Hoàn thiện chính sách tỷ giá nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam

Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Sau hơn 10 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến tích cực làm thay đổi bộ mặt của đất nước. Với việc đổi mới cơ chế quản lý, kinh tế nước ta đã bước đầu ổn định và phát triển. Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm đạt mức cao so với các nước trong khu vực. Chính sách khuyến khích xuất nhập khẩu, đầu tư trong nước và nước ngoài phát triển đúng hướng, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, đời sống kinh tế - xã hội cả nước được cải thiện rõ rệt Để có những thành công đó, nhà nước đã đổi mới có hiệu quả một loạt chính sách kinh tế vĩ mô, trong đó có sự đóng góp đáng kể của chính sách tỷ giá hối đoái. Nhìn chung, chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam trong thời gian qua đã gắn liền với chính sách đổi mới, mở cửa hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới với những bước đi tương đối phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam, thúc đẩy kinh tế đối ngoại, cải thiện tình trạng thâm hụt cán cân thương mại, góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trong việc điều hành chính sách tỷ giá của Việt Nam vẫn tồn tại những vấn đề bất cập đã trực tiếp hay gián tiếp, ở mức độ này hay mức độ khác ảnh hưởng đến hoạt động thương mại quốc tế của đất nước, đặc biệt trong điều kiện môi trường kinh tế khu vực và quốc tế có nhiều biến động lớn. Mặt khác, đang và sẽ xuất hiện những tình hình mới, phức tạp trên thị trường trong nước và khu vực cần được tiếp cận, làm rõ và có những quyết sách thích ứng nhanh chóng và hiệu quả nhất. Đặc biệt nguyên nhân, diễn biến và những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực vừa qua còn đang được tiếp tục nghiên cứu để rút các bài học cho việc quản lý, điều hành vĩ mô trong đó có chính sách tỷ giá. Xung quanh vấn đề này hiện đang còn nhiều tranh luận. Đề tài:” Hoàn thiện chính sách tỷ giá nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam” được lựa chọn chính từ những tinh thần và góc độ tiếp cận đó. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích chủ yếu của khóa luận là góp phần phân tích thực trạng chính sách tỷ giá hối đoái và những tác động của chính sách tỷ giá đối với hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, trên cơ sở đó kiến nghị một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hơn chính sách tỷ giá hối đoái trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Khóa luận tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý thuyết cơ bản và thực tiễn liên quan đến tỷ giá hối đoái, chính sách tỷ giá hối đoái và những tác động của chính sách tỷ giá tới hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới của Việt Nam từ năm 1989 đến nay. 4. Phương pháp nghiên cứu Khóa luận được xây dựng dựa trên lý luận biện chứng, lý thuyết kinh tế học hiện đại để luận giải các vấn đề về lý luận và thực tiễn. Ngoài ra, khóa luận còn sử dụng các phương pháp tổng hợp, phân tích thống kê, so sánh, kết hợp với bảng, biểu, đồ thị để minh họa; điều này góp phần làm cho khóa luận có tính thuyết phục và tính hiện thực. 5. Kết cấu của khóa luận Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận gồm có 3 chương: Chương I : Những vấn đề cơ bản về tỷ giá hối đoái và tác động của chính sách tỷ giá hối đoái đến hoạt động xuất nhập khẩu. Chương II : Thực trạng chính sách tỷ giá hối đoái và tác động của nó đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian qua Chương III : Một số giải pháp hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam

doc82 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2392 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoàn thiện chính sách tỷ giá nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất khẩu dựa chủ yếu nguồn vốn và nguyên vật liệu bên ngoài. Tuy nhiên, đây không phải là vấn đề trở ngại lớn vì không phải chỉ có VND giảm giá mà trong những năm qua nhiều đồng tiền trong khu vực cũng giảm giá, thậm chí còn giảm giá mạnh hơn và khối các doanh nghiệp sản xuất xuất khẩu trên cơ sở tái xuất của Việt Nam không chiếm tỷ trọng lớn. Một tác động nữa của việc điều chỉnh tỷ giá trong thời gian qua đối với hoạt động xuất nhập khẩu đó là đã phần nào hạn chế được nhập khẩu và giảm nhập siêu một cách rõ rệt. Trong giai đoạn tỷ giá được cố định (1993-1996), nước ta luôn có mức nhập siêu cao trung bình tỷ lệ nhập siêu một năm là 44,6% trên tổng kim ngạch xuất khẩu, nhưng đến năm 1999, tỷ lệ này giảm xuống chỉ còn 1,1%, năm 2000 là 8,2% và năm 2001 là 6,3% (bảng 2.9). Tuy nhiên, việc tỷ giá tăng lại làm tăng gánh nặng vay nợ nước ngoài. Tính đến tháng 10/98, với mức nợ nước ngoài là 22 tỷ USD tương đương 242.000 tỷ VND, với sự thay đổi của tỷ giá đã làm cho nó tăng thêm 66.000 tỷ đã gây khó khăn lớn cho các doanh nghiệp có vay vốn nước ngoài thậm chí đẩy thêm nhiều doanh nghiệp vào tình trạng thua lỗ. Hơn thế nữa, việc điều chỉnh tỷ giá tăng còn làm tăng chi phí cho nhập khẩu, các nguyên nhiên vật liệu khác làm tăng giá thành, trong khi giá bán không tăng, sức mua trên thị trường giảm. Trong hai năm qua tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu có xu hướng chững lại, đặc biệt là xuất khẩu; trong 6 tháng đầu năm 2002, xuất khẩu đã giảm 6% so với cùng kỳ năm 2001, trong khi tỷ giá hối đoái trong những năm qua vẫn được điều chỉnh theo hướng phá giá nhẹ đồng VND. Vậy nguyên nhân của tình trạng này là do đâu. Có nhiều ý kiến cho rằng mặc dù đồng VND trong những năm qua đã liên tục giảm giá so với USD, tuy nhiên mức giảm giá này vẫn còn là chưa đủ để phản ánh được giá trị thực của đồng VND, nhất là trong bối cảnh các nước trong khu vực, vừa là những bạn hàng vừa là những đối thủ cạnh tranh chính, lại có đồng tiền còn bị mất giá ở mức lớn hơn so với USD. Chính điều đó đã làm cho tác động của việc điều chỉnh tỷ giá VND/USD đối với hoạt động xuất khẩu chưa phát huy được hiệu quả. Đó cũng là một phần nguyên nhân, bởi vì trên thực tế trong 2 năm qua, trên thị trường luôn tồn tại sức ép tiếp tục giảm giá VND, thể hiện ở tình trạng căng thẳng trong cung - cầu ngoại tệ. Thậm chí, vào thời điểm đầu năm 2002, khi đồng USD bị mất giá mạnh trên thị trường thế giới do một loạt những bê bối về tài chính của một số tập đoàn lớn bị phanh phui thì VND vẫn tiếp tục lên giá nhẹ so với USD, mặc dù tình trạng căng thẳng cung - cầu ngoại tệ trong thời điểm này đã tương đối lắng dịu. Tuy vậy, nguyên trực tiếp của tình trạng đình trệ trong xuất nhập khẩu thời gian qua, theo tôi, không phải xuất phát từ việc điều chỉnh chính sách tỷ giá của nhà nước ta trong những năm gần đây mà do những yếu kém nảy sinh ngay chính trong hoạt động xuất nhập khẩu đã được tích lũy trong từ thời kỳ trước. Trải qua hơn 10 năm phát triển, mặc dù cơ cấu hàng xuất khẩu của nước ta đã có nhiều chuyển biến, song nhìn chung tỷ trọng các sản phẩm thô, sơ chế vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn (hơn 60% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu), trong khi đó giá của những mặt hàng này trên thế giới trong những năm qua liên tục giảm. Khả năng cạnh tranh của chúng ta yếu cả ở tầm quốc gia lẫn cấp độ doanh nghiệp và ở mỗi loại sản phẩm. Môi trường làm ăn ở nước ta vẫn bị đánh giá là chưa thuận lợi. Các doanh nghiệp còn rất lúng túng trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Phần lớn hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam đều có sức cạnh tranh kém, chủ yếu là do công nghệ lạc hậu năng suất thấp, giá thành lại cao, chất lượng không ổn định, mẫu mã, chủng loại nghèo nàn, bao bì thiếu hấp dẫn… Trong khi đó công tác quản lý nhập khẩu còn có nhiều yếu kém, hàng nhập lậu tràn ngập thị trường đặc biệt là hàng tiêu dùng đã ảnh hưởng không nhỏ tới nền sản xuất nội địa. Một bộ phận lớn máy móc thiết bị chưa được nhập từ những nước có nền công nghệ nguồn, nhiều doanh nghiệp do thiếu kinh nghiệm đã nhập thiết bị, máy móc có công nghệ, kỹ thuật lạc hậu, ảnh hưởng xấu đến năng suất, chất lượng và giá thành sản phẩm làm lãng phí những đồng ngoại tệ quý hiếm thu được từ xuất khẩu. Những yếu kém trong hoạt động xuất nhập khẩu như nêu trên đã làm cho những lợi ích thu được từ việc điều chỉnh tỷ giá đối với hoạt động này là không nhiều. Do vậy, có thể thấy rằng khả năng xuất khẩu của một quốc gia phụ thuộc vào nhiều nhân tố như khả năng cạnh tranh của nền kinh tế và của các mặt hàng xuất khẩu của quốc gia đó trên thị trường quốc tế, cơ cấu và chất lượng các mặt hàng, dịch vụ, trình độ công nghệ, khả năng tiếp thị… trong đó có nhân tố tỷ giá, nhân tố này tuy quan trọng nhưng không phải là quyết định. Đồng Yên Nhật Bản và đồng Mark Đức liên tục tăng giá so với USD trong nhiều năm, nhưng Nhật Bản và Đức luôn luôn tăng được kim ngạch xuất khẩu, tăng mức xuất siêu là sự minh chứng thực tế cho điều đó. Thực tế này đòi hỏi mỗi quốc gia khi lựa chọn chính sách tỷ giá nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng của xuất nhập khẩu, thì trước hết chính sách đó phải đảm bảo cho mục tiêu tăng trưởng bền vững và phải góp phần làm thay đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu xuất nhập khẩu để có thể khai thác được một cách có hiệu quả những lợi thế của nước mình và hạn chế những nhân tố gây khủng hoảng. Tóm lại, từ năm 1989 đến nay, cùng với quá trình chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước, Việt Nam đã từng bước thực hiện chuyển đổi chế độ tỷ giá từ cố định, mang tính áp đặt sang chế độ tỷ giá linh hoạt theo cơ chế thị trường có sự kiểm soát của nhà nước. Quá trình chuyển đổi cơ chế tỷ giá của Việt Nam cũng được hỗ trợ bởi một loạt chính sách đồng bộ khác và gắn liền với chính sách đổi mới toàn diện, mở cửa kinh tế, hội nhập vào cộng đồng kinh tế khu vực và thế giới, đồng thời quá trình đó được thực hiện theo những bước đi thận trọng, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, mà trong đó quan trọng nhất là ổn định sức mua, lòng tin vào đồng tiền Việt Nam, giảm lạm phát xuống ở mức kiểm soát, giảm nhanh các cơn sốt về tỷ giá, giảm sức ép lên dự trữ ngoại hối, đảm bảo an toàn hệ thống tài chính ngân hàng và các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước, đảm bảo thúc đẩy kinh tế đối ngoại… Điều hành chính sách tỷ giá có tác động tích cực đến hoạt động xuất nhập khẩu thể hiện ở những nội dung: - Thực hiện tích cực đường lối ngoại thương của Đảng và nhà nước là tăng xuất khẩu thu ngoại tệ, tăng nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu để góp phần tăng trưởng kinh tế, nâng cao thu nhập quốc dân tính theo đầu người. - Giữ ổn định giá cả, đặc biệt trong cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực vừa qua, chống lạm phát, tạo thêm nhiều công ăn việc làm, giữ ổn định chung toàn bộ nền kinh tế - xã hội của đất nước. sử dụng tốt nhất mọi khả năng, tiềm năng sản xuất. - Tăng uy tín của Việt Nam trong giai đoạn đổi mới là phát triển kinh tế đối ngoại, cải thiện cán cân thanh toán. Tuy vậy trong thời gian qua Việt Nam cũng còn nhiều vấn đề chưa đồng bộ và chưa nhất quán trong các chính sách và giải pháp thích ứng tình thế về xuất nhập khẩu, vay trả nợ nước ngoài, ngân sách…làm giảm hiệu quả hay thậm chí phá vỡ những nguyên tắc điều hành tỷ giá theo phương châm: linh hoạt phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế, kích thích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu và tăng dự trữ ngoại hối. Do vậy, trong thời gian tới để nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng, chúng ta còn rất nhiều khó khăn thách thức, rất nhiều việc phải làm trong đó có việc hoàn thiện chính sách tỷ giá. Chương III: một số giải pháp hoàn thiện chính sách tỷ giá hối đoái nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu của việt nam Sự cần thiết phải hoàn thiện chính sách tỷ giá Định hướng hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian tới Hoạt động xuất khẩu Từ khi bắt đầu đổi mới toàn bộ nền kinh tế - xã hội, chúng ta đặt mục tiêu phát triển mạnh hoạt động xuất khẩu, coi xuất khẩu là một mặt trận trọng tâm. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001) chỉ rõ:”Đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại. Tạo thêm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Nâng sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường. Giảm tỷ trọng sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh trong hàng xuất khẩu. Nâng cao tỷ trọng phần giá trị gia tăng trong giá trị hàng xuất khẩu.” Đảng và Nhà nước ta chủ trương:”Nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế là định hướng cơ bản cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, điều chỉnh cơ cấu đầu tư”. Muốn vậy phải phát triển nhanh, mạnh, vững chắc các ngành công nghiệp, trước hết là công nghiệp chế biến có khả năng cạnh tranh cao. Dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 khẳng định:” Phát huy cao độ các nguồn lực để phát triển nhanh và có hiệu quả các sản phẩm, các ngành, các lĩnh vực mà ta có lợi thế đáp ứng nhu cầu cần thiết trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu” và cụ thể hóa hơn một bước về định hướng trong chiến lược xuất khẩu 10 năm tới :” Nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, có cơ chế bảo hiểm hàng xuất khẩu đặc biệt là nông sản; đầu tư cho hoạt đông hỗ trợ xuất khẩu; phát triển mạnh những sản phẩm hàng hóa, dịch vụ có khả năng cạnh tranh, giảm xuất khẩu những sản phẩm thô và sơ chế, tăng nhanh tỷ trọng các sản phẩm chế biến, tăng tỷ lệ nội địa hóa trong sản phẩm, nâng dần tỷ trọng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Phát triển du lịch quốc tế, xuất khẩu lao động và các dịch vụ thu ngoại tệ khác. Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, tiến tới cân bằng xuất nhập khẩu. Khuyến khích sử dụng thiết bị, hàng hóa sản xuất trong nước. Thực hiện chính sách bảo hộ có lựa chọn và có thời hạn”. Về thị trường xuất khẩu, dự thảo chiến lược yêu cầu:” Chủ động và tích cực thâm nhập thị trường quốc tế, chú trọng thị trường các trung tâm kinh tế thế giới mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, tranh thủ mọi cơ hội mở thị trường mới. Từng bước hiện đại hóa phương thức kinh doanh phù hợp với xu thế mới của thương mại thế giới. Về mặt chính sách tỷ giá: cần có chính sách về tỷ giá hối đoái linh hoạt đáp ứng sự thay đổi nhanh chóng của thị trường trong nước và ngoài nước, bởi vì tỷ giá có thể làm cho những cố gắng trong sản xuất để xuất khẩu tăng thêm phần lớn giá trị hoặc hoàn toàn uổng công. Một chính sách tỷ giá linh hoạt là một chính sách luôn giữ cho kim ngạch xuất khẩu có thể cân bằng với kim ngạch nhập khẩu trong mọi biến động giá cả ở thị trường trong nước và thị trường thế giới. Hoạt động nhập khẩu Nhiệm vụ trọng tâm của nước ta trong giai đoạn tới vẫn là Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước, tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế nhanh và bền vững. Do đó, chính sách và cơ chế quản lý nhập khẩu phải đáp ứng yêu cầu đổi mới, hiện đại hóa thiết bị công nghệ, bảo đảm vật tư, hàng hóa thiết yếu mà nền kinh tế chưa đáp ứng được, bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước. Để thực hiện mục tiêu nói trên, chính sách nhập khẩu cần được tiếp tục đổi mới với nội dung sau: - Tranh thủ nhập khẩu công nghệ tiên tiến, thiết bị hiện đại; Cấm nhập khẩu công nghệ lạc hậu so với công nghệ trong nước đang sử dụng và dễ gây ô nhiễm môi trường như đã được quy định trong luật bảo vệ môi trường. Ưu tiên hiện đại hóa công nghệ đối với một số ngành công nghiệp then chốt tác động tới toàn bộ hoặc đến một bộ phận quan trọng của của nền kinh tế như điện tử, tin học, liên lạc, viễn thông, chế tạo máy, hóa chất cơ bản,…. - Sử dụng ngoại tệ có hiệu quả, tránh nhập khẩu những mặt hàng trong nước đã sản xuất được, hàng xa xỉ… - Bảo hộ sản xuất có điều kiện, không bảo hộ tràn lan nhằm hỗ trợ cho các ngành sản xuất phát triển, nhưng không làm cho người sản xuất ỷ lại vào chính sách bảo hộ mậu dịch, dẫn tới thói quen cẩu thả và lãng phí. Chính sách bảo hộ mậu dịch cũng phải giải quyết thỏa đáng giữa lợi ích của người sản xuất và lợi ích của người tiêu dùng. - Cơ chế quản lý nhập khẩu cần phải được hoàn thiện theo hướng tăng cường quản lý nhà nước, nhất là đối với nhập khẩu công nghệ và hàng tiêu dùng, thông qua một hệ thống các biện pháp thuế quan và phi thuế quan, kết hợp chặt chẽ với các biện pháp về tổ chức và giám sát hoạt động nhập khẩu. Những yêu cầu và thách thức mới của hội nhập kinh tế quốc tế Về tổng quát nền kinh tế thế giới đang và sẽ vận động theo xu hướng tự do hóa, khu vực hóa và toàn cầu hóa về cả thương mại lẫn đầu tư. Các hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng và các quan hệ kinh tế đối ngoại nói chung ngày càng trở thành một bộ phận hữu cơ đóng vai trò động lực chủ yếu cho phát triển kinh tế của mỗi nước cũng như của toàn thế giới. Việt Nam không thể đứng ngoài xu hướng đó. Với tổng kim ngạch xuất khẩu trên 15 tỷ USD so với tổng GDP khoảng trên 32 tỷ USD năm 2001, nền kinh tế Việt Nam là một trong những nền kinh tế phụ thuộc cao vào thương mại quốc tế. Đặc điểm này sẽ ngày càng trở nên đậm nét hơn trong một tương lai không xa. Đến nay đối với mỗi nước trong đó có Việt Nam, vấn đề hội nhập hay không hội nhập không còn là vấn đề phải bàn cãi. Vấn đề đặt ra là hội nhập như thế nào và bằng biện pháp gì để không tụt hậu, để vừa cạnh tranh thắng lợi, vừa phát triển bền vững, để hội nhập mà vẫn giữ được độc lập, tự chủ của mình. Chủ động chấp nhận cạnh tranh ở mức độ phù hợp là yêu cầu và thách thức chung đặt ra cho tất cả các nước, các doanh nghiệp để có năng lực cạnh tranh cao hơn và có động lực phát triển mạnh hơn trong tương lai trung và dài hạn. Vì vậy, nhà nước ta chủ trương bảo hộ không tràn lan, bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện và có thời hạn, có nghĩa là đang từng bước xây dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh, buộc doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh ngày càng cao trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế, cả với doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài, vì sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Hội nhập đòi hỏi những giải pháp thích hợp cho các mối quan hệ giữa quyền lợi tổng thể với quyền lợi cục bộ, giữa các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và cộng đồng người tiêu dùng. Về tổng thể, hội nhập đặt vấn đề phân bổ nguồn lực một cách có hiệu quả hơn, đồng thời khuyến khích và đòi hỏi tổ chức nên những nguồn lực mới có sức mạnh hơn. Huy động và phát triển nguồn lực không thể chỉ được giải quyết đơn lẻ, phiến diện, trước mắt mà trong tương lai nó phải mang tính tổng lực và có hệ thống. Là một ngành kinh tế tổng hợp, ngân hàng không thể đứng ngoài hội nhập quốc tế, tuy nhiên mức độ mở cửa, hội nhập quốc tế về ngân hàng của Việt Nam cho đến nay là chưa tương thích hay thấp hơn mức độ mở cửa thương mại hàng hóa và một số dịch vụ khác của Việt Nam, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nếu so với yêu cầu của hiệp định khung về hợp tác thương mại và dịch vụ (AFTA) của Hiệp hội ASEAN thì việc mở cửa dịch vụ ngân hàng của Việt Nam sẽ còn một khối lượng công việc khổng lồ trong đó có những cải cách lớn về chính sách, bao gồm cả chính sách tỷ giá. Những bất cập trong chính sách tỷ giá hiện hành ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu Việc xác định tỷ giá chưa thích ứng với quan hệ cung cầu Trong một thời gian dài, chế độ tỷ giá VND về cơ bản là chế độ tỷ giá cố định, lại trải qua lạm phát cao đã làm cho tỷ giá chính thức VND/USD luôn thấp hơn tỷ giá cân bằng cung cầu trên thị trường. Gần đây, cùng với công cuộc đổi mới chuyển sang nền kinh tế thị trường, cơ chế điều hành tỷ giá đã có những đổi mới căn bản theo hướng thị trường ngày càng tăng. Tuy nhiên, chế độ tỷ giá của VND hiện nay chưa phải là chế độ tỷ giá thả nổi, việc xác định tỷ giá hiện vẫn chưa thoát khỏi ý định chủ quan của Ngân hàng nhà nước, do đó vẫn chưa phản ánh đúng quan hệ cung - cầu ngoại tệ trên thị trường. Theo qui định hiện hành, tỷ giá tối đa các Ngân hàng thương mại được phép áp dụng trong giao dịch không được vượt quá tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng cộng 0,25%. Thực tế cho thấy, trong những năm gần đây tình trạng cung cầu trên thị trường ngoại tệ luôn ở trong tình trạng căng thẳng, các Ngân hàng thương mại luôn áp dụng tỷ giá giao dịch kịch trần cho phép, tức là bằng tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng cộng 0,25%. Điều này hàm ý rằng, nếu Ngân hàng nhà nước lấy tỷ giá giao dịch thực này làm tỷ giá công bố cho ngày hôm sau, thì mỗi ngày tỷ giá sẽ phải tăng 38 VND/USD, chứ không phải ba bốn ngày mới tăng có vài đồng, thậm chí có ngày giảm như hiện nay. Chính vì vậy, tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng về thực chất là do Ngân hàng nhà nước ấn định, chứ không phải là tỷ giá được hình thành theo quan hệ cung cầu. Việc hình thành tỷ giá không thích ứng với quan hệ cung cầu như hiện nay là nguyên nhân chính dẫn tới việc hình thành và phát triển thị trường ngoại tệ tự do không chịu sự quản lý của nhà nước. Có thể nói, thị trường ngoại tệ tự do từ lâu đã tồn tại song hành cùng với thị trường chính thức, nó chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong giao dịch ngoại hối của toàn xã hội (khoảng 20%). Do thị trường ngoại tệ tự do nằm ngoài sự quản lý của Nhà nước nên đã gây khó khăn và giảm hiệu lực của việc thực thi và điều hành chính sách tỷ giá. Đây cũng là một phần nguyên nhân làm giảm hiệu lực của chính sách tỷ giá thúc đẩy xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian qua. Hơn thế nữa, hoạt động của thị trường này đã tiếp tay cho các hoạt động kinh tế bất hợp pháp như buôn lậu, tham nhũng, rửa tiền…. Sự tồn tại của thị trường tự do còn dẫn đến tình trạng chảy máu ngoại tệ. Theo ước tính, trong năm 2001, lượng vàng nhập lậu vào Việt Nam là 60 tấn, tương đương 600 triệu USD; ngoài ra còn có khoảng 400 triệu USD chuyển lậu ra nước ngoài để nhập lậu một số hàng hóa khác như: hàng điện tử, phụ tùng xe máy… Chu chuyển ngoại tệ trong nền kinh tế còn bất hợp lý, nguồn ngoại tệ bị phân tán không tập trung qua hệ thống Ngân hàng để đáp ứng cho nền kinh tế Theo ước tính thì cán cân thanh toán quốc tế của nền kinh tế trong 6 tháng đầu năm 2002 vẫn tương đối cân bằng (nhập siêu của 6 tháng đầu năm lên đến 1,15 tỷ USD nhưng đã được cân bằng từ nguồn chuyển tiền kiều hối cũng đạt trên 1 tỷ USD), các cân đối khác như vay trả nợ nước ngoài, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam … cũng không có dấu hiệu mất cân đối, tuy nhiên trên thực tế vẫn xảy ra tình trạng căng thẳng về cung cầu ngoại tệ. Theo nhiều chuyên gia đánh giá, nguyên nhân chính của tình trạng này là do chu chuyển ngoại tệ trong nền kinh tế còn bất hợp lý. Hiện nay, thu chi ngoại tệ của nền kinh tế được hình thành từ 3 thành phần chính là thu chi ngoại tệ của Nhà nước, thu chi ngoại tệ của khối các doanh nghiệp và thu chi ngoại tệ của dân cư. Nếu các luồng ngoại tệ từ 3 khu vực này được tập trung vào một đầu mối để phân bổ một cách hợp lý thì sẽ không có sự mất cân đối trên thị trường ngoại tệ. Tuy nhiên, trên thực tế do các nguồn ngoại tệ đã bị phân tán nên vẫn gây nên tình trạng căng thẳng cung cầu ngoại tệ. Sự bất hợp lý trong chu chuyển ngoại tệ được thể hiện qua các mặt sau: Thứ nhất, chu chuyển ngoại tệ của hệ thống các doanh nghiệp: theo số liệu từ các Ngân hàng thương mại thì số dư tiền gửi của các doanh nghiệp thời điểm cuối tháng 6/2002 vẫn tăng 2,5% so với thời điểm cuối tháng 12 năm 2001. Đây là nguồn ngoại tệ lớn, tuy nhiên nguồn ngoại tệ này các doanh nghiệp không bán cho ngân hàng nên các ngân hàng không sử dụng được. Nhiều doanh nghiệp có ngoại tệ trên tài khoản, nhưng không dám bán cho ngân hàng mặc dù tạm thời vẫn chưa sử dụng đến bởi vì theo họ khi có nhu cầu thì việc mua lại rất khó khăn. Thứ hai, về thu ngoại tệ của Ngân hàng nhà nước: Ngân hàng nhà nước giữ quỹ dự trự ngoại hối của Nhà nước, song nguồn thu ngoại tệ từ việc bán dầu thô lại tập trung vào Bộ tài chính, sau đó Bộ tài chính mới bán lại một phần cho Ngân hàng nhà nước để sau đó lại bán lại cho các Ngân hàng thương mại phục vụ cho nhu cầu nhập khẩu xăng dầu. Thứ ba, về thu chi ngoại tệ của dân cư: do chính sách khuyến khích thu hút kiều hối về nước nên hiện nay lượng ngoại tệ nằm trong khu vực này vẫn còn rất lớn. Tuy nhiên, các ngân hàng không tập trung được lương ngoại tệ này do người dân khi có nhu cầu bán ngoại tệ, đều đem bán trên thị trường tự do bởi lẽ tỷ giá trên thị trường này cao hơn trên thị trường chính thức, hoặc do người dân giữ tiền ở nhà không đem gửi tại ngân hàng. Rõ ràng hiện nay nguồn ngoại tệ trên thị trường đang bị phân tán không tập trung vào hệ thống ngân hàng để góp phần điều hòa cung cầu ngoại tệ cho nền kinh tế, do vậy, trong thời gian việc cải cách lại chính sách về tỷ giá để khắc phục tình trạng này sẽ là một vấn đề bức xúc. Thị trường ngoại hối vẫn còn sơ khai và chưa thực sự trở thành môi trường thúc đẩy sự phát triển của hoạt động xuất nhập khẩu  Thị trường ngoại hối có vai trò bôi trơn và thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu của nền kinh tế. Đối với những nhà xuất khẩu nhận được ngoại tệ từ xuất khẩu hàng hóa cho nước ngoài, thường phải bán số ngoại tệ thu được trên thị trường ngoại hối (bán cho ngân hàng) để nhận nội tệ, sau đó dùng số nội tệ thu được để trang trải các chi phí đầu vào cho xuất khẩu và hạch toán lãi kinh doanh. Tương tự, đối với những nhà nhập khẩu phải chi trả bằng ngoại tệ cho hàng hóa, thường phải dùng nội tệ để mua ngoại tệ trên thị trường ngoại hối để thanh toán cho nhà xuất khẩu nước ngoài. Như vậy, hoạt động xuất nhập khẩu của một quốc gia luôn gắn liền với hoạt động của thị trường ngoại hối; một khi thị trường ngoại hối có tính thanh khoản cao, hoạt động hiệu quả và thông suốt sẽ kích thích hoạt động xuất nhập khẩu phát triển. Đối với các nước phát triển, ngoài nhân tố quan trọng là ổn định giá trị đối nội và đối ngoại của đồng nội tệ, thì tính thanh khoản cao của thị trường ngoại hối cũng có vai trò quan trọng góp phần phát triển hoạt động xuất nhập khẩu. Đối với Việt Nam, do nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, thị trường ngoại hối còn sơ khai non trẻ, giá trị đồng VND chưa thật sự ổn định, tỷ giá do Ngân hàng nhà nước ấn định chưa thật sự linh hoạt, thì sự phát triển của thị trường ngoại hối Việt Nam chưa thực sự tạo một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của hoạt động xuất nhập khẩu, thể hiện ở một số nét chính như sau: - Doanh số mua vào của các Ngân hàng thương mại thường luôn thấp hơn khoản thu từ xuất khẩu của nền kinh tế. Theo ước tính, trung bình từ năm 1995 đến 2001, hệ thống Ngân hàng thương mại mới chỉ thu mua được khoảng 60% doanh thu xuất khẩu. - Doanh số bán ra của các Ngân hàng thương mại cũng thường luôn thấp hơn khoản chi cho nhập khẩu của nền kinh tế. Theo ước tính, trung bình từ năm 1995 đến 2001, hệ thông Ngân hàng thương mại mới chỉ đáp ứng được khoảng 50% doanh số chi cho nhập khẩu. - Tổng doanh số mua bán ngoại tệ của các Ngân hàng thương mại mới chỉ chiếm trung bình khoảng 55% tổng doanh số xuất nhập khẩu của cả nền kinh tế. - Các tổ chức xuất nhập khẩu thường xuyên duy trì số dư ngoại tệ cho hoạt động của mình theo phương thức “tự cung tự cấp” với một tỷ lệ lên tới 45%. Cụ thể là, đối với các khoản thu ngoại tệ từ xuất khẩu, các đơn vị không bán toàn bộ cho Ngân hàng thương mại, mà duy trì ở dạng tiền gửi để chi cho nhu cầu nhập khẩu của mình. Trên thế giới, doanh số hoạt động trên thị trường ngoại hối thường lớn hơn gấp nhiều lần doanh thu từ hoạt động xuất nhập khẩu, qua đó cho thấy trình độ phát triển thị trường ngoại hối Việt