có những dự án dang dở, không thể
triển khai tiếp, gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống người dân xung quanh.
Bài học về cấp phép ồ ạt cho các dự án sân golf, các dự án khai thác
khoáng sản và trồng rừng cần được nhìn nhận và nghiêm túc rút kinh nghiệm
nhằm đảm bảo chất lượng, hiệu quả, thu hút đầu tư.
- Vai trò điều phối, kiểm soát, hướng dẫn trên toàn quốc của các Bộ,
ngành chức năng còn những hạn chế nhất định, thiếu các quy hoạch hoặc quy
hoạch không cụ thể, chưa kết hợp hài hòa giữa lợi ích của địa phương với lợi
ích tổng thể của quốc gia.
- Năng lực của cán bộ quản lý, thẩm tra và làm công tác xúc tiến đầu
tư ở các địa phương nhìn chung vẫn còn hạn chế. Thực tế cho thấy, một số địa
phương không quan tâm đầy đủ, đúng mức đến việc thẩm định năng lực tài
chính, kỹ thuật cũng như những tác động về môi trường, kinh tế - xã hội lâu
dài của các dự án có quy mô lớn, có tác động không những đến sự phát triển
kinh tế- xã hội của địa phương mà còn tác động đến kinh tế - xã hội của cả
nước.
- Trách nhiệm cung cấp thông tin FDI đầy đủ, kịp thời của các địa
phương lên trung ương, để phục vụ công tác quản lý, điều hành, phân tích và
dự báo các biến động, các xu thế đầu tư vào Việt Nam chưa được nhận thức
đúng đắn dẫn tới việc chấp hành chưa nghiêm. Trong bối cảnh nền kinh tế
Việt Nam và kinh tế thế giới có nhiều biến động dẫn tới các dòng vốn đầu tư
vận động bất thường, sự thiếu kịp thời trong nắm bắt tình hình có thể dẫn đến
những quyết sách thiếu kịp thời, khiến lỡ thời cơ hoặc phản ứng chính sách
quá chậm, ảnh hưởng đến các cân đối vĩ mô của nền kinh tế.
Ba là: Hạn chế về việc quản lý hiệu quả kinh doanh, thực hiện nghĩa vụ
nộp ngân sách của doanh nghiệp:
Các cơ quan quản lý thuế và tài chính còn chưa nghiên cứu để có các
quy định, biện pháp quản lý hiệu quả để xử lý được vấn đề ”chuyển giá” khi
giao dịch với công ty mẹ hay công ty liên kết, còn việc tính chi phí đầu tư, chi
phí nguyên, vật liệu sản xuất thiên cao, giá bán sản phẩm dịch vụ thiên thấp
dẫn đến việc giảm lợi nhuận ( hay bán lỗ) và không nộp thuế và các khoản thu
ngân sách đầy đủ.
Bốn là: Hạn chế trong việc bảo vệ môi trường, sinh thái.
Một số doanh nghiệp ĐTNN chưa tự giác trong việc tuân thủ quy định
về bảo vệ môi trường, nên đầu tư công trình xử lý môi trường còn chậm,
không đảm bảo chất lượng, chỉ vận hành hệ thống xử lý chất thải khi bị cơ
quan quản lý môi trường phát hiện và xử phạt. Thực tế, thời gian gần đây các
9
cơ quan chức năng đã phát hiện một số vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường
với các hành vi cố ý rất tinh vi của một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Đây là vấn đề cần được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm ở tất cả
các khâu từ thẩm tra cấp giấy chứng nhận đầu tư, đến triển khai thực hiện dự
án cũng như quá trình hoạt động của dự án đầu tư.
Năm là: Hạn chế trong chuyển giao công nghệ:
Nhìn chung công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp ĐTNN
thường cao hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành và cùng loại sản phẩm tại
nước ta. Tuy vậy, một số trường hợp các nhà ĐTNN đã lợi dụng việc thiếu
các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật, công nghệ, cũng như sự yếu kém trong
kiểm tra giám sát tại các cửa khẩu nên đã nhập vào Việt Nam một số máy
móc thiết bị có công nghệ lạc hậu của các nước khác.
