MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng là ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng, làm tiền đề cho việc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong những năm đổi mới, ngành xây dựng đó hoàn thành nhiều công trình trọng điểm do Nhà nước đầu tư xây dựng, cải tạo, như quốc lộ 1A; đường Hồ Chí Minh; Thủy điện Sơn La; Khu lọc dầu Dung Quất; các công trình phục vụ SEA Games 22; công trình Trung tâm Hội nghị quốc gia . Những công trình nói trên cùng với hàng trăm công trình khác đã làm thay đổi diện mạo đất nước, góp phần quan trọng bảo đảm cho tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của toàn xã hội.
Tuy nhiên, cùng với những thành tựu to lớn đã đạt được thì tình hình vi phạm pháp luật trong đầu tư xây dựng xảy ra ngày càng nhiều, phương thức thủ đoạn ngày càng tinh vi, gây thất thoát nghiêm trọng cho ngân sách nhà nước; nhiều vụ tham nhòng lớn trong lĩnh vực đầu tư xây dựng, gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng tài sản của Nhà nước đó bị phát hiện, xử lý nghiêm theo pháp luật (Ví dụ như: vụ xây dựng khu vui chơi giải trí Thủy cung Thăng Long - Hà Nội; vụ Lã Thị Kim Oanh; vụ Công ty Dịch vụ kỹ thuật dầu khí Vietsovpetro; vụ thi công xây dựng Kho cảng Thị Vải; vụ Rusalka - Nha Trang do Nguyễn Đức Chi cầm đầu .). Qua công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát các dự án xây dựng lớn cũng cho thấy có nhiều dự án vi phạm quy định về thẩm định dự án; vi phạm quy chế đấu thầu; thi công sai thiết kế, sai chủng loại vật tư, thiết bị, không phê duyệt khối lượng phát sinh, vi phạm các quy định về trình tự thủ tục trong quản lý đầu tư xây dựng, về quản lý chất lượng, nghiệm thu, thanh toán công trình; vi phạm về thiết kế, khảo sát; vi phạm quy định trong giai đoạn đưa công trình vào khai thác, sử dụng. Hơn nữa, tiêu cực, tham nhòng trong đầu tư xây dựng cơ bản xảy ra ở hầu hết các khâu, từ lập dự án, khảo sát, thiết kế, đầu tư đến thi công, nghiệm thu, quyết toán công trình, diễn biến rất phức tạp và ngày càng nghiêm trọng. Công tác cấp phép xây dựng và quản lý trật tự xây dựng vẫn còn nhiều tồn tại, một số địa phương tự đặt thêm các thủ tục ngoài quy định, việc kiểm tra thực hiện xây dựng theo giấy phép và quản lý trật tự xây dựng còn bị buông lỏng, xử lý chưa kịp thời, chưa nghiêm minh; tình trạng xây dưng sai phép, không phép vẫn diễn ra phức tạp và có chiều hướng gia tăng cả về số lượng và quy mô xây dựng gây ảnh hưởng tới cảnh quan, môi trường đô thị, thậm chí đó xảy ra các sự cố nghiêm trọng gây thiệt hại cả về người và của nhưng kết quả phát hiện, điều tra, xử lý của các cơ quan chức năng cònn thấp.
Tình hình nêu trên do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân do tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự yếu kém trong quản lý kinh tế, sự bất cập, thiếu đồng bộ của hệ thống các quy định pháp luật về quản lý, kiểm tra, thanh tra, giám sát trong đầu tư xây dựng, vai trò của cơ quan chủ quản trong việc tuân thủ pháp luật, năng lực quản lý yếu kém và việc chấp hành kỷ cương, pháp luật của Nhà nước chưa nghiêm và một phần trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của những người làm công tác thanh tra xây dựng.
Để khắc phục tình trạng trên, việc tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực xây dựng là một yêu cầu rất cấp thiết và phải tiến tới đưa những việc này trở thành nề nếp thường xuyên. Từ đó, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng cú ý nghĩa cấp thiết cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về thanh tra nói chung và thanh tra xây dựng ở nước ta hiện nay. Bởi vậy, việc nghiên cứu đề tài "Hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng ở Việt Nam hiện nay" có ý nghĩa lý luận, thực tiễn quan trọng đáp ứng yêu cầu bức xúc hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, trong thời gian qua, việc nghiên cứu về hoạt động thanh tra xây dựng và pháp luật về thanh tra xây dựng nhìn chung còn mới mẻ, chưa được quan tâm đầy đủ, do trên thực tế những công trình khoa học nghiên cứu hoạt động thanh tra xây dựng còn rất ít.
Nghiên cứu các tài liệu hiện hành cho thấy, các công trình khoa học nghiên cứu chủ yếu tập trung vào hai nhúm:
- Nhóm nghiên cứu về thanh tra và thanh tra chuyên ngành có một số công trình tiêu biểu như: Luận văn tiến sĩ Luật học: “Những vấn đề pháp lý cơ bản của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra nhà nước Việt Nam” của tác giả Phạm Tuấn Khải; Luận văn thạc sĩ Luật học: “Vai trò của Các cơ quan thanh tra nhà nước trong giải quyết khiếu nại hành chính ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Kim (năm 2004); Đề tài khoa học cấp bộ: “Thực trạng tổ chức và hoạt động thanh tra bộ, ngành, chuyên ngành ở nước ta - những vấn đề đặt ra và giải pháp” của tác giả Phạm Văn Khanh năm 1997”; Đề tài khoa học "Xác định mức độ thất thoát trong đầu tư xây dựng" của Tổng Hội xây dựng Việt Nam (năm 2005); “Phòng, chống tham nhũng trong xây dựng cơ bản” của tác giả Lê Thế Tiệm .
- Nhóm nghiên cứu về phát triển thanh tra, thanh tra xây dựng hiện nay còn rất ít công trình khoa học nghiên cứu. Nhóm này có một số công trình như: Thanh tra Nhà nước (2007): "Những nội dung cơ bản của Luật thanh tra" - Sách hướng dẫn nghiệp vụ. Nguyễn Ngọc Tản "Một số vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp luật về thanh tra” - Tạp chí Thanh tra số 1 - 2007 .
Nhìn chung các công trình nghiên cứu nêu trên đã nghiên cứu, phân tích lý giải nhiều vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động thanh tra và thực trạng của thanh tra và pháp luật về thanh tra nói chung. Tuy nhiên, các công trình đó chưa đề cập cụ thể đến những vấn đề của hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực xây dựng vốn được coi là một trong những vấn đề bức xúc của công tác thanh tra hiện nay. Chính vì vậy, trên cơ sở kế thừa các kết quả của các công trình nghiên cứu liên quan, luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng ở nước ta hiện nay để từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật và thanh tra xây dựng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực thanh tra xây dựng.
Mặc dù vậy, những công trình khoa học đó được công bố nêu trên là tài liệu tham khảo có giá trị cho việc nghiên cứu và hoàn thiện đề tài của luận văn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Thanh tra xây dựng không chỉ là hoạt động có tính chất chuyên môn, nghiệp vụ đơn thuần, mà còn mang ý nghĩa quan trọng trong quản lý nhà nước về xây dựng và phát triển đô thị hiện nay. Việc nghiên cứu toàn diện cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động thanh tra xây dựng là vấn đề phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước khác như về đất đai, môi trường, giao thông . Chính vì vậy, luận văn tập trung làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về thanh tra xây dựng, làm sáng tỏ khái niệm, bản chất, đặc trưng của thanh tra xây dựng; khái niệm, đặc điểm pháp luật về thanh tra xây dựng, những yêu cầu đặt ra đối với hoàn thiện pháp luật thanh tra xây dựng; kiến nghị những giải pháp hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng, nâng cao hiệu quả của hoạt động thanh tra xây dựng. Việc nghiên cứu luận văn căn cứ vào thực tiễn tổ chức và hoạt động thanh tra xây dựng, đặc biệt là từ sau thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay).
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
4.1. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn, pháp luật về thanh tra xây dựng, luận văn đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu, làm rõ khái niệm, bản chất, đặc trưng; nguyên tắc, vai trò của thanh tra xây dựng; khái niệm, đặc điểm và nội dung của pháp luật thanh tra xây dựng, tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật thanh tra xây dựng.
- Đánh giá khái quát sự hình thành và phát triển của thanh tra xây dựng, thực trạng pháp luật về thanh tra xây dựng, thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật về thanh tra xây dựng, làm rõ những vướng mắc, bất cập trong pháp luật về thanh tra xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật thanh tra xây dựng.
