Bên cạnh những chuyển biến tích cực trong quá trình hoạt động, các
Ngân hàng thương mại đã và đang gặp không ít khó khăn trong việc huy
động vốn và sử dụng vốn đạt hiệu quả. Đặc biệt đối với kinh tế ngoài quốc
doanh, hoạt động cho vay đối với loại hình này còn có nhiều hạn chế cả về số
lượng và chất lượng. Với tính cấp thiết này, mong rằng một số biện pháp
hoàn thiện rủi ro tín dụng sẽ góp một phần nhỏ vào hoạt động tín dụng của
Ngân hàng nói riêng và hoạt động kinh doanh tiền tệ nói c hung. Qua đó, góp
phần củng cố sự phát triển và ổn định của hệ thống Ngân hàng thương mại
Việt Nam
53 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2642 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoàn thiện hệ thống quản trị rủi ro tín dụng trong các ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ư chấm điểm tín dụng. Nhiều NHTM không sử dụng chấm điểm tín
dụng cho khách hàng nhỏ, vì họ cho rằng không có nhiều tương quan giữa
quá khứ tín dụng của bên vay cũng như được đo lường trong hệ số tín nhiệm,
với hoạt động của khách hàng này trong tương lai. Hơn thế nữa, các đơn vị
vay cho thấy rằng chấn điểm tín dụng có thể loại trừ mất các khách hàng tiềm
năng tốt, những khách hàng không có đủ số lượng năm có lãi, số năm có lãi
tối thiểu lại là một tiêu chí để xác định dự án khả thi trong tương lai.
- Các đơn vị cho vay hiệu quả tránh sử dụng những đơn vị môi giới. Vì
các đơn vị môi giới không có động cơ để đem lại các khoản vay có chất
lượng cao hơn do họ được trả phí môi giới không căn cứ vào chất lượng
khoản vay.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
2.1. Thực trạng hệ thống quản trị rủi ro tín dụng trong các NHTM Việt
Nam
2.1.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị tín dụng
Cơ cấu tổ chức bộ máy tín dụng của các NHTM thường được phân làm
3 cấp: Hội sở chính, chi nhánh cấp I và chi nhánh cấp II. Trong mỗi cấp
thường có 4 nhóm tham gia vào quy trình tín dụng là Hội đồng tín dụng, ban
điều hành (tổng giám đốc, giám đốc chi nhánh), các phòng nghiệp vụ và bộ
phận kiểm tra giám sát tín dụng. Với bộ máy quản trị tín dụng được phân cấp
cụ thể sẽ phát huy tốt vai trò và nhiệm vụ của từng cấp, đảm bảo sự phân tách
độc lập giữa các khâu thẩm định và quyết định cấp tín dụng, quy định về
trách nhiệm của từng cấp. Bộ máy quản trị tín dụng được tổ chức tốt sẽ đáp
ứng được phần lớn yêu cầu về quản trị RRTD.
Quy chế về hội đồng tín dụng được ban hành chỉ nhằm hỗ trợ, giúp việc
cho người có thẩm quyền ra quyết định về tín dụng. Thực tế, các thành viên
của hội đồng tín dụng gần như không phải là chuyên gia trong các lĩnh vực,
Tiểu luận môn Quản Trị Rủi Ro TS:Mai Thu Hiền
Nhóm 10 Lớp Cao học TCNH 19A Page 26
thời gian đọc và nghiên cứu tài liệu vẫn chỉ là trên tài liệu do cán bộ tín dụng
cung cấp. Vì vậy, phần lớn ở các chi nhánh, chủ yếu dựa trên thẩm định của
các cơ quan chức năng thường là chủ quản của doanh nghiệp dẫn đến việc họ
cùng đồng thuận giữa các bên để vay được vốn, như vậy sẽ có những rủi ro
chưa được chỉ ra, thậm chí còn bị che đậy ngay trong khâu thẩm định.
2.1.2. Chính sách tín dụng và chính sách quản trị rủi ro tín dụng
Chính sách tín dụng
Những năm qua, chính sách tín dụng của NHTM đã từng bước được
chuẩn hóa từ khung pháp lý cao nhất từ luật các TCTD đến các văn bản pháp
quy của Nhà nước và các NHTM đã cụ thể hóa bằng những văn bản hướng
dẫn trong hệ thống của đơn vị mình.
Có thể khái quát những yếu tố tích cực của chính sách cho vay theo
nguyên tắc quản trị RRTD sau đây:
- Thứ nhất, tuân thủ pháp luật. Nội dụng chính sách tín dụng đã có quy
định khung theo Luật các TCTD, từ nguyên tắc vay vốn, điều kiện vay vốn.
các loại cho vay đến những điều khoản căn bản của một hợp đồng tín
dụng,…Đồng thời, các đối tượng cho vay, các giới hạn và tỷ lệ đảm bảo an
toàn trong hoạt động tín dụng của TCTD theo quy định của NHNN đều được
đảm bảo trong chính sách cho vay của các NHTM.
- Thứ hai, vừa đảm bảo tính linh hoạt trong hoạt động thực tế vừa chú
trọng an toàn tín dụng. Chính sách tín dụng dành cho các chi nhánh khả năng
nắm bắt tốt nhất cơ hội đầu tư tín dụng theo mục tiêu định hướng kinh doanh
trong từng giai đoạn, trao quyền tự quyết nhất định cho các giám đốc chi
nhánh. Theo cách này cũng là việc các NHTM đề cao trách nhiệm cá nhân
nhằm nâng cao tính minh bạch và chất lượng trong hoạt động tín dụng. Cá
nhân được giao quyền quyết định phải tự chịu trách nhiệm trước hết đối với
quyết định của mình.
Chính sách quản trị rủi ro tín dụng
Tiểu luận môn Quản Trị Rủi Ro TS:Mai Thu Hiền
Nhóm 10 Lớp Cao học TCNH 19A Page 27
Chính sách quản trị RRTD của các NHTM đều đưa ra những nguyên tắc
cơ bản như sau:
- Nguyên tắc phân tán rủi ro, không tập trung cấp tín dụng quá lớn cho
một khách hàng, một nhóm khách hàng hoặc một nhóm ngành hàng hoặc các
lĩnh vực liên quan với nhau
- Quy trình xét duyệt cấp tín dụng phải thông qua nhiều cấp hay còn gọi
là “tín dụng nhiều mắt”, mức thấp nhất phải qua 3 cấp: cán bộ tín dụng,
trưởng phòng kinh doanh, giám đốc hoặc người được ủy quyền, với những
hợp đồng tín dụng giá trị lớn cần tái thẩm định hoặc có ý kiến còn trái ngược
phải qua hội đồng tín dụng,…
- Kiểm tra, giám sát thường xuyên khoản vay, có bộ phận kiểm tra giám
sát tín dụng độc lập.
Tuy nhiên, chính sách quản trị RRTD còn nhiều tồn tại và hạn chế:
- Việc xây dựng các giới hạn tín dụng còn đơn giản, chỉ dựa trên những
quy định về đảm bảo an toàn của NHNN, chưa có sự tính toán mối quan hệ
qua lại giữa các giới hạn tín dụng. Cụ thể là, theo Điều 7, Thông tư
13/2010/TT-NHNN, các NH hay từng chi nhánh phải xây dựng cách xác
định nhóm khách hàng liên quan, căn cứ vào đó duy trì hạn mức tín dụng cho
1 nhóm khách hàng có liên quan (≤15% vốn tự có). Tuy nhiên, hầu hết các
NHTM đều chưa đưa ra được chính sách này.
- Các NHTM cũng chưa xây dựng và triển khai thực hiện các giới hạn
rủi ro cho hoạt động ngoại bảng; những giới hạn tín dụng theo từng ngành
nghề kinh doanh, nhóm khách hàng.