Sáu là:: Hạn chế về chất lượng lao động trong khu vực có vốn ĐTNN:
Trong 20 năm qua, FDI đạt được nhiều kết quả khả quan, trong đó đáng
chú ý là góp phần tạo công ăn việc làm cho hơn 1,9 triệu lao động Việt Nam.
Song nếu nghiên túc nhìn nhận trong 1,9 triệu lao động trong khu vực FDI thì
có tới 1,1 triệu lao động nữ, hầu hết các lao động không được đào tạo tại nước
ngoài hoặc chỉ được đào tạo ngắn ngày.
Bên cạnh đó, vấn đề tranh chấp lao động là một hệ lụy khó tránh khỏi,
đặc biệt trong những thời điểm doanh nghiệp mới bắt đầu hoạt động, hoặc khi
doanh nghiệp gặp khó khăn về sản xuất kinh doanh. Một số chủ doanh nghiệp
trả công cho người lao động bằng với mức lương tối thiểu, yêu cầu tăng ca
nhiều khiến tiền lương không đủ tái sản xuất sức lao động, dẫn đến mâu thuẫn
giữa chủ sử dụng lao động và người lao động, dẫn đến tình trạng đình công
bãi công, đình trệ sản xuất làm thiệt hại cho cả hai bên.
III. Một số giải pháp thay đổi định hướng thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
1. Một số định hướng chiến lược
Đã đến lúc Việt Nam cần có sự lựa chọn kỹ càng hơn, nhằm tăng chất
lượng và tính bền vững của dòng vốn FDI. Điều này có thể nhận thấy qua
việc nhiều dự án FDI có vốn đầu tư hàng tỷ USD đang bộc lộ những yếu tố
không có lợi cho nền kinh tế. Công bằng mà nói, vấn đề chất lượng dự án,
chất lượng dòng vốn FDI đã được đặt ra ngay từ thời điểm bắt đầu mở cửa thu
hút đầu tư. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu, do đặc thù thiếu vốn đầu tư cho
các ngành nghề, lĩnh vực, Việt Nam chủ trương đẩy mạnh thu hút đầu tư vào
mọi lĩnh vực với mọi quy mô. Tùy từng thời kỳ, từng giai đoạn cụ thể cần có
chính sách phù hợp. Đặc biệt trong giai đoạn tới, càng cần có cách nhìn, cách
tư duy mới để có những giải pháp hài hòa giữa yếu tố thúc đẩy tăng trưởng
với xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại, chất lượng và phát triển bền vững.
Chiến lược thu hút FDI trong thời gian tới cần lưu ý một số vấn đề sau:
10
- Thứ nhất, thực tế cho thấy Việt Nam hiện nay còn thiếu một chiến
lược về đầu tư trực tiếp nước ngoài của quốc gia mang tính dài hạn và cụ thể.
Các mục tiêu trong Luật Đầu tư nước ngoài (trước đây) và Luật Đầu tư chung
hiện nay quá nhiều, chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn nhau (ví dụ vừa ưu tiên
phát triển công nghệ cao, vừa ưu tiên những ngành sử dụng nhiều lao động,...).
Hơn nữa, việc thay đổi chiến lược đòi hỏi cần phải mang tính quốc gia, không
nên để tình trạng mỗi tỉnh, mỗi địa phương có kế hoạch thu hút FDI riêng,
dẫn tới tình trạng nguồn vốn FDI được phân bổ và sử dụng kém hiệu quả.
- Thứ hai, chiến lược FDI cần thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu của khu
vực doanh nghiệp FDI. Công nghiệp phụ trợ trong nước kém phát triển, giá trị
gia tăng của FDI kém là nguyên nhân chủ yếu khiến các doanh nghiệp FDI
liên tục nhập siêu (nếu bỏ dầu thô ra khỏi kim ngạch xuất khẩu của khối này),
góp phần làm trầm trọng thêm tình trạng thâm hụt cán cân thương mại kinh
niên của Việt Nam. Bởi vậy, cần thúc đẩy việc thu hút đầu tư, phát triển công
nghiệp phụ trợ trong nước.