- Luận giải yêu cầu khách quan, quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật thanh tra xây dựng ở Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là học thuyết Mác-Lênin về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách hành chính.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin với những phương pháp nghiên cứu như: lịch sử - cụ thể, phân tích - tổng hợp; kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác như: thống kê, so sánh, tổng kết thực tiễn.
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn là cụng trình đầu tiên nghiên cứu tương đối toàn diện, hệ thống về cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật thanh tra xây dựng, vỡ vậy luận văn có một số điểm mới sau:
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận về thanh tra xây dựng; đưa ra khái niệm, chỉ rõ đặc điểm, nội dung, vai trò của pháp luật về thanh tra xây dựng và xác lập Các tiêu chớ hoàn thiện pháp luật thanh tra xây dựng.
- Chỉ ra những hạn chế, khó khăn, vướng mắc, bất cập của pháp luật về thanh tra xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về thanh tra xây dựng.
- Xác lập các quan điểm và đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng trong thời gian tới.
7. Ýnghĩa của luận văn
- Các kết quả nghiên cứu của luận văn gúp phần làm phong phú thêm lý luận về thanh tra nói chung và thanh tra xây dựng nói riêng.
- Luận văn là tài liệu tham khảo có giá trị cho các nhà hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật và những ai quan tâm đến nội dung nghiên cứu của đề tài luận văn.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương, 8 tiết.
91 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2920 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thanh tra xây dựng hiện nay cho thấy khó khăn lớn nhất trong việc giải quyết khiếu nại, tố cỏo về thanh tra xây dựng là những khiếu nại liên quan đến nhà đất, đền bù giải toả. Những bức xỳc, bất cập trong thanh tra xây dựng một phần cũn do ý thức pháp luật và chấp hành pháp luật về xây dựng của người dân, cơ quan, tổ chức cũn hạn chế, nhiều trường hợp các chủ đầu tư không hiểu hết các quyền và nghĩa vụ của mình nờn không tự nguyện, cản trở, chống đối các cơ quan thanh tra xây dựng thực thi nhiệm vụ và khiếu nại, tố cáo vượt cấp, không đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết đó làm tăng sự phức tạp trong một số vụ việc.
Nguyờn nhõn của tình trạng này một phần là do một số địa phương chưa phát huy tốt vai trò lónh đạo, chỉ đạo và phối hợp giữa cấp uỷ Đảng, chính quyền; chưa có quy chế phối hợp liên ngành để xử lý các vấn đề vướng mắc, những vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp trong hoạt động xây dựng.
Bảy là, thực hiện Luật xây dựng, Nghị định số 46/2005/NĐ-CP ngày 6/4/2005 của Chính phủ, đội ngũ cán bộ thanh tra xây dựng đó cú những đổi mới, nhiệm vụ, quyền hạn được quy định cụ thể hơn. Tuy nhiên, trong thực tế cũng cũn một số khó khăn, vướng mắc sau:
+ Quyền hạn, nhiệm vụ của Thanh tra viên xây dựng chưa được qui định đầy đủ. Ví dụ: Pháp luật chưa có qui định quyền hạn của Thanh tra viên xây dựng được phép ra quyết định cưỡng chế phỏ dỡ cụng trình vi phạm tuy rằng Thanh tra viên xây dựng là một chức danh được bổ nhiệm để thực hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực này. Nhỡn về mặt hình thức thỡ Thanh tra viên xây dựng được giao rất nhiều quyền, nhưng thật ra chủ yếu là quyền “yêu cầu”, “đề nghị”, "kiến nghị" cũn việc Các cơ quan, tổ chức hữu quan có đáp ứng yêu cầu của Thanh tra viên xây dựng hay khụng thỡ pháp luật lại khụng quy định cụ thể. Theo quy định thỡ khi phỏt hiện vi phạm pháp luật về xây dựng, Thanh tra viên xây dựng phải báo cáo người cú thẩm quyền để có biện pháp xử lý nờn đó hạn chế quyền chủ động của Thanh tra viên xây dựng trong việc xử lý Các vi phạm pháp luật. Cũng chớnh vỡ vậy mà trong thực tế cú nhiều cụng trình xây dựng trỏi phộp nhưng do khụng cú biện pháp xử lý kịp thời, kiên quyết nên sau khi hoàn thành mới phải "cắt ngọn" gây nhiều bức xúc dư luận như một số phương tiện thông tin đó nêu gần đây.
+ Đội ngũ cán bộ, công chức của các cơ quan thanh tra xây dựng hiện nay cũng cũn những bất cập trước yêu cầu thực thi nhiệm vụ. So với nhu cầu thực tế cụng việc thỡ số lượng Thanh tra viên xây dựng, cỏn bộ, cụng chức thanh tra xây dựng vẫn cũn thiếu và chưa tương xứng giữa số lượng và chất lượng. Với số lượng cụng việc ngày càng gia tăng trong điều kiện phát triển đô thị như hiện nay, nhất là tại Các thành phố lớn, nờn nhiều cơ quan thanh tra xây dựng quỏ tải cụng việc. Khó khăn lớn nhất hiện nay của các thành phố lớn là thiếu lực lượng khi thí điểm thành lập thanh tra xây dựng cấp quận và cấp phường. Ví dụ: để triển khai thực hiện Quyết định số 89/2007/QĐ-TTg ngày 18/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ thỡ Thanh tra xây dựng cấp quận cú Chỏnh Thanh tra, 1 đến 2 Phó Chánh Thanh tra và một số Thanh tra viên xây dựng. Biên chế của cấp quận cú từ 15-20 Thanh tra viên xây dựng một số chức danh khác (lái xe, kế toán, tổng hợp kiêm văn thư - lưu trữ, đánh máy kiêm thủ quỹ); biên chế của Thanh tra xây dựng cấp phường thuộc chỉ tiêu biên chế của cấp quận, có từ 3 đến 4 Thanh tra viên xây dựng. Với yêu cầu như vậy thỡ thành phố Hà Nội sẽ cần khoảng 1.000 Thanh tra viên xây dựng cấp phường nhằm làm tốt công tác thanh tra từ cấp cơ sở nhưng thực tế thỡ không thể đáp ứng ngay được. Hơn nữa, theo quy định của pháp luật, lực lượng Thanh tra xây dựng cấp phường cũn phải đáp ứng được những yêu cầu về trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ. Theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thanh tra viên xây dựng cấp quận, cấp phường phải tốt nghiệp cao đẳng xây dựng hoặc tương đương trở lên, trường hợp tốt nghiệp chuyên ngành khác thỡ phải học qua khúa học về pháp luật xây dựng và được nơi đào tạo cấp chứng chỉ, có ít nhất hai năm làm công tác trong ngành xây dựng (không kể thời gian tập sự) đối với những người được tuyển dụng vào cơ quan thanh tra. Trường hợp là cán bộ, công chức công tác ở cơ quan, tổ chức khác chuyển sang cơ quan thanh tra phải có ít nhất một năm làm công tác thanh tra. éồng thời, được đào tạo về kiến thức pháp luật xây dựng và nghiệp vụ thanh tra, có chứng chỉ do cơ quan đào tạo cấp... Như vậy, để thực sự đáp ứng các yêu cầu trên thỡ phải mất nhiều thời gian để tổ chức xong lực lượng, trong khi thực trạng công tác quản lý xây dựng trờn địa bàn rất phức tạp, yêu cầu lực lượng ổn định đi vào hoạt động càng sớm càng tốt. Song trờn thực tế yờu cầu trờn khụng thể thực hiện ngay được, bởi vỡ ngay cả lực lượng thanh tra xây dựng cấp quận ở thành phố Hà Nội tuy được thành lập từ năm 2002 nhưng đến nay cũng đang thiếu "nhân lực" nghiêm trọng. Huyện Từ Liêm, một địa bàn đang có tốc độ đô thị hóa nhanh, công tác quản lý trật tự xây dựng phức tạp hiện cú 12 Thanh tra viên xây dựng cấp quận, nhưng chỉ có ba người được cấp thẻ Thanh tra viên xây dựng. Số cũn lại chưa đạt "chuẩn" hoặc đó tốt nghiệp đại học nhưng lại không được thi để bổ nhiệm Thanh tra viên xây dựng [1]. Hơn nữa, một khó khăn nữa là ở một số địa phương, cán bộ phụ trách đô thị tại một số xó khụng đủ trình độ để thực thi các thủ tục cấp phép xây dựng, có cán bộ không đủ khả năng đọc bản vẽ nên không thể cấp phép cho người dân, đó là chưa kể đến thực trạng thiếu nhân lực, trong khi địa bàn quản lý quỏ rộng. Ví dụ như ở thành phố Hồ Chí Minh, do chưa có quy hoạch chi tiết 1/2000 phủ kín địa bàn thành phố, trình độ chuyên môn, năng lực quản lý và số lượng nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế, phí chuyển mục đích sử dụng đất cũn khỏ cao (cú trường hợp cũn cao hơn cả tiền xây dựng một căn nhà), thủ tục hành chính cũn rườm rà trong khi nhu cầu về nhà ở của người dân ngày càng tăng, đặc biệt là bộ phận dân cư nội thành bị giải tỏa, dân di cư tự do nên sự bất cập về số lượng và chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thanh tra xây dựng như vậy cũng là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng xây dựng sai phộp, khụng phộp tiếp diễn phức tạp [20].