- Khâu kiểm tra, giám sát khoản vay, phân tích chất lượng các danh mục
tín dụng chưa được tiến hành thường xuyên, có tình trạng sau một thời gian
dài để khách hàng sử dụng vốn quay vòng, nên khi kiểm tra, rà soát khó xác
định tiền vay nằm ở đâu. Nguyên nhân có thể là do áp dụng phương thức cho
vay chưa phù hợp đối tượng vay. Trên thực tế, các NH chưa tỉến hành việc
đánh giá lại giá trị tài sản đảm bảo theo định kỳ. Việc này không những mang
đến những RRTD do giá trị tài sản đảm bảo suy giảm mà còn ảnh hưởng đến
Tiểu luận môn Quản Trị Rủi Ro TS:Mai Thu Hiền
Nhóm 10 Lớp Cao học TCNH 19A Page 28
việc tính toán, trích lập dự phòng rủi ro cụ thể cho mỗi khoản vay. Các
NHTM, đặc biệt là các NHTM nhỏ, trình độ quản lý rủi ro yếu kém, lực
lượng cán bộ tín dụng mỏng, không theo dõi, giám sát việc sử dụng vốn vay
2.1.3. Hệ thống quản trị rủi ro tín dụng
Hiện nay, dựa trên hệ thống thông tin trực tuyến hầu hết các NHTM đều
xây dựng hệ thống quản trị RRTD tập trung, kết nối trực tuyến từ các chi
nhánh đến hội sở chính. Đây là mô hình quản trị rủi ro được coi là ưu việt,
quản trị rủi ro một cách hệ thống trên quy mô toàn ngân hàng nhằm đảm bảo
tính thống nhất của hệ thống.
Tại Vietcombank, BIDV, Vietinbank các NH này đều có Hội đồng quản
trị và Hội đồng/Ủy ban quản trị rủi ro sẽ là bộ phận ban hành các chính sách
tín dụng và quản trị rủi ro. Trên cơ sở đó, Hội đồng quản trị thông qua Ủy
ban quản trị rủi ro sẽ phê duyệt kế hoạch quản trị rủi ro của NH, chịu trách
nhiệm giám sát và thực hiện chiến lược quản trị rủi ro tổng thể, chính sách và
sự tuân thủ với những luật định tác động tới NH cả từ nội bộ và bên ngoài
của NH. Ủy ban quản trị rủi ro họp định kỳ để giám sát và đảm bảo là thông
lệ và hệ thống quản trị rủi ro thiết yếu đều được thực hiện trong toàn NH, để
xem xét chính sách và phản ứng của NH trước những rủi ro và xu hướng mới
phát sinh, rà soát các vấn đề tuân thủ đồng thời cả tính hiệu quả của các hệ
thống quản trị rủi ro trong NH.
Ở các NHTM này, mỗi cấp quản trị cho chức năng riêng trong công tác
quản trị rủi ro.
- Phó tổng giám đốc phụ trách quản trị rủi ro có chức năng giám sát hoạt
động quản trị rủi ro của NH nhằm đảm bảo rằng các rủi ro mà NH chấp nhận
là phù hợp với quyết định của hội đồng quản trị về mức rủi ro tối đa có thể
chấp nhận với các lợi nhuận dự tính;
- Khối phát triển khách hàng cá nhân: chịu trách nhiệm thiết kế, triển khai
sản phẩm tín dụng cá nhân, triển khai tiếp thị bán hàng, giám sát hoạt động tín
dụng cá nhân
Tiểu luận môn Quản Trị Rủi Ro TS:Mai Thu Hiền
Nhóm 10 Lớp Cao học TCNH 19A Page 29
- Khối phát triển khách hàng doanh nghiệp: chịu trách nhiệm thiết kế,
triển khai sản phẩm tín dụng doanh nghiệp, triển khai tiếp thị bán hàng, giám
sát hoạt động tín dụng doanh nghiệp;
- Khối quản trị tín dụng: chịu trách nhiệm thiết kế các chính sách tín
dụng chung cho NH, tái thẩm định và phê duyệt tín dụng, giám sát kiểm tra
đánh giá tất cả mọi mặt của hoạt động tín dụng, tổ chức định giá lại tài sản
đảm bảo theo định kỳ, xử lý nợ.
Các phán quyết tín dụng lớn tại các NHTM này đều tập trung về hội sở
chính và do hội đồng quản trị rủi ro quyết định.
Tại Hội sở chính, hoạt động quản trị rủi ro của NH sẽ tập trung vào Ủy
ban quản trị rủi ro, Hội đồng tín dụng trung ương và các phòng ban ở hội sở
chính. Các phòng ban có nhiệm vụ quản trị rủi ro tại hội sở chính chịu trách
nhiệm tham mưu cho Tổng giám đốc trong việc điều hành các hoạt động liên
quan đến quản trị rủi ro, bao gồm soạn thảo các văn bản hướng dẫn các quy
trình nghiệp vụ và các chính sách chỉ đạo cụ thể phù hợp với các tình huống
thị trường, giám sát và đánh giá hoạt động quản trị rủi ro trong NH và đề xuất
các biện pháp cải thiện tình hình.
Tại các chi nhánh, Phòng thẩm định – Quản trị tín dụng chịu trách
nhiệm kiểm soát toàn diện hoạt động tín dụng tại chi nhánh, bao gồm các
hoạt động chủ yếu là
- Quản trị, kiểm soát hạn mức tín dụng cho từng khách hàng và cho toàn
bộ chi nhánh;
- Kiểm soát, giám sát các khoản vay vượt mức;
- Phân tích hoạt động các nghành kinh tế, cung cấp các thông tin liên
quan đến hoạt động tín dụng;
- Quản trị danh mục tín dụng, quản trị rủi ro tín dụng, đầu mối trực tiếp
quản trị, báo cáo và tham mưu xử lý nợ xấu;
- Giám sát sự tuân thủ các quy định của NHNN và các chính sách của
NH mình về tín dụng, các quy định và chính sách liên quan đến tín dụng;
Tiểu luận môn Quản Trị Rủi Ro TS:Mai Thu Hiền
Nhóm 10 Lớp Cao học TCNH 19A Page 30
- Tổng hợp, phân tích nguyên nhân, đánh giá, đề xuất phương án xử lý
nợ xấu;
- Xem xét, đề xuất phương án thu hồi nợ và kế hoạch xử lý nợ xấu đối
với từng khoản nợ xấu.
Đánh giá về hệ thống quản trị rủi ro tín dụng theo mô hình tổ chức tập
trung
Hệ thống quản trị RRTD theo mô hình tổ chức tập trung vẫn chưa đạt
được hiệu quả như mong muốn, thể hiện một số hạn chế nhất định:
- Thứ nhất, cơ chế, chính sách nội bộ trong các NHTM theo mô hình
quản trị tập trung chưa được soạn thảo và thực hiện một cách đồng bộ và
tương xứng là cho hiệu quả của mô hình bị giảm đi đáng kể. Việc điều hành
NH phải dựa vào cơ chế chính sách mà các cơ chế này chưa được xây dựng
chuẩn theo thông lệ quốc tế.
- Thứ hai, cơ chế quản trị tại các NHTM hiện nay bộc lộ một số bất cập
như (i) hệ thống ra quyết định phức tạp, thiếu tính minh bạch, chưa tách bạch
giữa quyền kiểm soát và quyền điều hành, (ii) Cơ cấu Hội đồng quản trị tại
các NHTM chưa hợp lý, chưa có sự tham gia của các thành viên hội đồng
quản trị độc lập; (iii) Việc quy định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của
các phòng ban Hội sở chính chưa hoàn chỉnh nên quy trình xử lý nghiệp vụ
của nhiều bộ phận chưa rõ ràng, chồng chéo, gây phiền hà cho chi nhánh và
chưa phát huy được hiệu quả điều hành tập trung. Thậm trí, một số NHTM
nhỏ chưa có Ủy ban quản lý rủi ro, hoặc Ủy ban này tồn tại nhưng thực tế
không hoạt động, không phát huy được vai trò của mình trong công tác quản
trị rủi ro của NH.
- Thứ ba, sử dụng công nghệ chưa đồng bộ là một trở ngại trong quản trị
rủi ro tập trung. Các NH chưa áp dụng đầy đủ các công cụ quản trị tập trung
như hệ thống thông tin quản trị, công nghệ thông tin do đó việc áp dụng mô
hình tập trung trong quản trị RRTD còn nhiều khó khăn.