- Thứ ba, mục tiêu chủ yếu thu hút FDI hiện nay là vốn và công nghệ
(bao gồm công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý) vào những ngành, lĩnh
vực mà phía Việt Nam chưa làm được (ví dụ, các dự án lớn về cơ sở hạ tầng,
điện, nước... mà Nhà nước chưa đủ sức làm) theo hình thức Công tư kết hợp
(PPP - Public Private Partnership). Đồng thời, đẩy mạnh thu hút FDI vào các
lãnh vực sản xuất chế tạo, tạo nhiều giá trị gia tăng tại Việt Nam.
- Thứ tư, phải coi FDI là chất xúc tác về kinh doanh, tạo ra hiệu ứng
lan tỏa tới các doanh nghiệp tư nhân. Việc trở thành các nhà cung ứng tại chỗ
cho các doanh nghiệp nước ngoài sẽ giúp các doanh nghiệp tư nhân kết nối
được vào mạng lưới cung ứng toàn cầu, đồng thời, có cơ hội được làm việc
với những tiêu chuẩn chất lượng và môi trường kinh doanh quốc tế.
- Thứ năm, Thu hút FDI phải gắn với bảo vệ môi trường và hướng tới
phát triển bền vững. Cần tăng cường vai trò tham gia thẩm tra của Bộ, ngành
khi thẩm tra cấp phép cũng như khi giám sát việc đầu tư công trình xử lý môi
trường, việc đảm bảo xử lý chất thải hàng ngày khi vận hành để đảm bảo an
toàn cao nhất về tác động môi trường.
- Thứ sáu, cần nghiên cứu xu hướng vận động FDI của các đối tác
chiến lược và khả năng tiếp cận (phương pháp, điều kiện và cách tiếp cận) của
Việt Nam trong việc tiếp nhận FDI từ các đối tác này, đồng thời duy trì và
phát triển xu hướng đó theo định hướng của Chính phủ. Đồng thời, sẽ kiến
nghị, đề xuất hoặc điều chỉnh chính sách thu hút và xúc tiến đầu tư đối với
các đối tác chiến lược của Việt Nam trong thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến
năm 2030, qua đó tạo nền tảng cho việc nghiên cứu xây dựng chiến lược xúc
tiến và thu hút vốn đầu tư nước ngoài với tầm nhìn dài hạn
2. Một số giải pháp chủ yếu
Để triển khai thực hiện việc tiếp tục thu hút và sử dụng hiệu quả vốn
ĐTNN trong thời gian tới, cần thực hiện một số giải pháp sau:
11
2.1. Nhóm giải pháp về luật pháp, chính sách:
- Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh để sửa đổi
các nội dung không đồng bộ, thiếu nhất quán, bổ sung các nội dung còn thiếu;
sửa đổi các quy định còn bất cập, chưa rõ ràng liên quan đến thủ tục đầu tư và
kinh doanh. Sửa đổi Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp, Luật thuế thu nhập
doanh nghiệp, Luật thuế xuất nhập khẩu, Luật đất đai và các Luật khác liên
quan theo hướng nhất quán, tránh chồng chéo; theo đó sửa các Nghị định,
thông tư liên quan của các Luật trên, sửa Nghị định 53/2007/NĐ-CP ngày
04/4/2007 về xử phạt vi phạm trong lĩnh vực đầu tư theo hướng tăng mức chế
tài.
- Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực: phát triển
đô thị, phát triển hạ tầng kỹ thuật (cấp thoát nước, môi trường đô thị,...), xây
dựng công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho
người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công
nghệ cao, khu kinh tế; các dự án đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp phụ trợ,
dự án sản xuất chế tạo có khả năng tạo nhiều giá trị gia tăng trong nước, dự án
nông nghiệp và phát triển nông thôn; ưu đãi cho sản xuất chế tạo phải cao hơn
các dịch vụ thông thường, hoạt động thương mại kinh doanh bất động sản.
2.2 . Nhóm giải pháp về quy hoạch:
- Làm tốt công tác xây dựng quy hoạch và quản lý quy hoạch, đặc biệt là
quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch lãnh thổ, quy hoạch
sử dụng đất chi tiết, quy hoạch ngành và các sản phẩm chủ yếu; rà soát điều
chỉnh cho phù hợp và kịp thời đối với các quy hoạch đã lạc hậu; có kế hoạch
cụ thể để thực hiện các quy hoạch đã được duyệt.