Những bất cập về nhõn lực nờu trờn cú thể nói là bài toỏn nan giải của cụng tác thanh tra xây dựng hiện nay, bởi vỡ để giảm bớt sự quỏ tải cụng việc cho Thanh tra viên xây dựng thỡ chúng ta phải tăng biên chế cho các cơ quan thanh tra xây dựng, đặc biệt là cấp quận, phường, nhưng chúng ta không thể cứ tăng mói biên chế cho Các cơ quan thanh tra xây dựng trong khi đang phải thực hiện cải cách hành chính nhà nước, tinh giản biên chế trong các cơ quan hành chính nhà nước. Nguyờn nhõn của tình trạng này một phần là do chế độ, chính sách đối với Thanh tra viên xây dựng, cỏn bộ, cụng chức làm cụng tác thanh tra xây dựng cũn có những điểm chưa phù hợp với đặc thù nghề nghiệp, tính chất phức tạp của cụng tác thanh tra xây dựng. Mặt khác, khó khăn trong việc tuyển dụng công chức thanh tra xây dựng cũn do chưa có sự đổi mới nhận thức về vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra viên xây dựng.
+ Trong thời gian qua, tuy đội ngũ cán bộ, Thanh tra viên xây dựng đó từng bước được nâng cao song các giải pháp đào tạo, bồi dưỡng để đổi mới và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, Thanh tra viên xây dựng cũn manh mỳn, thiếu nhất quỏn, thiếu hiệu quả, việc quy hoạch cỏn bộ cũn hình thức và ớt tác dụng nờn so với yờu cầu thực tế vẫn cũn thiếu hụt về số lượng, một bộ phận không nhỏ cũn yếu về chuyờn mụn, nghiệp vụ, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ công tác, thiếu chủ động, trông chờ vào sự hướng dẫn của cấp trên, chậm cập nhật những quy định mới của pháp luật. Trong một số trường hợp do cỏn bộ, cụng chức thanh tra chưa bám sát địa bàn, sa sút về đạo đức, bản lĩnh nghề nghiệp, thiếu tinh thần trách nhiệm, không chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật nên đó cú những sai phạm trong hoạt động bị kỷ luật, thậm chí bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Tỏm là, đảm bảo cơ sở vật chất, điều kiện, phương tiện làm việc cho các cơ quan thanh tra xây dựng là một vấn đề quan trọng nhằm nâng cao năng lực cơ quan và cá nhân được giao nhiệm vụ thanh tra xây dựng. Tuy nhiên, hiện nay việc đầu tư, đảm bảo điều kiện vật chất, phương tiện làm việc cho các cơ quan thanh tra xây dựng chậm được tăng cường, thủ tục và biện pháp hỗ trợ cho hoạt động thanh tra xây dựng cũn bất cập so với đũi hỏi của thực tiễn; đầu tư (từ nghiên cứu, xây dựng chính sách, pháp luật đến con người, cơ sở vật chất, điều kiện làm việc, phương tiện hoạt động của Thanh tra viên xây dựng, cỏn bộ thanh tra xây dựng...) chưa tương xứng với nhiệm vụ được giao và yờu cầu của cụng tác thanh tra xây dựng. Việc xây dựng trụ sở cơ quan thanh tra xây dựng cũng cũn nhiều khú khăn, nhiều cơ quan thanh tra xây dựng chưa có trụ sở, phải đi thuê trụ sở làm việc. Trong điều kiện đẩy mạnh cải cách hành chính và tăng cường ứng dụng tin học trong quản lý điều hành, nhất là đối với việc thực thi nhiệm vụ thanh tra xây dựng hiện nay nhưng các cơ quan thanh tra xây dựng từ trung ương đến địa phương chưa được đầu tư đầy đủ nên Thanh tra viên xây dựng, cỏn bộ, cụng chức Các cơ quan thanh tra xây dựng gặp nhiều khó khăn trong việc ứng dụng tin học trong thực thi nhiệm vụ, truy cập, tỡm hiểu những văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành, khai thác dữ liệu, chia sẻ thụng tin, kinh nghiệm giữa Các cơ quan thanh tra xây dựng, gặp nhiều khó khăn trong công tác phối hợp, báo cáo xin ý kiến chỉ đạo nghiệp vụ... Bên cạnh đó, những quy định pháp luật hiện hành về chế độ phụ cấp, kinh phí, thiết bị kỹ thuật, phương tiện làm việc cho các Thanh tra viên xây dựng, cán bộ, công chức cơ quan thanh tra xây dựng không phù hợp với thực tế nên chưa thực sự khuyến khích đội ngũ công chức các cơ quan thanh tra xây dựng thực thi cụng vụ.
2.2.3. Nguyờn nhõn của những hạn chế, bất cập
Một số hạn chế, bất cập nêu trên bắt nguồn từ những nguyên nhân cơ bản như sau:
- Tốc độ phát triển đô thị của các tỉnh, thành phố, đặc biệt là trong những năm gần đây, nhiều thị xó thuộc tỉnh đó được công nhận là thành phố thuộc tỉnh nên nhu cầu và tốc độ phát triển đô thị đó cú những bước tiến mới. Một bộ phận dân cư đó cú tích luỹ và cú nhu cầu cải thiện nhà ở theo khả năng và nhận thức của mỗi người, trong khi đó điều kiện hiện tại có rất nhiều khó khăn và đó kộo dài nhiều năm do đó nhu cầu cải tạo và xây dựng mới về nhà ở trở nờn bức xỳc.
- Hệ thống văn bản của nhà nước có liên quan đến quản lý trật tự xây dựng đô thị thiếu thống nhất, không đồng bộ; các văn bản hướng dẫn chậm được ban hành đó gõy khú khăn cho công tác quản lý; thủ tục cấp giấy phép xây dựng trong thời gian dài cũn nhiều phức tạp và phiền hà.
- Nhà nước và chính quyền các cấp đó cú những chủ trương khuyến khích nhân dân tham gia phát triển nhà ở. Song cơ chế, chính sách, các văn bản hướng dẫn thực hiện cũn nhiều bất cập, chưa phù hợp và luôn thay đổi. Cơ sở pháp luật để quản lý đô thị chưa đầy đủ, việc xác lập quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất, việc triển khai quy hoạch chi tiết chậm. Việc triển khai tổ chức lực lượng làm nhiệm vụ thanh tra xây dựng cũn gặp nhiều khú khăn cả về điều kiện vật chất, kinh phí và con người.
- Trong quản lý đô thị, nhà nước và chính quyền địa phương luôn chỉ đạo theo hướng yêu cầu xử lý nghiêm minh Các vi phạm (nhà xây dựng khụng phộp, sai phộp chỉ ỏp dụng biện pháp dỡ bỏ, nghiêm cấm chớnh quyền quận, huyện phạt cho tồn tại) nhưng thực tế yêu cầu này chưa đáp ứng được; chớnh quyền Các cấp ở một số địa phương chưa có những chỉ đạo cương quyết, đủ mạnh, đủ tầm để giải quyết triệt để ngay từ đầu, cũn buụng lỏng quản lý, nộ trỏnh, đùn đẩy trách nhiệm, thiếu kiểm tra, đôn đốc thực hiện nờn các vi phạm không được xử lý thớch đáng, kịp thời, dứt điểm; các cơ quan quản lý chuyờn ngành cũng khụng làm hết trách nhiệm được giao, chưa có mối quan hệ thường xuyên, trách nhiệm với chính quyền địa phương trong quản lý và xử lý để phát huy sức mạnh tổng hợp, tạo nên sự chuyển biến thực sự trong quản lý đô thị, quản lý trật tự xây dựng đô thị.