2.1.4. Hệ thống xếp hạng tín dụng
Tiểu luận môn Quản Trị Rủi Ro TS:Mai Thu Hiền
Nhóm 10 Lớp Cao học TCNH 19A Page 31
Quy trình xếp hạng tín dụng
Do tính chất khác nhau giữa các nhóm khách hàng, để chấm điểm tín
dụng được chính xác các NHTM thường phân chia khách hàng làm hai nhóm
là khách hàng doanh nghiệp và khách hàng cá nhân. Với nhóm khách hàng
doanh nghiệp, quy trình chấm điểm và xếp hạng tín dụng thường trải qua các
bước cơ bản sau:
Bước 1: Xác định ngành nghề kinh doanh của khách hàng. Việc phân
chia các ngành nghề sản xuất kinh doanh nhằm đảm bảo việc chấm điểm tài
chính chính xác nhất theo đặc thù ngành nghề, sát với thực tiễn hoạt động
kinh doanh của mỗi ngành. Điều quan trọng trong phân chia các ngành là
đảm bảo rằng các nhân tố rủi ro giữa các ngành là thực sự khác biệt và các
NH có đủ thông tin để xác định sự khác biệt đó.
Bước 2: Xác định quy mô hoạt động kinh doanh của khách hàng. Quy
mô của doanh nghiệp ảnh hưởng đến nhóm chỉ tiêu tài chính và thường được
xác định dựa trên điểm của các chỉ tiêu vốn chủ sở hữu, số lượng lao động,
doanh thu thuần, và tổng tài sản của doanh nghiệp.
Bước 3: Xác định loại hình sở hữu của khách hàng. Căn cứ vào đối
tượng sở hữu, khách hàng được chia thành các loại hình sở hữu khác nhau:
doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài,…
Bước 4: Chấm điểm các nhân tố tài chính. Để đo lường kết quả hoạt
động của doanh nghiệp, NH sẽ thực hiện chấp điểm cho các nhóm nhân tố tài
chính phản ánh các mặt kinh doanh của doanh nghiệp. Cụ thể là nhóm các
chỉ tiêu thanh khoản; các chỉ tiêu hoạt động; chỉ tiêu công nợ; chỉ tiêu về thu
nhập… Việc chấm điểm các nhân tố tài chính được thực hiện dựa trên
nguyên tắc thận trọng, tức là giá trị thực tế đạt được của doanh nghiệp gần
với khoảng giá trị nào nhất thì áp dụng thang điểm của khoảng giá trị đó, nếu
Tiểu luận môn Quản Trị Rủi Ro TS:Mai Thu Hiền
Nhóm 10 Lớp Cao học TCNH 19A Page 32
nằm giữa hai khoảng giá trị thì áp dụng thang điểm của khoảng có khoảng có
thang điểm thấp hơn.
Bước 5: Chấm điểm các nhân tố phi tài chính. Việc xác định các chỉ
tiêu phi tài chính để đánh giá ảnh hưởng của chúng đến kết quả hoạt động
doanh nghiệp là phức tạp bởi các yếu tố này rất đa dạng và phong phú, hơn
nữa tác động của chúng đến từng doanh nghiệp đơn lẻ lại chỉ có thể xác định
dựa trên việc phân tích từng trường hợp cụ thể nên khó khái quát hóa cho
mọi doanh nghiệp. Các nhân tố phi tài chính thường được sử dụng trong
chấm điểm và xếp hạng bao gồm: (i) khả năng trả nợ từ lưu chuyển tiền tệ;
(ii) trình độ quản trị và môi trường nội bộ của doanh nghiệp; (iii) quan hệ với
ngân hàng; (iv) các yếu tố bên ngoài và các đặc điểm hoạt động khác
Bước 6: Tổng hợp điểm và xếp hạng sơ bộ khách hàng
Điểm của khách hàng = Điểm các chỉ tiêu tài chính * Trọng số phần tài
chính
+ Điểm các chỉ tiêu phi tài chính * Trọng số phần phi tài
chính
Căn cứ vào kết quả chấm điểm, hệ thống sẽ xếp hạng doanh nghiệp vào
các hạng tương ứng với mức điểm.
Bước 7: Điều chỉnh và phê duyệt kết quả xếp hạng cuối cùng. Trong
trường hợp xảy ra những biến động lớn trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp hoặc có những nhân tố mà các chuyên gia đánh giá có tác
động trọng yếu đến khả năng trả nợ của doanh nghiệp song chưa được phản
ánh đầy đủ trong hệ thống xếp hạng, NH có thể điều chính kết quả xếp hạng
và tính trực tiếp vào điểm tổng hợp xác định ở bước 6.
Kết thúc bước 7, NH xác định mức điểm cuối cùng để xếp hạng chính
thức của doanh nghiệp. Mức xếp hạng là căn cứ quan trọng để NH xác định
mức độ rủi ro tín dụng và áp dụng chính sách tín dụng phù hợp cho khách
hàng.
Tiểu luận môn Quản Trị Rủi Ro TS:Mai Thu Hiền
Nhóm 10 Lớp Cao học TCNH 19A Page 33
Quy trình kiểm tra và giám sát hệ thống xếp hạng tín dụng
Để đảm bảo tính độc lập, khách quan quy trình xếp hạng tín dụng được
thực hiện và kiểm tra qua nhiều cấp với trách nhiệm được phân định cụ thể
như sau:
- Tại chi nhánh:
+ Cán bộ tín dụng: trực tiếp thu thập thông tin, thực hiện chấm điểm, xếp
hạng tín dụng khách hàng.
+ Lãnh đạo phòng tín dụng: kiểm soát tính chính xác của các kết quả
chấm điểm tín dụng và xếp hạng khác hàng, chuyển kết quả cho phòng quản
trị rủi ro.
+ Cán bộ và lãnh đạo phòng quản trị rủi ro độc lập/hoặc bộ phận kiểm tra
độc lập: xem xét, rà soát lại kết quả xếp hạng được hoàn thành bởi phòng tín
dụng, chuyển lãnh đạo phòng rủi ro xem xét.
+ Lãnh đạo chi nhánh phê duyệt kết quả chấm điểm, xếp hạng khách
hàng.
- Tại hội sở chính:
+ Bộ phận tổng hợp và xử lý kết quả xếp hạng: chịu trách nhiệm tổng hợp
và xử lý kết quả xếp hạng cho danh mục tín dụng toàn hệ thống. Rà soát kết
quả xếp hạng tổng thể trước khi lập báo cáo gửi cho các phòng liên quan.
+ Phòng quản trị rủi ro tín dụng: sử dụng kết quả xếp hạng tín dụng toàn
hàng để phân tích rủi ro và điều hành hoạt động tín dụng.
+ Ban lãnh đạo NH: Dựa trên các thông tin chiết xuất từ báo cáo về hệ
thống xếp hạng để đưa ra các quyết định điều hành.
Với một số NHTM chưa có bộ phần quản trị rủi ro riêng thì việc chấm
điểm và phê duyệt kết quả xếp hạng sẽ do bộ phần tín dụng trực tiếp thực
hiện. Việc kiểm tra giám sát kết quả chấm điểm và xếp hạng như vậy không
được thông qua một bộ phận độc lập.
Tiểu luận môn Quản Trị Rủi Ro TS:Mai Thu Hiền
Nhóm 10 Lớp Cao học TCNH 19A Page 34
Đánh giá hệ thống xếp hạng tín dụng tại các NHTM
Với các bộ chỉ tiêu khá đầy đủ, đánh giá nhiều mặt kinh doanh của
khách hàng, hệ thống chấm điểm là cơ sở thông tin quan trọng cho các NH
trong việc ra quyết định tín dụng phù hợp với tình hình tài chính, kinh doanh
và khả năng trả nợ của khách hàng. Trên góc độ kiểm soát, hệ thống này là
nền tảng góp phần nâng cao và hoàn thiện môi trường và quy trình quản trị
tín dụng của các NH. Tuy đã phát huy những đóng góp nhất định trong việc
nâng cao hiệu quả cho hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động quản trị
RRTD nói riêng nhưng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của các NHTM VN
còn tồn tại nhiều hạn chế sau:
Thứ nhất, cơ sở dữ liệu yếu kém. Chất lượng dữ liệu khai thác đầu vào
(từ cả khách hàng và NH) để chấm điểm, xếp hạng đều không đầy đủ, không
có tính hệ thống và thiếu chính xác. Để đảm bảo hiệu quả công tác chấm
điểm, xếp hạng và cập nhật, nâng cấp hệ thống theo sự biến động của tình
hình thực tế và các quy định của pháp luật, cơ sở dữ liệu về khách hàng là
nền tảng không thể thiếu của hệ thống xếp hạng tín dụng. nhưng thực tế,
chưa có NHTM nào xây dựng được cơ sở dữ liệu về khách hàng; hoặc đã
triển khai một phần nhưng cũng chưa có phương án khai thác hiệu quả. Điều
này ảnh hưởng đến kết quả xếp hạng cuối cùng của khách hàng.