- Công bố rộng rãi các quy hoạch đã được phê duyệt, đẩy nhanh tiến độ
giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư; rà soát, kiểm tra, điều chỉnh quy
hoạch sử dụng đất một cách hiệu quả, nhất là đối với các địa phương ven biển
nhằm đảm bảo phát triển kinh tế và môi trường bền vững.
- Quán triệt và thực hiện thống nhất các quy định của Luật Đầu tư trong
công tác quy hoạch, đảm bảo việc xây dựng các quy hoạch ngành, lĩnh vực,
sản phẩm phù hợp với các cam kết quốc tế, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
2.3 . Nhóm giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng:
- Tiến hành tổng rà soát, điều chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch
về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu
hạ tầng. ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường (xử lý chất
thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống đường bộ cao tốc, trước hết là tuyến Bắc-
Nam, hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc; nâng cao chất lượng dịch
vụ đường sắt, trước hết là đường sắt cao tốc Bắc-Nam, đường sắt hai hành
lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc, đường sắt nối các cụm cảng biển lớn, các
12
mỏ khoáng sản lớn với hệ thống đường sắt quốc gia, đường sắt nội đô thành
phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh; sản xuất và sử dụng điện từ các loại
năng lượng sạch như sức gió, thủy triều, nhiệt năng từ mặt trời; các dự án lĩnh
vực bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin.
- Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, sử
dụng hình thức hợp tác nhà nước và tư nhân trong việc xây dựng cơ sở hạ
tầng (PPP) ;
- Mở rộng hình thức cho thuê cảng biển, mở rộng đối tượng cho phép
đầu tư dịch vụ cảng biển, đặc biệt dịch vụ hậu cần (logistic) để tăng cường
năng lực cạnh tranh của hệ thống cảng biển Việt Nam; kêu gọi vốn đầu tư các
cảng lớn của các khu vực kinh tế như hệ thống cảng Hiệp Phước-Thị Vải,
Lạch Huyện...
- Xem xét việc ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam
kết của Việt Nam với WTO đối với một số lĩnh vực dịch vụ mà nước ta có
nhu cầu về văn hóa-y tế-giáo dục, bưu chính-viễn thông, hàng hải, hàng
không.
2.4 . Nhóm giải pháp về nguồn nhân lực
- Đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng tỷ
lệ lao động qua đào tạo lên 40% vào năm 2010. Theo đó, ngoài việc nâng cấp
đầu tư hệ thống các trường đào tạo nghề hiện có lên ngang tầm khu vực và thế
giới, sẽ phát triển thêm các trường đào tạo nghề và trung tâm đào tạo từ các
nguồn vốn khác nhau.
- Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Bộ luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình
công bất hợp pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động theo tinh thần của Bộ
luật Lao động, bao gồm:
+ Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù
hợp trong tình hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp
hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo
điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động.
+ Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên
truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để đảm bảo chính sách,
pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc.
2.5 . Nhóm giải pháp về quản lý nhà nước:
- Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trung ương và giữa trung ương
với địa phương trong việc cấp phép và quản lý các dự án đầu tư nước ngoài.
Đặc biệt các Bộ ngành cần tăng cường vai trò trong việc quản lý hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp FDI đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật,
13
quy định chuyên ngành, trong đó chú trọng việc quản lý môi trường và hiệu
quả tài chính, nộp ngân sách.
- Tăng cường đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý ĐTNN; nâng cao năng lực
thực thi và hiệu quả quản lý nhà nước về ĐTNN của các cơ quan chức năng.
- Tiến hành tổng kết, đánh giá việc phân cấp trong quản lý nhà nước đối
với hoạt động ĐTNN trong thời gian qua, phát hiện những bất cập, kịp thời
điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp.