Nam đang còn rất sơ khai, yếu kém, chưa tạo được môi trường thanh khoản về ngoại tệ, cũng như môi trường chu chuyển vốn nhanh chóng và hiệu quả nhằm nâng cao hệ số sử dụng vốn của các đơn vị xuất nhập khẩu và của cả nền kinh tế như một tổng thể. Tỷ giá giao dịch thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chưa thể hiện được vai trò điều tiết tỷ giá của mình Tỷ trọng doanh số giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng (TTNTLNH) là quá thấp, ước tính chỉ đạt trung bình 22,3% trên tổng doanh số giao dịch trên thị trường ngoại hối của Việt Nam, trong kho đó trên thị trường ngoại hối quốc tế tỷ trọng này lên tới 85%. Chính vì doanh số giao dịch trên TTNTLNH quốc tế lớn như vậy, nên khi nói đến thị trường ngoại hối người ta nghĩ ngay đến TTNTLNH; hay nói cách khác TTNTLNH là trung tâm của thị trường ngoại hối. Việc tỷ trọng giao dịch trên TTNTLNH của Việt Nam thấp phản ánh trình độ phát triển sơ khai của thị trường ngoại hối nói chung và TTNTLNH nói riêng. Ngoài ra, ở Việt Nam hiện nay, khi nói đến thị trường ngoại tệ nói chung, người ta thường nghĩ ngay đó là thị trường mua bán ngoại tệ giữa các ngân hàng được phép với khách hàng là các công ty xuất nhập khẩu, bên cạnh đó là thị trường tự do mua bán ngoại tệ giữa các cửa hàng vàng với các thể nhân. Tỷ trọng trên TTNTLNH thấp hàm ý rằng các ngân hàng thương mại hoạt động ngoại hối theo khuynh hướng “tự cung, tự cấp” là chính, nghĩa là ngoại tệ mua được từ khách hàng trước hết là dùng để bán lại cho khách hàng của mình, số dư thừa mới đem ra bán trên TTNTLNH; trong trường hợp khan hiếm ngoại tệ các ngân hàng thương mại có thể thực hiện chính sách “dự trữ ngoại tệ”, điều này khiến cho hoạt động của TTNTLNH không phát triển, đồng thời kìm hãm tốc độ luân chuyển vốn, gây thiệt hại cho nền kinh tế nói chung. Hơn thế nữa, TTNTLNH hiện thiếu sự can thiệp một cách linh hoạt của Ngân hàng nhà nước. Thị trường ngoại tệ Việt Nam có lúc cung vượt cầu, nhưng có lúc cầu lại vượt cung. Trong cả hai trường hợp, thị trường dường như vẫn bị tù túng. Bởi lẽ cơ chế tỷ giá trong những năm qua mang nặng tính chỉ đạo nên không thể là công cụ điều chỉnh cung cầu, trong khi đó mức độ can thiệp của Ngân hàng nhà nước dường như không đáng kể và thời điểm can thiệp thường diễn ra chậm. Điều này bắt nguồn từ cơ chế điều hành tỷ giá và cơ chế điều tiết thị trường hiện vẫn còn ở mức sơ khai. Do vậy, có thể thấy rằng, để thị trường ngoại hối Việt Nam phát huy được vai trò tích cực đối với nền kinh tế, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, cũng như phát triển hội nhập quốc tế, chúng ta cần phải chú trọng hoàn thiện và phát triển TTNTLNH Việt Nam. một số giải pháp hoàn thiện chính sách tỷ giá nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam Đối với ngân hàng nhà nước Duy trì chính sách tỷ giá được lựa chọn và điều chỉnh linh hoạt Thực tiễn phát triển và lựa chọn, điều hành chính sách tỷ giá của nhiều nước trong gần 30 năm qua khẳng định không có chính sách tỷ giá nào hiện nay được xem là có ưu thế tuyệt đối. Mỗi chính sách tỷ giá hối đoái đều có những điểm mạnh và điểm yếu nhất định. Nhưng kinh nghiệm của các nước cho thấy: một chính sách tỷ giá hối đoái được sử dụng uyển chuyển phù hợp với điều kiện của từng giai đoạn sẽ có nhiều tác động tích cực đến quá trình tăng trưởng và phát triển. Xét trên nhiều góc độ khác nhau, việc xử lý chính sách tỷ giá của Việt Nam trong thời gian gần đây là tương đối hợp lý và do đó đã có những đóng góp tích cực vào quá trình tăng trưởng. Tuy nhiên, cũng phải nhận thấy rằng việc điều chỉnh tỷ giá trong thời gian qua còn có lúc chậm, bị động và chưa đủ mức. Trong điều kiện nền kinh tế mới mở cửa từng phần, những hạn chế này phần nào đã không được bộ lộ và chưa gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Nhưng nếu tiếp tục để xảy ra như vậy trong tương lai, khi Việt Nam đã mở cửa và hội nhập mạnh hơn thì hậu quả của một chính sách tỷ giá kém linh hoạt sẽ có nguy cơ lấn át những tác động tích cực mà một chính sách tỷ giá cố định tương đối tạo ra. Với nền kinh tế ngày một hội nhập mạnh hơn và yêu cầu phải điều chỉnh lại cơ cấu xuất nhập khẩu sang những hàng hóa, dịch vụ có độ co giãn lớn hơn trong tương lai (hàng hóa có chi phí kỹ thuật và chất xám ngày càng cao), tôi cho rằng Việt Nam cần phải tiếp tục có một chính sách tỷ giá hối đoái được lựa chọn và điều chỉnh linh hoạt hơn. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vừa qua đã cho thấy rằng một chính sách tỷ giá được xử lý linh hoạt sẽ có khả năng giảm sóc cho nền kinh tế tốt hơn là một chính sách tỷ giá điều hành một cách cứng nhắc. Trong khuôn khổ cơ chế tỷ giá hiện hành, Ngân hàng nhà nước cần tăng tính linh hoạt của tỷ giá hơn bằng cách tăng mức dao động cho phép hàng ngày. Tuy nhiên, do tỷ giá là một nhân tố rất nhạy cảm, nên việc điều chỉnh này phải diễn ra theo từng giai đoạn, có thể là: - Trước mắt, có thể nới ngay biên độ từ mức 0,25% hiện này lên 0,4%. Điều này có hai tác dụng: thứ nhất, tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại yết giá cạnh tranh; thứ hai, như là biện pháp thăm dò mức độ khách quan của tỷ giá. Sau khi nới lỏng biên độ tỷ giá, nếu: + Thị trường không sử dụng hết biên độ cho phép, điều này hàm ý tỷ giá hiện tại đã phản ánh tương đối khách quan quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối; trên cơ sở đó Ngân hàng nhà nước có thể tiếp tục nới rộng biên độ lên mức cao hơn (ví dụ ±0,5%) + Thị trường ngay lập tức sử dụng hết biên độ cho phép, điều này hàm ý tỷ giá hiện tại là quá thấp so với tỷ giá cân bằng, để rút ngắn khoảng cách, Ngân hàng nhà nước tiến hành điều chỉnh tăng dần tỷ giá một cách hợp lý mà không gây ra xáo trộn lớn. - Về lâu dài, Ngân hàng nhà nước nên chuyển hướng sử dụng mạnh công cụ lãi suất để điều tiết thị trường ngoại tệ. xác lập một tỷ giá hối đoái của vnd có tính chất cạnh tranh nhằm khuyến khích xuất khẩu Kinh nghiệm nhiều nước trên thế giới cũng như chính thực tế của Việt Nam chứng minh rằng: quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững trong điều kiện nền kinh tế và thị trường tài chính - tiền tệ ngày càng quốc tế hóa hiện nay, không thể không tính đến và tranh thủ những lợi ích to lớn từ thương mại và phân công lao động quốc tế (liên quan trực tiếp đến xuất nhập khẩu và đầu tư quốc tế). Những thành công và cả những thất bại của các nước thực hiện quá trình công nghiệp hóa đều xác nhận tính hữu hiệu trong việc thực hiện mô hình phát triển có định hướng vào xuất khẩu. Và những thành tựu của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua cũng có sự đóng góp quan trọng của chiến lược và mô hình này. Do vậy, Việt Nam cần phải tiếp tục điều chỉnh chính sách tỷ giá hối đoái trên cơ sở khuyến khích xuất khẩu, lấy sự tăng trưởng của xuất khẩu làm một trong những động lực quan trọng thúc đẩy quá trình tăng trưởng. Một chính sách tỷ giá khuyến khích xuất khẩu là chính sách tỷ giá được điều chỉnh nhằm bảo