Thứ hai, chức năng của hệ thống phần mềm còn rất hạn chế. Bên cạnh
việc đa số các NHTM chưa hoàn thành hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ thì
ngay cả ở các NH đang triển khai và áp dụng hệ thống này cũng gặp phải
những hạn chế về hệ thống phần mềm. Xếp hạng chỉ tự động hóa ở khâu
công việc cuối cùng của các cán bộ ngân hàng, trong khi các khâu thu thập và
nhập thông tin vẫn phải thực hiện thủ công, tốn thời gian và chất lượng dữ
liệu đầu vào không được đảm bảo, khó kiểm soát do nhưng vấn đề về lỗi và
sai sót. Quan trọng hơn, phần mềm tại các NHTM vẫn chỉ mang tính thuần
túy là chấm điểm và xếp hạn khách hàng mà chưa được tích hợp với các phần
mềm khác để phục vụ cho mục tiêu cao hơn là quản trị RRTD tổng thể.
Tiểu luận môn Quản Trị Rủi Ro TS:Mai Thu Hiền
Nhóm 10 Lớp Cao học TCNH 19A Page 35
Thứ ba, khả năng lượng hóa RRTD của hệ thống thấp. Thể hiện cụ thể
như sau:
(i) Hệ thống xếp hạng tín dụng của các NHTM chưa có tính phân biệt
cao theo ngành nghề, quy mô. Trong khi một hệ thống xếp hạng chỉ được
đánh giá có chất lượng tốt khi nó phản ánh được những rủi ro trọng yếu có
ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng. Vì các đặc điểm rủi ro
thường bị chi phối bởi các đặc thù của từng ngành, quy mô và loại sản phẩn
tín dụng, cũng như tính chất quan hệ với NH nên để đảm bảo khả năng dự
báo rủi ro của hệ thống xếp hạng các NH phải xây dựng các tiểu hệ thống với
hệ số các nhân tố rủi ro riêng cho từng ngành, quy mô, sản phẩm và loại
khách hàng.
(ii) Khả năng lượng hóa RRTD kém. Các hệ thống hiện thời chưa thể
cung cấp, đo lường khả năng dự báo của từng nhân tố rủi ro – thể hiện qua
xác suất không trả được nợ của khách hàng (PD). Trong khi đó, theo thông lệ
quốc tế, PD chính là nền tảng để xếp hạng khách hàng. Một thang xếp hạng
chuẩn là nhằm phân loại khách hàng theo mức độ rủi ro tiềm ẩn, nhưng khi
các mức độ rủi ro tiềm ẩn không được lượng hóa thì việc xếp hạng khách
hàng đã thiếu hẳn một cơ sở khách quan rõ ràng với tính chính xác không
được đảm bảo.
Thứ tư, quy trình kiểm tra và giám sát hệ thống xếp hạng chưa có tính
chuẩn mực. Hệ thống xếp hạng chưa đảm bảo yếu tố độc lập, minh bạch, liên
tục, phân định trách nhiệm rõ ràng. Cơ chế sử dụng kết quả xếp hạng, rà soát
hệ thống xếp hạng, kiểm toán nội bộ, giám sát của hội đồng quản trị và ban
quản trị NH cấp cao chưa chặt chẽ, chưa gắn cơ chế hoạt động của hệ thống
xếp hạng tín dụng với cơ chế giám sát tín dụng của NH.
Thứ năm, ứng dụng của hệ thống xếp hạng trong phân loại nợ và trích
lập dự phòng rủi ro còn hạn chế. Một trong những mục tiêu căn bản mà các
NHTM VN hướng tới khi xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng là tạo căn cứ
xây dựng chính sách phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro theo quy định
Tiểu luận môn Quản Trị Rủi Ro TS:Mai Thu Hiền
Nhóm 10 Lớp Cao học TCNH 19A Page 36
tại Điều 7 – Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN. Cũng theo quy định Khoản 1,
Điều 4 tại quyết định này yêu cầu: “Trong thời gian tối đa ba (03) năm kể từ
ngày quy định này có hiệu lực, TCTD phải xây dựng Hệ thống xếp hạng tín
dụng nội bộ để hỗ trợ cho việc phân loại nợ, quản lý chất lượng tín dụng phù
hợp với phạm vi hoạt động, tình hình thực tế của TCTD”. Đến nay, hầu hết
các NHTM tại Việt Nam đã xây dựng được hệ thống xếp hạng tín dụng nội
bộ. Tuy nhiên, việc xây dựng hệ thống này hầu hết chỉ mang tính hình thức
mà không phát huy được hiệu quả thực sự, phân loại nợ dựa trên kết quả xếp
hạng của hệ thống xếp hạng tín dụng chưa mang lại kết quả cụ thể. Ngoài
một số NHTM NN lớn như BIDV, Vietcombank, Vietinbank chính thức
được NHNN cho phép áp dụng chính sách phân loại nợ và trích lập dự phòng
rủi ro theo Điều 7, còn lại hầu hết các NHTM VN đều chưa thể đáp ứng yêu
cầu này. Đây chính là hệ quả xuất phát từ những hạn chế trên của các NH
trong thiết lập quản trị và dự báo RRTD, hình thành hệ thống thông tin hiệu
quả để đưa ra các quyết định quản trị, điều hành hoạt động tín dụng và xây
dựng hệ thống phần mềm hỗ trợ xếp hạng tự động.
Thứ sáu, tính ứng dụng của hệ thống xếp hạng trong các nghiệp vụ quản
trị ngân hàng chưa cao. Một trong những kỳ vọng lớn nhất của các NH khi
xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng là sử dụng nó như một công cụ đắc lực
trong quản trị RRTD của NH, mà quan trọng nhất là phân tích hiệu quả sinh
lời của danh mục tín dụng, xác định khung lãi suất tiêu chuẩn và xác định
mức vốn an toàn tối thiểu. Tuy nhiên, do thiếu khả năng đo lường, lượng hóa
rủi ro, hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ nói chung và hệ thống xếp hạng
doanh nghiệp nói riêng của NHTM đều chưa thể đáp ứng được yêu cầu về
một hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ chuẩn mực để hỗ trợ những yêu cầu
chủ chốt nói trên.
Tiểu luận môn Quản Trị Rủi Ro TS:Mai Thu Hiền
Nhóm 10 Lớp Cao học TCNH 19A Page 37
2.1.5. Trích lập dự phòng rủi ro tín dụng
Bảng 2.1: Dự phòng rủi ro tín dụng
Đơn vị: Tỷ đồng, %
Nhóm
Dự phòng rủi ro tín dụng Tỷ lệ Dự phòng rủi ro tín dụng/tổng dư nợ
2008 2009 2010 2008 2009 2010
NHTM NN 16.472 17.270 23.205 2,35% 1,93% 2,12%
NHTM CP 3.203 5.433 9.085 0,95% 0,95% 1,12%
Tổng 19.675 22.703 32.289 1,89% 1,55% 1,70%
Nguồn: UBGSTCQG
Hiện tại, các NHTM đang duy trì việc trích lập dự phòng RRTD theo
quy định tại Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN về việc trích lập và sử dụng dự
phòng rủi ro tín dụng và Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN bổ sung, sửa đổi
quyết định 493. Theo đó, các TCTD có thể tiền hành phân loại nợ theo Điều
6 hoặc Điều 7 của quyết định này.
Tuy nhiên, những yêu cầu trên còn nhiều hạn chế. Các quy định đó chỉ
mới dừng lại ở việc yêu cầu các NHTM duy trì các tỷ lệ riêng lẻ, chưa có quy
định chung, đồng bộ cho cả hệ thống quản trị RRTD. Trong khi RRTD xảy
lại không phải là những hiện tượng riêng lẻ mà thường là từ những lỗ hổng
trong cả quy trình quản trị rủi ro, đến từ nhiều nguyên nhân bên trong và bên
ngoài NHTM. Thực tế, ở các NHTM lớn, hệ thống quản trị RRTD chưa được
hoàn thiện, còn ở các NHTM nhỏ, vai trò của hệ thống này còn rất mờ nhạt,
chưa thực sự có những hoạt động ăn khớp với chu trình vận hành chung của
đơn vị.