- Một bộ phận nhân dân chưa nhận thức được đầy đủ về yêu cầu công tác quản lý đô thị, quản lý trật tự xây dựng đô thị, nếp sống đô thị và ý thức pháp luật chưa cao, thậm chí một số cán bộ, đảng viên chưa gương mẫu chấp hành các quy định về quản lý đô thị, quản lý trật tự xây dựng đô thị, vỡ vậy tình trạng lấn chiếm đất đai, xây dựng không phép, sai phép đó xảy ra nhiều nơi, nhất là các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
- Năng lực của chủ đầu tư mà trực tiếp là Các Ban quản lý dự ỏn và các chủ đầu tư tư nhân cũn nhiều bất cập. Họ không chỉ yếu kém về chuyên môn và điều đáng lưu ý là khụng cú sự hiểu biết về pháp luật trong xây dựng. Kết quả kiểm tra, thanh tra tại Các dự ỏn này đều cho thấy trình tự, thủ tục đầu tư xây dựng không được tuân thủ đúng theo quy định. Chủ đầu tư và ban quản lý dự ỏn cũng khụng hiểu rừ về nghĩa vụ của mình trong khi đó năng lực của các nhà thầu không được quản lý chặt chẽ, Các cụng trình mà tư nhân là chủ đầu tư thường không thực hiện chế độ giám sát thi công xây dựng đúng quy định (Ví dụ như vụ sập đổ nhà ở Long An, ở thành phố Hồ Chớ Minh trong thời gian vừa qua cú nguyờn nhõn trực tiếp là các nhà thầu không đủ điều kiện năng lực). Trong khi đó, vai trò quản lý nhà nước của chính quyền địa phương chưa phát huy hiệu quả, công tác kiểm tra, thanh tra cũn hạn chế nờn khụng kịp thời phỏt hiện, ngăn chặn các vi phạm về chất lượng công trình xây dựng.
- Công tác tuyên truyển, phổ biến pháp luật, các quy định trong xây dựng chưa được coi trọng và thực hiện thường xuyên để mọi tổ chức, mọi người dân biết và thực hiện. Vỡ vậy, chưa vận động được toàn dân tham gia quản lý đô thị, quản lý trật tự xây dựng đô thị và cú ý thức chấp hành Các quy định pháp luật về xây dựng.
- Theo quy định của Luật Xây dựng, thỡ Uỷ ban nhõn dõn cấp huyện phải quy định cụ thể những điểm dân cư tập trung để giải quyết cấp phép xây dựng thuộc địa giới hành chính do mình quản lý. Tuy nhiên, tại Các huyện ngoại thành, cụng tác này tại nhiều địa phương hầu như chưa được thực hiện nên khi người dân có nhu cầu xây dựng, cơ quan cấp phép từ chối giải quyết hồ sơ vỡ khụng cú cơ sở giải quyết, dẫn đến tình trạng người dân tự xây dựng không phép và chấp nhận bị xử phạt vi phạm hành chính.
Từ thực tiễn thực hiện pháp luật về thanh tra xây dựng nờu trờn cú thể rỳt ra một số vấn đề sau đây:
+ Việc hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng phải nhằm mục đích làm tăng hiệu quả công tác thanh tra xây dựng, giải quyết những vướng mắc, bất cập trong hoạt động thanh tra xây dựng và phải có cơ chế pháp lý hữu hiệu đảm bảo cho hoạt động thanh tra xây dựng.
+ Việc hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng phải đặt trong tổng thể hệ thống pháp luật, đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ
+ Để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của cụng tác thanh tra xây dựng cần tạo cơ chế quản lý, phối hợp hữu hiệu giữa Các cơ quan liên quan trong hoạt động thanh tra xây dựng, tăng cường tổng kết thực tiễn để kịp thời phát hiện vướng mắc, bất cập, kịp thời sửa đổi, bổ sung pháp luật về thanh tra xây dựng.
+ Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng phải đi đôi với việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thanh tra xây dựng, phải gắn với tổ chức thực hiện pháp luật với việc tăng cường đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất phục vụ cho cụng tác thanh tra xây dựng.
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THANH TRA XÂY DỰNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THANH TRA XÂY DỰNG - YấU CẦU CẤP BÁCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng - yờu cầu cấp bách ở Việt Nam hiện nay
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đó đề ra nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta là “xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dõn, vỡ nhõn dõn dưới sự lónh đạo của Đảng”. Đồng thời, lần đầu tiên trong Hiến pháp 1992 đó ghi rừ: “Nhà nước Cộng hoà xó hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa của nhõn dõn, do nhõn dõn, vỡ nhõn dõn”. Đây chính là sự tiếp tục phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền trong điều kiện mới. Thực tiễn của công cuộc đổi mới những năm qua ngày càng khẳng định yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự lónh đạo của Đảng là một tất yếu khách quan, mang tính quy luật của quá trình đi lên chủ nghĩa xó hội trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa, mở rộng giao lưu quốc tế và hội nhập quốc tế của nước ta. Xây dựng Nhà nước pháp quyền chính là xây dựng một nhà nước dựa trên nền tảng các tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại: công bằng, nhân đạo, dân chủ và pháp chế. Đây là những giá trị to lớn của các dân tộc đó trở thành tư tưởng pháp lý tiến bộ làm mục tiêu cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền. Có thể nêu một số nguyên tắc cơ bản được thừa nhận về nhà nước pháp quyền như sau:
Một, Nhà nước pháp quyền là Nhà nước trong đó pháp luật giữ địa vị tối cao trong đời sống Nhà nước và xó hội- pháp luật phải được mọi cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xó hội, tổ chức xó hội và mọi cụng dõn tụn trọng và nghiêm chỉnh thi hành.
Hai, Nhà nước pháp quyền là Nhà nước tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của con người, bảo đảm cho công dân sự an toàn pháp lý, được hưởng các quyền tự do cơ bản và bảo vệ họ khi các quyền đó bị vi phạm.
Ba, Nhà nước pháp quyền là Nhà nước trong đó trách nhiệm giữa Nhà nước với công dân và công dân với nhà nước được xác định rừ ràng. Các cơ quan nhà nước phải hoạt động theo pháp luật, “chỉ được làm những gỡ mà pháp luật cho phộp”, phải chịu trách nhiệm trước nhân dân khi thi hành công vụ.
Bốn, Nhà nước pháp quyền là Nhà nước trong đó quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm đảm bảo sự kiểm tra, giám sát hoạt động quyền lực nhà nước, hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền, xâm hại đến lợi ích của công dân từ phía nhà nước.
Năm, Nhà nước pháp quyền là Nhà nước bảo đảm thực sự chủ quyền của nhân dân. Chủ quyền của nhân dân là hình thức thể hiện cao nhất của dõn chủ - quyền lực thực sự của nhõn dõn. Tớnh công khai và dân chủ bắt nguồn từ nguyên tắc này, nó tạo điều kiện cho nhân dân giám sát toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước.
Quỏ trình xây dựng nhà nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa Việt Nam tạo ra tiền đề, đồng thời cũng đũi hỏi phải khụng ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật về thanh tra xây dựng. Pháp luật về thanh tra xây dựng trong nhà nước pháp quyền phải được xây dựng với chất lượng cao, phù hợp với thực tế khách quan, tạo cơ chế pháp lý hữu hiệu để đảm bảo thực hiện dân chủ và cụng bằng xó hội, gúp phần giữ gỡn kỷ cương pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhõn khi bị xõm hại và nõng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực xây dựng, góp phần thúc đẩy phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng xuất phỏt từ yờu cầu tăng cường hợp tác và hội nhập quốc tế
Hợp tác quốc tế là nhu cầu, xu thế tất yếu trong sự tồn tại và phỏt triển của tất cả Các quốc gia trong thời đại ngày này. Nhận thức được tầm quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế, nền liên tiếp trong các kỳ đại hội Đảng, từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến nay, Đảng ta vẫn khẳng định vai trò quan trọng của hợp tác quốc tế về kinh tế. Trong chiến lược ổn định và phỏt triển kinh tế- xó hội đến năm 2000 trình bày tại Đại hội Đảng lần thứ VII (năm 1991), Đảng ta đó nhận định: “Quá trình quốc tế hoỏ kinh tế thế giới, quan hệ giao lưu kinh tế và khoa học kỹ thuật, xu thế hoà bình và hợp tác ở khu vực và trờn thế giới ngày càng phát triển. Với đường lối đổi mới và cởi mở, nước ta có thể tận dụng được những khả năng to lớn về vốn, thị trường, công nghệ và kinh nghiệm quản lý của bờn ngoài để bổ sung và phát huy sức mạnh trong nước”. Trên cơ sở đó, Đảng ta đó đề ra đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá theo tinh thần “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vỡ hoà bình, độc lập và phát triển” nhằm tham gia tích cực vào đời sống kinh tế quốc tế. Đại hội Đảng lần thứ VIII tiếp tục xác định nhiệm vụ “mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế”, khẳng định chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, tranh thủ vốn, công nghệ và thị thị trường quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương, đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lónh thổ, khụng can thiệp vào cụng việc nội bộ của nhay, bình đẳng và cùng có lợi. Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xó hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ớch dõn tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gỡn bản sắc dõn tộc, bảo vệ mụi trường”. Đặc biệt, Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 27/11/2001 của Bộ Chính trị đó đưa ra những đánh giá về tình hình thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế và nhấn mạnh nội dung hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, trong đó xác định rừ mục tiêu: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá theo định hướng xó hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ, văn minh. Đây là nghị quyết rất quan trọng, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta.