đảm lợi ích của nhà xuất khẩu, có nghĩa là phải duy trì tỷ giá hối đoái sao cho những người cung cấp hàng hóa - dịch vụ trong nước có lãi khi bán sản phẩm của họ trên thị trường thế giới. Hơn thế nữa, một chính sách tỷ giá khuyến khích xuất khẩu còn phải đảm bảo nâng cao được hiệu quả của hoạt động xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu chỉ đem lại hiệu quả cao nhất cho nền kinh tế khi nó cho phép khai thác tốt nhất những lợi thế so sánh của đất nước. Về nguyên tắc, hiệu quả thu được từ xuất khẩu sẽ càng cao nếu chúng ta xuất khẩu được những ngành hàng và sản xuất chủ yếu dựa trên sự khai thác, thu hút và sử dụng nhiều nhất những yếu tố sản xuất tương đối dồi dào trong nước. Điều này được nhận biết đúng đắn khi giá cả tương đối của các yếu tố sản xuất phản ánh đẩy đủ tính khan hiếm hay dồi dào của chúng. Là một nước mà nguồn lực vốn là tương đối khan hiếm, còn nguồn lực lao động là tương đối sẵn có thì giá của nguồn lực vốn phải tương đối đắt hơn so với giá của nguồn lực lao động (tiền lương). Chính tín hiệu giá cả sẽ có những hướng dẫn đúng đắn và ảnh hưởng tích cực đến việc lựa chọn công nghệ và cơ cấu sản xuất. Với tư cách là một loại giá, mà lại là một loại giá có ảnh hưởng quan trọng trong nền kinh tế, tỷ giá hối đoái không thể là một ngoại lệ. ở một nước còn đang chậm phát triển như Việt Nam, ngoại tệ không những là một nguồn lực khan hiếm mà còn khó kiếm. Vì vậy, theo nguyên tắc thị trường, giá cả của nó sẽ phải cao. Nếu ngược lại, sự phân bổ ngoại tệ sẽ bị dẫn dắt sai lạc và hiệu quả sử dụng chúng sẽ thấp. Giá ngoại tệ rẻ sẽ kích thích sự lãng phí ngoại tệ không chỉ trong tiêu dùng mà cả trong sản xuất. Khi đó, máy móc, thiết bị và vật tư nước ngoài được khuyến khích nhập khẩu nhiều hơn nhưng là thiên về nhập khẩu các công nghệ sử dụng nhiều vốn thay vì nhập khẩu các công nghệ cho phép khai thác những nguồn lực mà đất nước có sẵn như nguyên tắc lợi thế so sánh đòi hỏi. Một vấn đề khác nữa mà chính sách tỷ giá hối đoái khuyến khích xuất khẩu đòi hỏi là nó không chỉ khai thác những ngành hàng có lợi thế trước mắt, ngắn hạn, mà còn phải đảm bảo khai thác những lợi thế của nền kinh tế trong tương lai, dài hạn. Như vậy, chính sách tỷ giá có lợi cho xuất khẩu không đơn giản là mức tỷ giá vừa đủ khuyến khích một vài ngành xuất khẩu riêng biệt, có thuận lợi đặc biệt nhưng lại có ít mối liên hệ trở lại đối với các khu vực khác trong nền kinh tế. Tỷ giá cần phải được duy trì có lợi trước hết cho những ngành xuất khẩu mà quá trình sản xuất có khả năng thu hút và sử dụng nhiều nhất các nguồn lực khá dồi dào và có lợi thế so sánh lâu dài của đất nước. Vì vậy, việc tiến tới xác lập một tỷ giá hối đoái của VND tính chất cạnh tranh hiện nay là một điều cần thiết, hợp lý và không thể khác được nhằm thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế sự tràn ngập của những hàng hóa nhập khẩu rẻ tiền, khuyến khích việc lập kế hoạch và kiểm soát tài chính hợp lý cho mọi khoản vay nước ngoài sao cho nguồn lực quý hiếm và đắt giá này được sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả. Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Như phần trên đã phân tích, ở các nền kinh tế phát triển, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động hiệu quả, doanh số giao dịch trên thị trường này chiếm tới 85%, do đó, tỷ giá liên ngân hàng luôn là tỷ giá cơ bản và đặc trưng cho quan hệ cung cầu ngoại tệ của cả nền kinh tế. Đối với Việt Nam, do trình độ thị trường còn sơ khai, lại bị ràng buộc bởi nhiều yếu tố can thiệp hành chính, do đó doanh số giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mới chỉ chiếm tỷ lệ vào khoảng 15 - 20%, chính vì vậy, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mới chỉ đóng vai trò thứ yếu, do đó, tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường này chưa thể là tỷ giá cơ bản và đặc trưng cho cả nền kinh tế. Để có thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động hiệu quả ở Việt Nam, cần phải thực hiện các giải pháp sau: - Thực hiện vai trò của Ngân hàng nhà nước là người mua bán cuối cùng trên thị trường ngoại hối: hiện tại, do tỷ giá chưa thực sự làm được chức năng điều tiết cung cầu thì vai trò hướng dẫn điều tiết của Ngân hàng nhà nước cần được thể hiện thông qua việc mua bán ngoại tệ cuối cùng trên thị trường ngoại hối; ngoài ra, Ngân hàng nhà nước cần tham gia và thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ kỳ hạn, hoán đổi đúng như quy định trong quy chế nhằm tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại tham gia tích cực hơn vào thị trường ngoại hối. - Việc can thiệp của Ngân hàng nhà nước cần phải diễn ra kịp thời với quy mô thích hợp, có như vậy thì thị trường hoạt động mới thông suốt. Một khi Ngân hàng nhà nước không tiến hành can thiệp hoặc can thiệp diễn ra chậm hoặc quy mô can thiệp không thích hợp sẽ làm phát sinh tâm lý rụt rè, ngóng đợi, khiến cho thị trường rơi vào tình trạng trầm lắng, kích thích đầu cơ và gây áp lực lên tỷ giá. Điều cần lưu ý rằng, sự can thiệp của Ngân hàng nhà nước ảnh hưởng lên thị trường ngoại hối lớn hơn nhiều so với quy mô can thiệp của chính nó. Như vậy, chỉ cần một động thái khôn ngoan thích hợp của Ngân hàng nhà nước cũng đủ để thị trường tiếp tục hoạt động thông suốt và hiệu quả. - Tiến hành thiết lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng theo mô hình tổ chức kép, bao gồm thị trường ngoại tệ liên ngân hàng trực tiếp giữa ngân hàng và thị trường gián tiếp qua môi giới. - Hiên nay, đã có 60 thành viên được công nhận là thành viên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, nhưng số thành viên tham gia tích cực thì rất hạn chế, điều này khiến thị trường hoạt động trầm lắng. Hơn nữa giao dịch trên thị trường này luôn diễn ra một chiều, nghĩa là một số ngân hàng thì chuyên đi bán, số khác chuyên đi mua, điều này khiến cho thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mất đi tính đặc thù của nó. Để khắc phục hạn chế này, một mặt cần mở rộng số lượng thành viên, mặt khác cần tạo ra môi trường và điều kiện để các thành viên tham gia thị trường tích cực hơn. - Ngoài những vấn đề căn bản nêu trên, thì việc hoàn thiện quy chế giao dịch, hiện đại hóa khâu thanh toán, trang bị công nghệ thông tin tiên tiến, nâng cao trình độ và kỹ năng kinh doanh cho cán bộ … cũng cần được xem xét. - Nghiên cứu hình thành Hiệp hội những nhà kinh doanh ngoại hối Việt Nam. Đối với ngân hàng thương mại Phản ánh trung thực, kịp thời các thông tin về việc thực hiện chính sách tỷ giá của Ngân hàng nhà nước Công tác thông tin báo cáo cần được tiến hành nghiêm túc, chất lượng hơn, không được làm qua loa một cách hình thức. Nếu Ngân hàng nhà nước không nhận được kịp thời các thông tin trung thực về thị trường (mà các ngân hàng thương mại là một kênh thông tin) thì không thể điều hành tốt công tác tỷ giá. Đồng thời thông qua công tác này, bản thân các ngân hàng thương mại cũng tự trang bị kiến thức, thông tin