2.1.6 Hạn chế trong hệ thống kiểm soát nội bộ của NHTM
Môi trường kiểm soát còn nhiều yếu tố không thuận lợi cho công tác
kiểm soát nội bộ. Sự phân cấp, phân quyền giữa Hội đồng quản trị và tổng
giám đốc, giữa các giám đốc ban ở hội sở chính với giám đốc các đơn vị
thành viên chưa rõ ràng, chưa gắn với trách nhiệm cụ thể. Sự chồng chéo
Tiểu luận môn Quản Trị Rủi Ro TS:Mai Thu Hiền
Nhóm 10 Lớp Cao học TCNH 19A Page 38
trong điều hành và tác nghiệp giữa các bộ phận vẫn diễn ra thường xuyên. Vì
vậy trong nhiều trường hợp quyền hạn đó phân cấp không được sử dụng hết
hoặc bị lạm dụng. Hơn nữa, sự hạn chế về nguồn nhân lực và tài chính đã hạn
chế nhiều đến chức năng của Ban kiểm soát nội bộ. Hoạt động của phòng/ban
này mới chỉ dừng lại ở việc kiểm tra tính tuân thủ, chưa kiểm tra, giám sát
theo hướng dự báo xu hướng phát triển hoặc đánh giá mức độ rủi ro/chất
lượng hoạt động của từng bộ phận. Thông thường, hệ thống kiểm tra nội bộ
trực thuộc chi nhánh chưa phát huy được hiệu quả hoạt động.
2.1.7. Sử dụng công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro tín dụng còn hạn
chế
Ở Việt Nam hiện nay, công cụ phái sinh phổ biến nhất vẫn là công cụ
phái sinh tiền tệ. Chỉ có một số ít các NHTM thực hiện giao dịch công cụ
phái sinh về tín dụng, hoán đổi lãi suất. Có rất nhiều nguyên nhân đã và đang
hạn chế việc sử dụng công cụ tài chính phái sinh trong hoạt động kinh doanh
NH đó là:
- Hành lang pháp lý cho thị trường phái sinh ở Việt Nam hầu như chưa
có. Mặc dù chủ trương khuyến khích các NHTM sử dụng công cụ tài chính
phái sinh nhằm phòng ngừa rủi ro nhưng hành lang pháp lý chưa đủ, tồn tại
cơ chế xin cho khi mỗi NH muốn đưa ra một sản phẩm phái sinh phải được
sự chấp thuận của NHNN. Cơ quan quản trị can thiệp quá sâu vào quyền tự
chịu trách nhiệm kinh doanh của các NHTM. Mặt khác cũng chưa có nhà tạo
lập thị trường cho loại công cụ tài chính này.
- Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam còn thiếu vắng các chuẩn mực
kế toán chất lượng cao để ghi nhận, đánh giá giá trị công cụ tài chính phái
sinh. Điều này sẽ ảnh hưởng đến việc xác định kết quả tài chính, đến quản trị
rủi ro tài chính trong các đơn vị. Đồng thời cơ quan giám sát cung không thể
có được thông tin đầy đủ, trung thực để giám sát hoạt động giao dịch công cụ
tài chính phái sinh nói riêng và giám sát an toàn hoạt động của các tổ chức tài
chinh nói chung.
Tiểu luận môn Quản Trị Rủi Ro TS:Mai Thu Hiền
Nhóm 10 Lớp Cao học TCNH 19A Page 39
- Các NHTM, nguồn nhân lực hạn chế, hệ thống thông tin quản trị chưa
phát triển, đối tác mua bán công cụ tài chính phái sinh hạn chế. Do đó, ngay
bản thân các tổ chức này cũng chưa có nhu cầu, hoặc chưa chủ động phát
triển và cung ứng các sản phẩm, dịch vụ về công cụ tài chính phái sinh.
- Chi phí giao dịch có liên quan đến mua- bán công cụ tài chính phái
sinh còn cao. Chi phí giao dịch gồm: chi phí tìm kiếm thông tin, chi phí
thương lượng với đối tác, chi phí để điều chỉnh trạng thái nhằm thích nghi
với điều kiện mới của thị trường, chi phí thực hiện và giám sát,…
2.2 Nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong hệ thống quản trị rủi ro tín
dụng của các NHTM Việt Nam
Thực trạng phân tích ở trên cho thực trạng hoạt động tín dụng của các
NHTM Việt Nam còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro, hệ thống quản trị RRTD
của các đơn vị này còn nhiều tồn tại, bất cập. Tình trạng đó xuất phát từ
nhiều nguyên nhân, một số nguyên nhân cơ bản đó là:
Nguyên nhân từ phía các NHTM:
- Trước hết là do bộ máy tổ chức tín dụng của các TCTD chưa hoàn
thiện, còn nhiều bất cập.
- Hầu hết các NHTM hiện nay đều chưa xây dựng được một chính sách
tín dụng phù hợp. Quy trình tín dụng còn lỏng lẻo, hoặc chính bản thân các
NH không tuân thủ đầy đủ quy trình tín dụng do chính mình đưa ra.
- Chưa thực sự có một chiến lược quản trị RRTD hiệu quả. Do các đơn
vị này quá theo đuổi mục tiêu lợi nhuận, cạnh tranh trên thị trường mà có thể
dễ dàng bỏ qua các nguyên tắc trong quản trị rủi ro, không đảm bảo được an
toàn trong hoạt động cho vay.
- Các NHTM cũng thường có thói quen tập trung nhiều công sức vào
quá trình thẩm định trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình giám sát, quản lý
đồng vốn sau khi giải ngân.
- Năng lực tài chính của các NHTM Việt Nam thực chất rất thấp, các
NH chủ yếu hoạt động ở quy mô nhỏ, điều này càng khiến các NH gặp khó
khăn trong việc chống đỡ rủi ro.
Tiểu luận môn Quản Trị Rủi Ro TS:Mai Thu Hiền
Nhóm 10 Lớp Cao học TCNH 19A Page 40
- Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ là một phần quan trọng trong hệ
thống quản trị RRTD, nhưng hầu hết tại các NHTM, đặc biệt là ở các NHTM
nhỏ, hệ thống này mới chỉ mang tính hình thức nhằm đối phó với yêu cầu và
quy định của NHNN, không phát huy được hiệu quả và tác dụng trong việc
phòng ngừa rủi ro.
- Các NH thiếu có thông tin đa chiều về khách hàng, giữa các NHTM
với nhau chưa có sự kết hợp thông tin qua lại để hỗ trợ nhau trong quá trình
phòng ngừa RRTD, sự hợp tác với Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC) chưa
hiệu quả.
- Sự lỏng lẻo trong công tác kiểm soát, kiểm toán nội bộ của các NHTM
cũng là nguyên nhân dẫn đến RRTD. Cũng giống như hệ thống xếp hạng tín
dụng nội bộ, công tác này nặng về hình thức, kém về hiệu quả.
- Ở Việt Nam, việc sử dụng các công cụ tài chính, đặc biệt là công cụ tài
chính phái sinh để phòng ngừa rủi ro tín dụng là chưa phổ biến.
- Thực tế phản ánh một số vụ việc về RRTD trong thời gian gần đây đều
có sự tiếp tay của cán bộ tín dụng. Vì vậy vấn đề đạo đức, năng lực của cán
bộ NH là vấn đề quan trọng cần cảnh báo.
Nguyên nhân từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước:
- Các cơ quan quản lý chưa có văn bản pháp lý quy định cụ thể về hệ
thống quản trị rủi ro nói chung và RRTD nói riêng cho các TCTD
- Một số các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động yêu cầu các TCTD
phải tuân thủ được đưa ra, nhưng thường xuyên có sự điều chỉnh, thay đổi
khiến các NHTM khó chủ động trong việc tính toán, duy trì các tỷ lệ đảm bảo
an toàn.
- Chưa có sự phối kết hợp của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc
giám sát hoạt động của các TCTD. Chức năng giám sát chồng chéo giữa
nhiều cơ quan, điều này còn khó khăn cho các TCTD báo cáo tình hình hoạt
động.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG QUẢN TRỊ
RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT
Tiểu luận môn Quản Trị Rủi Ro TS:Mai Thu Hiền
Nhóm 10 Lớp Cao học TCNH 19A Page 41
NAM
3.1- Nâng cao chất lượng cán bộ của Ngân hàng :
3.1.1- Năng lực điều hành của ban lãnh đạo Ngân hàng .