Tuy nhiên, bờn cạnh những cơ hội do hội nhập kinh tế quốc tế mang lại, quá trình hội nhập cũng đặt nền kinh tế nước ta trước những thách thức lớn, đũi hỏi chỳng ta phải phấn đấu vượt qua mới có thể tận dụng tốt cơ hội phát triển. Hội nhập vào các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và thế giới, chỳng ta sẽ phải thực hiện nghĩa vụ thành viên, phải thực hiện Các cam kết quốc tế. Vỡ vậy, đũi hỏi phải khẩn trương sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật, chính sách kinh tế cho phù hợp với thông lệ, tập quán quốc tế và theo một “luật chơi chung”. Hệ thống pháp luật cần được hoàn chỉnh thích hợp với các định chế của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và nhiều định chế quốc tế khác đặt ra nhiều yêu cầu liên quan hoạt động đầu tư, trong đó cú Các dự ỏn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, hoạt động xây dựng mang tính chiến lược, trọng điểm. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật về xây dựng nói chung pháp luật về thanh tra xây dựng nói riêng góp phần đáp ứng yờu cầu hội nhập của nước ta trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật xuất phỏt từ yờu cầu khắc phục những bất cập về thanh tra xây dựng
Hoạt động thanh tra xây dựng không chỉ có ý nghĩa đảm bảo thực thi nghiêm chỉnh các quy định pháp luật trong lĩnh vực xây dựng mà cũn liên quan đến yêu cầu ngăn ngừa, phòng, chống tham nhòng, thất thoỏt trong lĩnh vực xây dựng. Xây dựng là một ngành sản xuất ra cơ sở vật chất kỹ thuật, làm tiền đề cho việc xây dựng và phát triển kinh tế - xó hội của đất nước. Công trình xây dựng thường là đơn chiếc, yêu cầu thời gian dài, kinh phí lớn, ứng dụng kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, liên quan nhiều mặt quản lý, chịu ảnh hưởng của các yếu tố khí hậu, tự nhiên và chịu nhiều rủi ro, bất khả kháng. Tuy nhiên, do nhu cầu xây dựng ngày càng cao, phạm vi ngày càng mở rộng, cộng thêm năng lực quản lý yếu kộm và việc chấp hành kỷ cương, pháp luật của Nhà nước chưa nghiêm đó dẫn đến thất thoát ở nhiều công trình, ảnh hưởng đến công tác xây dựng trên nhiều mặt. Trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, những năm tới, tình hình đầu tư xây dựng ở nước ta sẽ tiếp tục phát triển mạnh, nhất là việc tập trung vốn xây dựng các công trình trọng điểm của quốc gia. Tội phạm tham nhòng nói chung, tình hình tiêu cực, tham nhòng trong đầu tư xây dựng nói riêng vẫn cũn tiềm ẩn những diễn biến phức tạp với phương thức, thủ đoạn mới; tính chất, quy mô sẽ tinh vi, phức tạp và nghiêm trọng hơn. Chính vỡ vậy, phải tỡm ra Các giải pháp hữu hiệu để bảo vệ chất lượng các công trình xây dựng, nhất là những cụng trình mang tớnh thế kỷ, cụng trình văn hóa, nghệ thuật, bảo vệ các nguồn vốn cho đầu tư xây dựng và bảo vệ đội ngũ cán bộ (trong đó có việc bảo vệ uy tín và sự trong sạch của cán bộ ngành xây dựng) đang là yếu tố cấp bách. Chính vỡ vậy, để xử lý nghiêm Các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động xây dựng, đặc biệt là ngăn ngừa hiệu quả tình trạng tham nhòng, thất thoỏt trong lĩnh vực xây dựng thỡ phải thực sự tạo được cơ sở pháp lý hữu hiệu, trong đó hoạt động thanh tra xây dựng có thể nói là cụng tác hết sức quan trọng. Vỡ vậy, việc hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng trước hết phải khắc phục những bất cập, vướng mắc hiện nay có ý nghĩa quan trọng phục vụ cho việc nõng cao hiệu lực, hiệu quả của cụng tác thanh tra xây dựng hiện nay, đặc biệt là tạo được cơ sở pháp lý cho phục vụ cho cụng tác thanh tra xây dựng, giải quyết khiếu nại, tố cỏo và phòng, chống tham nhòng.
3.2. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THANH TRA XÂY DỰNG
Để tạo được cơ sở pháp lý hữu hiệu và khả thi cho việc thực hiện Các hoạt động thanh tra xây dựng, việc hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng cần bám sát các quan điểm cơ bản sau:
- Việc hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng phải thể chế hoỏ kịp thời, đầy đủ chủ trương, quan điểm của Đảng về hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về thanh tra nói riêng nhằm hướng tới mục tiêu làm tăng hiệu quả công tác thanh tra xây dựng, bảo vệ lợi ích nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân, góp phần giải quyết tình trạng vi phạm pháp luật về xây dựng đang là vấn đề bức xúc hiện nay, đồng thời tạo cơ chế pháp lý hữu hiệu bảo đảm thực thi nghiêm chỉnh các quy định pháp luật về xây dựng nói chung, pháp luật về thanh tra xây dựng nói riêng.
- Hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng phải được đặt trong tổng thể hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ giữa pháp luật xây dựng và các quy định pháp luật có liên quan nhằm tạo được sự phối hợp, bổ sung trong việc điều chỉnh Các quan hệ xó hội liên quan đến các hoạt động xây dựng mà khụng cú sự chồng chộo, mõu thuẫn, thậm chớ làm vụ hiệu lẫn nhau.
- Hoàn thiện pháp luật về thanh ra xây dựng phải phự hợp với điều kiện kinh tế, văn hoá - xó hội, đường lối chớnh trị của Việt Nam; tiếp thu cú chọn lọc kinh nghiệm của quốc tế. Tổng kết một Cách toàn diện thực tiễn hoạt động thanh tra xây dựng, trong đó chú trọng tổng kết công tác tổ chức thực hiện pháp luật về thanh tra xây dựng; giải quyết bất cập về pháp luật, thực tiễn hoạt động thanh tra xây dựng; kế thừa, phát triển và pháp điển hoá các quy định cũn phự hợp, tiến bộ phù hợp với điều kiện kinh tế - xó hội của đất nước, trình độ văn hoá pháp lý của nhân dân cũng như đạo đức, tập quán, truyền thống của dân tộc và bản sắc văn hoá Việt Nam. Đồng thời, trong bối cảnh toàn cầu hoỏ, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng cần phải tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những thành tựu mà nhân loại đó đạt được về xây dựng Nhà nước pháp quyền, tổ chức và thi hành pháp luật của các nước, bảo đảm kết hợp hài hoà tính truyền thống và tính hiện đại của hệ thống pháp luật và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước trong công tác quản lý đô thị, phát triển hạ tầng cơ sở.
- Hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng phải hướng tới phát huy dân chủ, tăng cường sự tham gia của nhõn dõn và Các tổ chức xó hội vào hoạt động xây dựng pháp luật nhằm làm cho pháp luật về thanh tra xây dựng thể hiện đầy đủ, đúng đắn ý chí và nguyện vọng của nhân dân; tăng cường pháp chế trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện pháp luật về thanh tra xây dựng.