cho mình. Các thông tin bị phản ánh sai dẽ dẫn đến những hậu quả không lường. Cần tránh các trường hợp do chạy theo lợi nhuận, hoặc do phân tích không đúng tình hình, các ngân hàng thương mại đôi khi có hoạt động bao che cho một số việc làm vi phạm chính sách tỷ giá hoặc yêu cầu Ngân hàng nhà nước can thiệp vào cung cầu chưa đến mức căng thẳng, không chờ phản ứng thực sự của thị trường; hoặc ngân hàng phản ánh tình hình thị trường không đúng thực tế thời điểm cấp trên muốn thăm dò, khiến các thông tin bị sai lệch, không có tác dụng tư vấn cấp quản lý. Tổ chức thực hiện tốt công tác phân tích, dự đoán tỷ giá Để thực hiện tốt chính sách tỷ giá cũng như hạn chế những rủi ro cho bản thân ngân hàng và cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu do sự lên xuống của tỷ giá, các ngân hàng thương mại cần tổ chức thực hiện tốt công tác phân tích, dự đoán tỷ giá. Thông qua tín hiệu của thị trường như cung cầu ngoại tệ, áp lực lên giá, xuống giá đối với VND, nhu cầu thanh toán ngoại tệ, tình hình thị trường, hạn ngạch, tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu, giá cả trong nước và quốc tế, chính sách của nhà nước… từ đó có thể phân tích dự đoán xu hướng tăng, giảm của tỷ giá. Trang bị các điều kiện về thông tin, thanh toán Để hoạt động kinh doanh mua bán ngoại tệ diễn ra nhanh chóng và thuận lợi, các ngân hàng thương mại cần trang bị tốt các điều kiện về thông tin, thanh toán cho mình, đôi khi cả cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Các điều kiện đó bao gồm kiến thức cơ bản cho cán bộ, nhân viên kinh doanh ngoại tệ, nhân viên thanh toán… và điều kiện kỹ thuật vật chất như mạng thanh toán viễn thông, khóa code giao dịch, … Mở rộng các hình thức tài trợ, dịch vụ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Mở rộng các hình thức tài trợ, dịch vụ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, trước hết giúp củng cố và tăng thị phần của ngân hàng thương mại. Các nghiệp vụ được đa dạng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu lựa chọn các dịch vụ thích hợp với tình hình hoạt động của mình (như hình thức chiết khấu chứng từ có giá, thường với bộ chứng từ hàng xuất, làm tăng tính luân chuyển của đồng vốn). Tư vấn cho khách hàng sử dụng các dịch vụ ngân hàng khác như mua bán ngoại tệ có kỳ hạn, hoán đổi, … để phòng tránh rủi ro hối đoái cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu; giảm lãi suất cho vay đối với sản xuất và kinh doanh hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu, mở rộng cho vay xuất khẩu bằng ngoại tệ đối với cả doanh nghiệp xuất khẩu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, thu nhiều ngoại tệ về cho đất nước. Nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ của cán bộ Trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới và khu vực, năng lực của từng ngân hàng thương mại hiện nay cần phải được nâng cao một cách cơ bản. Ngoài các yếu tố vốn, kỹ thuật công nghệ, yếu tố con người đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong việc thực hiện các chính sách cũng như trong hoạt động kinh doanh của mình. Hiện nay, nhìn chung mặt bằng kiến thức của cán bộ ngân hàng thương mại đã được nâng cao một bước, song vẫn chưa đáp ứng được với tình hình mới, cán bộ cũ chưa theo kịp cái mới, cán bộ mới được tuyển chọn tương đối kỹ càng nhưng lại thiếu kinh nghiệm quản lý… Vì vậy, các ngân hàng thương mại cần phải có một chiến lược đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ của mình cho tinh thông nghiệp vụ và ngoại ngữ. Đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ làm công tác kinh doanh Đội ngũ cán bộ làm công tác kinh doanh xuất nhập khẩu cần có đủ năng lực để tìm hiểu một cách rõ ràng, chính xác và kịp thời cơ cấu, qui mô, nhu cầu của thị trường quốc tế, và khả năng đáp ứng của nền sản xuất trong nước; phải nắm bắt được chính xác mọi thông tin về sự thay đổi nhu cầu và giá cả thị trường, những nguyên nhân gây nên sự thay đổi đó (như diễn biến chính trị, tài chính, tiền tệ… sự thay đổi chính sách của Chính phủ kể cả Chính phủ của một quốc gia nào đó trên thế giới …) để cung cấp cho lãnh đạo kịp thời xử lý trước khi vấn đề vượt khỏi tầm kiểm soát của một doanh nghiệp. Như vậy, trước tiên cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu phải là những người giỏi chuyên môn, nghiệp vụ ở vị trí hoạt động của mình, đồng thời phải giỏi ngoại ngữ. Luôn rèn luyện thói quen theo dõi, ghi nhận, nghiên cứu phân tích các thông tin có liên quan tới sản phẩm và dịch vụ mình kinh doanh, thị trường mục tiêu, giá cả trên thị trường thế giới, tỷ giá của VND đối với các đồng tiền của các bạn hàng chủ yếu… đồng thời phải nắm được kỹ năng sử dụng một số phương tiện phân tích thông tin và truyền thông tin hiện đại như máy tính, fax, … để nâng cao khả năng phân tích chính xác và kịp thời. Nguyên lý chung đối với thị trường là nhu cầu thị trường phụ thuộc vào giá cả và chất lượng hàng hóa và dịch vụ. Khi chất lượng tương đương, những sản phẩm rẻ hơn sẽ được lựa chọn. Vì vậy, doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải có được những cán bộ kế toán tài chính giỏi, có thể tìm ra được những phương án chi phí thấp cho sản phẩm hoặc dịch vụ của doanh nghiệp trên thị trường mục tiêu. Năng động vận dụng các công cụ phòng tránh rủi ro trong thanh toán quốc tế. Trong mấy thập kỷ nay, thị trường tài chính phát triển rất mạnh, cung cấp nhiều công cụ phòng tránh rủi ro cho các doanh nghiệp liên quan đến thanh toán đối ngoại. Tại Việt Nam, Ngân hàng nhà nước đã đưa ra qui chế về mua bán ngoại tệ kỳ hạn, hoán đổi, … nhưng chưa được đón nhận và vận dụng tốt. Ngoài một số nguyên nhân thuộc về Ngân hàng nhà nước, ngân hàng thương mại và thị trường ngoại hối còn sơ khai, thì những nghiệp vụ này hiện vẫn chưa phát triển còn là do các doanh nghiệp xuất nhập khẩu chưa thực sự tham gia vận dụng các công cụ phòng trành rủi ro cho bản thân. Công cụ mua bán kỳ hạn: Đối với Việt Nam để nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu, trước hết các doanh nghiệp cần phải quan tâm chất lượng hàng hóa để cạnh tranh, khai thác lợi thế so sánh, phát triển thị trường tiềm năng… Bên cạnh đó là chủ động vận dụng các công cụ phòng tránh rủi ro trong thanh toán quốc tế. Trên thế giới, các giám đốc tài chính của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài đã sử dụng thị trường kỳ hạn ngày càng tăng và không khác gì so với việc sử dụng thị trường giao ngay vì giao dịch kỳ hạn rất hiệu quả trong việc phòng ngừa rủi ro tỷ giá đối với các công ty khi tham gia xuất khẩu, nhập khẩu, vay nợ nước ngoài hay thực hiện đầu tư nước ngoài. Giao dịch kỳ hạn là giao dịch có ngày giá trị (ngày thanh toán) xa hơn ngày giá trị giao ngay. Vì vậy, tỷ giá kỳ hạn là tỷ giá được thỏa thuận ngay từ ngày hôm nay để làm cơ sở cho việc trao đổi tiền tệ tại một ngày xác định trong tương lai, chính vì vậy mà nó bị chi phối bởi tỷ giá giao ngay và lãi suất của hai đồng tiền. Do đó, hợp đồng kỳ hạn được coi như một công cụ để mua hay bán một số lượng ngoại tệ nhất định, với một tỷ giá nhất định tại một thời điểm nhất định trong tương lai. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phải có chiến lược bảo hiểm các khoản thanh toán nhập khẩu cho nước ngoài, vận dụng công cụ mua bán ngoại tệ kỳ hạn để không phải đối mặt rủi ro tỷ giá do đã cam kết thanh toán cho nhà xuất khẩu nươc ngoài một lượng ngoại tệ xác định khi đến hạn thanh toán cho dù tỷ giá giao ngay vào thời điểm đến hạn có biến động như thế nào, cũng như họ cũng phải có chiến lược bảo hiểm các khoản thu xuất khẩu bằng cách bán kỳ hạn khoản tiền xuất khẩu sẽ thu được trong tương lai. Khi đã tự bảo hiểm nhà xuất nhập khẩu biết chắc chắn số lợi nhuận thu được trong tương lai là cố định không bị ảnh hưởng do tỷ giá lên hay xuống. Công cụ nghiệp cụ hoán đổi ngoại tệ: Kinh nghiệm các nước khác là doanh nghiệp xuất nhập khẩu thường sử dụng nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ để tránh rủi ro tỷ giá cũng như sử dụng vốn của mình một cách hữu ích hơn. Nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ liên quan đến việc mua và bán đồng thời một đồng tiền với một đồng tiền khác vào các thời điểm giá trị khác nhau. Nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ cho phép doanh nghiệp xuất nhập khẩu (kể cả ngân hàng thương mại) sử dụng số tiền gửi bằng ngoại tệ (hoặc VND) tạm thời nhàn rỗi để tạo ra vốn bằng VND (hoặc bằng ngoại tệ) để sử dụng khi cần thiết. Ngoài ra các doanh nghiệp còn phải lưu ý rằng cần có các chiến lược bảo hiểm những khoản vay bằng ngoại tệ hay những khoản đầu tư bằng ngoại tệ … để đảm bảo cho hiệu quả trong sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp. --------------------- Kết luận Cùng với xu hướng toàn cầu hóa và tự do hóa kinh tế ngày càng gia tăng, sự hội nhập quốc tế của mỗi quốc gia là một qui luật khách quan, một xu thế tất yếu của thời đại. Trong quá trình hội nhập đó, những thuận lợi và khó khăn, những thời cơ và thách thức đan xen phức tạp và sẵn sàng chuyển hóa cho nhau, đòi hỏi mỗi nước phải tự không ngừng nâng cao năng lực nhận thức và hoàn thiện các chính sách sao cho thích ứng với điều kiện mới. Chính sách tỷ giá ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường mở, nó có liên quan đến các chính sách kinh tế khác và đóng vai trò như là một công cụ có hiệu lực và có hiệu quả trong việc tác động đến các quan hệ kinh tế đối ngoại của mỗi nước đồng thời nó cũng là yếu tố rất quan trọng trong chính sách tiền tệ quốc gia. Trong thời gian qua, chính sách tỷ giá của Việt Nam đã có nhiều đổi mới theo hướng tích cực, đáp ứng được những yêu cầu chung của quá trình hội nhập và chuyển đổi của nước ta. Chính sách tỷ giá hợp lý của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay phải lấy thước đo là sự ổn định trong kinh tế đối nội và tăng trưởng trong kinh tế đối ngoại làm tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả. Yêu cầu đặt ra đối các nhà hoạch định chính sách tỷ giá là phải rất thận trọng trong công tác điều hành lĩnh vực đầy phức tạp và nhạy cảm này. Hoàn thiện chính sách tỷ giá nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là một vấn đề phức tạp liên quan đến nhiều chính sách kinh tế vĩ mô. Do đó, khóa luận khó tránh khỏi những thiếu sót, những hạn chế và cần được tiếp tục bổ sung. Tác giả rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo, các bạn sinh viên để đề tài được hoàn thiện hơn. Danh mục tài liệu tham khảo Phần tiếng Việt TS. Nguyễn Văn Tiến, Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở, NXB Thống kê, năm 2001. Fjorde và Vylder, Kinh tế học quốc tế: Lý thuyết và thực tiễn, NXB Thống kê, năm 1991. TS. Nguyễn Văn Tiến, Thị trường ngoại hối Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế, NXB Thống kê, năm 2002. PGS. Đinh Xuân Trình, Giáo trình thanh toán quốc tế trong ngoại thương, NXB Giáo dục, năm 1998. Hoàng Kim, Tiền tệ - Ngân hàng - Thị trường tài chính, NXB Tài chính, năm 2001. Kinh doanh ngoại hối và xác định tỷ giá - Đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1995. Phạm Việt Phương, Nhìn lại xuất khẩu nước ta thời kỳ 1991-2000, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, Số 5, năm 2001. Trọng Hồ, Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực đối với hoạt động xuất nhập khẩu nước ta - Tạp chí Tài chính thương mại, Số 14, năm 1998. Vũ Ngọc Nhung, Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài của khủng hoảng tiền tệ, Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ, tháng 3/1999. TS. Nguyễn Đình Tài. Cơ chế điều hành xuất nhập khẩu ở Việt Nam thời gian qua và các biện pháp chính sách cho giai đoạn tới - Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Số 254, tháng 7/1999. TS. Pham Ngọc Long, Lại bàn về ảnh hưởng lan rộng của cuộc khủng hoàng tiền tệ khu vực đối với kinh tế Việt Nam, Tạp chí Tài chính Ngân hàng tháng 4/1998. TS. Võ Văn Đức, TS. Nguyễn Văn Dương, Kinh tế đối ngoại của nước ta trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 20010- 2010, Tạp chí Ngân hàng, Số 8, năm 2002. TS. Nguyễn Văn Tiến, Những mặt trái khi định giá nội tệ cao, Tạp chí Ngân hàng, Số 8, năm 2002. TS. Nguyễn Đại Lai, Một vài bình luận về cơ chế quản lý và điều hành tỷ giá hối đoái ở Việt Nam, Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ, Số 24, năm 2001. Khủng hoảng Tài chính - Tiền tệ ở Châu á, nguyên nhân và bài học - Bộ Thương mại, Viện nghiên cứu thương mại, NXB Chính trị quốc gia, năm 1998. PGS. Phạm Quang Tuệ, Bàn về khả năng chuyển đổi của đồng Việt Nam, Tạp chí Ngân hàng, tháng 4/2000. TS. Nguyễn Hồng Sơn, Lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới - Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới số 1/1997. Ngô Chung, Bàn về vị trí, vai trò của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, số 4, năm 2002. Niên giám thống kê 1995-1998, NXB Thống kê, Hà nội 1996 1999. Báo cáo thống kê tổng kết từ năm 1995 - 2001, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Báo cáo thống kê, tổng kết giai đoạn 1989-1999 của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam. Báo cáo thường niên 1999,2000,2001 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Phần Tiếng Anh Frederic S.Mishkin, The economics of money, banking and financial markets, fifth edition, Addison Wesley Longman, Inc., 1997. Takatoshi Ito and Anne O. Krueger, Changes in Exchange rates in rapidly developing countries, The University of Chicago Press, 1999. International Financial Statistics, IMF, October, 1997. Exchange rate in Vietnam: Arrangement information content and policy options, Central Institute for economic management, Hanoi, Feb. 2001 International Statistics, IMF, October, 1997 OECD, economic statistics, 1980-1990

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHoàn thiện chính sách tỷ giá nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam.doc
Luận văn liên quan