- Thực hiện các biện pháp thúc đẩy giải ngân; không cấp phép cho các
dự án công nghệ lạc hậu, dự án tác động xấu đến môi trường; thẩm tra kỹ các
dự án sử dụng nhiều đất, giao đất có điều kiện theo tiến độ dự án; cân nhắc về
tỷ suất đầu tư/diện tích đất, kể cả đất khu công nghiệp. Để thực hiện, các Bộ,
ngành cần nâng cao vai trò trong khâu thẩm tra dự án, có những tiêu chuẩn,
rào cản kỹ thuật để ngăn chặn các dự án công nghệ lạc hậu và tác động xấu
đến môi trường.
- Các đầu mối quản lý ĐTNN thường xuyên tiến hành rà soát các dự án
đã cấp giấy chứng nhận đầu tư trên địa bàn để có hướng xử lý đối với từng
loại dự án, chú ý các dự án quy mô lớn, sử dụng nhiều đất, chậm triển khai so
với tiến độ cam kết.
2.6 . Nhóm giải pháp về xúc tiến đầu tư:
- Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các
tập đoàn đa quốc gia cũng như có sự hỗ trợ tích cực với từng tập đoàn và các
đối tác trọng điểm như các quốc gia thành viên EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản,...; chú
trọng và đẩy nhanh tiến độ đàm phán các Hiệp định đầu tư giữa Việt Nam và
các đối tác song và đa phương khác.
- Xây dựng danh mục dự án đầu tư trọng điểm quốc gia và kêu gọi vốn
ĐTNN cho giai đoạn 2011 - 2015 và những năm tiếp theo, kèm theo xây dựng
mạng thông tin chi tiết về dự án (project profile).
- Tổ chức khảo sát, nghiên cứu và xây dựng mô hình cơ quan xúc tiến
đầu tư ở Trung ương và địa phương; xây dựng văn bản pháp quy về công tác
Xúc tiến đầu tư nhằm tạo hành lang pháp lý thống nhất trong công tác quản lý
nhà nước, cơ chế phối hợp và tổ chức thực hiện các hoạt động xúc tiến đầu tư.
- Thực hiện có hiệu quả Chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia giai
đoạn 2007 – 2010 làm tiền đề cho các giai đoạn tiếp theo. Hỗ trợ, thúc đẩy
hoạt động của các bộ phận xúc tiến đầu tư tại các địa bàn trọng điểm đã có đại
diện và tiếp tục mở rộng địa bàn xúc tiến đầu tư. Tiếp tục kết hợp các hoạt
động xúc tiến đầu tư trong các chuyến thăm và làm việc tại các nước của lãnh
đạo cấp cao; làm tốt công tác tuyên truyền, quảng bá hình ảnh cho các sự kiện
này.
- Tăng cường đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác xúc tiến đầu tư.
14
2.7 . Một số giải pháp khác
a) Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực
và tình trạng nhũng nhiễu đối với nhà đầu tư. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá
nhân trong xử lý công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở các cơ quan
quản lý nhà nước.
b) Thực hiện hiệu quả các sáng kiến cải thiện môi trường đầu tư; tiếp tục
hợp tác tích cực với các cơ quan, tổ chức nước ngoài trong việc XTĐT và hỗ trợ
doanh nghiệp triển khai dự án.
c) Duy trì cơ chế đối thoại thường xuyên giữa lãnh đạo Chính phủ, các
Bộ, ngành với các nhà đầu tư, đặc biệt là Diễn đàn doanh nghiệp hàng năm để
xử lý kịp thời các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện chính sách
và phát luật hiện hành, đảm bảo các dự án hoạt động hiệu quả, nhằm tiếp tục
củng cố lòng tin của các nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư kinh doanh tại
Việt Nam, tạo hiệu ứng lan tỏa và tác động tích cực tới nhà đầu tư mới.
d) Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra: theo chức năng và nhiệm
vụ của mình, Thanh tra Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương có kế hoạch
tăng cường thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ các quy định của chính sách, pháp
luật về đầu tư và các quy định quản lý chuyên ngành.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ĐỀ TÀI HIỆU QUẢ CỦA FDI VÀ ĐÒI HỎI VIỆC THAY ĐỔI CHIẾN LƯỢC THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI.pdf