3.3. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THANH TRA XÂY DỰNG
Xuất phát từ các tiêu chí hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng, để đảm bảo quán triệt và thể chế hoá các quan điểm hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng, đồng thời khắc phục được những hạn chế, bất cập của pháp luật nêu trên, về nguyờn tắc, Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng nói chung phải đề cập toàn diện đến hệ thống tổ chức và các hoạt động thanh tra xây dựng, cơ chế quản lý cụng tác thanh tra xây dựng, các điều kiện đảm bảo hoạt động thanh tra xây dựng, xử phạt, giải quyết khiếu nại, tố cỏo trong hoạt động thanh tra xây dựng nhằm nõng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực xây dựng. Đồng thời, cần nhanh chóng xây dựng những thiết chế phối hợp mới để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thanh tra xây dựng, tăng cường trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong việc tuân thủ các quy định pháp luật về thanh tra xây dựng; khẩn trương sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản liên quan đến hoạt động thanh tra xây dựng nhằm tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất cho hoạt động của các cơ quan thanh tra xây dựng.
3.3.1. Các giải pháp hoàn thiện về nội dung và hình thức của pháp luật về thanh tra xây dựng
- Cần xây dựng Pháp lệnh về Thanh tra xây dựng để điều chỉnh thống nhất về tổ chức, hoạt động của thanh tra xây dựng, các biện pháp cưỡng chế trong thanh tra xây dựng, xử phạt vi phạm hành chính, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thanh tra xây dựng. Việc xây dựng Pháp lệnh Thanh tra xây dựng trên cơ sở hệ thống hoá, pháp điển hoá, mở rộng phạm vi điều chỉnh là cần thiết đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện công tác thanh tra xây dựng trong tình hình mới, tạo sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật, là cơ sở pháp lý cho việc cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh tra xây dựng hiện nay.
Việc xây dựng Pháp lệnh Thanh tra xây dựng cần bám sát theo hướng tăng cường công tác quản lý nhà nước về công tác thanh tra xây dựng vào Bộ Xây dựng nhằm đảm bảo sự chỉ đạo, kiểm tra và tiến hành các hoạt động thanh tra xây dựng một cách thống nhất từ trung ương đến địa phương. Đồng thời, quy định rừ sự phân cấp, uỷ quyền giữa Bộ Xây dựng và Uỷ ban nhõn dõn Các cấp ở địa phương trong lĩnh vực này nhằm vừa đảm bảo chỉ đạo thống nhất về chuyên môn, nghiệp vụ, vừa đảm bảo sự phát hiện, hỗ trợ kịp thời của chính quyền địa phương trong việc xử lý những vi phạm pháp luật trong hoạt động thanh tra xây dựng. Các chế định pháp luật về thanh tra xây dựng phảt là chuẩn mực cho toàn bộ tổ chức và hoạt động thanh tra xây dựng, bảo đảm tính dân chủ, công bằng, góp phần ổn định các quan hệ xó hội, bảo vệ quyền và lợi ớch hợp pháp của cụng dõn, tập thể, tăng cường pháp chế xó hội chủ nghĩa
Việc hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng khụng chỉ dừng lại ở việc xây dựng, ban hành Pháp lệnh Thanh tra xây dựng và các văn bản liên quan mà cũn cần đặt trong tổng thể hệ thống pháp luật nói chung, trước hết là pháp luật có liên quan đến lĩnh vực thanh tra xây dựng. Theo đó, cần nghiên cứu, bổ sung, xây dựng các quy định liên quan. Cụ thể là xây dựng Nghị định về Thanh tra viên xây dựng và cộng tác viên thanh tra; Nghị định về xử lý vi phạm trật tự xây dựng đô thị...
- Hệ thống hoá các văn bản pháp luật về Thanh tra xây dựng. Bờn cạnh việc nghiên cứu, xây dựng, ban hành Pháp lệnh Thanh tra xây dựng và các văn bản hướng dẫn liên quan, thỡ cụng tác hệ thống hoỏ pháp luật về thanh tra xây dựng cú ý nghĩa rất quan trọng nhằm cho phép các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đánh giá được tổng thể pháp luật về thanh tra xây dựng hiện hành, phát hiện những điểm không phù hợp, mâu thuẫn, chồng chéo và những lỗ hổng của hệ thống pháp luật về thanh tra xây dựng để trên cơ sở đó có biện pháp khắc phục, hoàn thiện kịp thời.
Như đó phân tích ở phần thực trạng pháp luật về thanh tra xây dựng thỡ hệ thống pháp luật về thanh tra xây dựng ở nước ta cũn tản mạn trong nhiều văn bản khác nhau, do các cơ quan khác nhau ban hành, hiệu lực pháp lý chưa cao, có những văn bản, quy định cũn chồng chộo, mõu thuẫn, khụng cũn phự hợp với yờu cầu và thực tiễn của cuộc sống, cũn nhiều lỗ hổng, thiếu những quy định cần thiết....Do vậy, cụng tác hệ thống hoỏ pháp luật về thanh tra xây dựng dưới hình thức tập hợp hoỏ và pháp điển hoá là hết sức cần thiết nhằm tạo ra một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thanh tra xây dựng cân đối, hoàn chỉnh, thống nhất, trong đó các văn bản ở tầm cao hơn (trước mắt là Pháp lệnh như đó nờu ở trờn) nhằm tạo hiệu lực cho việc điều chỉnh các quan hệ xó hội trong lĩnh vực thanh tra xây dựng, khắc phục tình trạng lỗi thời, mõu thuẫn và những lỗ hổng của hệ thống pháp luật về thanh tra xây dựng, làm cho nội dung của nó phù hợp với yêu cầu của đời sống, có hình thức rừ ràng, đơn giản, dễ hiểu, tiện lợi cho việc sử dụng. Hệ thống hoá các văn bản pháp luật về thanh tra xây dựng cũng phục vụ trực tiếp cho việc tuyờn truyền, giỏo dục nõng cao ý thức pháp luật, thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật về thanh tra xây dựng của các chủ thể pháp luật có liên quan đến hoạt động xây dựng và giám sát, kiểm tra, thanh tra về hoạt động xây dựng.
Cựng với cụng tác hệ thống hoỏ pháp luật Thanh tra xây dựng, cần chỳ trọng cụng tác tổng kết thực tiễn xây dựng pháp luật về thanh tra nói chung, pháp luật về thanh tra xây dựng nói riêng gắn với thực tiễn kinh tế - xó hội, tham khảo cú chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài về quản lý và phỏt triển đô thị để vận dụng phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta.
- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý, tổ chức bộ máy, tăng cường đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra xây dựng. Song song với việc hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng, cần tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, bổ sung biên chế cho các cơ quan thanh tra xây dựng để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; tuyển dụng đủ biên chế cho các cơ quan thanh tra xây dựng nhằm từng bước khắc phục tình trạng quỏ tải cụng việc hiện nay. Đặc biệt là nhanh chóng triển khai thực hiện tốt việc thí điểm thành lập Thanh tra xây dựng cấp quận và cấp phường ở thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh theo Quyết định số 89/2007/QĐ-TTg ngày 18/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ để trên cơ sở kết quả thí điểm cú thể đánh giá được những ưu điểm, hạn chế và có biện pháp khắc phục, nghiên cứu triển khai trong phạm vi toàn quốc.
- Đối với trường hợp những công trình đó xây dựng khụng đúng quy trình kỹ thuật, vi phạm pháp luật thỡ cần nghiên cứu, xử lý theo hướng: công khai hoá những chủ đầu tư xây dựng vi phạm các quy định pháp luật xây dựng tại những nơi công cộng (Trụ sở Uỷ ban nhân dân xó, phường, thị trấn nơi có công trình vi phạm, cơ quan thanh tra xây dựng hoặc trên một số phương tiện thông tin đại chúng) nhằm tác động về mặt tinh thần, danh dự để các chủ đầu tư, chủ công trình tự giác chấp hành Các quy định của pháp luật và các quyết định của cơ quan có thẩm quyền về xây dựng.
- Nghiên cứu cơ chế chỉ đạo, phối hợp thống nhất nhiệm vụ, quyền hạn giữa các lực lượng thanh tra trong những lĩnh vực có liên quan như thanh tra xây dựng, thanh tra nhà đất, thanh tra giao thông công chính, thanh tra môi trường hiện nay nhằm giảm thiểu những phiền hà cho các chủ công trình, nhà đầu tư trong việc thực hiện các quy định pháp luật về xây dựng và quản lý đô thị.