Nói lên vai trò quan trọng của những người đứng đầu trong một tổ
chức nói chung và trong một Ngân hàng thương mại nói riêng. Người lãnh
đạo Ngân hàng giỏi là người biết kết hợp hài hoà phát huy tối đa sức mạnh
của tát cảc các nguồn lực Ngân hàng thương mại mình có thành sức mạnh
tổng thể của Ngân hàng.
Với tư cách là người chịu trách nhiệm đầu tiên về sức cạnh tranh của
Ngân hàng, ban lãnh đạo vì vậy phải là người thực sự đủ tài trên mọi phương
diện tựu chung gồm 3 khả năng chủ yếu: khả ngăng về chuyên môn, khả
năng phân tích phán đoán và khả năng nghệ thuật đối nhân xử thế. Nghiên
cứu học hỏi không chỉ là nhiệm vụ của cán bộ công nhân viên mà nó còn là
nhiệm vụ của ban lãnh đạo Ngân hàng để lãnh đạo và đưa ra những quyết
định sáng suốt thì người lãnh đạo phải là người giỏi nhất trong mọi lĩnh vực,
có tầm nhìn rộng trong công việc, hiểu biết về pháp luật.
3.1.2- Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn và nghiệp vụ
cho các cán bộ tín dụng.
Không thể đạt được sự tiến bộ thực sự về chất lượng tín dụng nếu
không có đội ngũ cán bộ có đạo đức nghề nghiệp, có trình độ nghiệp vụ,
nhận thức xã hội và hiểu biết về pháp luật tốt. Sự hợp tác của toàn thể cán bộ
nhân viên trong Ngân hàng là sức mạnh lớn nhất để Ngân hàng có thể đứng
vững và lớn mạnh trong điều kiện khắc nghiệt hiện nay. Các Ngân hàng
thương mại cần chú trọng trong công tác tuyển dụng con người và đào tạo
cán bộ có chất lượng cao. Cần phải có định hướng tiêu chuẩn hoá cán bộ tín
dụng, yếu tố con người luôn là yếu tố chủ đạo của mọi hoạt động vì con
Tiểu luận môn Quản Trị Rủi Ro TS:Mai Thu Hiền
Nhóm 10 Lớp Cao học TCNH 19A Page 42
người là chủ thể của nền kinh tế.
Người cán bộ giỏi là người có tầm nhìn rộng trong tương lai, ví dụ một
mặt hàng sản xuất này có thể tại thời điểm hiện tại thị trường chưa cần thiết
nhưng trong một hoặc một vài năm tới nó lại là một mặt hàng không thể thiếu
đối với thi trường. Nếu như là một người cán bộ có tầm nhìn hiểu biết rộng
thì họ sẽ đầu tư vào mặt hàng sản xuất đó, và trong một vài năm tới họ sẽ có
một khoản lời đáng kể. Mặt khác, nếu như cán bộ tín dụng không nắm bắt
được thị trường và xu hướng của nó thì rủi ro mất vốn trong tương lai là rất
lớn.
Bên cạnh kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, các cán bộ tín dụng còn
phải thường xuyên trang bị thêm hiểu biết về pháp luật, thị trường, các lĩnh
vực khác về kinh tế-tài chính, tin học và ngoại ngữ. Đồng thời chú trọng giáo
dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ tín dụng, làm cho họ thấy được vai trò, vị
trí và trách nhiệm lớn lao của mình trong sự nghiệp kinh doanh của ngành để
ngày càng có sự nỗ lực trong công việc. Ngoài ra, cấp trên còn có chế độ
khen thưởng những cán bộ làm tốt và có biện pháp xử lý kịp thời những cán
bộ vi phạm, thiếu trách nhiệm trong phòng chống rủi ro, thiếu đạo đức trong
hoạt động tín dụng.
3.2- Nâng cao chât lượng thẩm định khách hàng
Trong nền kinh tế thị trường, mối quan hệ giữa doanh nghiệp và Ngân
hàng ngày cành được khẳng định. Doanh nghiệp cần Ngân hàng bên cạnh để
san bằng sự bất thường về nguồn vốn thiếu hoặc thừa, ngược lại doanh
nghiệp được coi là chỗ dựa và là động lực để Ngân hàng tồn tại và phát triển.
Ngân hàng lựa chọn doanh nghiệp từ các tiêu chuẩn cần phải có để thành lập
quan hệ tín dụng như: tư cách, năng lực hoạt động, sức mạnh tài chính, điều
kiện hoạt động và tài sản đảm bảo. Trong đó năng lực hoạt động và sức mạnh
tài chính thể hiện cho khả năng tài chính của doanh nghiệp, là yếu tố cơ bản
Tiểu luận môn Quản Trị Rủi Ro TS:Mai Thu Hiền
Nhóm 10 Lớp Cao học TCNH 19A Page 43
quyết định sự kết dính mối quan hệ.
Nói cách khác, dưới con mắt Ngân hàng năng lực tài chính của doanh
nghiệp là sự hiện thân của vốn tín dụng được bảo toàn sinh lợi, do đó nó cần
được coi là yếu tố hàng đầu để quyết định quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng
và doanh nghiệp.
Trên thực tế có một số Ngân hàng chỉ chú trọng phân tích tài chính
doanh nghiệp trên cơ sở số liệu hoạt động của doanh nghiệp trong 3 năm gần
nhất và kế hoạch kinh doanh trong thời kỳ vay vốn, kết hợp việc phân tích
hiệu quả phương án sản suất kinh doanh có sử dụng vốn vay. Song, các chỉ
số tài chính đúc kết từ báo cáo hàng năm của các doanh nghiệp chỉ là những
đại lượng mang tính thời điểm, khó có thể đại diện cho bản chất vốn có của
doanh nghiệp, chưa kể đến phần lớn con số đó đã được doanh nghiệp gọt
giũa trước khi trình Ngân hàng. Trong nhiều trường hợp tại thời điểm tưởng
như khoản tín dụng được hoàn trả thì biến cố xuất hiện- doanh nghiệp đầu tư
lỗ, tài sản Nợ tài chính gia tăng..., kết quả là phương án sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp vay vốn có hiệu qủa cao nhưng khoản tín dụng không thu
hồi được do dòng tiền cuốn trôi vào các ngõ ngách khác.
3.3- Bảo đảm tín dụng bằng tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh và bảo
hiểm tín dụng.
3.3.1- Cần nâng cao chất lượng bảo đảm tín dụng bằng hình thức thế chấp
cầm cố.
Đối với việc nhận tài sản thế chấp cầm cố điều quan trọng là phải xem
xét tính pháp lý của hồ sơ thế chấp cầm cố tài sản để đảm bảo cho việc
chuyển nhượng tài sản khi bán đấu giá tránh hiện tượng lừa đảo bằng giấy
chứng nhận sở hữu giả. bên cạnh đó cần quan tâm tới việc định giá chính xác
tài sản đặc biệt đối với tài sản là nhà đất , dây chuyền máy móc thiết bị nhập
Tiểu luận môn Quản Trị Rủi Ro TS:Mai Thu Hiền
Nhóm 10 Lớp Cao học TCNH 19A Page 44
ngoại đã qua sử dụng. nếu tài sản cầm cố thế chấp là ngoại tệ cần quan t`âm
tới các yếu tố ảnh hưởng trong tương lai như tỷ giá lạm phát .... nhất là những
khoản cho vay lớn và dài hạn.
Một thực tế là các tài sản thế chấp cầm cố rất phong phú và đa dạng
cán bộ tín dụng Ngân hàng không thể hểu rõ nguồn gốc đặc điểm những yếu
tố tác động cũng như giá trị của chúng. Ví dụ: để thực hiện một món vay thế
chấp bởi nhà đất đòi hỏi cán bộ tín dụng không chỉ có những kiến thức cơ
bản về nhà đất như luật đất đai, biểu tính giá nhà đất của chính quyền thành
phố mà còn phải hiểu biết rõ về giá cả thực những biến động của nó trên thị
trường. Một cán bộ tín dụng dù tài giỏi đến đâu cũng không thể hiểu biết
được tất cả các lĩnh vực kinh doanh trong nền kinh tế bởi vậy để có thể định
giá chính xác giá trị tài sản thế chấp cán bộ tín dụng nên đưa ra những chỉ
tiêu nhất định để đánh giá. Với tài sản thế chấp là nhà đất thì cần những chỉ
tiêu như: vị trí ngôi nhà, tình trạng hiện tại, sự biến động giá trên thị trường
... với những tài sản thế chấp cầm cố bằng máy móc thì Ngân hàng nên cùng
người vay thuê người giám định như vậy vừa khách quan vừa đảm bảo được
tính chính xác.