- Cần có hướng dẫn cụ thể về quy trình quy trình nghiệp vụ tiến hành một cuộc thanh tra chuyờn ngành xây dựng với những đặc thù lĩnh vực riêng, như chuẩn bị thanh tra, tiến hành thanh tra, kết thúc thanh tra; trách nhiệm của người ra quyết định thanh tra trong việc tổ chức, chỉ đạo hoạt động thanh tra, quyền và nghĩa vụ của Trưởng Đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra khi tiến hành thanh tra..., trình tự, thủ tục xây dựng báo cáo kết quả thanh tra, ra văn bản kết luận thanh tra, thời hạn của mỗi cuộc thanh tra; thời hạn ra báo cáo kết quả thanh tra, kết luận thanh tra, thẩm quyền ra quyết định thanh tra chuyên ngành và quy định về trình tự, thủ tục thanh tra của Thanh tra viên xây dựng độc lập, kiến nghị và thực hiện các chế tài xử lý sau thanh tra...
- Hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động thanh tra xây dựng nhằm tạo cơ chế hữu hiệu cho các cơ quan thanh tra xây dựng thực thi nhiệm vụ cũng như giải quyết nhanh chóng các khiếu nại, tố cáo của công dân. Ví dụ như, cần xây dựng Nghị định qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật khiếu nại và giải quyết khiếu nại, Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật tố cáo và giải quyết tố cáo; Nghị định hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thanh tra, Nghị định về việc bảo đảm thực hiện các kết luận thanh tra.
3.3.2. Các giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về thanh tra xây dựng
- Tăng cường sự lónh đạo, quản lý, chỉ đạo của Chủ tịch Uỷ ban nhõn dõn Các cấp, Chỏnh Thanh tra xây dựng nhằm nõng cao trách nhiệm của Thanh tra viên xây dựng, cỏn bộ, cụng chức thanh tra xây dựng trong việc thực thi nhiệm vụ. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, thanh tra trong nội bộ các cơ quan thanh tra xây dựng, phối hợp tổ chức kiểm tra chéo giữa các cơ quan thanh tra xây dựng nhằm kịp thời chấn chỉnh, xử lý nghiêm minh đối với những trường hợp cán bộ, công chức vi phạm chuẩn mực đạo đức Thanh tra viên xây dựng, cú biểu hiện nhòng nhiễu, tiêu cực, cố tình để xảy ra Các vi phạm pháp luật về xây dựng, xử phạt khụng nghiêm minh....
- Tăng cường tuyờn truyền, phổ biến, giỏo dục pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thanh tra xây dựng. Trình độ chuyên môn và phẩm chất chính trị của đội ngũ cán bộ, cụng chức thanh tra xây dựng quyết định chất lượng công tác thanh tra xây dựng, đồng thời việc hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng sẽ khụng phỏt huy tác dụng nếu trình độ, phẩm chất cán bộ, cụng chức thanh tra xây dựng không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Vỡ vậy, bờn cạnh việc hoàn thiện thể chế về thanh tra nói chung, thanh tra xây dựng nói riêng, cần chú trọng quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thanh tra xây dựng. Cần tăng cường giáo dục phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp, nõng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, công chức các cơ quan thanh tra xây dựng; nâng cao chất lượng, đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo cán bộ cho các cơ quan thanh tra xây dựng để khi các Thanh tra viên xây dựng được bổ nhiệm sẽ có kỹ năng nghề nghiệp, kiến thức thực tiễn, phẩm chất, đạo đức trong sạch và dũng cảm đấu tranh trước những vi phạm pháp luật trong lĩnh vực xây dựng. Các cơ quan thanh tra xây dựng cần phối hợp với Uỷ ban nhân dân các cấp, Trường Đào tạo bồi dưỡng cán bộ ngành xây dựng và các cơ sở đào tạo thuộc các hiệp hội nghề nghiệp, các trường đại học, các viện nghiên cứu để đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ về xây dựng cho đội ngũ cán bộ làm công tác cấp phép và thanh tra xây dựng ở các địa phương để đảm bảo tiêu chuẩn hoá đội ngũ Thanh tra viên xây dựng. Trên cơ sở đó để đặt ra kế hoạch, chương trình, nội dung đào tạo phù hợp, lập kế hoạch để tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý hành chớnh, lý luận chớnh trị, tin học, ngoại ngữ....cho Các Thanh tra viên xây dựng, cỏn bộ, cụng chức thanh tra xây dựng. Có chiến lược đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Thanh tra viên xây dựng, cỏn bộ, cụng chức thanh tra xây dựng nhằm đảm bảo cho họ có đủ các tiêu chuẩn về đạo đức, trình độ chuyên môn, đặc biệt là trình độ về kỹ năng nghề nghiệp (bắt buộc tất cả Các Thanh tra viên xây dựng khi bổ nhiệm phải cú bằng cấp, chứng chỉ chuyờn mụn theo quy định); đổi mới về tổ chức, đánh giá cán bộ, bố trí cán bộ theo hướng năng lực cán bộ được đánh giá chủ yếu trên kết quả công việc và việc bố trí cán bộ phải phù hợp với năng lực cán bộ.
Để tăng cường trách nhiệm của Thanh tra viên xây dựng, cán bộ, công chức làm công tác thanh tra xây dựng, chính quyền địa phương, đặc biệt là thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cần tạo điều kiện tốt nhất cho lực lượng này thực thi tốt nhiệm vụ. Cụ thể như tạo điều kiện, trang bị các phương tiện kỹ thuật (xe máy chuyên dụng, bộ đàm, camera), quy định thẩm quyền của Thanh tra viên xây dựng được quyền đình chỉ và phạt vi phạm xây dựng với mức phạt cao nhất ngay khi phát hiện, có quyền yêu cầu bất cứ chủ đầu tư hoặc nhà thầu phải trình giấy phộp xây dựng, cú quyền yờu cầu cơ quan cấp phép xây dựng cung cấp thông tin cụ thể về giấy phép xây dựng. Cú quy chế xử lý nhanh chúng Các khiếu nại, tố cỏo liên quan đến những vi phạm về xây dựng như thiết lập đường dây nóng để nhận các tố cáo về vi phạm xây dựng, người tố cáo đúng sẽ được thưởng ở mức cao nhất và ngay lập tức. Với việc thiết lập đường dây nóng thỡ ngay người dân cũng có thể tố cáo về những Thanh tra viên xây dựng có vi phạm pháp luật, đạo đức nghề nghiệp trong khi thực hiện nhiệm vụ. Các khoản tiền thu được từ phạt vi phạm và tịch thu phương tiện vi phạm sẽ được bố trí chủ yếu cho việc duy trỡ hoạt động của các cơ quan thanh tra xây dựng cũng như trích thưởng cho những người có công trong việc phát hiện và xử lý vi phạm.
- Đổi mới, kiện toàn, nâng cao năng lực của các cơ quan thanh tra xây dựng đủ mạnh để hoàn thành nhiệm vụ, tăng thêm biên chế cho các cơ quan thanh tra xây dựng, nhất là ở các thành phố, đô thị lớn. Kiên quyết xử lý nghiêm khắc đối với từng trường hợp Chỏnh Thanh tra, Thanh tra viên xây dựng cú hành vi can thiệp trỏi pháp luật vào quỏ trình thanh tra xây dựng, bao che, thiếu tinh thần trách nhiệm để xảy ra các vi phạm pháp luật về xây dựng, khụng cú biện pháp xử lý kịp thời Các cụng trình vi phạm; cú hành vi sách nhiễu, gõy phiền hà cho các chủ đầu tư, Các chủ cụng trình trong quỏ trình tiến hành kiểm tra, thanh tra xây dựng.
- Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cần đẩy mạnh công tác lập quy hoạch xây dựng, đặc biệt là quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị nhằm để tạo điều kiện cho việc cấp phép xây dựng; công bố công khai quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị để nhân dân biết, thực hiện và giám sát việc thực hiện xây dựng theo quy hoạch. Đặc biệt là tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cần sớm hoàn thành các quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/2000 của các quận, huyện và các quy hoạch chi tiết 1/500 trên những khu phố, trục đường dân cư đó ổn định phù hợp với bản đồ tổ chức khụng gian kiến trỳc cảnh quan; chỉ giới xây dựng, bản đồ chỉ giới đường đỏ, hành lang bảo vệ Các tuyến hạ tầng kỹ thuật và một số bản vẽ khác để làm cơ sở cho nhân dân cải tạo, chỉnh trang nhà ở theo quy hoạch. Bởi vỡ, việc khụng cú Các quy hoạch cụ thể như vậy sẽ phát sinh những vi phạm pháp luật, sự tuỳ tiện trong việc thoả thuận chiều cao các công trình kiến trỳc, gõy khú khăn cho cơ quan cấp phép và việc quản lý xây dựng ở Các quận, huyện, phường, xó và là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhà xây dựng khụng phộp, sai phộp, nhà siêu mỏng, siêu mộo trên các tuyến đường mới mở. Vớ dụ Nỳt giao thụng Ngó Tư Sở không có thiết kế kiến trúc mặt phố chính, đường vành đai I đoạn Kim Liên - Ô Chợ Dừa quy hoạch triển khai và phê duyệt quá chậm so với việc thi công xây dựng tuyến đường và cùng với việc thiếu kiểm tra về quy hoạch xây dựng đó dẫn đến thực trạng là tuyến phố sau khi hình thành, nhà cửa lụ nhụ, to nhỏ, đa dạng về hình thức và màu sắc, khụng đảm bảo mỹ quan kiến trúc.
Đồng thời, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố cần nhanh chóng rà soát lại các quy định về cấp phép xây dựng trên địa bàn đúng theo quy định của Luật Xây dựng năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thực hiện, bói bỏ Các quy định gây khó khăn, phiền hà cho nhân dân. Sớm ban hành quy chế phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong việc cấp phép xây dựng, thanh tra xây dựng và quản lý trật tự xây dựng để bảo đảm hiệu quả công tác quản lý xây dựng ở địa phương.
KẾT LUẬN
1. Thanh tra là hoạt động quan trọng trong hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước và phục vụ cho quản lý nhà nước. Tuỳ vào mỗi lĩnh vực, hoạt động thanh tra có những yêu cầu, mục đích, nội dung hoạt động riêng phù hợp với từng lĩnh vực quản lý nhà nước. Thanh tra xây dựng là hoạt động thanh tra chuyên ngành do các cơ quan thanh tra xây dựng có thẩm quyền thực hiện nhằm đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh các quy định pháp luật trong lĩnh vực quản lý nhà nước về xây dựng.
2. Thanh tra xây dựng góp phần đảm bảo thi hành nghiêm chỉnh các quy định pháp luật và chính sách của nhà nước trong lĩnh vực xây dựng; gúp phần giữ gỡn trật tự, ngăn ngừa các vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế trong lĩnh vực xây dựng và quản lý đô thị, nõng cao ý thức pháp luật của nhõn dõn. Pháp luật về thanh tra xây dựng là phương tiện thể chế hoá quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về công tác thanh tra; củng cố và tăng cường tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh tra xây dựng; tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong công tác thanh tra xây dựng. Các quy định pháp luật về thanh tra xây dựng hiện hành đó tạo sự độc lập, chủ động hơn cho các cơ quan thanh tra xây dựng và Thanh tra viên xây dựng; nâng cao trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan thanh tra xây dựng và Thanh tra viên xây dựng; góp phần tháo gỡ kịp thời những tồn tại, vướng mắc trong công tác quản lý trật tự xây dựng đô thị. Tuy nhiên, bờn cạnh những ưu điểm đạt được, pháp luật về thanh tra xây dựng cũng cũn một số hạn chế, bất cập cần cú những giải pháp hoàn thiện.
3. Hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng phải đáp ứng được những yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xó hội chủ nghĩa Việt Nam, của dõn, do dõn, vỡ dõn; sự phỏt triển nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa và điều kiện tăng cường hợp tác quốc tế; thúc đẩy sự phát triển và ổn định của xó hội. Trong thời gian tới, cần nghiên cứu xây dựng Pháp lệnh về Thanh tra xây dựng để điều chỉnh thống nhất về tổ chức, hoạt động của thanh tra xây dựng, các biện pháp cưỡng chế trong thanh tra xây dựng, xử phạt vi phạm hành chính, giải quyết khiếu nại, tố cỏo trong thanh tra xây dựng; hệ thống hoỏ pháp luật Thanh tra xây dựng; tổng kết thực tiễn xây dựng pháp luật về thanh tra nói chung, pháp luật về thanh tra xây dựng nói riêng gắn với thực tiễn kinh tế - xó hội.
4. Để đảm bảo thực hiện tốt các quy định pháp luật về thanh tra xây dựng, cựng với việc hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý, tổ chức bộ máy, tăng cường đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra xây dựng; cú biện pháp xử lý kiên quyết đối với những vi phạm pháp luật trong lĩnh vực xây dựng; nghiên cứu cơ chế chỉ đạo, phối hợp thống nhất nhiệm vụ, quyền hạn giữa các lực lượng thanh tra trong những lĩnh vực có liên quan như thanh tra xây dựng, thanh tra nhà đất, thanh tra giao thông công chính, thanh tra môi trường hiện nay nhằm giảm thiểu những phiền hà cho các chủ công trình, nhà đầu tư trong việc thực hiện các quy định pháp luật về xây dựng và quản lý đô thị; giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo của công dân liên quan trong lĩnh vực xây dựng; có hướng dẫn cụ thể về quy trình quy trình nghiệp vụ kiểm tra, thanh tra trong lĩnh vực xây dựng; Tăng cường sự lónh đạo, quản lý, chỉ đạo của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp, Chánh Thanh tra xây dựng nhằm nâng cao trách nhiệm của Thanh tra viên xây dựng, cỏn bộ, cụng chức thanh tra xây dựng trong việc thực thi nhiệm vụ; Đẩy mạnh công tác kiểm tra, thanh tra trong nội bộ các cơ quan thanh tra xây dựng nhằm kịp thời chấn chỉnh, xử lý nghiêm minh đối với những trường hợp cán bộ, công chức vi phạm chuẩn mực đạo đức Thanh tra viên xây dựng, có biểu hiện nhòng nhiễu, tiêu cực, cố tình để xảy ra các vi phạm pháp luật về xây dựng, xử phạt khụng nghiêm minh; Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thanh tra xây dựng; tạo điều kiện vật chất, phương tiện, kỹ thuật làm việc để đội ngũ cán bộ, công chức thanh tra xây dựng hoàn thành nhiệm vụ; đẩy mạnh công tác lập quy hoạch xây dựng ở các địa phương; cụng khai quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị để nhân dân biết, thực hiện và giám sát việc thực hiện xây dựng theo quy hoạch.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bỏo Nhõn dõn ngày 07/9/2007
Bộ Tư pháp (2007), Quy trình và kỹ thuật lập pháp, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
Bộ Xây dựng, Thanh tra Bộ Xây dựng (2006), Báo cáo công tác thanh tra năm 2006 và phương hướng công tác năm 2007, Hà Nội.
Bộ Xây dựng, Thanh tra Bộ Xây dựng (2007), Bỏo cỏo tình hình thực hiện chương trình, kế hoạch cụng tác 6 thỏng đầu năm và phương hướng công tác 6 tháng cuối năm 2007, Hà Nội
Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Chớnh trị Quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chớnh trị Quốc gia, Hà Nội.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương (2005), Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ Chớnh trị, Hà Nội.
Hiến pháp nước Cộng hoà xó hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi)(2002), Nxb Chớnh trị Quốc gia, Hà Nội
Hoàn thiện cơ chế thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước (2002), (Đề tài độc lập cấp Nhà nước)
Nguyễn Văn Kim (2004), Vai trò của Các cơ quan thanh tra nhà nước trong giải quyết khiếu nại hành chính ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chớnh trị quốc gia Hồ Chớ Minh.
Phạm Văn Khanh (1997), Thực trạng tổ chức và hoạt động Thanh tra Bộ, ngành, chuyên ngành ở nước ta- những vấn đề đặt ra và giải pháp (Đề tài khoa học cấp Bộ).
Phạm Tuấn Khải (1999), Những vấn đề pháp lý cơ bản của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra nhà nước Việt Nam, Luận ỏn tiễn sĩ Luật học, Học viện Chớnh trị quốc gia Hồ Chớ Minh.
Nguyễn Ngọc Tản (2007), "Một số vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp luật về Thanh tra", Thanh tra, (1).
Thanh tra Nhà nước (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác thanh tra.
Thanh tra với cuộc đấu tranh chống tham nhòng (1994), (Đề tài khoa học cấp Bộ).
Thanh tra Nhà nước (2004), Những nội dung cơ bản của Luật Thanh tra (sách hướng dẫn nghiệp vụ).
Tổng hội xây dựng Việt Nam (2005), Xác định mức độ thất thoát trong đầu tư xây dựng, (Đề tài khoa học năm 2005).
Trường Đại học luật Hà Nội (2004), Giỏo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, Hà Nội.
Vietnamnet, ngày 29/8/2007
Vừ Khỏnh Vinh (2001), "Cần tuõn thủ Các nguyờn tắc cơ bản của kỹ thuật lập pháp", Nhà nước và pháp luật, (8).
Nguyễn Như í (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng ở Việt Nam hiện nay.doc