Một điều kiện không thể thiếu với tài sản thế chấp cầm cố là khả năng
phát mại tài sản không chỉ là những tài sản có giá trị được nhà nước cho phép
mà nó còn là những tài sản có khả năng bán được trong trường hợp khách
hàng không trả được nợ. Do vậy khi nhận tài sản thế chấp cán bộ tín dụng
không nên nhận những tài sản quá lớn, những công trình đang xây dựng dở
dang khi phát mại rất khó tìm được người mua mà nếu có cũng thể bù đắp
đựoc khoản cho vay. Bên cạnh đó, Ngân hàng cần kiểm tra kỹ giấy tờ chứng
nhận quyền sở hữu không ít trường hợp một tài sản đem thế chấp vay vốn ở
nhiều Ngân hàng. Ngoài ra, Ngân hàng nên có quan hệ tốt với địa phương
Tiểu luận môn Quản Trị Rủi Ro TS:Mai Thu Hiền
Nhóm 10 Lớp Cao học TCNH 19A Page 45
tránh vướng mắc trong quá trình sử lý tài sản thế chấp. Bởi vậy, Ngân hàng
nên yêu cầu tất cả các thành viên ký vào giấy đề nghị vay vốn.
3.3.2 Bảo lãnh:
Bảo lãnh có nhiều ưu điểm hơn so với cầm cố và thế chấp. Trong suốt
thời hạn cầm cố thế chấp phía Ngân hàng phải thường xuyên kiểm tra tình
trạng của những tài sản thế chấp này khi đó bên bảo lãnh cam kết dùng tất cả
tài sản của mình để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng sẽ không phải
quá quan tâm đến việc kiểm tra tình trạng của từng tài sản cụ thể tránh được
những nhựơc điểm của cầm cố và thế chấp. Tuy nhiên, Ngân hàng cũng có
thể gặp rủi ro mất vốn nếu bên bảo lãnh mất khả năng thanh toán bị tuyên bố
phá sản và không thể thực hiện các nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng bảo lãnh.
Chính vì vậy mà Ngân hàng nên tìm hiểu kỹ về bên bảo lãnh và chỉ chấp
thuận sự bảo lãnh của các công ty lớn và có uy tín hoặc yêu cầu bên bảo lãnh
phải dùng tài sản để cầm cố thế chấp. Khả năng thực hiện việc trả nợ vay
không chỉ phụ thuộc vào việc bên bảo lãnh có đủ tài sản mà quan trọng hơn
là bên bảo lãnh có những nguồn thu nhập ổn định để bảo đảm có tiền thanh
toán theo đúng lịch biểu của hợp đồng vay vốn. Ngân hàng cần xem xét thực
hiện nghĩa vụ của bên bảo lãnh nhằm tạo thuận lợi cho cả Ngân hàng, người
vay lẫn người bảo lãnh .
3.3.3 Thực hiện bảo hiểm tín dụng:
Có ba hình thức để bảo hiểm tín dụng như sau:
- Thứ nhất: Khách hàng vay vốn tín dụng tham gia mua bảo hiểm cho
nghành nghề mà họ kinh doanh vì vậy những khoản tín dụng trong trường
hợp này coi như cũng được bảo hiểm một cách gián tiếp. Phương pháp này
không làm phát sinh thêm thao tác nghiệp vụ trong Ngân hàng. để sử dụng
tốt hình thức này thì Ngân hàng cần có chính sách ưu tiên cho vay về khối
Tiểu luận môn Quản Trị Rủi Ro TS:Mai Thu Hiền
Nhóm 10 Lớp Cao học TCNH 19A Page 46
lượng và lãi suất đối với các doanh nghiệp, cá nhân mua bảo hiểm.
- Thứ hai: Sử dụng biện pháp bảo lưu, nghĩa là Ngân hàng tự bảo hiểm cho
chính mình bằng cách lập các quỹ dự phòng để bù đắp những thiệt hại khi
gặp rủi ro tín dụng từ đó hạn chế những hậu quả xấu có thể xảy ra mà vẫn
đảm bảo được tình hình tài chính của Ngân hàng, rủi ro luôn song hành với
hoạt động kinh doanh nhưng đối với mỗi thành phần kinh tế thì hệ số rủi ro
tín dụng có khác nhau, việc quy định tỷ trọng rủi ro cụ thể cho từng loại tín
dụng có hiệu quả hơn. Phần sử dụng vốn Ngân hàng luôn chứa đựng rủi ro,
Ngân hàng phải lấy vốn tự có để bù đắp song vốn của Ngân hàng chỉ chiếm
một phần nhỏ trong tổng số nguồn vốn hoạt động của Ngân hàng. Như vậy
hình thành quỹ dự trữ đặc biệt bù đắp rủi ro tín dụng là hợp lý và cần thiết.
Hàng năm Ngân hàng cần phải trích 10% lợi nhuận trong mọi hoạt
động kinh doanh của mình để lập quỹ dự trữ đặc biệt bù đắp rủi ro. Quỹ này
được thành lập cho đến khi bằng 100% vốn điều lệ của Ngân hàng . Quỹ dự
trữ đặc biệt này sẽ giúp Ngân hàng khắc phục được những khoản tổn thất tín
dụng do tình trạng nợ khoanh, nợ tồn đọng lâu dài... để đảm bảo an toàn cho
hoạt động của Ngân hàng.
-Thứ ba: Ngân hàng trực tiếp mua bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm
chuyên nghiệp. Như thế Ngân hàng sẽ tránh được những tổn thất khi rủi ro
xảy ra đối với những khoản vốn đầu tư.
3.4- Xử lý món vay có vấn đề.
Trong xử lý các khoản vay có vấn đề, có hai sự lựa chọ tổng quát: khai
thác hoặc thanh lý. Khai thác là một quá trình làm việc với người vay cho
đến khi khoản cho vay được trả một phần hay toàn bộ và không dựa vào các
công cụ pháp lý để ép buộc. Thanh lý là ép người vay tuân theo các điều
khoản của hợp đồng cho vay, áp dụng và thực hiện tất cả các biện pháp để
Tiểu luận môn Quản Trị Rủi Ro TS:Mai Thu Hiền
Nhóm 10 Lớp Cao học TCNH 19A Page 47
đat được mục tiêu.
Món vay có vấn đề được hiểu là món vay đã quá hạn hoặc món vay tuy
chưa đến hạn nhưng khách hàng có nguy cơ không trả được nợ cho Ngân
hàng do mất khả năng thanh toán, do thua lỗ hoặc doanh nghiệp có biểu hiện
vi phạm pháp luật như lừa đảo, trốn thuế... Xử lý món vay có vấn đề là áp
dụng các biện pháp khác nhau để thu hồi nợ. Theo kinh nghiệm của các nhà
Ngân hàng thì giải pháp khai thác là khôn ngoan hơn, vì sự tồn tại và phát
triển của khách hàng là quyết định sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng.
Chính các giải pháp mềm dẻo, linh hoạt này đã cứu không ít khách hàng từ
chỗ sắp ''khuynh gia bại sản'' đến chỗ "gượng" lại được, tiếp tục tồn tại, phát
triển và ngày càng gắn bó với Ngân hàng. Các giải pháp khai thác bao gồm:
- Thương lượng gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ, giãn nợ.
- Tiếp thêm vốn giúp khách hàng.
- Đảo nợ.
3.5- Mở rộng cạnh tranh.
3.5.1 Mở rộng quan hệ tín dụng nhằm phân tán rủi ro
Hiện nay, phạm vi hoạt động tín dụng của các Ngân hàng còn hẹp,
phần lớn là các doanh nghiệp Nhà nước, vốn cho vay lớn nhưng chưa năng
động. Các Ngân hàng thương mại cần phải mở rộng quan hệ tín dụng với tất
cả các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế ngoài quốc doanh.
Biện pháp phân tán rủi ro là tránh tập trung quá lớn vào một lĩnh vực đầu tư,
vào một mặt hàng không có sức mạnh cạnh tranh... để đến khi doanh nghiệp
không có khả năng trả nợ thì Ngân hàng sẽ không chịu ảnh hương lớn. Vì
thế, các NHTM phải phân tán rủi ro bằng cách cho vay vào nhiều đối tượng,
nhiều khách hàng khác nhau với nhiều lĩnh vực khác nhau.
3.5.2 Đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ tín dụng.
Đây là biện pháp nhằm phân tán rủi ro đã được các Ngân hàng trên thế
Tiểu luận môn Quản Trị Rủi Ro TS:Mai Thu Hiền
Nhóm 10 Lớp Cao học TCNH 19A Page 48
giới áp dụng một cách có hiệu quả. Các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam
có đến 90% tài sản nợ là đầu tư trực tiếp nên khả năng rủi ro rất cao. Vì thế
muốn hạn chế rủi ro tín dụng thì việc đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ tín
dụng rất cần được coi trọng. Có đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ thì Ngân
hàng mới có thêm lợi nhuận mà các dịch vụ đem lại.
Muốn đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ thì các Ngân hàng thương
mại phải tăng cường các trang thiết bị hiện đại như: máy vi tính, máy Fax
cũng như cơ sở vật chất, thiết bị kho tàng. Đồng thời phải đào tạo, nâng cao
trình độ ngoại ngữ, vi tính thu thập thông tin thị trường... cho cán bộ Ngân
hàng.
Các Ngân hàng nên thiết lập mối quan hệ với các trung tâm môi giới,
tư vấn pháp luật... để chuẩn bị những điều kiện cần thiết để tham gia vào thị
trường vốn, thị trường chứng khoán.
Phải từng bước chuyển dịch cơ cấu từ vốn bán lẻ sang bán buôn, mở
rộng và phát triển dịch vụ đã có như thanh toán Quốc tế, bảo lãnh, kinh
doanh ngoại tệ, thanh toán L/C... Khi hình thành và phát triển những dịch vụ
mới, Ngân hàng không những thích nghi với nhu cầu của quá trình tái sản
xuất mà bằng con đường đa dạng hoá việc cung ứng tín dụng sẽ thu hút được
nhiều khách hàng, qua đó tăng thêm thu nhập cho mình mà có một nguồn
nhất định để bù đắp nhũng rủi ro tín dụng mà Ngân hàng gặp phải. Tuy
nhiên, muốn đa dạng hoá dịch vụ Ngân hàng đòi hỏi các Ngân hàng phải có
một khoản chi phí lớn về tiền của vì nó phụ thuộc vào quá trình hiện đaị hoá
công nghệ Ngân hàng cả về máy móc thiết bị lẫn trình độ tinh thông nghiệp
vụ mới của cán bộ Ngân hàng .
3.5.3. Thiết lập mối quan hệ tốt và lâu bền với khách hàng.
Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại, khách hàng
vừa là người cung cấp nguồn vốn cho hoạt động tín dụng, đồng thời cũng là
Tiểu luận môn Quản Trị Rủi Ro TS:Mai Thu Hiền
Nhóm 10 Lớp Cao học TCNH 19A Page 49
người sử dụng nguồn vốn này nên khách hàng có ý nghĩa rất quan trọng.
Thiết lập mối quan hệ tốt và lâu bền với khách hàng giúp các Ngân hàng
thương mại có điều kiện nắm vững các thông tin có liên quan tới khách hàng,
các Ngân hàng sẽ có đối sách thích hợp để có thể đứng vững môi trường
cạnh tranh.
Thiết lập mối quan hệ tốt và lâu bền với khách hàng sẽ giúp Ngân
hàng:
- Đánh giá đúng chất lượng khách hàn hệ tín dụng thường xuyên, Ngân
hàng có thể nắm bắt, tiết kiệm được chi phí thẩm định và kiểm tra giám sát.
Thông qua việc quan được những thông tin về hoạt động kinh doanh của
khách hàng. Căn cứ vào số tiền dư trên tài khoản của họ, Ngân hàng sẽ biết
được khả năng tiềm tàng và chu kỳ sử dụng vốn, tiền mặt cũng như quan hệ
với các khách hàng khác trong việc mua nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm...
Đây là cách tốt nhất để thu thập thông tin về khàch hàng và là cơ sở để Ngân
hàng tiết kiệm được cho việc thẩm định, sàng lọc thông tin, tránh được rủi ro
về đạo đức, kế hoạch hoá được nguồn cũng như các chi phí giám sát khách
hàng khi đã có sẵn phương thức giám sát khách hàng.
- Thu hút vốn để củng cố đầu vào mở rộng đầu ra theo đúng yêu cầu
của khách hàng, thông qua mối quan hệ lâu bền với khách hàng Ngân hàng
có thể huy động được một khối lượng nguồn vốn từ tiền gửi của khách hàng.
Sự am hiểu của khách hàng sẽ làm cho Ngân hàng hiểu rõ nhu cầu của khách
hàng về loại tín dụng, khối lượng tín dụng, giá cả cho vay để có kế hoạch bố
trí nguồn vốn kịp thời đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng của khách hàng. Do tiết
kiệm được chi phí trong thẩm định, kiểm tra giám sát khách hàng nên Ngân
hàng sẽ có đủ điều kiện để hạ lãi suất cho vay, điều đó sẽ cuốn hút được
khách hàng, làm cho khách hàng gắn bó hơn với Ngân hàng. Mối quan hệ
Tiểu luận môn Quản Trị Rủi Ro TS:Mai Thu Hiền
Nhóm 10 Lớp Cao học TCNH 19A Page 50
không những ngày càng được củng cố đối với khách hàng sẽ càng có cơ hội
để nâng cao chất lượng tín dụng.
- Đề ra chính sách chiến lược, kế hoạch tác nghiệp trong từng thời kỳ
và xu hướng phát triển hoạt động Ngân hàng trong tương lai để không ngừng
thích nghi với sự biến động của thị trường, tìm kiếm cơ hội không ngừng
nâng cao chất lượng tín dụng và hiệu quả kinh doanh Ngân hàng.
Có điều kiện giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng, nhất là rủi ro
về đạo đức để vươn tới sự hoàn thiện về chất lượng tín dụng, nhằm tạo dựng
được hình ảnh, biểu tượng tốt của Ngân hàng trên thị trường.
Để thiết lập mối quan hệ tốt, lâu bền với khách hàng, Ngân hàng phải
có kế hoạch củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động, đề cao uy tín của
Ngân hàng trên thị trường, thông qua việc cải thiện và mở rộng thêm nhiều
hình thức phục vụ, đổi mới tác phong kinh doanh, thu hút thêm nhiều khách
hàng đối với Ngân hàng như những người bạn tin cậy.
Tiểu luận môn Quản Trị Rủi Ro TS:Mai Thu Hiền
Nhóm 10 Lớp Cao học TCNH 19A Page 51
KẾT LUẬN
Mặc dù hoạt động tín dụng của Ngân hàng đem lại hiệu quả cao nhưng
kèm theo đó là rủi ro tiềm ẩn rất lớn. Một Ngân hàng gặp rủi ro lớn sẽ ảnh
hưởng tới toàn bộ hệ thống Ngân hàng.Vì thế, rủi ro tín dụng là vấn đề quan
tâm hàng đầu không những đối với cán bộ Ngân hàng mà còn là của toàn xã
hội.
Bên cạnh những chuyển biến tích cực trong quá trình hoạt động, các
Ngân hàng thương mại đã và đang gặp không ít khó khăn trong việc huy
động vốn và sử dụng vốn đạt hiệu quả. Đặc biệt đối với kinh tế ngoài quốc
doanh, hoạt động cho vay đối với loại hình này còn có nhiều hạn chế cả về số
lượng và chất lượng. Với tính cấp thiết này, mong rằng một số biện pháp
hoàn thiện rủi ro tín dụng sẽ góp một phần nhỏ vào hoạt động tín dụng của
Ngân hàng nói riêng và hoạt động kinh doanh tiền tệ nói chung. Qua đó, góp
phần củng cố sự phát triển và ổn định của hệ thống Ngân hàng thương mại
Việt Nam
Tiểu luận môn Quản Trị Rủi Ro TS:Mai Thu Hiền
Nhóm 10 Lớp Cao học TCNH 19A Page 52
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Mai Thu Hiền (2013), ĐH Ngoại Thương, Bài giảng môn quản
trị rủi ro.
2.
%20Risk%20management.pdf
3.
4.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhom_10_qtrr_4853.pdf